titanic
07-12-2007, 05:46 PM
Thiền sư Thích Nhất Hạnh
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d3/Thich_Nhat_Hanh.jpg/200px-Thich_Nhat_Hanh.jpg (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh:Thich_Nhat_Hanh.jpg)
Thích Nhất Hạnh là một thiền sư người Việt. Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế vào ngày 11 tháng 10 năm 1926, xuất gia theo thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Pháp hiệu "Thích" được sử dụng bởi các nhà sư Việt Nam, nghĩa là họ là một phần của dòng tu Shakya (Shakyamuni).
Ông đưa ra cụm từ "Engaged Buddhism" trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire của ông.
Vào thập niên 1960, ông thành lập Trường Tuổi trẻ Hoạt động xã hội (School of Youth for Social Services - SYSS) ở Sài Gòn, một tổ chức từ thiện xây dựng lại các làng bị bỏ bom, xây dựng trường học và các trạm xá, và giúp các gia đình bị trở thành vô gia cư trong Chiến tranh Việt Nam. Ông đã đến Hoa Kỳ nhiều lần để tu học và sau này giảng dạy tại Đại học Columbia, và cho các cuộc vận động vì hòa bình. Ông kêu gọi Martin Luther King, Jr. công khai chống lại Chiến tranh Việt Nam, và thuyết giảng với nhiều người và nhiều nhóm về hòa bình. Vào năm 1967, King giới thiệu ông cho Giải Nobel về Hòa bình. Nhất Hạnh dẫn đầu phái đoàn Phật giáo đến Đàm phán hòa bình Paris. Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và các phương pháp thực hành của Thích Nhất Hạnh thu hút nhiều người đến từ các quan điểm về tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông đưa ra cách thực hành về sự lưu tâm đúng đắn (mindfulness) thường phù hợp với các giá trị tri giác phương Tây.
Ông lập ra Order of Interbeing vào năm 1966, và thiết lập các trung tâm thực hành và các thiền viện khắp trên thế giới. Nơi cư ngụ của ông là Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne thuộc miền nam nước Pháp. Ông du hành khắp thế giới thuyết giảng và tổ chức các khóa tu thiền. Không được phép quay về Việt Nam trong nhiều năm. Năm 2005, ông được về nước và được nhà nước CHXHCN Việt Nam tiếp đón chân tình. Ông cũng xuất bản các bài giảng trong các tạp chí của Order of Interbeing, tạp chí Mindfulness Bell. Nhất Hạnh vẫn tiếp tục các hoạt động vận động vì hòa bình. Ông đã tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước đang tham chiến hãy đình chiến và đi tìm các giải pháp bất bạo động cho các mâu thuẫn của họ; và tổ chức diễu hành hòa bình ở Los Angeles vào năm 2005 được tham dự bởi hàng ngàn người.Ông đã xuất bản trên 100 cuốn sách.
Tiểu sử
Thiền sư Thích Nhất Hạnh được sinh ra với tên húy là Nguyễn Xuân Bảo ở Thừa Thiên-Huế vào năm 1926. Vào năm 16 tuổi ông xuất gia ở chùa Từ Hiếu, nơi ông thọ giáo với thiền sư Thanh Quý Chân Thật. Tốt nghiệp Viện Phật học Bảo Quốc ở miền Trung Việt Nam,Thích Nhất Hạnh tu học thiền theo trường phái Đại thừa của Phật giáo và chính thức trở thành một nhà sư vào năm 1949. Thích Nhất Hạnh bây giờ được công nhận như là một Dharmacharya và như là một lãnh đạo về mặt tôn giáo của chùa Từ Hiếu và các chùa liên quan khác. Ông là tổ của nhánh Từ Hiếu đời thứ 8 của dòng Liễu Quán trong đời thứ 42 của phái thiền Lâm Tế Dhyana (Lin Chi Chan 臨濟禪, hay Rinzai Zen trong tiếng Nhật).Vào ngày 1 tháng 5 năm 1966 tại chùa Từ Hiếu, Thích Nhất Hạnh tiếp nhận y bát, để làm ông trở thành một Dharmacharya (Thầy dạy về Phật pháp), từ Thiền sư Chân Thật.Thích Nhất Hạnh đã phối hợp kiến thức của ông về nhiều trường phái thiền truyền thống khác nhau với các phương pháp từ Thượng tọa bộ {Theravada} và ý tưởng từ tâm lý học phương Tây để tạo thành cách tiếp cận hiện đại của ông đối với thiền. Thích Nhất Hạnh đã trở thành một người có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của Phật giáo phương Tây.
Vào năm 1956 ông là Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Trong những năm tháng sau đó ông thành lập Nhà xuất bản Lá Bối, trường Đại học phật giáo Vạn Hạnh ở Sài Gòn, và trường Thanh niên hoạt động xã hội, một nhóm tình nguyện viên Phật giáo hoạt động vì hòa bình đi vào những khu ngoại ô để thiết lập lại các trường học, xây dựng các trạm xá, và giúp đỡ xây dựng lại làng xóm.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam
Trường Đại học phật giáo Vạn Hạnh trở thành một đại học tư danh tiếng, tập trung các nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Thầy Nhất Hạnh dạy giáo lý phật giáo và prajnaparamita. Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4 năm 1965, đoàn sinh viên trường Vạn Hạnh đưa ra thông điệp "lời kêu gọi vì hoà bình". Nội dung chính của lời kêu gọi là "đã đền lúc hai miền Bắc - Nam của Việt Nam họp lại để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho mọi người Việt Nam cuộc sống hoà bình với lòng tôn trọng lẫn nhau". Không lâu sau đó, trong khi Thầy Thích Nhất Hạnh đi Mỹ, trường Đại học Nhất Hạnh được điều hành bởi một thầy tăng có trong lòng tư tưởng li khai khỏi Thích Nhất Hạnh và SYSS, tên là ni cô Chân Không, người được giao quyền điều hành tổ chức. Từ lúc đó, SYSS cố gắng kêu gọi tiền của và những thành viên của nó phải chịu những cuộc tấn công, nhiều nguời bị đe doạ, làm phiền và ám sát.
Trở về Việt Nam
Từ 12 tháng 1 đến 11 tháng 4 năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh quay về Việt Nam sau một loạt các thương lượng cho phép ông thuyết giảng, một số sách của ông được xuất bản bằng tiếng Việt, và cho phép 100 tăng ni và 90 thành viên khác của dòng tu theo ông đi khắp đất nước, bao gồm cả chuyến quay về ngôi chùa ông xuất gia, chùa Từ Hiếu ở Huế.
Năm 2007, Thầy lại cùng phái đoàn Phật giáo quốc tế thuộc tăng thân Làng Mai trở về Việt Nam với lịch trình từ ngày 20 tháng 2 (mùng 4 tết âm lịch) đến ngày 9 tháng 5, mục đích tổ chức các khóa tu, buổi pháp thoại, gặp gỡ các tăng ni phật tử ba miền. Đầu năm 2007, với "sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam", Thầy tổ chức ba trai đàn chẩn tế thật lớn tại ba miền Việt Nam gọi là "Đại trai đàn Chẩn tế Giải oan" cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh, dù đã qua đời hay còn tại thế, không phân biệt tôn giáo, chính trị, chủng tộc.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/d/d3/Thich_Nhat_Hanh.jpg/200px-Thich_Nhat_Hanh.jpg (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh:Thich_Nhat_Hanh.jpg)
Thích Nhất Hạnh là một thiền sư người Việt. Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế vào ngày 11 tháng 10 năm 1926, xuất gia theo thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Pháp hiệu "Thích" được sử dụng bởi các nhà sư Việt Nam, nghĩa là họ là một phần của dòng tu Shakya (Shakyamuni).
Ông đưa ra cụm từ "Engaged Buddhism" trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire của ông.
Vào thập niên 1960, ông thành lập Trường Tuổi trẻ Hoạt động xã hội (School of Youth for Social Services - SYSS) ở Sài Gòn, một tổ chức từ thiện xây dựng lại các làng bị bỏ bom, xây dựng trường học và các trạm xá, và giúp các gia đình bị trở thành vô gia cư trong Chiến tranh Việt Nam. Ông đã đến Hoa Kỳ nhiều lần để tu học và sau này giảng dạy tại Đại học Columbia, và cho các cuộc vận động vì hòa bình. Ông kêu gọi Martin Luther King, Jr. công khai chống lại Chiến tranh Việt Nam, và thuyết giảng với nhiều người và nhiều nhóm về hòa bình. Vào năm 1967, King giới thiệu ông cho Giải Nobel về Hòa bình. Nhất Hạnh dẫn đầu phái đoàn Phật giáo đến Đàm phán hòa bình Paris. Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và các phương pháp thực hành của Thích Nhất Hạnh thu hút nhiều người đến từ các quan điểm về tôn giáo, tâm linh và chính trị khác nhau. Ông đưa ra cách thực hành về sự lưu tâm đúng đắn (mindfulness) thường phù hợp với các giá trị tri giác phương Tây.
Ông lập ra Order of Interbeing vào năm 1966, và thiết lập các trung tâm thực hành và các thiền viện khắp trên thế giới. Nơi cư ngụ của ông là Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne thuộc miền nam nước Pháp. Ông du hành khắp thế giới thuyết giảng và tổ chức các khóa tu thiền. Không được phép quay về Việt Nam trong nhiều năm. Năm 2005, ông được về nước và được nhà nước CHXHCN Việt Nam tiếp đón chân tình. Ông cũng xuất bản các bài giảng trong các tạp chí của Order of Interbeing, tạp chí Mindfulness Bell. Nhất Hạnh vẫn tiếp tục các hoạt động vận động vì hòa bình. Ông đã tổ chức các khóa tu thiền cho người Israel và người Palestine, khuyến khích họ lắng nghe và học hỏi lẫn nhau; thuyết giảng kêu gọi các nước đang tham chiến hãy đình chiến và đi tìm các giải pháp bất bạo động cho các mâu thuẫn của họ; và tổ chức diễu hành hòa bình ở Los Angeles vào năm 2005 được tham dự bởi hàng ngàn người.Ông đã xuất bản trên 100 cuốn sách.
Tiểu sử
Thiền sư Thích Nhất Hạnh được sinh ra với tên húy là Nguyễn Xuân Bảo ở Thừa Thiên-Huế vào năm 1926. Vào năm 16 tuổi ông xuất gia ở chùa Từ Hiếu, nơi ông thọ giáo với thiền sư Thanh Quý Chân Thật. Tốt nghiệp Viện Phật học Bảo Quốc ở miền Trung Việt Nam,Thích Nhất Hạnh tu học thiền theo trường phái Đại thừa của Phật giáo và chính thức trở thành một nhà sư vào năm 1949. Thích Nhất Hạnh bây giờ được công nhận như là một Dharmacharya và như là một lãnh đạo về mặt tôn giáo của chùa Từ Hiếu và các chùa liên quan khác. Ông là tổ của nhánh Từ Hiếu đời thứ 8 của dòng Liễu Quán trong đời thứ 42 của phái thiền Lâm Tế Dhyana (Lin Chi Chan 臨濟禪, hay Rinzai Zen trong tiếng Nhật).Vào ngày 1 tháng 5 năm 1966 tại chùa Từ Hiếu, Thích Nhất Hạnh tiếp nhận y bát, để làm ông trở thành một Dharmacharya (Thầy dạy về Phật pháp), từ Thiền sư Chân Thật.Thích Nhất Hạnh đã phối hợp kiến thức của ông về nhiều trường phái thiền truyền thống khác nhau với các phương pháp từ Thượng tọa bộ {Theravada} và ý tưởng từ tâm lý học phương Tây để tạo thành cách tiếp cận hiện đại của ông đối với thiền. Thích Nhất Hạnh đã trở thành một người có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của Phật giáo phương Tây.
Vào năm 1956 ông là Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Trong những năm tháng sau đó ông thành lập Nhà xuất bản Lá Bối, trường Đại học phật giáo Vạn Hạnh ở Sài Gòn, và trường Thanh niên hoạt động xã hội, một nhóm tình nguyện viên Phật giáo hoạt động vì hòa bình đi vào những khu ngoại ô để thiết lập lại các trường học, xây dựng các trạm xá, và giúp đỡ xây dựng lại làng xóm.
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam
Trường Đại học phật giáo Vạn Hạnh trở thành một đại học tư danh tiếng, tập trung các nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Thầy Nhất Hạnh dạy giáo lý phật giáo và prajnaparamita. Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4 năm 1965, đoàn sinh viên trường Vạn Hạnh đưa ra thông điệp "lời kêu gọi vì hoà bình". Nội dung chính của lời kêu gọi là "đã đền lúc hai miền Bắc - Nam của Việt Nam họp lại để tìm một giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho mọi người Việt Nam cuộc sống hoà bình với lòng tôn trọng lẫn nhau". Không lâu sau đó, trong khi Thầy Thích Nhất Hạnh đi Mỹ, trường Đại học Nhất Hạnh được điều hành bởi một thầy tăng có trong lòng tư tưởng li khai khỏi Thích Nhất Hạnh và SYSS, tên là ni cô Chân Không, người được giao quyền điều hành tổ chức. Từ lúc đó, SYSS cố gắng kêu gọi tiền của và những thành viên của nó phải chịu những cuộc tấn công, nhiều nguời bị đe doạ, làm phiền và ám sát.
Trở về Việt Nam
Từ 12 tháng 1 đến 11 tháng 4 năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh quay về Việt Nam sau một loạt các thương lượng cho phép ông thuyết giảng, một số sách của ông được xuất bản bằng tiếng Việt, và cho phép 100 tăng ni và 90 thành viên khác của dòng tu theo ông đi khắp đất nước, bao gồm cả chuyến quay về ngôi chùa ông xuất gia, chùa Từ Hiếu ở Huế.
Năm 2007, Thầy lại cùng phái đoàn Phật giáo quốc tế thuộc tăng thân Làng Mai trở về Việt Nam với lịch trình từ ngày 20 tháng 2 (mùng 4 tết âm lịch) đến ngày 9 tháng 5, mục đích tổ chức các khóa tu, buổi pháp thoại, gặp gỡ các tăng ni phật tử ba miền. Đầu năm 2007, với "sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam", Thầy tổ chức ba trai đàn chẩn tế thật lớn tại ba miền Việt Nam gọi là "Đại trai đàn Chẩn tế Giải oan" cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh, dù đã qua đời hay còn tại thế, không phân biệt tôn giáo, chính trị, chủng tộc.