anhhai
05-17-2005, 12:00 PM
Dharmachari Jñanavira
?ồng tính luyến ái trong truy?n thống Phật giáo Nhật Bản
talawas lược dịch
“Lạc thú cũng phải được h?c như bổn phận vậy? Ruth Benedict
Từ đầu lịch sử tới nay, tín ngưỡng bản địa Nhật Bản, đạo Shinto, đã giữ một ý thức hệ tích cực đối với tình dục, đặc biệt với vai trò của tình dục trong việc duy trì nòi giống. Tới tận bây gi? ngư?i ta vẫn có thể chứng kiến những ngày hội làng có những dương vật tạc bằng gỗ khổng lồ được đem ra kh?i điện th? và rước quanh ruộng đồng để cầu xin sự mầu mỡ. Khác với huy?n thoại trong ?ạo Thiên chúa, khi mà sự ý thức v? giới tính của con ngư?i cũng đánh dấu sự sa ngã của h?, dẫn đến việc h? bị đuổi kh?i Thiên đư?ng, thì trong thần thoại Nhật Bản, hai vị tổ thần của dân tộc Nhật, izanagi và izanami đã t? ra rất tò mò và thích thử nghiệm v? tình dục. Mặc dù đạo Shinto không có một hệ thống thần h?c và lý luận v? tình dục, nhưng khi bàn luận v? tình dục thì bao gi? cũng coi đó là một đi?u tốt, một “con đư?ng/đạo? (do) xuất phát từ tổ tiên.
Sự nhập môn của Phật giáo ở thế kỷ thứ bảy là thử thách đầu tiên đối với tín ngưỡng nguyên thủy của Nhật Bản. Chính vì để phân biệt với Phật giáo, hay "đạo của Phật", nên các tín ngưỡng bản địa đã được g?i là Shinto, hay "đạo của thần thánh?. Tất nhiên, ta không thể định nghĩa một cách nhìn duy nhất của Phật giáo đối với tình dục, bởi Phật giáo luôn biến đổi qua những văn hóa và th?i đại khác nhau, tiếp nhận và định nghĩa lại những yếu tố của những văn hoá mà nó du nhập vào. Tuy nhiên, cũng giống như trong Thiên chúa giáo, ngư?i ta có thể nêu ra một số đư?ng nét và đặc điểm chung đúng cho m?i th?i kỳ và có thể làm n?n tảng cho một sự tổng quát hoá. Trước hết, Phật giáo th?i kỳ đầu chia ra hai cách sống thích hợp cho ngư?i theo đạo: là tu sĩ và là cư sĩ. Tu sĩ không được phép sinh hoạt tình dục, còn cư sĩ thì tuân theo năm giới, trong đó giới thứ ba là không được tà dâm. Khác với sách xưng tội ở th?i kỳ Trung Cổ của Thiên chúa giáo, các văn bản Phật giáo không giải thích tỉ mỉ và rõ ràng thế nào là “đúng? và thế nào là “sai?. Cũng giống như trong những lĩnh vực khác, khoái lạc tình dục nên được giữ đúng mực. “Hành động đem lại khổ đau và sầu não trong tương lai là hành động không nên làm. Hành động đem lại ni?m vui và hạnh phúc là hành động nên làm? (Dhammapada). Thay vì gán cho một hành động bản chất tốt (punna) hay xấu (paapa), Phật giáo dùng mục đích của nó để đánh giá hành động ấy là khôn ngoan (kusala) hay không khôn ngoan (akusala). ?ánh giá một mục đích là khôn ngoan hay không không phải dựa vào một danh sách có sẵn của một vị Chúa Tr?i, mà dựa vào khả năng giảm đi hay tăng lên dục v?ng của nó. Trong Phật giáo, dục v?ng là một vấn đ?, không phải vì nó mang tính xấu, mà bởi vì nó tạo ra vướng mắc, và qua đó, khổ đau.
V? cơ bản Phật giáo không đ? cao việc duy trì nòi giống, bởi qua đó chúng sinh chỉ một lần nữa đầu thai vào thế giới trần tục (samsara) mà thôi. ?i?u này xung khắc với những văn hoá gốc của ?ông ?, những văn hoá mà, dưới ảnh hưởng của ?ạo Khổng, coi việc nối dõi tông đư?ng như một nghĩa vụ đối với tổ tiên. Nhưng, mặc dù Phật giáo không coi tr?ng việc duy trì nòi giống và chưa bao gi? đ? cập đến chủ đ? này một cách cụ thể, Phật giáo Mahayana đã sử dụng những hình tượng mạnh mẽ xung quanh hành động làm tình như một công cụ. Từ thế kỷ thứ năm, ở bắc Ấn ?ộ, nhi?u Phật phái đã sử dụng những hình ảnh tình dục để truy?n tải giáo lý, ví dụ như v? sự đồng nhất (non-differentiation) giữa samsara và nirvana (niết bàn). Những vị Phật và Bồ tát nam được diễn tả trong lúc đang giao hợp với partner nữ của mình. Tu sĩ và cư sĩ đôi khi vượt qua ranh giới của sự tượng trưng và đưa tình dục vào trong nghi lễ của mình. Nhưng cũng giống như những bài tập mang tính tình dục–yoga của ?ạo Giáo chỉ có mục đích kéo dài tuổi th?, những thực hành nói trên không dụng ý dẫn đến việc xuất tinh mà là để chuyển hóa năng lượng tình dục sang năng lượng tâm linh. Giáo phái Shingon của Phật giáo Nhật Bản, do Kuukai(774-835)sáng lập, đã xây dựng nên một dạng Tantra riêng của mình g?i là Tachikawa Ryu. Giáo phái này dậy rằng sự quên đi bản thân trong khi làm tình có thể dẫn đến giác ngộ. Quá trình phát triển này nói lên một khác nhau cơ bản giữa quan niệm v? tình dục của Phật giáo và của Thiên chúa giáo. LaFleur nhận xét: “Ở châu Âu có lẽ không có một đi?u gì tương tự như việc Phật giáo Nhật Bản sử dụng tình dục như một hình tượng tôn giáo, thậm chí coi chính nó như một hành vi tôn giáo?. ?i?u nổi bật là có một số xu hướng trong Phật giáo Nhật Bản coi tình dục như một chuyện tính cực, tách kh?i nhiệm vụ sinh sản của nó. Việc tách tình dục ra kh?i nhiệm vụ duy trì nòi giống đã cho phép tình dục trở thành một biểu tượng tôn giáo và được nâng lên kh?i phạm trù gia đình.
Ở Nhật Bản, ảnh hưởng của những hình tượng tình dục Tantric mô tả sự giao hợp giữa nam và nữ thực ra là không đáng kể. Quan tr?ng hơn là ảnh hưởng của những hình tượng cảm dục đồng giới và thậm chí tình dục đồng giới trong những tổ chức Phật giáo nam, nơi mà những chú tiểu đẹp được coi như hiện thân của nguyên tắc nữ giới. Việc ?ạo Phật cho phép thậm chí tu sĩ cũng có những sinh hoạt tình dục đồng tính được thể hiện rõ qua huy?n thoại nổi tiếng v? ngư?i sáng lập trư?ng phái Shingon, Kooboo Daishi (Kuukai), ngư?i đã nhập môn tình dục đồng giới vào Nhật sau khi đi tu h?c ở Trung Quốc v? vào đầu thế kỷ thứ chín. Huy?n thoại này nổi tiếng tới mức thậm chí Gaspar Vilela, một nhà du hành Bồ ?ào Nha cũng nghe đến. Ghi chép vào năm 1571, ông phàn nàn v? thói nghiện “kê gian? (sodomy) của những tu sĩ tại núi Hiei. Những ghi chép của những ngư?i truy?n đạo Jesuit chứa đầy những ca thán v? sự hiện diện khắp nơi của ham mê tình dục đồng tính trong chùa chi?n Nhật Bản. ?i?u làm những nhà truy?n đạo bực d?c là xem ra những thói quen này được chấp nhận rất rộng rãi. Cha cố Francis Cabral ghi lại trong một bức thư viết năm 1596 rằng “sự ghê tởm của da thịt? và những “thói quen ma quỷ? được “coi là danh giá tại Nhật Bản. Các ông bố có chỗ đứng trong xã hội giao phó con trai mình cho những vị sư để được dạy những việc như vậy và đồng th?i để thoả mãn dục v?ng của h?. Một cha cố Jesuit khác nhận xét rằng đi?u “ma quỷ này? lan truy?n “rộng rãi? tới mức ngư?i ta “không kinh lạ mà cũng chẳng sợ hãi?, và chỉ ra rằng tình dục đồng giới trong tu sĩ Phật giáo không phải là đi?u gì đặc biệt.
Những tu viện Phật giáo là những cộng đồng thuần v? giới tính và thư?ng hay ở nơi hẻo lánh và núi non. ?i?u này đã khuyến khích sự phát triển của một dạng dục cảm đồng giới nhất định liên quan tới những chú tiểu trẻ hay chigo. Những chú tiểu ít tuổi nhất, g?i là kasshiki, có thể chỉ năm tuổi và không cạo đầu mà để “tóc dài tới vai và rất đúng th?i trang?. Chúng trang điểm mặt bằng phấn và “mặc quần áo bằng tơ tằm mịn và vận đồ bên trong với nhi?u mầu sặc sỡ?. Colcut chỉ ra những vấn đ? trong những tu viện ở th?i Muromachi (1333-1568), bị gây ra bởi quan hệ tình dục với nam thiếu niên. “Sự có mặt của nhi?u trẻ em trong thi?n viện có thể ảnh hưởng nghiêm tr?ng tới mức độ kỷ luật?. Kết quả là “những thiếu niên đẹp và quyến rũ trở thành trung tâm của sự ngưỡng mộ trong những buổi lễ xa hoa. ?i?u này xa r?i sự tìm kiếm bản thể giản dị được dạy bởi các bậc Thi?n sư ngày xưa?. Những ngư?i phụ trách kỷ cương trong các thi?n viện vất vả trong vấn đ? này, hệt như tri?u đình Shogun không cấm được các nhà hát kabuki ăn mặc phô trương. Các đi?u luật ra đ?i hồi đó cấm sử dụng một số loại vải hay mầu sắc nhất định đ?u không mấy hiệu lực.
Môi trư?ng dục cảm đồng tính ở các nhà chùa thậm chí đã tạo ra hẳn một thể loại văn h?c, Chigo monogatari (chuyện chú tiểu), lấy tình yêu giữa chú tiểu và sư thầy làm đ? tài. Những quan hệ dục cảm đồng tính này bắt nguồn từ cấu trúc gia đình của cuộc sống tu viện. Một trong những đ? tài thông dụng của những tích này là chuyện một vị Phật, thư?ng là Kannon, Jizoo hay Monjuschiri, hoá thân thành một chú tiểu trẻ đẹp. Chú tiểu dùng sự quyến rũ cơ thể của mình để gần gũi một vị sư già và giúp vị sư đạt được giác ngộ. Trong tích Chigo Kannon engi ở thế kỷ thứ mu?i bốn, Kannon biến thành một chú tiểu và trở thành ngư?i tình của một nhà sư đang khao khát có một ngư?i bạn đồng hành trong tuổi già. Sau một số năm khăng khít, chú tiểu qua đ?i, để lại nhà sư già tuyệt v?ng. Lúc đó Kannon hiện ra, tiết lộ rằng mình chính là chú tiểu và giảng cho nhà sư v? tính phù vân của vạn vật.
Một số h?c giả cho rằng sự ngợi ca mang tính dục cảm đồng tính đối với những chú tiểu trẻ, quyến rũ cũng ảnh hưởng đến cách thể hiện những vị Bồ tát trong tranh và tượng. Dần dần Kannon, Monjuschiri, Jizoo, cũng như những nhân vật lịch sử khác như Kuukai và Shootoku Taishi (một hoàng tử được coi là đã đem ?ạo Phật vào nước Nhật) được thể hiện là những “vị thần thiếu niên?, phản ánh những chú tiểu trẻ và đẹp trong các chùa chi?n.
Phản ứng của Phật giáo Nhật Bản trước môi trư?ng dục cảm đồng tính nảy sinh khi tu sĩ và thanh thiếu niên sống chung nhau thật khác với phản ứng của Thiên chúa giáo trước những thể hiện dục cảm đồng tính trong môi trư?ng tu viện, coi đó còn tội lỗi hơn là loạn dâm và truy phạt hết sức khắc nghiệt. Cách nhìn thoáng của ?ạo Phật đối với tình dục, cũng như với những khía cạnh khác của bản chất con ngư?i, bắt nguồn từ quan niệm upaaya (các biện pháp khôn khéo). Upaaya không đánh giá bản thân các hành động, mà đánh giá mục đích và kết quả của chúng. Vì vậy, sự hấp dẫn tình dục, mặc dù trong th?i kỳ đầu của Phật giáo bị coi là không trong sạch, có thể được sử dụng như một công cụ để truy?n tải ?ạo. Qua đó tu sĩ, mặc dù không được phép quan hệ tình dục với phụ nữ, có thể biện minh (hoặc giải thích) được cho quan hệ của mình với thiếu niên là để tạo nên một gắn bó tâm linh sâu sắc và lâu dài.
Ngoài những chú tiểu đi tu để trở thành nhà sư, còn có nhi?u thiếu niên khác lui tới môi trư?ng tu viện, bởi tu viện cũng thư?ng được dùng là trư?ng h?c cho con cái của tầng lớp trên. “Những trẻ em này thư?ng được sư thầy yêu mến. Chúng mặc quần áo đẹp đẽ, tỉa lông mày và trang điểm như con gái. Chúng là ni?m tự hào của tu viện, và những đứa đẹp nhất và tài hoa nhất thì được khoe khắp trong vùng? (Frederic). Nhưng sự chiêm ngưỡng mang tính dục cảm đồng giới với một cậu bé h?c trò và việc cùng chăn gối với cậu là hai việc khác nhau. Vậy với mức độ nào thì cái không khí dục cảm đồng giới ở trong tu viện thực sự dẫn đến những hành động đồng tính luyến ái? Leupp dẫn ra một loạt những nguồn tư liệu văn h?c và nghệ thuật, chứng t? rằng quan hệ tình dục đồng tính giữa các sư và chú tiểu là rất phổ biến. ?ể dẫn chứng, ông trích một bản tuyên thệ với năm đi?u hứa của một tu sĩ 36 tuổi ở chùa Todaiji tại Nara, viết vào năm 1237:
?i?u: Tôi hứa sẽ tu tại chùa Kasaki tới khi 41 tuổi
?i?u: ?ã ngủ với 95 đàn ông rồi, tôi hứa sẽ không dâm dục với quá 100 ngư?i.
?i?u: Tôi sẽ không cặp kè với bất cứ cậu nào ngoài Ryou-Maru.
?i?u: Tôi sẽ không giữ con trai lớn tuổi trong giư?ng.
?i?u: Tôi sẽ không làm nenja (vai ngư?i lớn trong một quan hệ đồng tính luyến ái) cho bất cứ ai trong số con trai lớn và nhỡ tuổi.
?áng tiếc Leupp không chú giải bản tuyên thệ này dựa trên quan hệ với những bản tuyên thệ khác cũng được giữ trong chùa. Mặc dù đây có thể là một ngoại lệ (có 95 ngư?i bạn tình vào tuổi 36 thật không phải là ít, nhất là đối với một nhà sư), nhưng gi?ng văn của những l?i hứa rõ ràng là nhẹ nhàng chứ không cực đoan. Ví dụ, nhà sư cho phép mình có thêm 5 ngư?i tình nữa, đó là ngoài quan hệ vẫn được giữ với Ryuo-Maru. Nhà sư cũng ghi thêm là những l?i hứa này chỉ đúng cho kiếp này, chứ không áp dụng cho kiếp tới.
Một dẫn chứng khác là truyện tranh Chigo no sooshi, gồm một loạt năm truyện có minh hoạ, ra đ?i khoảng thế kỷ 14 và được giữ trong chùa Daigo-ji. Chuyện diễn giải và vẽ tỉ mỉ cảnh một chú tiểu trẻ đang được ngư?i phục vụ thoa phấn và kem trơn vào hậu môn để giúp đỡ vị trưởng chùa già làm tình. Tác giả bài viết này đã được xem một bản copy của cuộn tranh này tại Thư viện quốc gia Anh, và xem ra nó gần với những tưởng tượng dâm đãng hơn là miêu tả sự thật: có một lúc ngư?i giúp việc bị kích khích tới mức anh ta van xin chú tiểu cho phép mình làm tình trước, và chú tiểu đồng ý. ?i?u này không thực tế lắm, bởi trong xã hội Nhật thì sự phân biệt đẳng cấp và coi tr?ng tôn ti trật tự là rất lớn. Tuy nhiên, việc cuộn tranh này được giữ tại một ngôi chùa như một báu vật quốc gia (tôi khó hình dung Vatican có thể giữ một tác phẩm tương tự trong kho của mình) nói lên rằng trong ý thức hệ của phật tử Nhật Bản tình dục có một chỗ đứng khác với quan niệm của Thiên chúa giáo. Một ý thức hệ không đánh giá một hành động là “đúng? hay “sai? v? bản chất, mà dựa vào hoàn cảnh và mục đích của nó. Sự khác nhau v? văn hoá này được ghi chép lại qua nhi?u cuộc gặp gỡ giữa những ngư?i truy?n đạo Jesuit và những nhà sư Nhật, trong đó tu sĩ Nhật bị chỉ trích là có những tập tục “không thể diễn tả nổi?. ?ạo đức tình dục của xã hội Nhật ti?n hiện đại không đàn áp và lên án đồng tính luyến ái như ở châu Âu, nơi mà đồng tính luyến ái bị ma quỷ hoá và bị truy đuổi bởi Nhà th? bắt đầu từ th?i Aquinas.
Mặc dù việc săn đuổi sắc đẹp thiếu niên có thể là một trò tiêu khiển thông dụng của một số nhà sư Nhật th?i trung cổ, nhưng trong một số văn bản, tình yêu con trai đã được bàn tới trên phương diện siêu hình (metaphysical). Shin’yuuki hay “Ghi chép của những ngư?i bạn tâm huyết?, một văn bản Phật giáo của thế kỷ 17, đưa ra l?i giải thích siêu hình tư?ng tận nhất cho tình yêu nam nam. Bản văn được viết như một sách giáo lý, trong đó một sư thầy trả l?i câu h?i của một chú tiểu v? “đạo làm thiếu niên?. Trong đó, sắc đẹp của một thanh niên được coi là có một ý nghĩa siêu hình nếu như cậu bé đáp lại tình yêu do sắc đẹp của cậu mang lại ở một ngư?i lớn tuổi. Trong khi Thiên chúa giáo coi một quan hệ tình dục như vậy là mang tính quỷ Sa tăng, thì ở Nhật Bản th?i đó, việc một ngư?i đàn ông cao tuổi yêu một thiếu niên được coi là một gắn bó mang tính nghiệp chướng (karma) tốt cho cả hai ngư?i. ? niệm cơ bản ở đây là nasake, hay “đồng cảm?, một chữ quan tr?ng trong cả khái niệm đạo đức lẫn cái đẹp của Nhật Bản.
Nếu một thiếu niên cảm nhận được sự thành thực trong tình cảm của một ngư?i đàn ông cao tuổi hơn, và qua đồng cảm đáp lại tình cảm đó một cách không vụ lợi thì được coi là gương mẫu. Ngư?i thầy lý luận rằng thoả mãn dục v?ng là cần thiết cho đ?i sống tình cảm và việc chống lại tình cảm còn đem lại nhi?u vấn đ? hơn là nghe theo tình yêu của mình.
Tuy nhiên, ta cũng không nên quên rằng những quan hệ dục tính đồng giới được tác phẩm trên ca ngợi kia chỉ xẩy ra trong một tình huống rất cụ thể: giữa một nam giới lớn tuổi và một thiếu niên trong vòng mấy năm trước khi thiếu niên trưởng thành. Sau đó, quan hệ đó sẽ mất đi tính tình dục và trở thành một quan hệ tinh thần và được coi là sẽ kéo dài vượt qua cả ranh giới của kiếp hiện tại. ? nghĩa siêu hình của quan hệ này xuất phát từ ý thức của cả hai ngư?i v? sự giới hạn th?i gian của nó. Vẻ đẹp của tuổi trẻ chỉ kéo dài có vài năm và sẽ mất đi vĩnh viễn, vì vậy việc mong muốn thiết lập một quan hệ chỉ dựa trên sự hấp dẫn thể xác là vô ích. Nhưng vai trò của sự hấp dẫn thể xác trong việc làm khăng khít mối quan hệ hoàn toàn không bị phủ nhận, ngược lại, nó được coi là một đi?u hết sức tự nhiên. Faure có lý khi ông cho rằng quan hệ tình dục giữa sư và chú tiểu không chỉ giới hạn trong “làm tình?, mà còn đóng vai trò của một “đối thoại?. Phật giáo Nhật Bản là nơi tình yêu nam giới lộ diện rõ ràng nhất, là nơi nó đã trở thành một biểu tượng của ngư?i đàn ông lý tưởng (chứ không chỉ đơn giản là một mẫu hành động). ?i?u này rất gần với cái mà Foucault g?i là “kỹ thuật của bản thân? (technologies of the self), khi ông nói v? quan hệ đồng tính nam giữa già và trẻ ở th?i Hy Lạp cổ:
“?ó là những thực hành (practices) được suy nghĩ chín chắn và tự nguyện mà qua đó nam giới không những đặt cho mình luật ứng xử, mà còn phấn đấu chuyển đổi mình, thay đổi bản thân, và biến cuộc sống của mình thành một tác phẩm nghệ thuật [une oeuvre] mang những giá trị thẩm mỹ và đạt được những tiêu chuẩn v? phong cách nhất định?
V? mặt ý thức hệ và thẩm mỹ thì quan hệ giữa chú tiểu và nhà sư tuân theo những nguyên tắc nhất định, và không chỉ đơn thuần là quan hệ (đồng tính) luyến ái.
Nhi?u con trai của samurai được đào tạo trong các tu viện Phật giáo. Qua đó, mô hình tình bạn vượt thế hệ và mang tính chất tình dục của Phật giáo đã ảnh hưởng đến quan hệ nam nam trong môi trư?ng thuần giới của samurai. ?i?u này đặc biệt xảy ra vào th?i Tokugawa (1600-1857), khi phần lớn samurai tập trung ở những thành phố lớn như Edo (Tokio bây gi?), những nơi có ít phụ nữ. Có một mảng văn h?c rất lớn nói đến “giá trị đạo đức quan tr?ng của quan hệ tình dục nam nam của những samurai?. Những tuyển tập truyện ngắn như Nanshoku ookagami của Ihara Saikaku (“Tấm gương lớn của tình yêu nam giới?), tuyển tập thơ và truyện như Iwatsutsuji của Kitamura Kigin (“Hoa Azeleas dại?) và những sách đạo đức hướng dẫn sử sự trong tình yêu nam giới như Shin’yuuki (“Ghi chép của những ngư?i bạn tâm huyết?) hay Hagakure (“Dưới bóng lá?) vẽ nên một bức tranh cụ thể v? cách làm tình lý tưởng trong tình yêu nam giới th?i bấy gi?.
Tương tự như sự diễn tả truy?n thống của tình yêu nam nam trong chùa chi?n giữa một chú tiểu trẻ và thầy của mình, những bài văn trên lãng mạn hóa tình yêu giữa một wakashu trẻ (một thiếu niên trước khi tới lễ thành niên của mình, vẫn còn tóc trước trán) và một ngư?i tình già, nenja (nghĩa đen là ngư?i nhớ đến ngư?i tình của mình). Những thiếu niên thư?ng được miêu tả là đẹp, duyên dáng và quyến rũ, trong khi đó ngư?i tình cao tuổi thư?ng được thể hiện là giận dữ, trung thành và dũng cảm. Mặt tình dục của những quan hệ này không được chú tr?ng, mà những yếu tố giáo dục và dạy giỗ được đ? cao. Schalow viết “Những quan hệ này không phải chủ yếu là quan hệ tình dục, mà gồm cả những yếu tố giáo dục, chỗ dựa trong xã hội và hỗ trợ v? tinh thần. Hai ngư?i cùng th? tôn tr?ng lý tưởng samurai. Vị trí samurai được tăng sức mạnh nh? một quan hệ được lựa ch?n kỹ càng?. Tình yêu cùng giới giữa một samurai và một thiếu niên cũng giống như tình yêu giữa chú tiểu và sư thầy ở chỗ tình dục được coi là một pha ngắn trong một quan hệ tình bạn kéo dài cả cuộc đ?i (sự thương mến của hai ngư?i thư?ng được coi là số mệnh bắt nguồn từ duyên nợ của kiếp trước). Những quan hệ này không bị giấu diếm mà xảy ra công khai và phải tuân theo những quy ước nhất định.
Lịch sử của dục tính đồng giới trong Phật giáo Nhật Bản thú vị bởi nó chỉ ra rằng “giới tính? cũng như “tình dục? không phải là đặc điểm cố định của cơ thể sinh h?c. Hơn thế, sex và giới tính là những biến cố văn hóa phức tạp xảy ra với cơ thể, ngược lại với những thực tại “sinh h?c? phát sinh từ bên trong cơ thể. Nhà tâm lý h?c Nhật nổi tiếng Doi Takeo cho rằng sự khác biệt quan tr?ng nhất giữa xã hội phương Tây và xã hội Nhật Bản là ở xã hội phương Tây, quan hệ nam nữ là quan hệ được đánh giá cao nhất, trong khi đó Nhật Bản nhấn mạnh đến quan hệ nam nam cũng như nữ nữ. Ông cho rằng đàn ông phương Tây phải chứng minh rằng mình là đàn ông qua khả năng cặp đôi với phụ nữ. Trong khi đó, quan hệ với những đàn ông khác thư?ng đi kèm với sự cẩn thận và lo lắng bởi sự gần gũi thư?ng hay được coi là biểu hiện của đồng tính luyến ái. Chính đi?u này cản trở đàn ông phương Tây có những quan hệ sâu kín với ngư?i cùng giới. Doi cho rằng ở Nhật Bản “cảm giác đồng tính luyến ái? phát triển rộng rãi hơn. ?ồng tính luyến ái ở đây không hiểu theo nghĩa hẹp, mà theo nghĩa “khi gắn bó v? tình cảm giữa ngư?i cùng giới mạnh hơn là với ngư?i khác giới?. Sự gắn bó tình cảm mật thiết này ít khi xẩy ra giữa những ngư?i bạn bình đẳng, mà thư?ng mang tính cách mạnh/yếu, ví dụ giữa thầy và trò, giữa thành viên cao tuổi và thành viên trẻ tuổi của một tổ chức, thậm chí giữa bố và con trai hay mẹ và con gái.
Tôi thấy ý kiến của Doi thú vị bởi những ngư?i hoạt động trong phong trào giải phóng phụ nữ và những nhà lý thuyết v? giới ở phương Tây đ?u cho rằng “cái chết? của tình bạn nam nam trong lịch sử hiện đại và sự kỳ thị đồng tính luyến ái liên quan chặt chẽ với nhau. Doi cho rằng sự đ? cao quan hệ khác giới, và cái mà Ueno Chizuko, ngư?i đấu tranh cho bình đẳng phụ nữ Nhật, g?i là “văn hoá cặp đôi? của phương Tây hiện đại, đã dẫn đến vị trí chủ đạo của quan hệ hôn nhân và sự xuống dốc của những quan hệ cùng giới. Michel Foucault cũng cho rằng trong thế giới của chúng ta quan hệ giữa ngư?i với ngư?i đã “nghèo nàn? đi bởi sự quan tr?ng quá mức của quan hệ gia đình:
“Chúng ta sống trong một thế giới mà luật pháp, xã hội và hiến pháp làm cho những quan hệ của chúng ta trở nên rất ít ?i, rất nghèo nàn và rất đơn giản. Tất nhiên, chúng ta có những quan hệ cơ bản v? hôn nhân và gia đình, nhưng ngoài ra còn có biết bao nhiêu những quan hệ khác nữa có thể tồn tại…?.
Talawas lược dịch
?ồng tính luyến ái trong truy?n thống Phật giáo Nhật Bản
talawas lược dịch
“Lạc thú cũng phải được h?c như bổn phận vậy? Ruth Benedict
Từ đầu lịch sử tới nay, tín ngưỡng bản địa Nhật Bản, đạo Shinto, đã giữ một ý thức hệ tích cực đối với tình dục, đặc biệt với vai trò của tình dục trong việc duy trì nòi giống. Tới tận bây gi? ngư?i ta vẫn có thể chứng kiến những ngày hội làng có những dương vật tạc bằng gỗ khổng lồ được đem ra kh?i điện th? và rước quanh ruộng đồng để cầu xin sự mầu mỡ. Khác với huy?n thoại trong ?ạo Thiên chúa, khi mà sự ý thức v? giới tính của con ngư?i cũng đánh dấu sự sa ngã của h?, dẫn đến việc h? bị đuổi kh?i Thiên đư?ng, thì trong thần thoại Nhật Bản, hai vị tổ thần của dân tộc Nhật, izanagi và izanami đã t? ra rất tò mò và thích thử nghiệm v? tình dục. Mặc dù đạo Shinto không có một hệ thống thần h?c và lý luận v? tình dục, nhưng khi bàn luận v? tình dục thì bao gi? cũng coi đó là một đi?u tốt, một “con đư?ng/đạo? (do) xuất phát từ tổ tiên.
Sự nhập môn của Phật giáo ở thế kỷ thứ bảy là thử thách đầu tiên đối với tín ngưỡng nguyên thủy của Nhật Bản. Chính vì để phân biệt với Phật giáo, hay "đạo của Phật", nên các tín ngưỡng bản địa đã được g?i là Shinto, hay "đạo của thần thánh?. Tất nhiên, ta không thể định nghĩa một cách nhìn duy nhất của Phật giáo đối với tình dục, bởi Phật giáo luôn biến đổi qua những văn hóa và th?i đại khác nhau, tiếp nhận và định nghĩa lại những yếu tố của những văn hoá mà nó du nhập vào. Tuy nhiên, cũng giống như trong Thiên chúa giáo, ngư?i ta có thể nêu ra một số đư?ng nét và đặc điểm chung đúng cho m?i th?i kỳ và có thể làm n?n tảng cho một sự tổng quát hoá. Trước hết, Phật giáo th?i kỳ đầu chia ra hai cách sống thích hợp cho ngư?i theo đạo: là tu sĩ và là cư sĩ. Tu sĩ không được phép sinh hoạt tình dục, còn cư sĩ thì tuân theo năm giới, trong đó giới thứ ba là không được tà dâm. Khác với sách xưng tội ở th?i kỳ Trung Cổ của Thiên chúa giáo, các văn bản Phật giáo không giải thích tỉ mỉ và rõ ràng thế nào là “đúng? và thế nào là “sai?. Cũng giống như trong những lĩnh vực khác, khoái lạc tình dục nên được giữ đúng mực. “Hành động đem lại khổ đau và sầu não trong tương lai là hành động không nên làm. Hành động đem lại ni?m vui và hạnh phúc là hành động nên làm? (Dhammapada). Thay vì gán cho một hành động bản chất tốt (punna) hay xấu (paapa), Phật giáo dùng mục đích của nó để đánh giá hành động ấy là khôn ngoan (kusala) hay không khôn ngoan (akusala). ?ánh giá một mục đích là khôn ngoan hay không không phải dựa vào một danh sách có sẵn của một vị Chúa Tr?i, mà dựa vào khả năng giảm đi hay tăng lên dục v?ng của nó. Trong Phật giáo, dục v?ng là một vấn đ?, không phải vì nó mang tính xấu, mà bởi vì nó tạo ra vướng mắc, và qua đó, khổ đau.
V? cơ bản Phật giáo không đ? cao việc duy trì nòi giống, bởi qua đó chúng sinh chỉ một lần nữa đầu thai vào thế giới trần tục (samsara) mà thôi. ?i?u này xung khắc với những văn hoá gốc của ?ông ?, những văn hoá mà, dưới ảnh hưởng của ?ạo Khổng, coi việc nối dõi tông đư?ng như một nghĩa vụ đối với tổ tiên. Nhưng, mặc dù Phật giáo không coi tr?ng việc duy trì nòi giống và chưa bao gi? đ? cập đến chủ đ? này một cách cụ thể, Phật giáo Mahayana đã sử dụng những hình tượng mạnh mẽ xung quanh hành động làm tình như một công cụ. Từ thế kỷ thứ năm, ở bắc Ấn ?ộ, nhi?u Phật phái đã sử dụng những hình ảnh tình dục để truy?n tải giáo lý, ví dụ như v? sự đồng nhất (non-differentiation) giữa samsara và nirvana (niết bàn). Những vị Phật và Bồ tát nam được diễn tả trong lúc đang giao hợp với partner nữ của mình. Tu sĩ và cư sĩ đôi khi vượt qua ranh giới của sự tượng trưng và đưa tình dục vào trong nghi lễ của mình. Nhưng cũng giống như những bài tập mang tính tình dục–yoga của ?ạo Giáo chỉ có mục đích kéo dài tuổi th?, những thực hành nói trên không dụng ý dẫn đến việc xuất tinh mà là để chuyển hóa năng lượng tình dục sang năng lượng tâm linh. Giáo phái Shingon của Phật giáo Nhật Bản, do Kuukai(774-835)sáng lập, đã xây dựng nên một dạng Tantra riêng của mình g?i là Tachikawa Ryu. Giáo phái này dậy rằng sự quên đi bản thân trong khi làm tình có thể dẫn đến giác ngộ. Quá trình phát triển này nói lên một khác nhau cơ bản giữa quan niệm v? tình dục của Phật giáo và của Thiên chúa giáo. LaFleur nhận xét: “Ở châu Âu có lẽ không có một đi?u gì tương tự như việc Phật giáo Nhật Bản sử dụng tình dục như một hình tượng tôn giáo, thậm chí coi chính nó như một hành vi tôn giáo?. ?i?u nổi bật là có một số xu hướng trong Phật giáo Nhật Bản coi tình dục như một chuyện tính cực, tách kh?i nhiệm vụ sinh sản của nó. Việc tách tình dục ra kh?i nhiệm vụ duy trì nòi giống đã cho phép tình dục trở thành một biểu tượng tôn giáo và được nâng lên kh?i phạm trù gia đình.
Ở Nhật Bản, ảnh hưởng của những hình tượng tình dục Tantric mô tả sự giao hợp giữa nam và nữ thực ra là không đáng kể. Quan tr?ng hơn là ảnh hưởng của những hình tượng cảm dục đồng giới và thậm chí tình dục đồng giới trong những tổ chức Phật giáo nam, nơi mà những chú tiểu đẹp được coi như hiện thân của nguyên tắc nữ giới. Việc ?ạo Phật cho phép thậm chí tu sĩ cũng có những sinh hoạt tình dục đồng tính được thể hiện rõ qua huy?n thoại nổi tiếng v? ngư?i sáng lập trư?ng phái Shingon, Kooboo Daishi (Kuukai), ngư?i đã nhập môn tình dục đồng giới vào Nhật sau khi đi tu h?c ở Trung Quốc v? vào đầu thế kỷ thứ chín. Huy?n thoại này nổi tiếng tới mức thậm chí Gaspar Vilela, một nhà du hành Bồ ?ào Nha cũng nghe đến. Ghi chép vào năm 1571, ông phàn nàn v? thói nghiện “kê gian? (sodomy) của những tu sĩ tại núi Hiei. Những ghi chép của những ngư?i truy?n đạo Jesuit chứa đầy những ca thán v? sự hiện diện khắp nơi của ham mê tình dục đồng tính trong chùa chi?n Nhật Bản. ?i?u làm những nhà truy?n đạo bực d?c là xem ra những thói quen này được chấp nhận rất rộng rãi. Cha cố Francis Cabral ghi lại trong một bức thư viết năm 1596 rằng “sự ghê tởm của da thịt? và những “thói quen ma quỷ? được “coi là danh giá tại Nhật Bản. Các ông bố có chỗ đứng trong xã hội giao phó con trai mình cho những vị sư để được dạy những việc như vậy và đồng th?i để thoả mãn dục v?ng của h?. Một cha cố Jesuit khác nhận xét rằng đi?u “ma quỷ này? lan truy?n “rộng rãi? tới mức ngư?i ta “không kinh lạ mà cũng chẳng sợ hãi?, và chỉ ra rằng tình dục đồng giới trong tu sĩ Phật giáo không phải là đi?u gì đặc biệt.
Những tu viện Phật giáo là những cộng đồng thuần v? giới tính và thư?ng hay ở nơi hẻo lánh và núi non. ?i?u này đã khuyến khích sự phát triển của một dạng dục cảm đồng giới nhất định liên quan tới những chú tiểu trẻ hay chigo. Những chú tiểu ít tuổi nhất, g?i là kasshiki, có thể chỉ năm tuổi và không cạo đầu mà để “tóc dài tới vai và rất đúng th?i trang?. Chúng trang điểm mặt bằng phấn và “mặc quần áo bằng tơ tằm mịn và vận đồ bên trong với nhi?u mầu sặc sỡ?. Colcut chỉ ra những vấn đ? trong những tu viện ở th?i Muromachi (1333-1568), bị gây ra bởi quan hệ tình dục với nam thiếu niên. “Sự có mặt của nhi?u trẻ em trong thi?n viện có thể ảnh hưởng nghiêm tr?ng tới mức độ kỷ luật?. Kết quả là “những thiếu niên đẹp và quyến rũ trở thành trung tâm của sự ngưỡng mộ trong những buổi lễ xa hoa. ?i?u này xa r?i sự tìm kiếm bản thể giản dị được dạy bởi các bậc Thi?n sư ngày xưa?. Những ngư?i phụ trách kỷ cương trong các thi?n viện vất vả trong vấn đ? này, hệt như tri?u đình Shogun không cấm được các nhà hát kabuki ăn mặc phô trương. Các đi?u luật ra đ?i hồi đó cấm sử dụng một số loại vải hay mầu sắc nhất định đ?u không mấy hiệu lực.
Môi trư?ng dục cảm đồng tính ở các nhà chùa thậm chí đã tạo ra hẳn một thể loại văn h?c, Chigo monogatari (chuyện chú tiểu), lấy tình yêu giữa chú tiểu và sư thầy làm đ? tài. Những quan hệ dục cảm đồng tính này bắt nguồn từ cấu trúc gia đình của cuộc sống tu viện. Một trong những đ? tài thông dụng của những tích này là chuyện một vị Phật, thư?ng là Kannon, Jizoo hay Monjuschiri, hoá thân thành một chú tiểu trẻ đẹp. Chú tiểu dùng sự quyến rũ cơ thể của mình để gần gũi một vị sư già và giúp vị sư đạt được giác ngộ. Trong tích Chigo Kannon engi ở thế kỷ thứ mu?i bốn, Kannon biến thành một chú tiểu và trở thành ngư?i tình của một nhà sư đang khao khát có một ngư?i bạn đồng hành trong tuổi già. Sau một số năm khăng khít, chú tiểu qua đ?i, để lại nhà sư già tuyệt v?ng. Lúc đó Kannon hiện ra, tiết lộ rằng mình chính là chú tiểu và giảng cho nhà sư v? tính phù vân của vạn vật.
Một số h?c giả cho rằng sự ngợi ca mang tính dục cảm đồng tính đối với những chú tiểu trẻ, quyến rũ cũng ảnh hưởng đến cách thể hiện những vị Bồ tát trong tranh và tượng. Dần dần Kannon, Monjuschiri, Jizoo, cũng như những nhân vật lịch sử khác như Kuukai và Shootoku Taishi (một hoàng tử được coi là đã đem ?ạo Phật vào nước Nhật) được thể hiện là những “vị thần thiếu niên?, phản ánh những chú tiểu trẻ và đẹp trong các chùa chi?n.
Phản ứng của Phật giáo Nhật Bản trước môi trư?ng dục cảm đồng tính nảy sinh khi tu sĩ và thanh thiếu niên sống chung nhau thật khác với phản ứng của Thiên chúa giáo trước những thể hiện dục cảm đồng tính trong môi trư?ng tu viện, coi đó còn tội lỗi hơn là loạn dâm và truy phạt hết sức khắc nghiệt. Cách nhìn thoáng của ?ạo Phật đối với tình dục, cũng như với những khía cạnh khác của bản chất con ngư?i, bắt nguồn từ quan niệm upaaya (các biện pháp khôn khéo). Upaaya không đánh giá bản thân các hành động, mà đánh giá mục đích và kết quả của chúng. Vì vậy, sự hấp dẫn tình dục, mặc dù trong th?i kỳ đầu của Phật giáo bị coi là không trong sạch, có thể được sử dụng như một công cụ để truy?n tải ?ạo. Qua đó tu sĩ, mặc dù không được phép quan hệ tình dục với phụ nữ, có thể biện minh (hoặc giải thích) được cho quan hệ của mình với thiếu niên là để tạo nên một gắn bó tâm linh sâu sắc và lâu dài.
Ngoài những chú tiểu đi tu để trở thành nhà sư, còn có nhi?u thiếu niên khác lui tới môi trư?ng tu viện, bởi tu viện cũng thư?ng được dùng là trư?ng h?c cho con cái của tầng lớp trên. “Những trẻ em này thư?ng được sư thầy yêu mến. Chúng mặc quần áo đẹp đẽ, tỉa lông mày và trang điểm như con gái. Chúng là ni?m tự hào của tu viện, và những đứa đẹp nhất và tài hoa nhất thì được khoe khắp trong vùng? (Frederic). Nhưng sự chiêm ngưỡng mang tính dục cảm đồng giới với một cậu bé h?c trò và việc cùng chăn gối với cậu là hai việc khác nhau. Vậy với mức độ nào thì cái không khí dục cảm đồng giới ở trong tu viện thực sự dẫn đến những hành động đồng tính luyến ái? Leupp dẫn ra một loạt những nguồn tư liệu văn h?c và nghệ thuật, chứng t? rằng quan hệ tình dục đồng tính giữa các sư và chú tiểu là rất phổ biến. ?ể dẫn chứng, ông trích một bản tuyên thệ với năm đi?u hứa của một tu sĩ 36 tuổi ở chùa Todaiji tại Nara, viết vào năm 1237:
?i?u: Tôi hứa sẽ tu tại chùa Kasaki tới khi 41 tuổi
?i?u: ?ã ngủ với 95 đàn ông rồi, tôi hứa sẽ không dâm dục với quá 100 ngư?i.
?i?u: Tôi sẽ không cặp kè với bất cứ cậu nào ngoài Ryou-Maru.
?i?u: Tôi sẽ không giữ con trai lớn tuổi trong giư?ng.
?i?u: Tôi sẽ không làm nenja (vai ngư?i lớn trong một quan hệ đồng tính luyến ái) cho bất cứ ai trong số con trai lớn và nhỡ tuổi.
?áng tiếc Leupp không chú giải bản tuyên thệ này dựa trên quan hệ với những bản tuyên thệ khác cũng được giữ trong chùa. Mặc dù đây có thể là một ngoại lệ (có 95 ngư?i bạn tình vào tuổi 36 thật không phải là ít, nhất là đối với một nhà sư), nhưng gi?ng văn của những l?i hứa rõ ràng là nhẹ nhàng chứ không cực đoan. Ví dụ, nhà sư cho phép mình có thêm 5 ngư?i tình nữa, đó là ngoài quan hệ vẫn được giữ với Ryuo-Maru. Nhà sư cũng ghi thêm là những l?i hứa này chỉ đúng cho kiếp này, chứ không áp dụng cho kiếp tới.
Một dẫn chứng khác là truyện tranh Chigo no sooshi, gồm một loạt năm truyện có minh hoạ, ra đ?i khoảng thế kỷ 14 và được giữ trong chùa Daigo-ji. Chuyện diễn giải và vẽ tỉ mỉ cảnh một chú tiểu trẻ đang được ngư?i phục vụ thoa phấn và kem trơn vào hậu môn để giúp đỡ vị trưởng chùa già làm tình. Tác giả bài viết này đã được xem một bản copy của cuộn tranh này tại Thư viện quốc gia Anh, và xem ra nó gần với những tưởng tượng dâm đãng hơn là miêu tả sự thật: có một lúc ngư?i giúp việc bị kích khích tới mức anh ta van xin chú tiểu cho phép mình làm tình trước, và chú tiểu đồng ý. ?i?u này không thực tế lắm, bởi trong xã hội Nhật thì sự phân biệt đẳng cấp và coi tr?ng tôn ti trật tự là rất lớn. Tuy nhiên, việc cuộn tranh này được giữ tại một ngôi chùa như một báu vật quốc gia (tôi khó hình dung Vatican có thể giữ một tác phẩm tương tự trong kho của mình) nói lên rằng trong ý thức hệ của phật tử Nhật Bản tình dục có một chỗ đứng khác với quan niệm của Thiên chúa giáo. Một ý thức hệ không đánh giá một hành động là “đúng? hay “sai? v? bản chất, mà dựa vào hoàn cảnh và mục đích của nó. Sự khác nhau v? văn hoá này được ghi chép lại qua nhi?u cuộc gặp gỡ giữa những ngư?i truy?n đạo Jesuit và những nhà sư Nhật, trong đó tu sĩ Nhật bị chỉ trích là có những tập tục “không thể diễn tả nổi?. ?ạo đức tình dục của xã hội Nhật ti?n hiện đại không đàn áp và lên án đồng tính luyến ái như ở châu Âu, nơi mà đồng tính luyến ái bị ma quỷ hoá và bị truy đuổi bởi Nhà th? bắt đầu từ th?i Aquinas.
Mặc dù việc săn đuổi sắc đẹp thiếu niên có thể là một trò tiêu khiển thông dụng của một số nhà sư Nhật th?i trung cổ, nhưng trong một số văn bản, tình yêu con trai đã được bàn tới trên phương diện siêu hình (metaphysical). Shin’yuuki hay “Ghi chép của những ngư?i bạn tâm huyết?, một văn bản Phật giáo của thế kỷ 17, đưa ra l?i giải thích siêu hình tư?ng tận nhất cho tình yêu nam nam. Bản văn được viết như một sách giáo lý, trong đó một sư thầy trả l?i câu h?i của một chú tiểu v? “đạo làm thiếu niên?. Trong đó, sắc đẹp của một thanh niên được coi là có một ý nghĩa siêu hình nếu như cậu bé đáp lại tình yêu do sắc đẹp của cậu mang lại ở một ngư?i lớn tuổi. Trong khi Thiên chúa giáo coi một quan hệ tình dục như vậy là mang tính quỷ Sa tăng, thì ở Nhật Bản th?i đó, việc một ngư?i đàn ông cao tuổi yêu một thiếu niên được coi là một gắn bó mang tính nghiệp chướng (karma) tốt cho cả hai ngư?i. ? niệm cơ bản ở đây là nasake, hay “đồng cảm?, một chữ quan tr?ng trong cả khái niệm đạo đức lẫn cái đẹp của Nhật Bản.
Nếu một thiếu niên cảm nhận được sự thành thực trong tình cảm của một ngư?i đàn ông cao tuổi hơn, và qua đồng cảm đáp lại tình cảm đó một cách không vụ lợi thì được coi là gương mẫu. Ngư?i thầy lý luận rằng thoả mãn dục v?ng là cần thiết cho đ?i sống tình cảm và việc chống lại tình cảm còn đem lại nhi?u vấn đ? hơn là nghe theo tình yêu của mình.
Tuy nhiên, ta cũng không nên quên rằng những quan hệ dục tính đồng giới được tác phẩm trên ca ngợi kia chỉ xẩy ra trong một tình huống rất cụ thể: giữa một nam giới lớn tuổi và một thiếu niên trong vòng mấy năm trước khi thiếu niên trưởng thành. Sau đó, quan hệ đó sẽ mất đi tính tình dục và trở thành một quan hệ tinh thần và được coi là sẽ kéo dài vượt qua cả ranh giới của kiếp hiện tại. ? nghĩa siêu hình của quan hệ này xuất phát từ ý thức của cả hai ngư?i v? sự giới hạn th?i gian của nó. Vẻ đẹp của tuổi trẻ chỉ kéo dài có vài năm và sẽ mất đi vĩnh viễn, vì vậy việc mong muốn thiết lập một quan hệ chỉ dựa trên sự hấp dẫn thể xác là vô ích. Nhưng vai trò của sự hấp dẫn thể xác trong việc làm khăng khít mối quan hệ hoàn toàn không bị phủ nhận, ngược lại, nó được coi là một đi?u hết sức tự nhiên. Faure có lý khi ông cho rằng quan hệ tình dục giữa sư và chú tiểu không chỉ giới hạn trong “làm tình?, mà còn đóng vai trò của một “đối thoại?. Phật giáo Nhật Bản là nơi tình yêu nam giới lộ diện rõ ràng nhất, là nơi nó đã trở thành một biểu tượng của ngư?i đàn ông lý tưởng (chứ không chỉ đơn giản là một mẫu hành động). ?i?u này rất gần với cái mà Foucault g?i là “kỹ thuật của bản thân? (technologies of the self), khi ông nói v? quan hệ đồng tính nam giữa già và trẻ ở th?i Hy Lạp cổ:
“?ó là những thực hành (practices) được suy nghĩ chín chắn và tự nguyện mà qua đó nam giới không những đặt cho mình luật ứng xử, mà còn phấn đấu chuyển đổi mình, thay đổi bản thân, và biến cuộc sống của mình thành một tác phẩm nghệ thuật [une oeuvre] mang những giá trị thẩm mỹ và đạt được những tiêu chuẩn v? phong cách nhất định?
V? mặt ý thức hệ và thẩm mỹ thì quan hệ giữa chú tiểu và nhà sư tuân theo những nguyên tắc nhất định, và không chỉ đơn thuần là quan hệ (đồng tính) luyến ái.
Nhi?u con trai của samurai được đào tạo trong các tu viện Phật giáo. Qua đó, mô hình tình bạn vượt thế hệ và mang tính chất tình dục của Phật giáo đã ảnh hưởng đến quan hệ nam nam trong môi trư?ng thuần giới của samurai. ?i?u này đặc biệt xảy ra vào th?i Tokugawa (1600-1857), khi phần lớn samurai tập trung ở những thành phố lớn như Edo (Tokio bây gi?), những nơi có ít phụ nữ. Có một mảng văn h?c rất lớn nói đến “giá trị đạo đức quan tr?ng của quan hệ tình dục nam nam của những samurai?. Những tuyển tập truyện ngắn như Nanshoku ookagami của Ihara Saikaku (“Tấm gương lớn của tình yêu nam giới?), tuyển tập thơ và truyện như Iwatsutsuji của Kitamura Kigin (“Hoa Azeleas dại?) và những sách đạo đức hướng dẫn sử sự trong tình yêu nam giới như Shin’yuuki (“Ghi chép của những ngư?i bạn tâm huyết?) hay Hagakure (“Dưới bóng lá?) vẽ nên một bức tranh cụ thể v? cách làm tình lý tưởng trong tình yêu nam giới th?i bấy gi?.
Tương tự như sự diễn tả truy?n thống của tình yêu nam nam trong chùa chi?n giữa một chú tiểu trẻ và thầy của mình, những bài văn trên lãng mạn hóa tình yêu giữa một wakashu trẻ (một thiếu niên trước khi tới lễ thành niên của mình, vẫn còn tóc trước trán) và một ngư?i tình già, nenja (nghĩa đen là ngư?i nhớ đến ngư?i tình của mình). Những thiếu niên thư?ng được miêu tả là đẹp, duyên dáng và quyến rũ, trong khi đó ngư?i tình cao tuổi thư?ng được thể hiện là giận dữ, trung thành và dũng cảm. Mặt tình dục của những quan hệ này không được chú tr?ng, mà những yếu tố giáo dục và dạy giỗ được đ? cao. Schalow viết “Những quan hệ này không phải chủ yếu là quan hệ tình dục, mà gồm cả những yếu tố giáo dục, chỗ dựa trong xã hội và hỗ trợ v? tinh thần. Hai ngư?i cùng th? tôn tr?ng lý tưởng samurai. Vị trí samurai được tăng sức mạnh nh? một quan hệ được lựa ch?n kỹ càng?. Tình yêu cùng giới giữa một samurai và một thiếu niên cũng giống như tình yêu giữa chú tiểu và sư thầy ở chỗ tình dục được coi là một pha ngắn trong một quan hệ tình bạn kéo dài cả cuộc đ?i (sự thương mến của hai ngư?i thư?ng được coi là số mệnh bắt nguồn từ duyên nợ của kiếp trước). Những quan hệ này không bị giấu diếm mà xảy ra công khai và phải tuân theo những quy ước nhất định.
Lịch sử của dục tính đồng giới trong Phật giáo Nhật Bản thú vị bởi nó chỉ ra rằng “giới tính? cũng như “tình dục? không phải là đặc điểm cố định của cơ thể sinh h?c. Hơn thế, sex và giới tính là những biến cố văn hóa phức tạp xảy ra với cơ thể, ngược lại với những thực tại “sinh h?c? phát sinh từ bên trong cơ thể. Nhà tâm lý h?c Nhật nổi tiếng Doi Takeo cho rằng sự khác biệt quan tr?ng nhất giữa xã hội phương Tây và xã hội Nhật Bản là ở xã hội phương Tây, quan hệ nam nữ là quan hệ được đánh giá cao nhất, trong khi đó Nhật Bản nhấn mạnh đến quan hệ nam nam cũng như nữ nữ. Ông cho rằng đàn ông phương Tây phải chứng minh rằng mình là đàn ông qua khả năng cặp đôi với phụ nữ. Trong khi đó, quan hệ với những đàn ông khác thư?ng đi kèm với sự cẩn thận và lo lắng bởi sự gần gũi thư?ng hay được coi là biểu hiện của đồng tính luyến ái. Chính đi?u này cản trở đàn ông phương Tây có những quan hệ sâu kín với ngư?i cùng giới. Doi cho rằng ở Nhật Bản “cảm giác đồng tính luyến ái? phát triển rộng rãi hơn. ?ồng tính luyến ái ở đây không hiểu theo nghĩa hẹp, mà theo nghĩa “khi gắn bó v? tình cảm giữa ngư?i cùng giới mạnh hơn là với ngư?i khác giới?. Sự gắn bó tình cảm mật thiết này ít khi xẩy ra giữa những ngư?i bạn bình đẳng, mà thư?ng mang tính cách mạnh/yếu, ví dụ giữa thầy và trò, giữa thành viên cao tuổi và thành viên trẻ tuổi của một tổ chức, thậm chí giữa bố và con trai hay mẹ và con gái.
Tôi thấy ý kiến của Doi thú vị bởi những ngư?i hoạt động trong phong trào giải phóng phụ nữ và những nhà lý thuyết v? giới ở phương Tây đ?u cho rằng “cái chết? của tình bạn nam nam trong lịch sử hiện đại và sự kỳ thị đồng tính luyến ái liên quan chặt chẽ với nhau. Doi cho rằng sự đ? cao quan hệ khác giới, và cái mà Ueno Chizuko, ngư?i đấu tranh cho bình đẳng phụ nữ Nhật, g?i là “văn hoá cặp đôi? của phương Tây hiện đại, đã dẫn đến vị trí chủ đạo của quan hệ hôn nhân và sự xuống dốc của những quan hệ cùng giới. Michel Foucault cũng cho rằng trong thế giới của chúng ta quan hệ giữa ngư?i với ngư?i đã “nghèo nàn? đi bởi sự quan tr?ng quá mức của quan hệ gia đình:
“Chúng ta sống trong một thế giới mà luật pháp, xã hội và hiến pháp làm cho những quan hệ của chúng ta trở nên rất ít ?i, rất nghèo nàn và rất đơn giản. Tất nhiên, chúng ta có những quan hệ cơ bản v? hôn nhân và gia đình, nhưng ngoài ra còn có biết bao nhiêu những quan hệ khác nữa có thể tồn tại…?.
Talawas lược dịch