View Full Version : Nguyễn Công Trứ
phu ong
12-12-2006, 05:19 PM
Bách khoa toàn thư
Nguyễn Công Trứ (1778–1858) là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.
* 1 Tiểu sử
* 2 Sự nghiệp
o 2.1 Quân sự
o 2.2 Kinh tế
o 2.3 Thơ ca
* 3 Liên kết ngoài
Tiểu sử
Nguyễn Công Trứ quê ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Năm 1820 khi đã 42 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên. Từ đây bắt đầu thời kỳ làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca.
Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú v.v.
Năm Tự Đức thứ nhất 1847 ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên.
Sự nghiệp
Quân sự
Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia Long và Minh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1825 dẹp Khởi nghĩa Lê Văn Lương, 1827 dẹp Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1833 dẹp Khởi nghĩa Nùng Văn Vân, 1835 dẹp giặc Khách. Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi Pháp tấn công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.
Kinh tế
Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những hoạt động của ông trong lĩnh vực kinh tế được nhân dân các vùng kể trên ghi nhớ. Hiện nay còn rất nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện nói trên và quê hương ông.
Thơ ca
Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó.
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy
Hay:
Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi
Hoặc:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn:
Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào
Đã sa xuống thấp lại lên cao.
Chán trường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái gì cũng có thể đêm chơi kể cả tài kinh bang tế thế.
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.
Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng bò. Bảy mươi ba tuổi ông cưới vợ, trả lời cô dâu khi nàng hỏi tuổi:
Năm mươi năm trước, anh hai ba
Ngay lúc chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông
Ghi chú: Cây thông trong cách hiểu Nho-Khổng giáo là người quân tử.
Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi.
phu ong
12-12-2006, 05:36 PM
Cách ở đời
Ăn ở sao cho trải sự đời
Vừa lòng cũng khó há rằng chơi
Nghe như chọc ruột, tai làm điếc
Giận đã căm gan, miệng mỉm cười
Bởi số chạy đâu cho khỏi số
Lụy người nên mới phải chiều người
Mặc ai chớ để điều ân oán
Chung cục thời chi cũng tại trời.
Cầm Kỳ Thi Tửu
Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay,
Đàn năm cung réo rắt tính tình dây,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, (1)
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà. (2)
Thú xuất trần, tiên vẩn là ta,
Sánh Hoàng Thạch (3), Xích Tùng (4), ờ cũng đáng !
Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng. (5)
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung
Người ở thế dẩu trăm năm là mấy.
Sách có chữ "nhân sinh thích chí" (6)
Đem ngàn vàng chác lấy chuyện cười,
Chơi cho lịch mới là chơi,
Chơi cho đài các, cho người biết tay.
Tài tình dễ mấy xưa nay.
(1) Phẩm đề: phê bình. Nguyệt lộ: trăng và hạt móc.
(2) Tiêu sái: phóng khoáng. Yên hà: khói ráng, ý nói cảnh đẹp của đời ẩn dật.
(3) Hoàng Thạch: tức Hoàng Thạch Công. Cuối đời nhà Tần, Trương Lương đi chơi ở đất Hạ Bì, đến Dĩ Kiều gặp ông già trao cho quyển Binh Thư Tam Lược mà dặn: "Đọc kỹ sách này sau có thể bình thiên hạ. Sau 13 năm nhà ngươi đến núi Cốc Thành, nếu thấy hòn đá vàng thì biết là ta đấy !" (Vì thế sau này người đời tôn ông lão là Hoàng Thạch Công). Đúng như lời dặn của tiên ông, Trương Lương sau này giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán.
(4) Xích Tùng: tức Xích Tùng Tử. Theo Liệt Tiên truyện, Xích Tùng Tử làm quan Vũ sư đời vua Thần Nông, sau đắc đạo thành tiên.
(5) Cung đàn hay, nước cờ sáng suốt; Lòng thơ vui, tính rượu nồng nàn.
(6) Đời Nam Tề, Trương Hàn có câu "Nhân sinh quý thích chí, tu phú quý hà vi ?" -- Người ta ở đời cốt thỏa chí mình, nào cần giàu sang làm gì ?
Cây Thông
Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời, vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông
Chí làm trai
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Nợ tang bồng (1) vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. (2)
Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
(1) Tang bồng: từ "tang bồng hồ thỉ" -- cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng. Theo Lễ Kinh: cha mẹ mới sinh con trai, lấy cung tên bằng gỗ dâu và tên bằng cỏ bồng treo ở ngoài cửa, có ý mong cho con mình sau này lấy cung tên làm nên sự nghiệp vang thiên hạ.
(2) Hai câu thơ trong bài Quá Linh Đinh Dương của Văn Thiên Tường đời Tống. Người ở đời chẳng ai mà không chết, phải làm sao lưu lại tấm lòng son soi trong sử xanh.
Chữ nhàn
Thị tại môn tiền: náo
Nguyệt lai môn hạ: nhàn. (1)
So lao tâm lao lực cũng một đàn,
Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
Dẩu trời cho có tiếc cũng xin nài.
Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.
Thoát sinh ra thì đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì ?
Khi hỷ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
Chứa chi lắm một bầu nhân dục.
Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ? (2)
Cầm kỳ thi tửu với giang sơn,
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.
Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi. (3)
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
Ai hay hát mà ai hay nghe hát ?
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất,
Để ông Tô riêng một thú thanh cao (4)
Chữ nhàn là chữ làm sao ?
Chữ Tình
Chữ tình là chữ chi chi,
Dẩu chi chi cũng chi chi với tình.
Sầu ai lấp cả vòm trời,
Biết chăng chăng biết hỡi người tình chung ?
Nói:
Đa tình là dở,
Đã mắc vào đố gỡ cho ra !
Khéo quấy người một cái tinh ma,
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy !
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy,
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi.
Nực cười thay lúc phân kỳ,
Trông chẳng nói, xiết bao nhiêu biệt lệ.
Tình huống ấy dẩu bút thần khôn vẽ,
Càng tài tình càng ngốc, càng si.
Cái tình là cái chi chi ?
Con đường làm quan
Tuổi tác tuy rằng chửa mấy mươi
Ðổi thay mắt đã thấy ba đời
Ra trường danh lợi, vinh liền nhục
Vào cuộc trần ai, khóc trước cười
Chuyện cũ trải qua đã chán mắt
Việc sau nghĩ lại chẳng thừa hơi
Ðã hay đường cái thời ra thế
Sạch nợ tang bồng mới kể ngươi.
Đi thi tự vịnh
Đi không há lẽ trở về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong.
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.
Gánh Gạo Đưa Chồng
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất
Thương cái cò lặn lội bờ sông
Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồng
Ngoài nghìn dặm, một trời, một nước.
Trông bóng nhạn, bâng khuâng từng bước,
Nghe tiếng quyên, khắc khoải năm canh.
Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt tình,
Ơn thủy thổ phải đền cho vẹn sóng,
Trường tên đạn, xin chàng bảo trọng.
Thiếp lui về nuôi cái cùng con.
Cao Bằng cách trở nước non,
Mình trong trắng có quỉ thần a hộ .
Sức bay nhảy một phen năng nổ
Đá Yên Nhiên còn đó chẳng mòn,
Đông Hưu rạng chép thẻ son,
Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung.
Yêu nhau khăng khít giải hồng.
phu ong
12-12-2006, 06:01 PM
Giả cưới nàng hầu
Trẻ tạo hóa ngẩn ngơ lắm việc,
Già Nguyệt ông cắc cớ trêu nhau.
Kià những người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ tơ đào còn manh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất tọa lê hoa áp hải đường.
Từ đây là tạc đá, nghi vàng.
Bởi đâu trước lựa tơ, chắp chỉ.
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
Tình đã chung lứa cũng phải vam,
Suốt kim cổ lấy làm phận sự,
Trong trần thế duyên duyên, nợ nợ,
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành.
Xưa nay mấy kẻ đa tình,
Lão Trần là một với mình là hai.
Càng già, càng dẻo, càng dai !
Hàn Nho Phong Vị Phú
Chém cha cái khó !
Chém cha cái khó !
Khôn khéo mấy ai ?
Xấu xa một nó !
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai:
Bốn vách tường mo,
Ba gian nhà cỏ .
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
Trước cửa nhện giăng màn gió .
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.
Đồ chuyên trà , ấm đất sứt vòi ,
Cuộc uống rượu , be sành chắp cổ .
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc lờ mờ,
Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó,
Mỏng lưng xem cũng không giầu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ .
Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó .
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.
Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.
Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh,mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
Gâp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt qúy, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ .
Mới biết :
Khó bởi tại trời,
Giàu là cái số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,
Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
Quân Tử Cố Cùng
Chưa chán ru mà quấy mãi đây
Nợ nần dan díu mấy năm nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phung phí hóa phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này
Hội Gió Mây
Có lẽ ta đâu mãi thế này
Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy
Ðã từng tắm gội ơn mưa móc
Cũng đã xênh xang hội gió mây
Hãy quyết phen này xem thử đã
Song còn tuổi trẻ chịu chi ngay
Xưa nay xuất xử thường hai lối
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây
Thú Điền Viên
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây
Ðiền viên thú nọ vẫn xưa nay
Giang hồ bạn lứa câu tan hợp
Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say
Tòa đá Khương công* đôi khóm trúc
Áo xuân Nghiêm tử ** một vai cầy
Thái bình vũ trụ càng thong thả
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay
Thú Tiêu Dao
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay
Chẳng ai phiền lụy chẳng ai rầy
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay
Của trờì trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước này.
Thế thái nhân tình
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Ðã có đồng tiền dở cũng hay
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Thoát vòng danh lợi
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao
Đám phồn hoa trót bước chân vào
Sực nghĩ lại giật mình bao xiết kể.
Quá giả vãng nhi bất thuyết, (1)
Cái hình hài làm thiệt cái thân chi.
Cuộc đời thử gẩm mà suy,
Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu.
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ,
Chuyện cổ kim so sánh tựa bàn cờ,
Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt.
Mặc xa mã thị thành không dám biết,
Thú yên hà trời đất để riêng ta.
Nào ai, ai biết chăng là ?
(1) Lấy ý ở sách Luận Ngữ: việc đã qua rồi không nên nhắc nữa.
Tự ThuậtHai mươi năm lẻ những mơ màng
Cuộc thế xem qua đã chán chường
Lúc đạt chẳng qua nhờ vận mệnh
Khi cùng chớ có cậy văn chương
Theo thời cũng rắp tìm nghề khác
Bẩm tính đã quen giữ nết ương
Thời thế, rủi thay, thời cũng mặc
Ai dư nước mắt khóc giàu sang
Tương Tư
Tương tư không biết cái làm sao,
Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào ?
Lúc đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,
Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao.
Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.
Một nước một non người một ngã,
Tương tư không biết cái làm sao ?
Mười hai bến nước một con thuyền,
Tình tự xa xôi đố vẽ nên.
Từ biệt nhều lời lo ngắn giấỵ
Tương tư nặng gánh chứa đầy then.
Rồi đây nỏ biết quên hay nhớ,
Từ đó mà mang nợ với duyên.
Tình ấy trăng kia như biết với,
Chia làm hai nửa giọt hai bên.
Vịnh Cảnh nghèo
Chẳng phải rằng ngây chẳng phải đần
Bởi vì nhà khó hóa bần thần.
Mấy đời thầy kiện mà thua mẹo,
Nghĩ phận thằng nghèo phải biết than.
Số khá bĩ rồi thời lại thái
Cơ thường đông hết hẳn sang xuân.
Trời đâu riêng khó cho ta mãi,
Vinh nhục dù ai cũng một lần.
Vịnh Hàn Tính
Nguyễn Công Trứ
Vịnh Hàn Tín
So tam kiệt, ai bằng Hàn Tín ?
Một tay thu muôn dặm nước non,
Những ngờ rằng khoán thiết, thư son,
Thái sơn như lệ, Hoàng hà như đái.
Hạp tảo Ngũ hồ song Phạm Lãi,
Khước lưu tam kiệt độc Trương Lương.
Đau đớn thay điểu tận, cung tàn,
Đầm Vân mộng phải mắc mưu con trẻ.
Nếu biết chữ "khả hành, khả chỉ"
Thời Ngũ hồ một lá cho xong,
Làm chi lúng túng trong vòng !
Vịnh Thúy Kiều
Vịnh Thuý Kiều
Đã biết má hồng thời phận bạc,
Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm lòng vàng.
Chiếc quạt, thoa đành phụ nghĩa Kim lang,
Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thì cũng phải.
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải,
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu,
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu,
Mà bướm chán ong chường cho đến thế !
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai !
Nghĩ đời mà ngán cho đời.
Vịnh Tiền Xicg Bích
Nguyễn Công Trứ
Vịnh Tiền Xích Bích
Gió trăng chứa một thuyền đầy,
Của kho vô tận biết ngày nào vơi ? (1)
Nói:
Ông Tô tử (2) qua chơi Xích Bích, (3)
Một con thuyền với một túi thơ.
Gió hiu hiu mặt nước như tờ,
Trăng chênh chếch đầu non mới ló.
Thuyền một lá xông ngang ghềnh bạch lộ, (4)
Buông chèo hoa len lỏi giữa sơn cương.
Ca rằng: quế trạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang,
Diểu diểu hề dư hoài
Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương. (5)
Người ỷ ca (6) réo rắt khúc cung thương,
Tiếng tiêu lẩn tiếng ca vang mặt nước.
Sực nhớ kẻ cầm ngang giáo vịnh câu thơ thuở trước (7)
Nghĩ sự đời thêm cảm nỗi phù du. (8)
Đành hay trời đất dành cho
Hai kho phong nguyệt nghìn thu hãy còn.
Còn trời còn nước còn non.
--------------------------------------------------------
(1) Lấy ý từ bài Tiền Xích Bích Phú của Tô Thức (xem chú thích (2) ở dưới): Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt, thử tạo vật chi vô tận tạng, nhi ngô dữ tử chi sở cộng thích -- Chỉ có gió mát ở trên sông, trăng sáng ở sườn núi là kho vô tận của tạo vật mà ta với ngươi cùng thích.
(2) Tô tử: tức Tô Thức hay Tô Đông Pha đời nhà Tống, một trong Bát Đại Gia của văn chương Trung Quốc, thường hay cùng bạn thả thuyền chơi trên sông Xích Bích. Ông là tác giả của hai bài phú nổi tiếng Tiền và Hậu Xích Bích Phú. (3) Xích Bích: tên khúc sông nay ở huyện Gia Ngư tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Xưa vào thời Tam Quốc, tướng Đông Ngô là Chu Du mượn gió do Gia Cát Lượng cầu, dùng hỏa công phá tan hơn 80 vạn quân Tào Tháo ở đây. Tương truyền các sườn núi đá ở đây bị lửa đốt nên đỏ rực lên, người đời sau gọi là Xích Bích.
(4) bạch lộ: sương trắng
(5) Chèo quế sào lan; Đập bóng sáng chèo ngược sóng lên; Nao nao lòng ta; Nhớ mỹ nhân ở một phương trời.
(6) ỷ ca: dựa vào bài hát mà họa lại.
(7) Tác giả nhắc chuyện năm xưa trên sông Xích Bích, gặp đêm thu trăng sáng, Tào Tháo uống rượu say rồi cầm giáo ra đứng ở đầu thuyền mà hát; bài hát có ý coi thường thiên hạ.
(8) phù du: con vờ, sống trên mặt nước, sớm nở chiều chết. Từ sách của Trang tử: "phù du triêu sinh mộ tử". Ngày nay người ta thường dùng để ám chỉ những gì hư ảo, thoáng có thoáng không ở trên đời.
phu ong
12-18-2006, 03:08 PM
Đánh tổ tôm
Tổ tôm tên chữ gọi "hà sào",
Ðánh thì không thấp cũng không cao.
Ðược thì vơ cả, thua thì chạy,
Nào!
Đường công danh
Cùng đạt có riêng chi mệnh số,(1)
Hành tàng nào hẹn với văn chương ? (2)
Đường công danh sau trước cũng là thường,
Con tạo hoá phải rằng ghen ghét mãi ?
Duyên ngư thuỷ còn dành cơ hội lại,
Quyết tang bồng cho phỉ chí trượng phu.
Trong trần ai, ai kém ai đâu ?
Tài bộ thế, khoa danh, ờ, lại có!
Thơ rằng "độc thư thiên bất phụ,(3)
Hữu chí sự cánh thành" (4)
Giang sơn đành có cậy trông mình,
Mà vội mỉa anh hùng chi bấy nhẽ?
Đã sinh ra ở trong phù thế,(5)
Nợ trần ai đành cũng tính xong.
Nhắn lời nói với non sông:
Giang sơn hầu dễ anh hùng mấy ai ?
Thanh vân, trông đó mà coi.(6)
(1) Cùng đạt....lúc bế tắt lúc hanh thông
(2) Hành tàng...lúc hoạt đông giúp nước ,lúc
qui ẩn.
(3) Dộc thư...Trời không phụ người đọc sách ,
tức học giỏi thì Trời giúp cho làm nên
(4) Hửu chí sự...người có chí thì làm nên
(5)Phù thế...đời người trôi nổi
(6) Thanh vân....đường công danh
Bỡn cô đào già
Liếc trong giá đáng mấy mười mươi,
Đem lạng vàng mua mấy tiếng cười.
Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết,
Hoa tàn song lại nhụy còn tươi.
Chia đôi duyên nọ đà hơn một,
Mà nét xuân kia vẹn cả mười.
Vì chút tình duyên nên đặm thắm,
Khéo làm cho bận khách làng chơi.
Bài ca ngất ngưởng
Vũ trụ nội mạc phi phận sự (1)
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng (2)....(3)
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng (4)
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi niên (5)...(6)
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng (7)
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì (8)
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Được mất dương dương người tái thượng (9)
Khen chê phơi phới ngọn đông phong (10)
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú (11)
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung (12)
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
(1) Vũ trụ nội mạc...mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải phận sự của ta
(2)Hi văn...biệt hiệu của Ng~ công Trứ ,chú ý cách NCT tự gọi là Hi văn.
(3)vào lồng...ý nói ra làm quan là bị giam hãm bó buộc trong lồng.
(4)Đô môn...kinh đô
(5)giải tổ chi niên...năm cởi áo mũ ,năm cáo quan về hưu
(6)Đạc ngựa bò vàng...lúc về hưu Ông thường cỡi bò vàng có đeo nhạc ngựa (chỉ có NCT cỡi bò ! ) Đem mo cau buộc chỗ đuôi bò và nói để che miệng thế gian
(7)Gót tiên theo...Đi chơi Chùa nhưng NCT lại đem theo cô đầu
(8)Người tái thượng...người ở trên cửa ải .(Điển tích :Tái công thất mã )
(9)Khen chê phơi phới...Ai khen chêcũng mặc, cứ phơi phới như ngọn gió Xuân
(10)Chẳng trái , Nhạc...Danh tướng đời Tống và Hán bên Tàu : Trái Tuân ,Nhạc Phi ,Hàn ki và Phú Bật.
(11) Đạo sơchung...Thủy chung trước sau như một.
phu ong
12-18-2006, 04:38 PM
Cây cau
Ơn chúa vun trồng kể xiết bao,
Một ngày càng môt rấn lên cao.
Lưng đeo đai bạc sương nào nhuốm,
Đầu đội tàn xanh nắng chẳng vào.
Buồng chất cháu con khôn xiết kể,
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào.
Kình thiên một cột giơ tay chống,
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao.
Chí nam nhi
Thông minh nhất nam tử
Yêu vi thiên hạ kỳ (*)
Trót sinh ra thì phải có chi chi,
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
Đố kĩ sá chi con tạo,
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận, thì gắng gỏi kiếm cung,
Cho rõ mặt tu mi nam tử.
Trong vũ trụ đã đành phận sự,
Phải có danh mà đối với núi sông.
Đi không, chẳng lẽ về không ?
(*)Một người con trai thông minh ,nên làm người khác thường trong thiên hạ,lấy từ câu thơ Đường Giới tiễn bạn đi Trường An : Nam tử yêu vi thiên hạ kỳ.
phu ong
12-18-2006, 04:55 PM
Chơi xuân kẽo hết xuân đi
Gẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vật,
Đã sinh người lại hạn mấy năm.
Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc!
LạI mang lấy lợi danh vinh nhục,
Cuộc đờI kia lắm lúc bi hoan.
E đến khi hoa rữa trăng tàn,
Xuân một khắc dễ nghìn vàng đổi chác!
Tế suy vật lý tu hành lạc,
An dụng phù danh bạn thử thân,
Song bất nhân mà lạI chí nhân,
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy.
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy,
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù!
Nghề chơi cũng lắm công phu.
Duyên gặp gỡ
Minh quân lương tướng tao phùng dị,
Tài tử giai nhân tế ngộ nan.
Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên,
Trong nhất kiến tiền duyên như đã.
Tỳ bà hữu hạnh phùng Tư mã,
Quân tử đa tình cánh khả lân.
Nọ mấy người tài tử giai nhân,
Duyên chi thắm bỗng dần dần đưa lại.
Dầu nghìn dặm băng sơn quế hải,
Đã tình duyên xe lại cũng nên gần.
Liễu hoa vừa gặp chúa xuân,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn.
Anh hùng hà xứ bất giang sơn!
Gã cưới nàng hầu
Trẻ tạo hóa ngẩn ngơ lắm việc,
Già Nguyệt ông cắc cớ trêu nhau.
Kìa những người mái tuyết đã phau phau,
Run rẩy kẻ tơ đào còn manh mảnh.
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh,
Nhất tọa lê hoa áp hải đường.
Từ đây là tạc đá, nghi vàng.
Bởi đâu trước lựa tơ, chắp chỉ.
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
Tình đã chung lứa cũng phải vam,
Suốt kim cổ lấy làm phận sự,
Trong trần thế duyên duyên, nợ nợ,
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành.
Xưa nay mấy kẻ đa tình,
Lão Trần là một với mình là hai.
Càng già, càng dẻo, càng dai!
Kẻ sĩ
Tước hữu ngũ Sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên (1)
Có giang sơn thì Sĩ đã có tên
Từ Chu Hán vốn Sĩ này là quý.
Miền hương đãng đã khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân phải giữ lấy cang thường
Khí hạo nhiên chí đại chí cương
So chính khí đã đầy trong trời đất.
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hưu hưu nhiên điếu vị canh Sằn (2) (3)
Xe bồ luân dù chưa gặp Thang Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.
Cầm chính đạo để tịnh tà cừ bí
Hồi cuồng loan nhi chướng bách xuyên
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Mang quách cả sở tồn làm sở dụng.
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thùy rạch mũi Can Tương
Sao cho bách thế lưu phương
Trước là Sĩ sau là khanh tướng.
Kinh luân khởi tâm thượng
Binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi nhân gian giai phận sự
Nam nhi đáo thủy thị hào hùng.
Nước nhà yên thì Sĩ được thung dung
Bấy giờ Sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch (4)
Dăm ba đứa tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn
Này thơ, này rượu, này địch, này đàn
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới
Ngẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh
Này này Sĩ mới hoàn danh.
(1) Tước có 5 bậc ,sĩ cũng dự vào
Dân co 4 loại Sĩ đứng đầu
(2)Điếu vị...Điển tích : Lã vọng xưa ngồi câu bên bờ sông Vị
(3)Điển tích : Y Doãn xưa kia làm ruộng ở đất Sằn
(4) Hoàng Thạch...Điển tích : Hoàng Thạch công Trương lương cuối đời Tần đi chơi đất Hạ Bì đến Dĩ Kiều gặp ông già trao cho quyển "binh thư tam lược " để bình thiên hạ ,dặn 13 năm sau đến núi Cốc gặp hòn đá vàng chính là ông ấy. Trương Lương là tướng của Lưu Bang bình thiên hạ lập nhà Hán.
phu ong
12-18-2006, 05:09 PM
Khuyên người đời
Cho hay thiên hạ khéo xem gương
Hễ khó thời thôi mấy kẻ màng
Miệng nói đã đành mua chuyện ghét
Tay không chưa dễ ép người thương
Khéo khôn ai cũng tranh phần được
Trong sạch ta thời giữ mực thường
Ði lại chẳng qua thời với mệnh
Cũng đừng thắc mắc, chớ lo lưòng.
Lời tiểu thiếp tự tình
Buồn sực nhớ đài trăng cảnh cũ,
Nhờ trượng phu trong dạ bàng hoàng.
Mái tây sơn sương tỏa mấy lần,
Thân cái nhện không vò mà cũng rối.
Chỉn tại tơ hồng trêu quấy nỗi,
Há rằng dây đỏ ghét ghen chi.
Chốn cô phòng năn nỉ với cầm chi.
Đường viễn hoạch ngõ hầu tình chăng nhẽ ?
Trong trần thế sầu lây mấy kẻ,
Giọng Hà Đông thêm cám cảnh cho ai!
Xin cho trời đất lâu dài,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru ?
Thấu tình chăng, kẻ trượng phu ?
Muộn thành đạt
Cảnh muộn đi về nghĩ cũng rầu,
Trông gương mà thẹn với hàm râu.
Có từng gian hiểm, mình càng trí,
Song lắm phong trần, lụy cũng sâu.
Năm ấy đã qua thời chẳng lại,
Giống kia có muộn mới còn lâu.
Khi vui giễu cợt mà chơi vậy,
Tuổi tác ngần này đã chịu đâu!
Nợ công danh
Giang sơn bất thiểu anh hùng khách (1)
Gánh kiền khôn đeo nặng kẻ rừng nho. (2)
Thiên phú ngô, địa tái ngô, (3)
Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý (4)
Dã thị giang sơn chung tú khí, (5)
Quả nhiên đài các xuất danh công. (6)
Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng,
Cờ báo tiệp giữa trời Nam bay bướm nhẹ. (7)
Tài bộ thế mà công danh lại thế,
Nợ trần hoàn quyết giả lúc này xong.
Dồi dào thiên tứ vạn chung, (8)
Khanh hầu xa mã tướng công lâu dài.
Trần ai ai dễ biết ai ?
(1) Giang sơn bất...non sông không thiếu gì khách anh hùng
(2)Kiền khôn...Trời đất ,Gánh kiền khôn : nhiệm vụ nặng nề đối với đất nước
(3) Thiên phú ngô...địa tái ngô :Trời che ta ,đất chở ta
(4)Thiên địa sinh ngô...Trời đất sinh ta vốn có ý
(5)Dã thị giang sơn...Vốn là khí đẹp của non sông chung đúc lại
(6)Quả nhiên đài các...Hẳn làm được một người có danh vọng ở nơi đài các
(7)Cờ báo tiệp...Cờ báo tin mừng thi đỗ hay thắng trận
(8)Thiên tứ vạn chung...nghìn cổ xe tứ mã ,vạn chung thóc
phu ong
12-18-2006, 06:38 PM
Nợ tang bồng
Vũ trụ giai ngô phận sự, (1)
Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn ? (2)
Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung,hiếu, chữ "quân thân" là gánh vác.
Thi rằng: "Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông".
Nợ sách đèn đem nghiên bút giả xong,
Cầu xe ngựa lúc đi về mới tỏ. (3)
Duyên ngư thuỷ, hội long vân còn đó
Miếng đỉnh chung cho biết mùi đời.
Nhắn trăng nhủ gió đưa người,
Bẻ ngành đơn quế cho rồi liền tay.
Trần ai ai có kém ai!
(1) Vũ trụ...Những việc trong trời đất đều là phận sự của mình
(2)Trần hoàn....cõi đời
Câu 1 và 2 ý tác giã : có công danh đứng cũng trời đất ,không sự nghiệp nát với cỏ cây
(3) Cầu xe ngựa...Tư mã Tương như đời Hán, khi qua một cái cầu để đi lập nghiệp ,có thề rằng : nếu không ngồi xe cỡi ngựa (nghĩa là không làm nên danh phận ) thì không trở về qua cầu nầy
Nghĩa đời người
Ba vạn sáu nghìn ngày thấm thoắt,
Tự mọc răng cho tới bạc đầu.
Cõi nhục vinh góp lại có bao lâu ?
Ngồi thử gẫm thợ trời thêm khéo quá!
Núi tự tại, cớ sao sông bất xả, (1)
Chim thì lông, hoa thì cánh, công đâu tạo hoá khéo thừa trừ (2)
Từ nghìn trước để nghìn sau,
Kết cục lại một người riêng một kiếp.
Nhập thế cục bất khả vô công nghiệp (3)
Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân[/clk]
Mà chữ "danh" liền với chữ "thân" (4)
Thân đã có ắt là danh phải có!
Này phút chốc kim rồi lại cỗ,
Có hẹn gì sau, chẳng bằng nay.
Râu mày kia hỡi râu mày!
(1)Bất xả..chảy mãi
(2) Thừa trừ : Bù trừ
(3)Nhập thể cục bất...
Bước vào đời không thể không sự nghiệp
(4) "thân" ở đây mang nghĩa con người mình
Powered by vBulletin® Version 4.2.0 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.