Dan Lee
12-11-2007, 05:05 PM
Mười truyện đơn sơ về Giáo Lý và Giáo Dục mỗi tuần (12)
(tuần 16-22 tháng 12 năm 2007)
111. Lạ thay cho sự trùng hợp!
Ông nghịch đạo khét tiếng Voltaire vung tay nói:
- “Ta không còn muốn nghe nói đến chuyện mười hai người làm bành trướng nước của ông Kitô. Một mình ta, ta sẽ tiêu diệt Giáo Hội.”
Và Voltaire nói tiên tri một cách huyênh hoang lúc năm 1758:
- “Còn hai mươi năm nữa, Giáo Hội sẽ bị tiêu diệt.”
Lạ thay cho sự trùng hợp! Hai mươi năm sau, năm 1778, nhà tiên tri nghịch đạo khét tiếng Voltaire chết. Còn Giáo Hội mà ông lên án thì sao? Vẫn còn cho đến nay, và vẫn còn cho đến tận thế!
112. Cuối cùng, phải thú nhận rằng mình nói sai.
Đại hoàng đế nước Pháp, Nã Phá Luân, ngạo nghễ nói:
- “Ta sẽ nghiền nát Giáo Hội.”
Nhưng cuối cùng, đại hoàng đế kiêu căng nầy phải thú nhận:
- “Trẫm đã xây dựng một nước trên gươm giáo và nước đó đã sụp đổ. Giêsu đã xây dựng nước ông trên tình yêu, và nước đó còn.”
113. Vợ vác chồng trên vai
Năm 1140, vua Corado III vây hãm thành Weinsberg.
Tức giận vì vây hãm quá lâu mà không chiếm được thành, vua ra lệnh khi nào chiếm được thành, sẽ giết sạch mọi người đàn ông, chỉ còn để lại đàn bà.
Khi chiếm được thành, vua ra lệnh thi hành quyết định. Các người đàn bà liền xin vua cho họ đem ra khỏi thành cái gì quý nhất. Vua bằng lòng.
Vua vô cùng bỡ ngỡ khi thấy các người đàn bà đi ra khỏi thành, vác chồng trên vai, tay thì ôm con, dắt con. Họ cho chồng là quý nhất nên mới vác trên vai. Vua cảm động và bằng lòng tha chết cho những người đàn ông.
114. Một bi kịch ba hồi, nhưng hồi thứ ba thì vui!
Hồi thứ nhất: Cuộc đời xem ra không có Chúa.
“Tao sống không tin có Chúa. Tao chết cũng không tin có Chúa”.
Đó là lời tuyên bố của một người thợ mộc ở vùng Seine et Marne, bên Pháp, năm 1860. Ông làm ăn phát đạt. Vợ con đầy đủ. Ông rất nghịch đạo, nghịch Giáo Hội, không tin có Chúa. Để ngạo mạn Giáo Hội, ngạo mạn Chúa, ông đóng cho mình một cái hòm thật đẹp. Ông tuyên bố với con cái:
- “Khi chết, tao muốn được bỏ trong cái hòm nầy. Tao sống không tin có Chúa. Tao cũng sẽ chết không tin có Chúa”.
Lúc nầy, ông 30 tuổi.
Hồi thứ hai: Cuộc đời mà không có Chúa, thì không thể sống nổi!
Năm 1880, ông thợ mộc nầy quá buồn: vợ con chết hết, tiền của hao hụt, gia đình neo đơn. Ông sống thui thủi một mình.
Không tin có Chúa, con người sẽ rơi vào cảnh buồn phiền thất vọng.
Không tin có Chúa, con người sẽ rơi vào sự ngu dốt của loài vật vì không chịu nhận nguyên tắc đầu tiên và thiết yếu của mọi khoa học: “Vô nguyên nhân, bất thành hiệu quả”.
Không tin có Chúa, con người chối bỏ linh hồn vô cùng cao quý của mình của mình.
Không tin có Chúa, con người chối bỏ lương tâm của mình, vì thế mặc sức sống tội lỗi, sống sa đọa, sống hối lộ, tham nhũng…
Lúc nầy, ông 50 tuổi.
Hồi thứ ba: Cuộc đời không thể nào không có Chúa!
Năm 1900, ông thợ mộc nầy già yếu, bệnh tật, buồn phiền, cô đơn. Ông cảm thấy cuộc đời quá cay đắng. Lúc nầy, ông mới mở mắt linh hồn ra và thấy rằng: Không có Chúa, cuộc đời thật là vô nghĩa. Và mặc dầu già yếu, tay run lẩy bẩy, ông vẫn đi kiếm gổ, đóng một cây Thánh Giá. Ông đi vào chổ cất hòm, đóng chặt cây Thánh Giá đó lên nắp hòm. Và từ đó, gặp bất cứ ai, ông vui vẻ phân phô:
- “Khi chết, tôi muốn được đưa vào Nhà Thờ: tôi muốn chết với Chúa”.
Lúc nầy, ông 70 tuổi.
Cuộc đời đã dạy cho ông thợ mộc nghịch đạo xưa kia, và cũng dạy cho tất cả chúng ta hiện nay, biết rằng: người ta không thể sống hạnh phúc mà không tin có Chúa.
115. Giấy để lại của bà vợ trước khi chết
Một tờ báo ở Pas de Calais, Pháp, đăng một câu chuyện rùng rợn sau đây.
Một người thợ máy, có vợ và ba con.
Chiều đó, ông vào quán rượu: ông cười nhạo Chúa. Ông khoe mình là kẻ đã thành công trong việc làm cho vợ ông bỏ đạo, không còn giữ đạo nữa.
Khi về nhà, thấy người ta đứng rất đông trước cửa, ông vôi rẻ đám đông để vào.
Một cảnh tượng rùng rợn: vợ và ba con ông đang nằm chết ngạt trên giường. Giấy để lại của bà vợ:
- “Bao lâu còn tin Chúa, tôi còn đủ sức mạnh để chịu đựng mọi sự cực khổ trong gia đình. Nhưng hiện giờ, chồng tôi là một tên lý hình. Ông đã bắt tôi bỏ Chúa nên tôi tuyệt vọng. Tôi không muốn con cái tôi cũng vô phước như tôi. Tôi đã cùng chúng nó tự tử.”
Ông chồng vô đạo và nghịch đạo nầy, rùng mình, há miệng, ngơ ngác. Ông thấy mình mất hết. Ông không còn đủ sức để cười nhạo như vừa rồi trong quán rượu nữa!
116. Lựa chọn trước cuộc đời
Hercule trở thành một thanh niên. Chàng đang lưỡng lự trước cuộc đời. Có hai thần nữ đến gặp chàng.
Thần nữ thứ nhất nói:
- “Hãy theo ta, ta sẽ dắt ngươi đi trên con đường rộng, dễ dãi, vui cười, thoả thích, ăn ngon, ngủ kỹ, sung sướng, vô lo.”
Hercule hỏi: “Ngươi là ai?”
- “Ta là thần Khoái Lạc. Kẻ thù của ta gọi ta là Nết Xấu.”
Thần nữ thứ hai - thần Nhân Đức – nói:
- “Hercule, hãy nghe ta. Tất cả những gì tốt đẹp, ngay chính, ngươi phải làm việc chuyên cần mới chiêm được. Ngươi muốn Tổ Quốc ghi ơn? hãy hy sinh vì Tổ Quốc. Ngươi muốn đất sinh nhiều hoa trái, hãy trồng tưới nó.”
Câu chuyện của Hy Lạp nầy dạy các bạn thanh niên hãy khôn ngoan lựa chon trước cuộc đời, như vậy, đới mới tốt đẹp, mới đáng sống!
117. Mỗi người trong chúng ta phải giữ nhiều con mãnh thú.
Chiều kia, cha bề trên hỏi một tu sĩ:
- “Hôm nay, con đã làm gì?”
Tu sĩ nầy liền thành thật trả lời:
- “Thưa cha bề trên, hôm nay, cũng như mọi ngày, con phải giữ hai con quạ, hai con chim sẻ, hai con nai, hai con diều hâu, một con cá sấu và một con gấu.”
Cha bề trên lắc đầu, le lưỡi:
- “Ai bắt con phải giữ mệt như vậy?”
Tu sĩ nầy đơn sơ cắt nghĩa:
- “Thưa cha bề trên, con giữ hai con quạ, nghĩa là con phải giữ hai con mắt để chúng khỏi nhìn những sự xấu. Con giữ hai con chim sẻ, nghĩa là con phải giữ hai lỗ tai để chúng khỏi nghe những lời bậy. Con giữ hai con nai, nghĩa là con phải giữ hai chân con để chúng khỏi đi đến những nơi bậy. Con giữ hai con diều hâu, nghĩa là con phải giữ hai tay để chúng khỏi làm bậy. Con giữ một con cá sấu, nghĩa là con phải giữ lưỡi con để khỏi nói lời vô ích, lỡìam bậy. Con giữ một con gấu, nghĩa là con phải giữ trái tim con để khỏi ích kỷ, yêu bậy, khoe khang.”
118. Tìm không ra sáu ni cô đồng trinh trong đế quốc La Mã
Để gìn giữ lửa thiêng trong đền thánh thờ các vị thần, chính quyền La Mã ngày xưa dùng sáu ni cô đồng trinh. Họ được ban rất nhiều ân huệ: họ đi đâu, các binh sĩ phải chào, các tướng lãnh phải nhường bước; toà án xử ai, họ xin tha thì toà án phải tha ngay; ai bị chính quyền phạt nặng đến đâu mặc lòng, họ xin tha cũng được. Thế mà trong toàn đế quốc La Mã hằng trăm triệu người, chính quyền không tìm ra được sáu người thanh nữ tình nguyện. Sau cùng, chính quyền La Mã phải dùng vũ lực mà bắt ép: những cô nầy đi đâu, đều bị canh phòng cẩn mật.
Để gìn giữ lửa thiêng của Nước Trời, Chúa Giêsu chọn những thanh niên thanh nữ đồng trinh. Ngài không ép: ai hiểu được thì hiểu, ai muốn đi theo Ngài thì đi. Thế mà có rất đông người đi theo Ngài: các linh mục, các nam nữ tu sĩ trong mọi nước và trên khắp thế giới.
119. Biết ơn Chúa tốt lành!
Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi đi với một người bạn tên là Massée. Trưa đứng bóng, hai người liền dừng lại, tìm đến ngồi dưới một gốc cây, cạnh một giòng suối. Họ lấy bánh mì cứng người ta mới cho, thấm nước cho mềm rồi ăn và uống nước suối.
Ăn xong, thánh Phanxicô Assisi chảy nước mắt. Massée lấy làm lạ vì không thấy cái gì ngon cả, chỉ có bánh và nước lạnh. Thánh Phanxicô Assisi cắt nghĩa:
- “Chúa tốt lành săn sóc chúng ta quá lạ lùng!Từ thuở đời đời, Chúa đã thấy trước một ngày kia, hai chúng ta sẽ đến đây khi mệt mỏi và đói khát. Ngài đã thương cho một cây mọc lên để cho ta có bóng mát. Ngài đã cho có một giòng suối chảy ngang qua đây. Nhờ vậy, chúng ta được nghỉ khoẻ. Chúng ta lại được ăn báh mà người ta đã cho chúng ta vì lòng yêu Chúa.”
120. Con đã biết Chúa rồi!
Một linh mục người Anh kể rằng:
Tôi là một linh mục người Anh. Ngày kia, có một người Ấn Độ nói với tôi: “Lạy Cha, trước khi cha dạy con tin có Chúa thì con đã biết có Chúa rồi.” Tôi bỡ ngỡ: “Làm cách nào mà con biết được? Cha tưởng cha là người đầu tiên nói với con về Chúa.” Người Ấn Độ nầy gật đầu: “Dạ, đúng thế, nhưng con đã biết có Chúa rồi! Số là lúc còn thiếu niên, ngày kia, con mang cung tên đi vào rừng săn. Hôm đó, trời mùa hè, con đến bên một bờ hồ. Xung quanh hồ, có nhiều cây đẹp. Những con vịt trời đang nô đùa trên mặt nước. Mặt trời đang chiếu sáng trên bầu trời không mây. Xa xa, các ngọn núi nổi lên từng bậc. Con nhìn ngắm. Con thích thú quá. Bỗng con tự hỏi: “Ai làm ra được những cái nầy? Không ai làm ra được. Phải có Đấng nào làm ra! Giờ đay, cha dạy con đọc kinh Tin Kính: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất”, con liền hiểu ngay. Vì thế, con nói: “Đó rồi, chính Ngài đó rồi. Tôi đã biết Ngài.”
Thật đúng như lời nhà bác học Diderot nói: “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần.”
LM. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
(tuần 16-22 tháng 12 năm 2007)
111. Lạ thay cho sự trùng hợp!
Ông nghịch đạo khét tiếng Voltaire vung tay nói:
- “Ta không còn muốn nghe nói đến chuyện mười hai người làm bành trướng nước của ông Kitô. Một mình ta, ta sẽ tiêu diệt Giáo Hội.”
Và Voltaire nói tiên tri một cách huyênh hoang lúc năm 1758:
- “Còn hai mươi năm nữa, Giáo Hội sẽ bị tiêu diệt.”
Lạ thay cho sự trùng hợp! Hai mươi năm sau, năm 1778, nhà tiên tri nghịch đạo khét tiếng Voltaire chết. Còn Giáo Hội mà ông lên án thì sao? Vẫn còn cho đến nay, và vẫn còn cho đến tận thế!
112. Cuối cùng, phải thú nhận rằng mình nói sai.
Đại hoàng đế nước Pháp, Nã Phá Luân, ngạo nghễ nói:
- “Ta sẽ nghiền nát Giáo Hội.”
Nhưng cuối cùng, đại hoàng đế kiêu căng nầy phải thú nhận:
- “Trẫm đã xây dựng một nước trên gươm giáo và nước đó đã sụp đổ. Giêsu đã xây dựng nước ông trên tình yêu, và nước đó còn.”
113. Vợ vác chồng trên vai
Năm 1140, vua Corado III vây hãm thành Weinsberg.
Tức giận vì vây hãm quá lâu mà không chiếm được thành, vua ra lệnh khi nào chiếm được thành, sẽ giết sạch mọi người đàn ông, chỉ còn để lại đàn bà.
Khi chiếm được thành, vua ra lệnh thi hành quyết định. Các người đàn bà liền xin vua cho họ đem ra khỏi thành cái gì quý nhất. Vua bằng lòng.
Vua vô cùng bỡ ngỡ khi thấy các người đàn bà đi ra khỏi thành, vác chồng trên vai, tay thì ôm con, dắt con. Họ cho chồng là quý nhất nên mới vác trên vai. Vua cảm động và bằng lòng tha chết cho những người đàn ông.
114. Một bi kịch ba hồi, nhưng hồi thứ ba thì vui!
Hồi thứ nhất: Cuộc đời xem ra không có Chúa.
“Tao sống không tin có Chúa. Tao chết cũng không tin có Chúa”.
Đó là lời tuyên bố của một người thợ mộc ở vùng Seine et Marne, bên Pháp, năm 1860. Ông làm ăn phát đạt. Vợ con đầy đủ. Ông rất nghịch đạo, nghịch Giáo Hội, không tin có Chúa. Để ngạo mạn Giáo Hội, ngạo mạn Chúa, ông đóng cho mình một cái hòm thật đẹp. Ông tuyên bố với con cái:
- “Khi chết, tao muốn được bỏ trong cái hòm nầy. Tao sống không tin có Chúa. Tao cũng sẽ chết không tin có Chúa”.
Lúc nầy, ông 30 tuổi.
Hồi thứ hai: Cuộc đời mà không có Chúa, thì không thể sống nổi!
Năm 1880, ông thợ mộc nầy quá buồn: vợ con chết hết, tiền của hao hụt, gia đình neo đơn. Ông sống thui thủi một mình.
Không tin có Chúa, con người sẽ rơi vào cảnh buồn phiền thất vọng.
Không tin có Chúa, con người sẽ rơi vào sự ngu dốt của loài vật vì không chịu nhận nguyên tắc đầu tiên và thiết yếu của mọi khoa học: “Vô nguyên nhân, bất thành hiệu quả”.
Không tin có Chúa, con người chối bỏ linh hồn vô cùng cao quý của mình của mình.
Không tin có Chúa, con người chối bỏ lương tâm của mình, vì thế mặc sức sống tội lỗi, sống sa đọa, sống hối lộ, tham nhũng…
Lúc nầy, ông 50 tuổi.
Hồi thứ ba: Cuộc đời không thể nào không có Chúa!
Năm 1900, ông thợ mộc nầy già yếu, bệnh tật, buồn phiền, cô đơn. Ông cảm thấy cuộc đời quá cay đắng. Lúc nầy, ông mới mở mắt linh hồn ra và thấy rằng: Không có Chúa, cuộc đời thật là vô nghĩa. Và mặc dầu già yếu, tay run lẩy bẩy, ông vẫn đi kiếm gổ, đóng một cây Thánh Giá. Ông đi vào chổ cất hòm, đóng chặt cây Thánh Giá đó lên nắp hòm. Và từ đó, gặp bất cứ ai, ông vui vẻ phân phô:
- “Khi chết, tôi muốn được đưa vào Nhà Thờ: tôi muốn chết với Chúa”.
Lúc nầy, ông 70 tuổi.
Cuộc đời đã dạy cho ông thợ mộc nghịch đạo xưa kia, và cũng dạy cho tất cả chúng ta hiện nay, biết rằng: người ta không thể sống hạnh phúc mà không tin có Chúa.
115. Giấy để lại của bà vợ trước khi chết
Một tờ báo ở Pas de Calais, Pháp, đăng một câu chuyện rùng rợn sau đây.
Một người thợ máy, có vợ và ba con.
Chiều đó, ông vào quán rượu: ông cười nhạo Chúa. Ông khoe mình là kẻ đã thành công trong việc làm cho vợ ông bỏ đạo, không còn giữ đạo nữa.
Khi về nhà, thấy người ta đứng rất đông trước cửa, ông vôi rẻ đám đông để vào.
Một cảnh tượng rùng rợn: vợ và ba con ông đang nằm chết ngạt trên giường. Giấy để lại của bà vợ:
- “Bao lâu còn tin Chúa, tôi còn đủ sức mạnh để chịu đựng mọi sự cực khổ trong gia đình. Nhưng hiện giờ, chồng tôi là một tên lý hình. Ông đã bắt tôi bỏ Chúa nên tôi tuyệt vọng. Tôi không muốn con cái tôi cũng vô phước như tôi. Tôi đã cùng chúng nó tự tử.”
Ông chồng vô đạo và nghịch đạo nầy, rùng mình, há miệng, ngơ ngác. Ông thấy mình mất hết. Ông không còn đủ sức để cười nhạo như vừa rồi trong quán rượu nữa!
116. Lựa chọn trước cuộc đời
Hercule trở thành một thanh niên. Chàng đang lưỡng lự trước cuộc đời. Có hai thần nữ đến gặp chàng.
Thần nữ thứ nhất nói:
- “Hãy theo ta, ta sẽ dắt ngươi đi trên con đường rộng, dễ dãi, vui cười, thoả thích, ăn ngon, ngủ kỹ, sung sướng, vô lo.”
Hercule hỏi: “Ngươi là ai?”
- “Ta là thần Khoái Lạc. Kẻ thù của ta gọi ta là Nết Xấu.”
Thần nữ thứ hai - thần Nhân Đức – nói:
- “Hercule, hãy nghe ta. Tất cả những gì tốt đẹp, ngay chính, ngươi phải làm việc chuyên cần mới chiêm được. Ngươi muốn Tổ Quốc ghi ơn? hãy hy sinh vì Tổ Quốc. Ngươi muốn đất sinh nhiều hoa trái, hãy trồng tưới nó.”
Câu chuyện của Hy Lạp nầy dạy các bạn thanh niên hãy khôn ngoan lựa chon trước cuộc đời, như vậy, đới mới tốt đẹp, mới đáng sống!
117. Mỗi người trong chúng ta phải giữ nhiều con mãnh thú.
Chiều kia, cha bề trên hỏi một tu sĩ:
- “Hôm nay, con đã làm gì?”
Tu sĩ nầy liền thành thật trả lời:
- “Thưa cha bề trên, hôm nay, cũng như mọi ngày, con phải giữ hai con quạ, hai con chim sẻ, hai con nai, hai con diều hâu, một con cá sấu và một con gấu.”
Cha bề trên lắc đầu, le lưỡi:
- “Ai bắt con phải giữ mệt như vậy?”
Tu sĩ nầy đơn sơ cắt nghĩa:
- “Thưa cha bề trên, con giữ hai con quạ, nghĩa là con phải giữ hai con mắt để chúng khỏi nhìn những sự xấu. Con giữ hai con chim sẻ, nghĩa là con phải giữ hai lỗ tai để chúng khỏi nghe những lời bậy. Con giữ hai con nai, nghĩa là con phải giữ hai chân con để chúng khỏi đi đến những nơi bậy. Con giữ hai con diều hâu, nghĩa là con phải giữ hai tay để chúng khỏi làm bậy. Con giữ một con cá sấu, nghĩa là con phải giữ lưỡi con để khỏi nói lời vô ích, lỡìam bậy. Con giữ một con gấu, nghĩa là con phải giữ trái tim con để khỏi ích kỷ, yêu bậy, khoe khang.”
118. Tìm không ra sáu ni cô đồng trinh trong đế quốc La Mã
Để gìn giữ lửa thiêng trong đền thánh thờ các vị thần, chính quyền La Mã ngày xưa dùng sáu ni cô đồng trinh. Họ được ban rất nhiều ân huệ: họ đi đâu, các binh sĩ phải chào, các tướng lãnh phải nhường bước; toà án xử ai, họ xin tha thì toà án phải tha ngay; ai bị chính quyền phạt nặng đến đâu mặc lòng, họ xin tha cũng được. Thế mà trong toàn đế quốc La Mã hằng trăm triệu người, chính quyền không tìm ra được sáu người thanh nữ tình nguyện. Sau cùng, chính quyền La Mã phải dùng vũ lực mà bắt ép: những cô nầy đi đâu, đều bị canh phòng cẩn mật.
Để gìn giữ lửa thiêng của Nước Trời, Chúa Giêsu chọn những thanh niên thanh nữ đồng trinh. Ngài không ép: ai hiểu được thì hiểu, ai muốn đi theo Ngài thì đi. Thế mà có rất đông người đi theo Ngài: các linh mục, các nam nữ tu sĩ trong mọi nước và trên khắp thế giới.
119. Biết ơn Chúa tốt lành!
Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi đi với một người bạn tên là Massée. Trưa đứng bóng, hai người liền dừng lại, tìm đến ngồi dưới một gốc cây, cạnh một giòng suối. Họ lấy bánh mì cứng người ta mới cho, thấm nước cho mềm rồi ăn và uống nước suối.
Ăn xong, thánh Phanxicô Assisi chảy nước mắt. Massée lấy làm lạ vì không thấy cái gì ngon cả, chỉ có bánh và nước lạnh. Thánh Phanxicô Assisi cắt nghĩa:
- “Chúa tốt lành săn sóc chúng ta quá lạ lùng!Từ thuở đời đời, Chúa đã thấy trước một ngày kia, hai chúng ta sẽ đến đây khi mệt mỏi và đói khát. Ngài đã thương cho một cây mọc lên để cho ta có bóng mát. Ngài đã cho có một giòng suối chảy ngang qua đây. Nhờ vậy, chúng ta được nghỉ khoẻ. Chúng ta lại được ăn báh mà người ta đã cho chúng ta vì lòng yêu Chúa.”
120. Con đã biết Chúa rồi!
Một linh mục người Anh kể rằng:
Tôi là một linh mục người Anh. Ngày kia, có một người Ấn Độ nói với tôi: “Lạy Cha, trước khi cha dạy con tin có Chúa thì con đã biết có Chúa rồi.” Tôi bỡ ngỡ: “Làm cách nào mà con biết được? Cha tưởng cha là người đầu tiên nói với con về Chúa.” Người Ấn Độ nầy gật đầu: “Dạ, đúng thế, nhưng con đã biết có Chúa rồi! Số là lúc còn thiếu niên, ngày kia, con mang cung tên đi vào rừng săn. Hôm đó, trời mùa hè, con đến bên một bờ hồ. Xung quanh hồ, có nhiều cây đẹp. Những con vịt trời đang nô đùa trên mặt nước. Mặt trời đang chiếu sáng trên bầu trời không mây. Xa xa, các ngọn núi nổi lên từng bậc. Con nhìn ngắm. Con thích thú quá. Bỗng con tự hỏi: “Ai làm ra được những cái nầy? Không ai làm ra được. Phải có Đấng nào làm ra! Giờ đay, cha dạy con đọc kinh Tin Kính: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất”, con liền hiểu ngay. Vì thế, con nói: “Đó rồi, chính Ngài đó rồi. Tôi đã biết Ngài.”
Thật đúng như lời nhà bác học Diderot nói: “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần.”
LM. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang