tram_y
05-14-2007, 08:48 AM
ĐỨC PHẬT ĐẢN SANH:SUỐI NGUỒN TỪ BI
Khởi đi từ sự đản sinh của Đức Phật, một cuộc cách mạng tư tưởng cũng ra đời.
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử, triền miên của kiếp người. Vào năm hai mươi chín tuổi, một đêm kia, thái tử cùng với người đánh xe tên là Xa Nặc lìa bỏ kinh thành, quyết lên đường tìm Chân Lý. Sáng hôm sau, thấy đã đi được một quãng đường khá xa, Ngài xuống xe, thay đổi y phục thái tử trao cho Xa Nặc đem về, chỉ khoác lên mình một tấm vải vàng, ôm một bình bát, quyết quay lưng lại đời sống dư thừa vật chất, với những người hầu hạ vây quanh, thái tử từ biệt Xa Nặc, dấn bước lên con đường gian nan phía trước.
Trải qua sáu năm trời sống trong cảnh thiếu thốn, kham khổ, hành trì nhiều phương pháp với nhiều bậc thầy, nhưng Ngài đều không thỏa mãn, cứ đi hoài, tìm hoài. Cuối cùng, Ngài nhận ra rằng tất cả các bậc thầy đó đều chưa thoát ra khỏi được vòng vô minh. Từ nhận định đó, Ngài không còn trông cậy vào một bậc thày từ bên ngoài, ngưng tìm kiếm, mà một mình một bóng, tự quay vào soi rọi nội tâm.
Cuộc chiến đấu để tự thắng bản thân của Ngài vô cùng cam go. Với niềm tin tưởng rằng nếu không sống cuộc đời khắc khổ thì sẽ không thể giải thoát, Ngài khép mình vào kỷ luật, sống trong cảnh cực kỳ gian nan, thiếu thốn, chỉ khoác trên mình một mảnh y, chỉ ăn một chút hạt khô và rau cỏ, đến nỗi cơ thể Ngài vốn là một thái tử đẹp đẽ oai phong, nay chỉ còn lại lớp da bọc bộ xương.
Thế nhưng sự hành hạ xác thân đó cũng không khiến cho Ngài thấy được Chân Lý. Cuối cùng, sau khi đã suýt gục ngã vì quá khổ cực, Ngài mới thấy rằng lối sống xa hoa phủ phê thì kéo con người xuống thấp vì đắm say vật chất, lối sống quá thiếu thốn, quá cơ cực thì lại khiến cho tâm thần mỏi mệt, không đủ ý chí để theo đuổi việc lớn. Từ nhận định này, Ngài chọn con đường Trung Đạo, giữ sự quân bình đối với những nhu cầu cần thiết trong đời sống để có đủ sức khỏe, nhưng không nuông chiều những đòi hỏi quá với sự cần thiết. Con đường Trung Đạo này còn được các hành giả của đạo Phật ứng dụng rất thành công cho tới tận ngày nay.
Từ sự phát hiện đó, Ngài ngưng hành xác, thọ nhận một vài món thực phẩm thô sơ do thí chủ cúng dường. Sức khỏe nhờ vậy mà dần dần hồi phục, tinh thần minh mẫn, Ngài tự thanh tịnh hóa nội tâm, không cần đến một năng lực siêu nhiên nào hỗ trợ.
Rồi vào lúc rạng đông, khi sao Mai lóe sáng trên bầu trời, Ngài bừng tỉnh, giác ngộ được Chân Lý, trở thành bậc Đại Giác, thành Phật.
Đức Phật đã nói lên những lời đầu tiên, sau khi giác ngộ:
"Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai mãi đi tìm mà không gặp, Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này.
Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn.
Này hỡi người thợ làm nhà,
Như Lai đã tìm được ngươi.
Từ đây ngươi không còn cất được nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gãy,
Cây đòn dong của ngươi dựng lên cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng nghiệm Quả Vô Sanh Bất Diệt và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục".
Và tuyên ngôn cao thượng:
"Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành"
Chúng sinh ở đây không chỉ riêng cho loài người, mà là bao gồm tất cả mọi loài chúng sinh, vì tất cả mọi loài hữu tình đều có giác tánh, đều biết đau khổ, yêu thương, sợ hãi và đều muốn được sống.
Tuyên ngôn của Đức Phật nói lên lòng từ bi và bình đẳng tuyệt đối của Ngài đối với muôn loài chúng sinh. Ngài không chỉ nói xuông, mà ứng dụng tuyên ngôn ấy trong suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài.
Mùa Hè tại Ấn Độ mưa nhiều nên côn trùng sinh sôi nẩy nở do ẩm thấp. Vì thế Đức Phật chế ra mùa an cư kiết Hạ, mỗi năm ba tháng từ sau Rằm tháng Tư cho đến Rằm tháng Bảy, để chư Tăng Ni không đi ra ngoài, tránh giẫm đạp lên côn trùng. Nhà Phật có câu:
"Phụng sự chúng sinh là phụng sự Chư Phật", đã xác định tinh thần bình đẳng, tôn trọng muôn loài của Đức Phật.
Cư sĩ Diệu Chương kể lại câu chuyện "Bát Cơm Cúng Dường" được in trong cuốn Truyện Cổ Phật Giáo, như sau:
"Thuở Đức Phật còn tại thế, hằng ngày Phật và hàng đệ tử đi khất thực để mọi người có duyên gieo hạt giống lành vào thửa ruộng phước của mình.
Trong mùa an cư, Phật thường thọ trai của thí chủ phần đông là hàng cư sĩ, luân phiên nhau mang thức ăn đã nấu sẵn vào Tịnh xá cúng dường.
Trong giới tại gia của Đức Phật, có một người học trò tuy của cải không bằng ai nhưng lại khá giàu lòng tốt. Phiên chàng cúng dường thường vào những ngày cuối tháng. Những bữa cơm giản dị không phải quý giá về phẩm chất, mà quý vì chàng đặt vào đó tất cả lòng thiết tha thành kính của một đứa con thuần hiếu, mà lòng chân thành lắm khi làm cảm động đến chư Thiên. . .
Khi sao mai vừa ló dạng, chàng thức dậy, sửa soạn vớt chất đề hồ cho vào chiếc bình trắng trong, để lên chiếc bàn con bằng gỗ chiên đàn, một gia bảo của mẹ chàng thuộc dòng Bà La Môn để lại cho chàng. Chiếc bàn đã mấy đời dùng làm bàn sắp đồ cúng tế trong các buổi lễ.
Kế đó, những món rau đậu chính chàng trồng lấy ở vườn nhà được tự tay chàng nấu nướng.
Hôm nào cũng như hôm nào, bữa cơm chàng sửa soạn cúng dường Đức Phật cũng mang trọn tất cả tấm lòng thành kính vui mừng. Chàng khẩn nguyện cho cơm chàng cúng dường là bữa cơm đầy Pháp vị, tuy chàng biết vốn liếng tu học của mình không được bao nhiêu và gia thế lại còn tệ hại hơn cả sự hiểu biết của mình nữa.
Nhưng không biết tại sao tâm chàng thấy hoan hỷ và tin tưởng rằng những bữa cơm đơn giản của mình đều mang đến cho người thọ dụng tất cả niềm thanh tịnh, hoan hỷ. Và đó cũng là nguồn an ủi lớn lao nhất trong kiếp sống hiện tại của chàng.
Mặt trời lên khá cao, chàng vui vẻ mang thức ăn đi cúng dường Đức Phật. Con đường đi vào Tịnh xá Kỳ Hoàn thật êm ả trầm lặng. Chàng không bao giờ ngắm mây bay hoa nở, bước chân chàng nhẹ nhàng thanh thoát lướt qua không kịp nhuốm bụi đường, lòng chỉ lo quá ngọ Đức Phật không kịp thọ dụng. . .
Nhưng có một hôm, ra khỏi nhà một đỗi, mắt chàng dừng lại, bóng dáng một sinh vật thất thểu dưới nắng hè. Đó là một con chó gầy guộc, lông lá rụng hết, từng mảng ghẻ lở loét hiện rõ dưới ánh mặt trời chói chang. Bốn chân nó khẳng khiu xiêu vẹo không đỡ nổi chiếc thân vốn đã quá gầy còm!
Hình như nó đánh hơi được thức ăn chàng đang xách trên tay nên lấm la lấm lét tiến lại gần. Nó không biết nói, nhưng đôi mắt van nài, bộ tướng ủ rũ tiều tụy của nó, đủ nói lên được với chàng rằng: "Tôi không được ăn đã từ lâu lắm rồi" .
Chàng đứng khựng lại. Bấy giờ, trước mắt chàng chỉ có hình ảnh của một sinh vật đói lả, mà trong tay chàng lại có sữa, cơm và thức ăn. Thật may phước cho nó quá! Chàng ngồi xuống bên đường, mở bình bát ra, bày các thức ăn trước mặt nó. Con chó ăn không kịp thở. Chàng hồi hộp nhìn con vật, cùng chia sớt với nó sự bằng lòng, niềm vui hy hữu đang âm thầm tràn ngập tâm hồn. Trong một thoáng chiếc bình đề hồ, cơm, thức ăn đều hết sạch. Bây giờ con chó no, thong thả ra đi. Chàng trông theo bước chân của nó, giờ đây chắc chắn vững chải trên con đường và nở một nụ cười thoải mái. Nhưng, khi chó vừa khuất dạng sau rặng cây trước cửa Tịnh xá, chàng nhìn lại bình đề hồ và liễn cơm với thức ăn sạch nhẵn, lo sợ kinh hoàng! Mặt trời rọi bóng chàng lùn xủn trên mặt đường vậy là vừa đúng ngọ. Tới thì không dám, lùi cũng không đành, sau một giây, thu hết can đảm, chàng rảo bước vào Tịnh xá mà nước mắt lăn tròn theo mồ hôi.
Đức Thế Tôn dùng huệ nhãn soi rõ sự tình. Ngài ngồi yên, đôi mắt tinh anh như hai vì sao, nụ cười hoan hỷ từ bi nở tươi làm sáng một vùng trời.
Chàng nào dám ngó lên, đôi mắt e dè dán chặt xuống đôi bàn chân tê dại. Tuy nhiên, chàng quyết không dối Phật, quyết thú thật hết tội lỗi của mình, mà cũng không dám mong cầu được Phật tha thứ.
- Bạch Thế Tôn! Hôm nay con có lỗi nặng vô cùng. . .
. . . và tiếng chàng rút lại nhỏ dần như tắc nghẹn. . .
Đức Phật ôn tồn khuyến khích như thường lệ:
- Hôm nay phải phiên con đem cơm cúng dường Như Lai đó không?
- Bạch Thế Tôn!. . . -- tiếng chàng nức nở trong nước mắt -- xin Ngài thứ tội cho con. Vừa rồi tại trước Tịnh xá, con gặp con chó ghẻ đói lả, con lú lẫn quên mất giờ trai của Thế Tôn, con lỡ đem bình bát thức ăn cho con chó ăn hết. Tội con xuẩn ngốc, vô lễ nặng nề không biết ngần nào.
Nhưng, một vùng hào quang giữa đôi mày Đức Phật phóng ra ánh ngời Tịnh xá như những hôm Phật lên Pháp tòa để khởi đầu nói một bài Kinh trác tuyệt. Tiếng Ngài ngân vang, từ ái tròn đầy:
- "Mùa hạ này, Như Lai muốn cho các con biết, chỉ có hôm nay Như Lai thọ dụng một bữa cúng dường rất thanh tịnh của một vị đại thí chủ, đầy đủ Pháp vị trong một bữa cúng dường".
Tại sao chàng thanh niên này lại được đức Phật tán thán là "đại thí chủ", và sự cho con chó ăn này lại được đức Phật khen là"một bữa cúng dường rất thanh tịnh"?
Vì rằng khi chàng thanh niên cho con chó ăn, tâm chàng hoàn toàn trong sáng, chỉ có một niệm từ bi bình đẳng khởi lên, chỉ thấy có một sinh vật đang sắp chết vì đói, và chàng hồn nhiên đem ngay món thực phẩm đang có trong tay để cứu nó, không tính toán, không phân biệt rằng "cúng Phật được phước hơn", hoặc "con chó là loài vật", vân vân. Như thế là Bố Thí Ba La Mật, bố thí trong tinh thần hoàn toàn trong sạch, không thấy có người cho, người nhận, giá trị của vật đem cho, mà chỉ có một tấm lòng trắc ẩn nguyên sơ, làm một việc vì cần phải làm, không so đo, tính toán, không làm vì hiếu danh, không làm để kể công, kể ơn.
Trong cái xã hội Bà La Môn phân chia giai cấp một cách vô cùng khắc nghiệt, giai cấp hạ lưu chỉ đụng tay vào giai cấp thượng lưu cũng đủ để bị tội chặt tay, thì một quan điểm bình đẳng rốt ráo, bình đẳng không chỉ giữa người với người, mà trên bình diện chúng sinh như thế của nhà Phật, phải nói là đức Phật đã làm một cuộc đại cách mạng. Ngay đến thế kỷ thứ hai mươi mốt này, tại nhiều quốc gia trên thế giới, người ta vẫn còn đang phải chật vật tranh đấu để giành quyền bình đẳng giữa nam nữ, giữa các mầu da, vân vân, thì đức Phật, cách nay hai ngàn năm trăm năm, đã tuyên bố : " Không có sự khác biệt giữa những giọt nước mắt cùng mặn và những giọt máu cùng đỏ", cao thượng thay lời nói của bậc Đại Giác!
Cũng trong tinh thần tôn trọng sinh mạng này, Đức Phật chế giới tu sĩ không được chặt cây, đào đất, vì làm như vậy có thể giết hại các loài vi sinh vật. Sở dĩ có thể thi hành giới này vì vào thời Phật còn tại thế ở Ấn Độ, tăng sĩ ôm bình bát đi khất thực hằng ngày, không cần phải trồng trọt để mưu sinh.
Lòng từ bi bình đẳng của Đức Phật bao quát tất cả mọi dạng sống trên trái đất, dù là lớn hay nhỏ, mắt thấy được hay không thấy được, như đã nói trong Kinh Từ Bi :
"Nguyện cho mọi người và mọi loài đươc sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.
Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho kẻ khác bị đau khổ và khốn đốn.”
Đạo Phật được ví như một con đại bàng mà Trí Tuệ và Từ Bi là hai cánh. Nhờ có Trí Tuệ, chúng ta mới tỉnh cơn mê. Nhưng đồng thời, trên bước đường tu tập, chúng ta phải trải rộng Tâm Từ để tránh đau khổ cho chúng sinh, hơn thế nữa, để giúp chúng sinh, cùng chúng sinh tiến bước theo dấu chân Đức Phật, đó là chúng ta đang hành Bồ tát Đạo.
Để tỏ lòng tôn kính thâm sâu của mình đối với Đức Phật, Sri Radhakrishnan viết:
"Nơi Đức Phật Gotama (Cồ Đàm) ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người phương Đông. Ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu, cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ thống tôn giáo vô cùng cao thâm huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí bởi vì, đứng về phương diện trí thức, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử".
Trong quyển "Three Greatest Men in History", học giả H. G. Wells ghi nhận như sau:
"Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản dị có tâm đạo nhiệt thành, một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống, một con người như mọi người chớ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết hoang đường. Ngài cũng ban bố cho nhân loại những lời kêu gọi có tính cách phổ thông. Bao nhiêu quan niệm của thế hệ tân thời đều tương hợp với giáo lý ấy. Đức Phật dạy rằng tất cả những gian lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do lòng ích kỷ sinh ra. Trước khi có thể trở nên tĩnh lặng, con người cần phải tự chế trước những đòi hỏi của giác quan. Rồi từ đó, vượt lên trên tất cả mọi người, Ngài sống cuộc đời siêu nhiên. Năm trăm năm trước Chúa Christ, xuyên qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, Phật Giáo đã kêu gọi con người nên tự quên mình. "
Ngày nay hơn 25 thế kỷ đã trôi qua, lời dạy của đấng Bổn Sư Thế Tôn vẫn còn vang vọng đâu đây. Chúng ta những người con Phật mà không có may mắn được gặp Ngài, được nghe những lời giáo huấn từ kim khẩu Ngài, đành chỉ còn biết ngậm ngùi theo với lời than thở của cổ nhân:
Phật tại thế thời ngã trầm luân
Kim đắc nhân thân Phật diệt độ
Áo não tự thân đa nghiệp chướng
Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
Tạm dịch:
Vào thời Phật tại thế gian
Thì ta nghiệp nặng lang thang luân hồi
Nay ta có được thân người
Tiếc thay Phật đã về nơi Niết bàn
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen
www.thuvienhoasen.org
Khởi đi từ sự đản sinh của Đức Phật, một cuộc cách mạng tư tưởng cũng ra đời.
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử, triền miên của kiếp người. Vào năm hai mươi chín tuổi, một đêm kia, thái tử cùng với người đánh xe tên là Xa Nặc lìa bỏ kinh thành, quyết lên đường tìm Chân Lý. Sáng hôm sau, thấy đã đi được một quãng đường khá xa, Ngài xuống xe, thay đổi y phục thái tử trao cho Xa Nặc đem về, chỉ khoác lên mình một tấm vải vàng, ôm một bình bát, quyết quay lưng lại đời sống dư thừa vật chất, với những người hầu hạ vây quanh, thái tử từ biệt Xa Nặc, dấn bước lên con đường gian nan phía trước.
Trải qua sáu năm trời sống trong cảnh thiếu thốn, kham khổ, hành trì nhiều phương pháp với nhiều bậc thầy, nhưng Ngài đều không thỏa mãn, cứ đi hoài, tìm hoài. Cuối cùng, Ngài nhận ra rằng tất cả các bậc thầy đó đều chưa thoát ra khỏi được vòng vô minh. Từ nhận định đó, Ngài không còn trông cậy vào một bậc thày từ bên ngoài, ngưng tìm kiếm, mà một mình một bóng, tự quay vào soi rọi nội tâm.
Cuộc chiến đấu để tự thắng bản thân của Ngài vô cùng cam go. Với niềm tin tưởng rằng nếu không sống cuộc đời khắc khổ thì sẽ không thể giải thoát, Ngài khép mình vào kỷ luật, sống trong cảnh cực kỳ gian nan, thiếu thốn, chỉ khoác trên mình một mảnh y, chỉ ăn một chút hạt khô và rau cỏ, đến nỗi cơ thể Ngài vốn là một thái tử đẹp đẽ oai phong, nay chỉ còn lại lớp da bọc bộ xương.
Thế nhưng sự hành hạ xác thân đó cũng không khiến cho Ngài thấy được Chân Lý. Cuối cùng, sau khi đã suýt gục ngã vì quá khổ cực, Ngài mới thấy rằng lối sống xa hoa phủ phê thì kéo con người xuống thấp vì đắm say vật chất, lối sống quá thiếu thốn, quá cơ cực thì lại khiến cho tâm thần mỏi mệt, không đủ ý chí để theo đuổi việc lớn. Từ nhận định này, Ngài chọn con đường Trung Đạo, giữ sự quân bình đối với những nhu cầu cần thiết trong đời sống để có đủ sức khỏe, nhưng không nuông chiều những đòi hỏi quá với sự cần thiết. Con đường Trung Đạo này còn được các hành giả của đạo Phật ứng dụng rất thành công cho tới tận ngày nay.
Từ sự phát hiện đó, Ngài ngưng hành xác, thọ nhận một vài món thực phẩm thô sơ do thí chủ cúng dường. Sức khỏe nhờ vậy mà dần dần hồi phục, tinh thần minh mẫn, Ngài tự thanh tịnh hóa nội tâm, không cần đến một năng lực siêu nhiên nào hỗ trợ.
Rồi vào lúc rạng đông, khi sao Mai lóe sáng trên bầu trời, Ngài bừng tỉnh, giác ngộ được Chân Lý, trở thành bậc Đại Giác, thành Phật.
Đức Phật đã nói lên những lời đầu tiên, sau khi giác ngộ:
"Xuyên qua nhiều kiếp sống trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang đi, đi mãi.
Như Lai mãi đi tìm mà không gặp, Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này.
Lặp đi lặp lại đời sống quả thật là phiền muộn.
Này hỡi người thợ làm nhà,
Như Lai đã tìm được ngươi.
Từ đây ngươi không còn cất được nhà cho Như Lai nữa.
Tất cả sườn nhà đều gãy,
Cây đòn dong của ngươi dựng lên cũng bị phá tan.
Như Lai đã chứng nghiệm Quả Vô Sanh Bất Diệt và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục".
Và tuyên ngôn cao thượng:
"Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành"
Chúng sinh ở đây không chỉ riêng cho loài người, mà là bao gồm tất cả mọi loài chúng sinh, vì tất cả mọi loài hữu tình đều có giác tánh, đều biết đau khổ, yêu thương, sợ hãi và đều muốn được sống.
Tuyên ngôn của Đức Phật nói lên lòng từ bi và bình đẳng tuyệt đối của Ngài đối với muôn loài chúng sinh. Ngài không chỉ nói xuông, mà ứng dụng tuyên ngôn ấy trong suốt cuộc đời hoằng hóa của Ngài.
Mùa Hè tại Ấn Độ mưa nhiều nên côn trùng sinh sôi nẩy nở do ẩm thấp. Vì thế Đức Phật chế ra mùa an cư kiết Hạ, mỗi năm ba tháng từ sau Rằm tháng Tư cho đến Rằm tháng Bảy, để chư Tăng Ni không đi ra ngoài, tránh giẫm đạp lên côn trùng. Nhà Phật có câu:
"Phụng sự chúng sinh là phụng sự Chư Phật", đã xác định tinh thần bình đẳng, tôn trọng muôn loài của Đức Phật.
Cư sĩ Diệu Chương kể lại câu chuyện "Bát Cơm Cúng Dường" được in trong cuốn Truyện Cổ Phật Giáo, như sau:
"Thuở Đức Phật còn tại thế, hằng ngày Phật và hàng đệ tử đi khất thực để mọi người có duyên gieo hạt giống lành vào thửa ruộng phước của mình.
Trong mùa an cư, Phật thường thọ trai của thí chủ phần đông là hàng cư sĩ, luân phiên nhau mang thức ăn đã nấu sẵn vào Tịnh xá cúng dường.
Trong giới tại gia của Đức Phật, có một người học trò tuy của cải không bằng ai nhưng lại khá giàu lòng tốt. Phiên chàng cúng dường thường vào những ngày cuối tháng. Những bữa cơm giản dị không phải quý giá về phẩm chất, mà quý vì chàng đặt vào đó tất cả lòng thiết tha thành kính của một đứa con thuần hiếu, mà lòng chân thành lắm khi làm cảm động đến chư Thiên. . .
Khi sao mai vừa ló dạng, chàng thức dậy, sửa soạn vớt chất đề hồ cho vào chiếc bình trắng trong, để lên chiếc bàn con bằng gỗ chiên đàn, một gia bảo của mẹ chàng thuộc dòng Bà La Môn để lại cho chàng. Chiếc bàn đã mấy đời dùng làm bàn sắp đồ cúng tế trong các buổi lễ.
Kế đó, những món rau đậu chính chàng trồng lấy ở vườn nhà được tự tay chàng nấu nướng.
Hôm nào cũng như hôm nào, bữa cơm chàng sửa soạn cúng dường Đức Phật cũng mang trọn tất cả tấm lòng thành kính vui mừng. Chàng khẩn nguyện cho cơm chàng cúng dường là bữa cơm đầy Pháp vị, tuy chàng biết vốn liếng tu học của mình không được bao nhiêu và gia thế lại còn tệ hại hơn cả sự hiểu biết của mình nữa.
Nhưng không biết tại sao tâm chàng thấy hoan hỷ và tin tưởng rằng những bữa cơm đơn giản của mình đều mang đến cho người thọ dụng tất cả niềm thanh tịnh, hoan hỷ. Và đó cũng là nguồn an ủi lớn lao nhất trong kiếp sống hiện tại của chàng.
Mặt trời lên khá cao, chàng vui vẻ mang thức ăn đi cúng dường Đức Phật. Con đường đi vào Tịnh xá Kỳ Hoàn thật êm ả trầm lặng. Chàng không bao giờ ngắm mây bay hoa nở, bước chân chàng nhẹ nhàng thanh thoát lướt qua không kịp nhuốm bụi đường, lòng chỉ lo quá ngọ Đức Phật không kịp thọ dụng. . .
Nhưng có một hôm, ra khỏi nhà một đỗi, mắt chàng dừng lại, bóng dáng một sinh vật thất thểu dưới nắng hè. Đó là một con chó gầy guộc, lông lá rụng hết, từng mảng ghẻ lở loét hiện rõ dưới ánh mặt trời chói chang. Bốn chân nó khẳng khiu xiêu vẹo không đỡ nổi chiếc thân vốn đã quá gầy còm!
Hình như nó đánh hơi được thức ăn chàng đang xách trên tay nên lấm la lấm lét tiến lại gần. Nó không biết nói, nhưng đôi mắt van nài, bộ tướng ủ rũ tiều tụy của nó, đủ nói lên được với chàng rằng: "Tôi không được ăn đã từ lâu lắm rồi" .
Chàng đứng khựng lại. Bấy giờ, trước mắt chàng chỉ có hình ảnh của một sinh vật đói lả, mà trong tay chàng lại có sữa, cơm và thức ăn. Thật may phước cho nó quá! Chàng ngồi xuống bên đường, mở bình bát ra, bày các thức ăn trước mặt nó. Con chó ăn không kịp thở. Chàng hồi hộp nhìn con vật, cùng chia sớt với nó sự bằng lòng, niềm vui hy hữu đang âm thầm tràn ngập tâm hồn. Trong một thoáng chiếc bình đề hồ, cơm, thức ăn đều hết sạch. Bây giờ con chó no, thong thả ra đi. Chàng trông theo bước chân của nó, giờ đây chắc chắn vững chải trên con đường và nở một nụ cười thoải mái. Nhưng, khi chó vừa khuất dạng sau rặng cây trước cửa Tịnh xá, chàng nhìn lại bình đề hồ và liễn cơm với thức ăn sạch nhẵn, lo sợ kinh hoàng! Mặt trời rọi bóng chàng lùn xủn trên mặt đường vậy là vừa đúng ngọ. Tới thì không dám, lùi cũng không đành, sau một giây, thu hết can đảm, chàng rảo bước vào Tịnh xá mà nước mắt lăn tròn theo mồ hôi.
Đức Thế Tôn dùng huệ nhãn soi rõ sự tình. Ngài ngồi yên, đôi mắt tinh anh như hai vì sao, nụ cười hoan hỷ từ bi nở tươi làm sáng một vùng trời.
Chàng nào dám ngó lên, đôi mắt e dè dán chặt xuống đôi bàn chân tê dại. Tuy nhiên, chàng quyết không dối Phật, quyết thú thật hết tội lỗi của mình, mà cũng không dám mong cầu được Phật tha thứ.
- Bạch Thế Tôn! Hôm nay con có lỗi nặng vô cùng. . .
. . . và tiếng chàng rút lại nhỏ dần như tắc nghẹn. . .
Đức Phật ôn tồn khuyến khích như thường lệ:
- Hôm nay phải phiên con đem cơm cúng dường Như Lai đó không?
- Bạch Thế Tôn!. . . -- tiếng chàng nức nở trong nước mắt -- xin Ngài thứ tội cho con. Vừa rồi tại trước Tịnh xá, con gặp con chó ghẻ đói lả, con lú lẫn quên mất giờ trai của Thế Tôn, con lỡ đem bình bát thức ăn cho con chó ăn hết. Tội con xuẩn ngốc, vô lễ nặng nề không biết ngần nào.
Nhưng, một vùng hào quang giữa đôi mày Đức Phật phóng ra ánh ngời Tịnh xá như những hôm Phật lên Pháp tòa để khởi đầu nói một bài Kinh trác tuyệt. Tiếng Ngài ngân vang, từ ái tròn đầy:
- "Mùa hạ này, Như Lai muốn cho các con biết, chỉ có hôm nay Như Lai thọ dụng một bữa cúng dường rất thanh tịnh của một vị đại thí chủ, đầy đủ Pháp vị trong một bữa cúng dường".
Tại sao chàng thanh niên này lại được đức Phật tán thán là "đại thí chủ", và sự cho con chó ăn này lại được đức Phật khen là"một bữa cúng dường rất thanh tịnh"?
Vì rằng khi chàng thanh niên cho con chó ăn, tâm chàng hoàn toàn trong sáng, chỉ có một niệm từ bi bình đẳng khởi lên, chỉ thấy có một sinh vật đang sắp chết vì đói, và chàng hồn nhiên đem ngay món thực phẩm đang có trong tay để cứu nó, không tính toán, không phân biệt rằng "cúng Phật được phước hơn", hoặc "con chó là loài vật", vân vân. Như thế là Bố Thí Ba La Mật, bố thí trong tinh thần hoàn toàn trong sạch, không thấy có người cho, người nhận, giá trị của vật đem cho, mà chỉ có một tấm lòng trắc ẩn nguyên sơ, làm một việc vì cần phải làm, không so đo, tính toán, không làm vì hiếu danh, không làm để kể công, kể ơn.
Trong cái xã hội Bà La Môn phân chia giai cấp một cách vô cùng khắc nghiệt, giai cấp hạ lưu chỉ đụng tay vào giai cấp thượng lưu cũng đủ để bị tội chặt tay, thì một quan điểm bình đẳng rốt ráo, bình đẳng không chỉ giữa người với người, mà trên bình diện chúng sinh như thế của nhà Phật, phải nói là đức Phật đã làm một cuộc đại cách mạng. Ngay đến thế kỷ thứ hai mươi mốt này, tại nhiều quốc gia trên thế giới, người ta vẫn còn đang phải chật vật tranh đấu để giành quyền bình đẳng giữa nam nữ, giữa các mầu da, vân vân, thì đức Phật, cách nay hai ngàn năm trăm năm, đã tuyên bố : " Không có sự khác biệt giữa những giọt nước mắt cùng mặn và những giọt máu cùng đỏ", cao thượng thay lời nói của bậc Đại Giác!
Cũng trong tinh thần tôn trọng sinh mạng này, Đức Phật chế giới tu sĩ không được chặt cây, đào đất, vì làm như vậy có thể giết hại các loài vi sinh vật. Sở dĩ có thể thi hành giới này vì vào thời Phật còn tại thế ở Ấn Độ, tăng sĩ ôm bình bát đi khất thực hằng ngày, không cần phải trồng trọt để mưu sinh.
Lòng từ bi bình đẳng của Đức Phật bao quát tất cả mọi dạng sống trên trái đất, dù là lớn hay nhỏ, mắt thấy được hay không thấy được, như đã nói trong Kinh Từ Bi :
"Nguyện cho mọi người và mọi loài đươc sống trong an toàn và hạnh phúc, tâm tư hiền hậu và thảnh thơi.
Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho kẻ khác bị đau khổ và khốn đốn.”
Đạo Phật được ví như một con đại bàng mà Trí Tuệ và Từ Bi là hai cánh. Nhờ có Trí Tuệ, chúng ta mới tỉnh cơn mê. Nhưng đồng thời, trên bước đường tu tập, chúng ta phải trải rộng Tâm Từ để tránh đau khổ cho chúng sinh, hơn thế nữa, để giúp chúng sinh, cùng chúng sinh tiến bước theo dấu chân Đức Phật, đó là chúng ta đang hành Bồ tát Đạo.
Để tỏ lòng tôn kính thâm sâu của mình đối với Đức Phật, Sri Radhakrishnan viết:
"Nơi Đức Phật Gotama (Cồ Đàm) ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người phương Đông. Ảnh hưởng của Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu, cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ thống tôn giáo vô cùng cao thâm huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí bởi vì, đứng về phương diện trí thức, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử".
Trong quyển "Three Greatest Men in History", học giả H. G. Wells ghi nhận như sau:
"Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản dị có tâm đạo nhiệt thành, một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống, một con người như mọi người chớ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong nhiều truyền thuyết hoang đường. Ngài cũng ban bố cho nhân loại những lời kêu gọi có tính cách phổ thông. Bao nhiêu quan niệm của thế hệ tân thời đều tương hợp với giáo lý ấy. Đức Phật dạy rằng tất cả những gian lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do lòng ích kỷ sinh ra. Trước khi có thể trở nên tĩnh lặng, con người cần phải tự chế trước những đòi hỏi của giác quan. Rồi từ đó, vượt lên trên tất cả mọi người, Ngài sống cuộc đời siêu nhiên. Năm trăm năm trước Chúa Christ, xuyên qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, Phật Giáo đã kêu gọi con người nên tự quên mình. "
Ngày nay hơn 25 thế kỷ đã trôi qua, lời dạy của đấng Bổn Sư Thế Tôn vẫn còn vang vọng đâu đây. Chúng ta những người con Phật mà không có may mắn được gặp Ngài, được nghe những lời giáo huấn từ kim khẩu Ngài, đành chỉ còn biết ngậm ngùi theo với lời than thở của cổ nhân:
Phật tại thế thời ngã trầm luân
Kim đắc nhân thân Phật diệt độ
Áo não tự thân đa nghiệp chướng
Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
Tạm dịch:
Vào thời Phật tại thế gian
Thì ta nghiệp nặng lang thang luân hồi
Nay ta có được thân người
Tiếc thay Phật đã về nơi Niết bàn
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen
www.thuvienhoasen.org