PDA

View Full Version : BỒ TÁT NHẮM MẮT



Dan Lee
04-27-2007, 11:27 PM
BỒ TÁT NHẮM MẮT


Phong tục mê tín của dân gian cho rằng, ngày cuối tháng bảy âm lịch là ngày sinh nhật của địa tạng vương. Lại còn nói nếu gặp tháng bảy chẳn có đủ ba mươi ngày, thì địa tạng vương mở to hai mắt; nhưng nếu gặp tháng bảy thiếu chỉ có hai mươi chín ngày, thì địa tạng vương không chịu mở mắt.

Có một năm, đúng vào tháng bảy âm lịch có ba mươi ngày, có người nói: “Tại sao địa tạng vương không dám mở mắt ?”, người thích nói đùa cho vui thì nói: “Anh nhìn xem người trên thế giới, mọi việc làm của họ thì có việc gì nhìn cho được con mắt ? Cho nên bồ tát dứt khoát chẳng thà nhắm mắt còn hơn. Cái gọi là mắt không nhìn, lòng không phiền chính là như thế đó”.

(Yết hậu ngữ)

Suy tư:
Địa tạng vương quanh năm suốt tháng không mở mắt, nên người trên thế gian làm tốt làm xấu như thế nào, ông ta cũng chẳng hay biết, bởi vì địa tạng vương là sản phẩm tưởng tượng của những người mê tín.

Thiên Chúa không phải là sản phẩm do con người tạo ra, nhưng loài người là do Thiên Chúa tạo dựng cùng với vạn vật trong vũ trụ này, cho nên mọi hành vi ngôn ngữ và ngay cả những suy nghĩ thầm kín trong tâm hồn của con người, thì Thiên Chúa cũng biết mà biết rất tỏ tường, bởi vì Thiên Chúa không phải là địa tạng vương.

Hình như tất cả mọi người đều nhìn nhận là Ông Trời có con mắt nên Ông Trời nhìn thấy mọi sự, nhưng có rất nhiều người dù tin rằng Ông Trời nhìn thấy rõ ràng mọi sự mà vẫn cứ phạm tội gian dâm, vẫn cứ tham nhũng, bôi nhọ danh dự người khác, vẫn cứ kiêu ngạo vẫn cứ hiếp đáp anh em chị em mình...

Ông Trời là Thiên Chúa của người Ki-tô hữu, của nhân loại, nên Thiên Chúa không nhắm mắt, nhưng Ngài nhìn thấy hết mọi việc do con người làm: tốt hay xấu, công bằng hay bất công, yêu thương và ghen ghét.v.v...nên mới thưởng phạt công minh.

Người Ki-tô luôn nhìn thấy Thiên Chúa khi làm việc, khi tiếp xúc với tha nhân, khi học hành, khi lái xe, khi vui chơi, khi ở nơi nhà thờ, khi ở tại tư gia.v.v...bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp mọi nơi.

Đó là giáo lý căn bản của người Ki-tô hữu.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

VietLang
04-28-2007, 02:13 PM
Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ là sản phẩm tưởng tượng của những người mê tín dị đoan không tin vào Phật Giáo cũng giống như một người đàn bà có con mà vẫn cho là đồng trinh là sản phẩm bài bác cho những ai không theo Ki Tô Giáo.

Nếu so về nguyện vọng Địa Tạng Vương Bồ Tát phổ độ cho tất cả Lục Đạo chứ không riêng chỉ ở loài người. Đây là Đại Nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát:

==========================================================

Địa Tạng Vương Bồ Tát (Ksitigartha, Kshigarbha)

Địa Tạng Vương Bồ Tát, một đức Bồ Tát đại từ đại bi thệ nguyện độ thế rất rộng lớn. Ngài là giáo chủ của cõi U Minh. Địa: đất. Tạng: trùm chứa

Bồ Tát có lập đại nguyện tế độ tất cả chúng sinh cũng như đất chở muôn sự muôn vật nên gọi là Địa.

Tuy ngài hiện thân ở Hằng Hà sa số thế giới, độ vô số chúng sinh, mà không một thế giới nào, một chúng sinh nào ra ngoài tự tâm của ngài nên gọi là Tạng.

Trong khi phát tâm ngài có nguyện rằng: "Địa Ngục mà còn chúng sinh thì ngài chẳng thành Phật". Vậy nên ngài hóa thân trong Lục Đạo mà độ chúng sinh:

- Diệm Ma Sứ Giả mà hóa độ ở Địa Ngục
- Trì Bảo Sứ Giả mà hóa độ loài ngạ quỷ
- Đại Lực Sứ Giả mà hóa độ loài súc sinh
- Đại Từ Thiên Nữ mà hóa độ loài A-tu-la
- Bảo Tạng Thiên Nữ mà hóa độ loài người
- Nhiếp Thiên Sứ Giả mà hóa độ cõi trời

Chịu lời phú chúc của đức Phật Thích Ca, mỗi ngày, mỗi buổi sáng ngài nhập định đặng quan sát các cơ cảm trong Thập Phương thế giới mà giác độ chúng sinh. 1,500 năm sau khi đức Thích Ca diệt độ, năm thứ tư hiệu Vĩnh Huy, Địa Tạng Vương Bồ Tát có giáng sinh ở nước Tân La, trong nhà họ Kim, lấy tên là Kim Kiều Giác. Hai mươi bốn tuổi, nhập định 75 năm, đến năm 99 tuổi thì tịch.

Trong kinh Địa Tạng, ngài Kiên lao địa thần có nói rằng: Hễ ai làm miếu, cất khánh, tô vẽ hình ngài Địa Tạng và cúng dường lễ bái ngài thì được mười điều lợi ích dưới đây:

- Đất cát chỗ mình ở trở nên thạnh mậu
- Nhà cửa bình yên
- Người thác được sinh lên cõi trời
- Người hiện còn thêm tuổi thọ
- Cầu gì cũng được toại ý
- Không có tai nạn nước lửa
- Mọi sự hư hao đều được trừ hết
- Các điềm dữ trong lúc chiêm bao đều dứt
- Những khi ra vô đều có thần ủng hộ
- Gặp nhiều nhân duyên thánh đạo


Trích theo:
Đoàn Trung Còn. "Từ Điển Phật Giáo"

==========================================================

Sỡ dĩ VL đăng bài ngắn này trong đây là vì người đọc có quyền biết đâu là tài liệu được viết trong Tam Tạng Kinh Điển và đâu là những câu truyện cười u mặc chế diễu những người chỉ biết tin vào những mê tín.

Có lẽ là rằm tháng 7 là lễ Vu Lan, vì vậy tháng 7 là tháng Vu Lan. Mà lễ Vu Lan bắt nguồn từ ngài Mục Kiện Liên, một trong 10 đại đệ tử của đức Phật, dùng phép thần thông của mình để vào địa ngục cứu mẹ ra. Vì địa ngục A Tỳ thuộc quản hạt của Địa Tạng Vương nên mới có tin dị đoan rằng "Tháng 7 ngài mở mắt" chăng?

Dan Lee
05-01-2007, 10:25 PM
Như VL đã viết là "Địa Tạng Vương Bồ Tát Trong kinh Địa Tạng, ngài Kiên lao địa thần có nói rằng: Hễ ai làm miếu, cất khánh, tô vẽ hình ngài Địa Tạng và cúng dường lễ bái ngài thì được mười điều lợi ích dưới đây:

- Đất cát chỗ mình ở trở nên thạnh mậu
- Nhà cửa bình yên
- Người thác được sinh lên cõi trời
- Người hiện còn thêm tuổi thọ
- Cầu gì cũng được toại ý
- Không có tai nạn nước lửa
- Mọi sự hư hao đều được trừ hết
- Các điềm dữ trong lúc chiêm bao đều dứt
- Những khi ra vô đều có thần ủng hộ
- Gặp nhiều nhân duyên thánh đạo

Trích theo:
Đoàn Trung Còn. "Từ Điển Phật Giáo"


Mình thật cám ơn VL đã thất mắc về " một người đàn bà có con mà vẫn cho là đồng trinh". Những điều trên thì Địa Tạng Vương Bồ Tát lại làm được cho chúng sinh thì tại sao Thiên Chúa Giáo (Ki Tô Giáo) lại không thể làm được?

Truyền tin cho ông Giu-se (Lc 2:1-7)
18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ."22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta."24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.25 Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.



Truyền tin cho Đức Ma-ri-a
Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."

Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! "

Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."

Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.


Bài ca "Ngợi Khen" (Magnificat)
Bấy giờ bà Ma-ri-a nói:
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,

Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời."

Còn về " Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ là sản phẩm tưởng tượng của những người mê tín dị đoan". Như VL đã đọc "Phong tục mê tín của dân gian cho rằng, ngày cuối tháng bảy âm lịch là ngày sinh nhật của địa tạng vương. Lại còn nói nếu gặp tháng bảy chẳn có đủ ba mươi ngày, thì địa tạng vương mở to hai mắt; nhưng nếu gặp tháng bảy thiếu chỉ có hai mươi chín ngày, thì địa tạng vương không chịu mở mắt.

Có một năm, đúng vào tháng bảy âm lịch có ba mươi ngày, có người nói: “Tại sao địa tạng vương không dám mở mắt ?”, người thích nói đùa cho vui thì nói: “Anh nhìn xem người trên thế giới, mọi việc làm của họ thì có việc gì nhìn cho được con mắt ? Cho nên bồ tát dứt khoát chẳng thà nhắm mắt còn hơn. Cái gọi là mắt không nhìn, lòng không phiền chính là như thế đó”.

Tất cả chúng ta ai cũng biết Người Việt Nam chúng ta có rất nhiều ngưới mê tín dị đoan nhiều thứ như nằm ngũ mơ thấy con này thì mua số đề là số mấy, đứa con này sinh vào ngày đó tháng đó năm đó thì nó kị tuổi với mình thành ra mình không thích nó. V.V.. và v.v.. Nên "ngày cuối tháng bảy âm lịch là ngày sinh nhật của địa tạng vương. Lại còn nói nếu gặp tháng bảy chẳn có đủ ba mươi ngày, thì địa tạng vương mở to hai mắt; nhưng nếu gặp tháng bảy thiếu chỉ có hai mươi chín ngày, thì địa tạng vương không chịu mở mắt."
Đó là theo những người mê tín dị đoan nên VL không cân phải tìm đâu là tài liệu nói về việc đó, vì theo mình nghỉ nếu VL không mê tín thì tốt.


Còn nếu VL cần biết thêm về " Địa Tạng Vương" thì đọc tiếp bài nay.
Địa Tạng
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/f/f9/Kshitigarbha.jpg

Tượng Bồ Tát Địa Tạng trên núi Osore, Nhật Bản
Địa Tạng (zh. dìcáng 地藏, sa. kṣitigarbha)
1. Một vị Bồ Tát chuyên cứu độ sinh linh trong Địa ngục và trẻ con yểu tử. Có khi Địa Tạng cũng là người được xem là chuyên cứu giúp lữ hành phương xa. Đó là vị Bồ Tát duy nhất được diễn tả với bạch hào (lông trắng xoáy nằm giữa hai mắt, sa. ūrṇā) trên trán, một trong ba mươi hai tướng tốt của một vị Phật. Địa Tạng hay cầm Như ý châu (sa. cintāmaṇi) và Tích trượng có sáu vòng, biểu hiện của sự cứu độ chúng sinh của Bồ Tát trong Lục đạo (sáu đường tái sinh).
Tại Trung Quốc và các nước Đông nam Á, Địa Tạng được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát (ba vị khác là Quán Thế Âm, Văn-thù-sư-lợi và Phổ Hiền) chuyên cứu độ những người bị sa vào địa ngục. Trú xứ của Bồ Tát là Cửu Hoa sơn (xem Tứ đại danh sơn) và tương truyền rằng, Địa Tạng đã thật sự hiện thân tại đây vào đời Đường dưới dạng một hoàng tử xứ Triều Tiên. Sau khi chết, nhục thân của vị hoàng tử này không tan rữa và người ta đã xây dựng một ngôi tháp để thờ vị này, một bảo tháp mà ngày nay vẫn còn.
Trước đây vô lượng kiếp, Địa Tạng là một Bà-la-môn và đã thệ nguyện trước một vị Phật thời đó là sẽ quyết tâm tu luyện đạt Phật quả, nhưng sẽ khước từ Phật quả này khi chưa cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi Luân hồi. Trong một tiền kiếp, Bồ Tát là một cô bé có một bà mẹ thường hay sát sinh để kiếm sống. Sau khi mẹ qua đời, cô bé này ngồi thiền mãi cho đến khi nghe một giọng nói, khuyên cô nên niệm danh đức Phật. Sau đó, cô nhập định, xuống ngay đến cửa địa ngục. Nơi đây, cô được cho biết rằng, chính vì công phu thiền định và niệm Phật mà cô đã cứu mẹ thoát khỏi địa ngục.
Nhờ thần thông, Địa Tạng Bồ Tát có thể biến hoá thành nhiều dạng để cứu chúng sinh trong lục độ. Trong một buổi lễ long trọng, thường là ngày thứ 100 sau khi chết, các thân nhân thường thắp hương làm lễ cầu xin Bồ Tát hướng dẫn người chết đến cõi Cực lạc của Phật A-di-đà (sa. amitābha). Sau đó, một trong những thân nhân sẽ niệm một câu thần chú để gọi người chết trở về nghe chính pháp. Lễ này được chấm dứt với sự niệm danh Phật A-di-đà và Bồ Tát Địa Tạng một lần nữa.
2. Địa Tạng cũng là một danh hiệu khác của Thiền sư La-hán Quế Sâm vì trước khi dời về viện La-hán, Sư trụ trì thiền viện Địa Tạng.

Còn về Công Giáo theo Cựu Ước.
Kinh Thánh Cựu Ước
Sáng Thế Ký



I. Nguồn Gốc Vũ Trụ Và Nhân Loại

1. Thiên Chúa Sáng Tạo. Con Người Sa Ngã


Thiên Chúa sáng tạo trời đất

1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Ðất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.

3 Thiên Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. 4 Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. 5 Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.

6 Thiên Chúa phán: "Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước." 7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên Chúa gọi vòm đó là "trời". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.

9 Thiên Chúa phán: "Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy. 10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất", khối nước tụ lại là "biển". Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

11 Thiên Chúa phán: "Ðất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy. 12 Ðất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.

14 Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Ðó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. 16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, 18 để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.

20 Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời." 21 Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất." 23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.

24 Thiên Chúa phán: "Ðất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy. 25 Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

26 Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."

27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,

Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,

Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.

28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." 29 Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." 31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.

1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.

3 Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.

4 Ðó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo.



Vườn địa đàng. Thử thách.

5 Ngày Ðức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Ðức Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. 6 Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất. 7 Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. 8 Rồi Ðức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.

9 Ðức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. 10 Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia thành bốn nhánh.11 Tên nhánh thứ nhất là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất Kha-vi-la là nơi có vàng; 12 vàng ở đất này tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc. 13 Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn; nhánh này bao quanh tất cả đất Cút. 14 Tên nhánh thứ ba là Tích-ra; nhánh này chảy ở phía đông Át-sua. Còn nhánh thứ bốn là Êu-phơ-rát. 15 Ðức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. 16 Ðức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; 17 nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết."

18 Ðức Chúa là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. 19 Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. 20 Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. 21 Ðức Chúa là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. 22 Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.

23 Con người nói:

"Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!

Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra."
24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.

25 Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.

Sa ngã

1 Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Ðức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo: "Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? 2 Người đàn bà nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. 3 Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết." 4 Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu! 5 Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác." 6 Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. 7 Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.

8 Nghe thấy tiếng Ðức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Ðức Chúa là Thiên Chúa. 9 Ðức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: "Ngươi ở đâu? " 10 Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn." 11 Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi: "Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không? " 12 Con người thưa: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn." 13 Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đã làm gì thế? " Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn." 14 Ðức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn:

"Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất

trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.

Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.

15 Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,

giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;

dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."

16 Với người đàn bà, Chúa phán:

"Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén;

ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.

Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi."

17 Với con người, Chúa phán: "Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: "Ngươi đừng ăn nó",

nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi;

ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi,

mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.

18 Ðất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.

19 Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn,

cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra.

Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất."
20 Con người đặt tên cho vợ là E-và, vì bà là mẹ của chúng sinh.
21 Ðức Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ.
22 Ðức Chúa là Thiên Chúa nói: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi."
23 Ðức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra.
24 Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh.

VietLang
05-02-2007, 01:21 PM
Thứ nhất Dan Lee đã hiểu lầm ý của VL. VL không hề phủ nhận nói là Jesus không thể cứu thế và cũng không nói chỉ có Địa Tạng Vương mới độ được chúng sinh. VL chỉ đưa ra sự so sánh và nói là những người không hiểu biết sẽ vì một điểm nhỏ mà phóng đại ra thành chuyện dị đoan hoang đường. Cũng như bồ tát có nhắm hay mở mắt thì đâu nhất định phải là ngày 30 tháng 7 âm lịch, cũng như "đồng trinh" không nhất thiết phải mang ý nghĩa là chưa hề trả qua chăn gối và không thể thụ thai.

Trong Kinh Tân Ước, bốn quyển Gospels là John, Mark, Luke, Mathew và Act đều ghi nhận việc bà Maria tiếp nhận đức Chúa Trời và sinh ra ngài Jesus.

Theo nghĩa nguyên thủy từ thời Hy Lạp Cổ, "virginity" không chỉ có nghĩa là còn con gái mà còn có nghĩa là trong trắng, trong sạch, tinh khiết.

VL đã học về Kinh Tân Ước, nhưng vì lâu ngày và không có nghiên cứu thêm nên nhớ không rõ và không được chi tiết. Những gì VL còn nhớ đại khái như sau:

Dân Do Thái nhiều đời tin tưởng rằng Đấng Cứu Thế sắp ra đời để cứu thế. Nhưng họ không biết chừng nào Đấng Cứu Thế sẽ ra đời. Vì vậy mà các nhà quyền quý tại Jerusalem trong thời gian bị đế quốc La Mã cai trị cứ dựa vào những Law Book cũ (quên gọi là gì) mà cho là Đấng Cứu Thế sẽ là một người giống họ.

Khi bà Maria thấy Đức Chúa Trời lần đầu tiên và chấp nhận ngài để rồi sinh ra người con độc nhất của Đức Chúa Cha là Đức Chúa Con Jesus ở Nazareth.

Theo riêng cá nhân VL, VL cho rằng "Virgin Mary" mang ý nghĩa chấp nhận Đức Chúa Trời trong đời sống của mình, yêu thương Đức Chúa Trời với cả tâm hồn, con tim và sức lực của mình. Virgin ở đây mang ý nghĩa đó, tức là chỉ tin vào Chúa Trời và thương yêu Chúa Trời mới là đi đúng đường vì Đức Chúa Trời tượng trưng cho sự cao cả, thiêng liêng, trong sạch và toàn năng. Chứ "virgin" có nghĩa là "đồng trinh" theo tiếng Việt, mang ý nghĩa trong sạch theo tâm hồn chứ không nhất định phải ở thể xác.

Nhiều nhà khoa học gia đem khoa học ra để chứ minh bà Maria không thể nào là gái "đồng trinh", sự thật chuyện này vốn không quan trọng vì có hiểu nó theo lối khoa học hay không cũng không đem con người đến gần với Thượng Đế hơn.

Cũng như có người hỏi Đức Chúa Jesus là nếu như chưa có ai nghe thấy Chúa Jesus mà lại tin vào Thượng Đế thì Đức Chúa Jesus nói: "Blessed the ones who haven't heard but believed"

Sự thuần khiết vào niềm tin của Đức Mẹ Maria vào Chúa Trời được nhấn mạnh rõ hơn khi ngài Jesus ở Nazareth đi vào Ngôi Đền của Jerusalem (Temple of Jerusalem) vừa la mắng vừa đánh đuổi bọn buôn thần bán thánh mà hầu hết đều là các nhà quý tộc tại Jersusalem đi vì theo lời ngài Jesus thì bọn đó làm hoen ố Ngôi Đền cho Chúa Trời gầy dựng nên.

...

Nói tóm lại, tin vào Thần Bà La Môn, Thích Ca Mâu Ni Phật, Jesus ở Nazareth hay Giáo Chủ Mô-ha-mét gì cũng được. Cái quan trọng là phải dùng sách vở nguyên thủy (Kinh Vệ Đà, Tam Tạng Kinh Điển, Kinh Tân Ước, hoặc Khả Lan Kinh) để mà nghiên cứu. Đừng nên nghe lời người khác diễn thuyết rồi mình lập tức võ đoán cho là tôn giáo đó đúng hoặc sai. Ý của VL là muốn nhấn mạnh điểm này.

VietLang
05-02-2007, 01:26 PM
VL chưa đọc Khả Lan Kinh và Vệ Đà Kinh nên không biết. Chứ trong Thánh Kinh lẫn Tam Tạng Kinh Điển có rất nhiều điểm, nếu đem phân tích theo khoa học, chẻ sợi tóc ra làm 8, làm 16 thì thấy rất vô lý.

Mặc dù là người Việt, tiếng Việt giỏi hơn tiếng Anh nhưng VL thích đọc Thánh Kinh (Cựu lẫn Tân) tiếng Anh hơn tiếng Việt. Trong Quyển Khai Sáng (VL tự dịch tựa từ Book of Gensis hay còn gọi là Book of Creation) có khá nhiều điều vô lý nếu phân tích theo khoa học, cũng như những gì Dan Lee viết về Địa Tạng Vương Bồ Tát, VL cũng thấy trong đó có điểm ngồ ngộ giữa Phật Giáo và Bà La Môn Giáo cần được giải thích rõ ràng.