delta
12-23-2007, 12:31 PM
Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ
http://i214.photobucket.com/albums/cc72/delta38_1/PhamTheMy1.jpg
Phạm Thế Mỹ và Những Ngày Xưa Thân Ái”: Một Chương Trình đầy kỷ niệm, đầy dư âm và tình nghĩa Thầy-Trò.
Một buổi chiều Chủ Nhật cuối tuần ngày 9 tháng 4 năm 2006 vừa qua tại Trung Tâm Lạc Hồng thành phố Houston với gió nhẹ và bầu trời quang đãng, Chương Trình “Phạm Thế Mỹ va Những Ngày Xưa Thân Ái” đã diễn ra trong bầu không khí thân tình và đầy xúc động, với sự tham dự của hơn 450 đồng hương (theo Ban Giám đốc TT Lạc Hồng và A. Quảng Đức từ Virginia về tham dự) và một số khoảng 60-70 đồng hương đã ra về vì không còn chỗ đậu xe. Trong số quan khách có những người từng là bạn nghệ sĩ một thời với Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ năm xưa ở Sài Gòn như Nhạc sĩ lão thành Đan Thọ (với nhạc phẩm nổi tiếng “Chiều Tím”), Giáo Sư Doãn Quốc Sĩ, Nhạc sĩ Đăng khánh và chị Phương Hoa/ Giám đốc Đài VOVN 1110 (nơi mà người học trò của Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ là A. Sơn Huy/Nguyễn Ngọc Túy đang cộng tác cũng là Trưởng Ban Tổ Chức) đã dành mối ưu ái và ủng hộ cho chương trình Phạm Thế Mỹ từ ngày đầu tiên với tất cả lòng yêu mến dành cho một người nhạc sĩ kém may mắn vào lúc cuối đời. Anh chị Khuất Duy Trác (Ca sĩ Duy Trác), Bác Sĩ Nguyễn Đức Tuệ (Việt Nguyễn) cùng phu nhân BS. Nguyễn Thị Quỳnh Giao, BS. Mùi Quí Bồng, Anh Phạm Thông (báo Con Ong Texas), nhà văn Tạ Xuân Thạc, nhà thơ Ngu Yên, anh Quảng Đức (Nguyễn Bè) đến từ Virginia, đặc biệt các anh chị cựu SV/Viện Đại Học Vạn Hạnh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh… từ các nơi đến tham dự CT “PTM & NNXTA” tai Houston.
Chương trình được mở đầu với anh Đoàn Hữu Đức (Phó Chủ Tịch Hội Cựu SV/Viện Đại Học Vạn Hạnh) trong BTC giới thiệu toàn bộ chương trình của đêm “Phạm Thế Mỹ và Những Ngày Xưa Thân Ái”, nối tiếp anh Trần Trí (Chủ Tịch Cựu SV/Viện Đại học Đà Lạt) đã đọc bức Tâm Thư của Ban Tổ Chức và anh giới thiệu Trưởng Ban Tổ Chức của chương trình “Phạm Thế Mỹ và Những Ngày Xưa Thân Ái” là anh Sơn Huy/Đài VOVN 1110 AM Houston, cũng chính là Nguyễn Ngọc Túy, người học trò của Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ có đôi lời cảm tạ.
Anh Sơn Huy, một tiếng nói quen thuộc qua làn sóng 1110 AM của đài VOVN tại Houston, với giọng nói ấm áp chân thành đã cảm tạ tất cả cơ quan truyền thông báo chí cùng các bạn bè thân hữu xa gần cùng đồng hương đã yêu mến dòng nhạc của người Thầy của anh là Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ. Sơn Huy đã kể lại những kỷ niệm với nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, cùng lần thăm viếng mới đây nhất tại khu chung cư ở Khánh Hội, nơi nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đang sinh sống với một phía chân của ông đã bị liệt vì tai biến mạch máu não và giọng nói của ông không còn sang sảng như những lần dạy học trò hát năm xưa. Ông sống rất thanh bần và tự trọng, tuy nghèo nhưng không than vãn, đó chính là tư cách của một người thầy mà Sơn Huy hết lòng qúy mến và cũng chính điều đó, người học trò Sơn Huy/Nguyễn Ngọc Túy của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã xin Thầy cho phép để mạnh dạn đứng ra tổ chức chương trình “Phạm Thế Mỹ và Những Ngày Xưa Thân Ái” để mong giúp được ông trong lúc này còn hơn là đến khi ông nằm xuống rồi tổ chức những chương trình Vinh Danh. Anh Sơn Huy cũng bày tỏ là anh không có tham vọng tổ chức một chương trình Đại Nhạc Hội hay là Vinh Danh Vĩ Đại mà chỉ là một buổi chiều cùng nhau nghe lại những nhạc phẩm viết về thời chinh chiến cũ, quê hương và tình yêu của Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ, để ông thấy rằng dù ở nơi xa xôi nhưng học trò của Ông cũng như đồng hương vẫn không quên Ông, không quên những ca khúc Ông đã viết cho đời. Nhiều vị quan khách trong đó, những vị mái tóc đã bạc trắng âm thầm ngồi khóc theo lời kể của Sơn Huy. Xin cảm ơn tấm lòng và một bông hồng cho tình nghĩa Thầy - Trò theo đạo lý của dân tộc Việt Nam cho Sơn Huy.
Chương trình được điều hợp nhịp nhàng với 3 MC: Nhạc Sĩ Vĩnh Lạc/Đoàn Thế Ngữ (Đài VOVN 1110 AM, Houston), Bạch Hạc và Sơn Huy (VOVN). Nhạc sĩ Vĩnh Lạc với kiến thức uyên bác đã đưa người thưởng ngoạn về những nét nhạc tuyệt vời của Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ trong từng bài hát. Đặc biệt hơn hết, Nhạc Sĩ Vĩnh Lạc đã cho một cái nhìn rất mới, rất nghệ thuật qua tác phẩm “Đưa Em Về Quê Huơng” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ với bài “Vết Lăng Trầm” của Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn.
Các nhạc phẩm chọn lọc và lần lượt giới thiệu qua chương trình gồm có các ca khúc của Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ: “Đưa Em Về Quê Hương” với tiếng hát Ca Sĩ Hoàng Tường; “Nắng Lệ Xóm Nghèo”, tác phẩm đầu tay của Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ, được ông viết vào năm 1956, đã được Sơn Huy trân trọng giới thiệu cùng với kỷ niệm, đã được trình bày qua tiếng hát ca sĩ Vy Liên. Nối tiếp là một liên khúc gồm hai sáng tác rất nổi tiếng của Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ “Trăng Tàn Trên Hè Phố” và những “Ngày Xưa Thân Ái” được trình bày qua tiếng hát của ca nhạc sĩ Quốc Tuấn và Sơn Huy, vời tiếng hát trầm ấm, điêu luyện và chân tình đã gây xúc động sâu xa trong lòng người nghe, như mang về cho mỗi người một trời dĩ vãng đầy kỷ niệm.
Một nhạc phẩm nổi tiếng khác của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ được Sơn Huy kể lại hoàn cảnh ông đã viết nên ca khúc này là một năm rất xa xưa, khi Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ đang nằm trong một bệnh viện tại Sài Gòn để chữa bệnh (không nhớ năm và tên của bệnh viện) thì một người con gái vào thăm ông với màu Áo Lụa Vàng, cùng màu vàng của nắng trời Sài Gòn, người đó chính là ca sĩ Hà Thanh… Trong niềm cảm xúc đó ông đã viết nên nhạc phẩm “Áo Lụa Vàng” mà nhiều người vẫn nghĩ đây là một nhạc phẩm tiền chiến chứ không phải là một trong những sáng tác của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Và nhạc phẩm này đã được chuyển đến cho người nghe qua tiếng hát quen thuộc đầy ngạc nhiên sâu lắng của Mimi Nguyễn. Nhạc sĩ lão thành Đan Thọ có đôi lời tâm sự rằng: Bác nghe” CT Phạm Thế Mỹ & NNXTA” qua đài BBC cách đây mấy hôm khi A. Xuân Hồng/BBC phỏng vấn Sơn Huy về chương trình Phạm Thế Mỹ và kết thúc bằng chính nhạc phẩm “Áo Lụa Vàng”. Theo nhạc sĩ Đan Thọ, đây là nét rất đặc biệt, rất thơ và rất tiền chiến trong các ca khúc của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Nhạc sĩ Đan Thọ còn nhắc lại những kỷ niệm xa xưa khi ông gặp nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ tại phòng thu thanh của Đài Phát Thanh Sài Gòn ngày đó. Nhìn mái tóc bạc trắng với những lời nói điềm đạm chan chứa tình người, tình nghệ sĩ của bác Đan Thọ, hầu như không ai là không xúc động, nhất là khi ngồi bên nhạc sĩ Đan Thọ là Giáo Sư Doãn Quốc Sĩ, một khuôn mặt khả kính của thế hệ cha anh.
Tiếng hát hiền hòa dễ thương của ca sĩ Kim Loan/Houston đưa người nghe về một vùng trời bình yên nhưng cũng đầy ray rức của tình yêu qua giai điệu Blue thổn thức với nhạc phẩm “Người Yêu Và Con Chim Sâu Nhỏ”, điều đó cho thấy rằng nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã viết nhiều thể loại cho những sáng tác của ông.
Nhà thơ Ngu Yên/đài VAB, môt khuôn mặt rất quen thuộc của Houston, đã nói lên cảm nghĩ về vị trí cũng như chỗ đứng rất quan trọng của dòng nhạc Phạm Thế Mỹ trong kho tàng văn nghệ Việt Nam.
Môt nhạc phẩm khác mang nhiều nét thơ văn tiền chiến của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ “Tóc Mây” mà nhà báo Nguyễn Phi Thọ/Houston từng viết rằng “Ông, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, hơn Trịnh Công Sơn một bước… Trời bao nhiêu gió, tóc bao nhiêu buồn… và Mùa hè vui đôi chân chấp cánh, tóc mây hồng cho mắt long lanh. Trời mùa đông môi em thắp nắng, tòc mây dài chân vui đường vàng… tóc mây buồn phủ kín tim tôi…” Và nhà báo Nguyễn Phi Thọ cho rằng nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ không chỉ là một nhạc sĩ mà còn là một nhà thơ, một nhà thơ rất lãng mạn… và nhạc phẩm này đã được gửi đến với tiếng hát mang âm hưởng nét liêu trai lãng mạn của Bạch Hạc.
Nhà thơ Vĩnh Sơn đã viết rằng “Sài Gòn của những năm 1973 là thời điểm để nhạc của Phạm Thế Mỹ đi sâu vào lòng người… dòng nhạc Phạm Thế Mỹ gắn bó với nhiều thứ tình: quê hương, con người, lứa đôi. Khi bưóc chân xa xứ hôm nay, chúng ta vẫn còn “Bóng Mát” của Phạm Thế Mỹ như một chút gì nhớ nhung nhắn gởi” và nhạc phẩm mang đầy hình ảnh quê hương, tình yêu và nỗi nhớ này “Bóng Mát” qua chính giọng ca của người học trò năm xưa mà ông đã dạy dỗ Sơn Huy/Nguyễn Ngọc Túy nghe thật thấm thía như tiếng thì thầm vang vọng của một thời yêu dấu từ dĩ vãng mãi theo bước chân của những người con lưu lạc hôm nay.
Một điều đáng trân trọng và đáng nhớ khi Ban Tổ Chức đã viết “Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sẽ rất vui mừng cảm động không phải vì số tiền ông sẽ nhận được, nhưng với trái tim của một người nghệ sĩ, ông sẽ vui sướng biết bao khi biết rằng dù sau 30 năm và từ trong thành phố Houston xa xôi cách trở, vẫn còn có những học trò còn biết nhớ đến Thầy, còn những đồng hưong thương mến ông và dòng nhạc của ông.”
Tiếng nói mới nhất của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ dù giọng ông đã không còn như xưa vì tai biến mạch máu não, đã được học trò Sơn Huy thu âm lại đem qua để gởi đến quý vị quan khách. Thật cảm động và qua người học trò Sơn Huy/Nguyễn Ngọc Túy, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã gửi lời cảm tạ đến tất cả mọi mgười đang còn nhớ đến những dòng nhạc của ông.
Nhạc sĩ Vĩnh Lạc nối tiếp chương trình bằng lời giới thiệu một ca khúc nổi tiếng trong thời chinh chiến cũ khi cứ mỗi mùa Xuân về, người yêu, người vợ của những người lính xa nhà lại thêm một lần mơ ước “anh sẽ về khi mai vàng trước ngỏ… để hoa xuân lại thắm, để môi em lại ấm, cho áo mới yêu đời, cho tiếng pháo thêm vui”, tiếng hát tuyệt vời của Sơn Huy và Kim Loan đã chuyên chở trọn vẹn đến người nghe một niềm hoài cảm năm xưa.
Sơn Huy kể về sáng tác nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ viết về Mẹ theo ý thơ từ cuốn sách “Bông Hồng Cài Áo” của thầy Thích Nhất Hạnh: vào những năm đệ thất hay đệ lục (khoảng 1963-1964), Sơn Huy lúc đó đang hát trong ban Tiếng Thùy Dương của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ tại Đà Nẵng, một buổi chiều đến nhà nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ để tập nhạc như thường lệ, khi đến Sơn Huy vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấyThầy của mình đang đứng nghiêm vòng tay bên cạnh cây đàn piano quen thuộc ở góc nhà, nhìn thấy Sơn Huy (Nguyễn Ngọc Túy), nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ nói với Sơn Huy rằng “Thầy có lỗi bị mẹ thầy phạt, vậy em đứng chờ đi, khi nào mẹ thầy tha thầy sẽ dạy em”, ngay lúc đó mẹ Thầy từ nhà sau bước ra và nói “Thôi học trò con đến rồi, mẹ tha cho con đó”. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đứng dậy và nói “Con cám ơn mẹ!” Hình ảnh cảm động đó đeo đuổi Sơn Huy suốt đời vì chỉ có tình yêu thương mẹ vô vàn, bằng cả tấm lòng quí mến vô biên, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ mới viết được ca khúc “Bông Hồng Cài Áo”, mà mới đây khi Sơn Huy điện thoại nhắc lại kỷ niệm này, Ông đã khóc và nói “Túy ơi, giờ này Thầy đâu còn mẹ để được nghe lời dạy dỗ hay trách phạt nữa đâu em”. Một lần nữa Bạch Hạc đã đưa người nghe về một về một tình yêu bao la vô bờ bến của Mẹ với nhạc phẩm “Bông Hồng Cài Áo”.
Chúng tôi vẫn mãi ghi nhớ những lời nói rất chân tình của Sơn Huy/Nguyễn Ngọc Túy và nhất là bài thơ mới nhất của nhà thơ Luân Hoán mà Sơn Huy đã đọc lên cho các quan khách nghe sau khi A. Luân Hoán nói chuyện với nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, mà theo nhà thơ Luân Hoán “ nhạc vẫn ngấm trong lòng quê hương”
Thăm nhau qua điện thoại
“Chợt nghe được giọng bạn hiền
Sao tôi bỗng lặng im liền mấy giây
Coi kìa giọt nước gì đây
Rịn trên khóe mắt cay cay bất ngờ?
Hoán ơi, nhớ quá… bao giờ
Gặp nhau như thủơ dật dờ ngày xưa?
Anh hỏi tôi lặng quên thưa
Gượng tay chặm mắt lòng chưa sạch lòng
Giọng anh như tấm gương trong
Không soi cũng thấy tháng năm chúng mình
Cái thời anh rót chân tình
Lên từng nốt nhạc hiển linh cho đời
Cái thời tôi mãi ham chơi
Bỏ rơi một đoạn chân nơi chiến trường
Nhạc anh thòng cánh tay buồn
Nâng tôi đứng dậy bình thường lâu nay
Bây giờ, ai đỡ anh đây?
Câu thơ tôi chỉ sợi dây úng sầu
Có còn được vịn vào nhau
Vùi chân qua khắp chiều sâu thân tình
Giữ cho lòng mãi rập rình
Cái thương cái nhớ xinh xinh cuộc đời
Sống trong anh, sống trong tôi
Hạt thơ mầm nhạc xanh chồi như xưa
Tôi chưa thừa, anh chưa thừa
Ít ra còn điểm tựa vừa nhớ nhung
Vét tình vải rộng không trung
Hoán ơi, nhớ quá, nơi dừng đến chưa?”
Đặc biệt, Sơn Huy đã đọc lại 16 nhân vật của năm 1974 mà báo phổ thông đăng tải:
“Trở lại một thời đã qua. Vào ngày 20 tháng 2 năm 1975, hai tháng trước khi Việt Nam Cộng Hòa thân thương của chúng ta tan hàng, tạp chí phổ thông, một công trình của cố thi sĩ Nguyễn Vỹ để lại, từ địa chỉ 816 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, đã phát hành 3000 ấn bản phổ thông số 30. Trong số này có in bản công bố kết quả cuộc thăm dò dư luận do tạp chí Phổ Thông thực hiện nhân kỉ niệm sinh nhật 20 của phổ thông (1955-1975). Cuộc thăm dò bắt đầu từ năm 1974 qua 51 vị giáo sư, nam nữ công ty, 108 sinh viên của nhiều phân khoa, 20 nông dân, 43 công tư chức, 33 ký giả, nghệ sĩ, nhà văn, 54 quân dân các cấp, 47 thương gia và tiểu thương, 33 bà nội trợ cùng 115 công nhân lao động các giới. Năm trăm lẻ bốn người này đều ở khắp miền nam Việt Nam, đã chọn tôn vinh 16 nhân vật, gọi là “Người của năm 1974”, không phân biệt phe nhóm, ngành hoạt động, gồm có: tướng Nguyễn Khoa Nam, thượng tọa Thích Trí Quang, linh mục Trần Hữu Thanh, chính trị gia Nguyễn Văn Huyền, giáo sư Vũ Văn Mẫu, nhà báo Trần Tấn Quốc, nhà báo Nam Đình, tiến sĩ kinh tế Châu Kim Ngân (tổng trưởng bộ tài chánh Việt Nam Cộng Hòa), tướng Ngô Quang Trưởng, họa sĩ Nguyễn Hải Chí (Chóe), nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, nhà báo Vương Hữu Bột (cũng là nhà thơ Đỗ Quý Toàn), giáo sư Lý Chánh Trung, tiến sĩ công pháp Nguyễn Huy Hân (tổng giám đốc thuế vụ VNCH), nhà thơ Luân Hoán, nhà văn kiêm luật sư Dương Kiền. Tất cả 16 người trên đều có chân dung in kèm. Trong phần giới thiệu Phạm Thế Mỹ, Phổ Thông viết:
“Phạm Thế Mỹ mở rộng thêm đường đi của anh trong năm 1974, bằng Trái Tim Việt Nam, trái tim bốc lửa khát vọng hòa bình. Người và cảnh vật trên đất nước ta chỉ tồn tại được, vươn cao lên, và bao dung mãi nhờ ngọn lửa ầm hòa bình.
Nhạc Phạm Thế Mỹ phản ảnh tiếng thì thầm, lời kêu gọi chân tình những người Việt hãy tĩnh dậy sau cơn mê dài chiến tranh - cuộc tang tóc của chúng ta nằm mãi trong toan tính khôn khéo của ngoại bang trục lợi? Riêng Phạm Thế Mỹ, anh trả lời bằng cách cất cao tiếng hát, ca tụng tình người và tình quê hương Việt Nam muôn đời.
Phạm Thế Mỹ sinh năm 1932 (2) tại Bình Định. Tham gia kháng chiến chống Pháp thời kỳ 1945-1954. Học quốc gia âm nhạc Sài Gòn: 1954-1959. Dạy Việt Văn tại trường Trung Học Bồ Đề Đà Nẵng từ 1959-1970. Giữ chức Trưởng phòng Văn Mỹ Nghệ Viện đại học Vạn Hạnh từ 1970-1975.
Những tác phẩm đã xuất bản:
Nhạc bản rời: Bản đầu tay “Nắng Lên Xón Nghèo” va bản mới nhất (cuoi năm 1974) “Nhớ chứ Em Ơi Tổ Quốc Mình”.
Tập nhạc: Hòa Bình Ơi, Hãy Đến (in chung thơ Lê Vĩnh Thọ, Luân Hoán), Trái Tim Việt Nam (Đối Diện xuất bản), Việt Nam Trong Lòng Thế Giới (thơ Quốc tế, bản dịch Lê Vĩnh Thọ, Phạm Thế Mỹ phổ nhạc).
Trường ca: Lửa Thiêng 1963 (phổ biến hạn chế), Con Đường Trước Mặt (Phật Tử Âu Châu xuất bản 1971), Trang Sử Mới (Sinh Viên Phật Tử Pháp xuất bản), Thêm Một Lần Hoa Nở (Viện Đại Học Vạn Hạnh xuất bản), hững Dòng Sông Anh Em (phổ biến hạn chế).
Nhạc kịch: Sắc Lụa Trữ La, Tiếng Hát Dậy Từ Lòng Đất, Miếu Âm Hồn (trang 13, Phổ Thông 30)”.
(Sơn Huy cho biết là nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sinh năm 1930 và đã dạy nhạc cho rất nhiều trường trung học tại Đà Nẵng như: Nguyễn Công Trứ, Tây Hồ, Sao Mai, Kỹ Thuật… trước khi ông chuyển vào Sài Gòn.)
Chương trình được kết thúc bằng ca khúc “Thương Quá Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ mà Sơn Huy cùng các bạn trong Ban Tổ Chức: Đoàn Hữu Đức, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Đức, Trần Trí, Bạch Hạc, Mimi… đã mời tất cả quan khách cùng cất cao tiếng hát như một lời cám ơn đến nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ với những bông hoa nghệ thuật mà ông đã viết cho đời sống hôm qua, hôm nay và cho ngày mai. Thật xúc động khi kết thúc chương trình nhiều quan khách mắt đỏ hoe đã ôm chầm lấy Sơn Huy, trưởng ban tổ chức cũng là người học trò của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ để chia xẻ với anh là anh đã thực hiện một chương trình thật ý nghĩa, thật đầy tình người phù hợp với đạo lý của dân tộc Việt Nam….
Một lần nữa cám ơn Sơn Huy, người học trò theo tôi rất xứng đáng của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ và người viết tin chắc rằng nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ cũng sẽ rất hãnh diện và tâm hồn ông cũng đấy ắp tình người cùng những niềm an ủi sâu xa, nơi người học trò của Ông: Sơn Huy/Nguyễn Ngọc Túy, “bởi vì cuối cùng, tất cả cũng sẽ qua đi, chỉ có tình thương, bao dung va cảm thông là ở lại….”
Jacquelin NhuLe
http://www.vovnradio.com/audio/03072006phamthemy.mp3
Những Ngày Xưa Thân Ái - Quang Lê (http://www.vovnradio.com/audio/03072006phamthemy.mp3)
Áo Lụa Vàng - Khánh Ly
delta
12-23-2007, 12:49 PM
Phạm Thế Mỹ,
http://i214.photobucket.com/albums/cc72/delta38_1/phamthemy2.jpg
nhạc vẫn ngấm trong lòng quê hương
Luân Hoán
Có những cuộc chạm mặt bất ngờ, chớp nhoáng rồi chấm dứt, nhưng nhiều năm sau chợt trở nên thân tình khi gặp lại. Tôi đã được một cơ hội như vậy. Khoảng năm 1955, gia đình cha mẹ tôi thuê nhà cư ngụ bên dốc Cầu Vồng Đà Nẵng. Hồi đó tuy đã được 11 tuổi, nhưng tôi vẫn còn là một cậu bé khờ khạo và rất quê mùa. Ngày nào cũng áo cụt tay, quần đùi, đi chân đất. Tóc thuộc loại rễ tre, lại hớt ngắn nên thường dựng đứng lởm chởm như lông nhím. Không tháng nào không giải quyết bớt cái nạn tóc nhiều. Mỗi lần như thế, tôi chỉ được quyền gọi vào sân một ông thợ hớt tóc dạo, vừa đúng lúc đi ngang. Một cái ghế đẩu đặt trong bóng mát nghiêng nghiêng từ mái nhà trải ra. Tôi ngồi thòng chân trên ghế, mặt cúi nhìn tấm vải trắng đã ố vàng hoặc vẩn vơ nhìn những cọng rác vô tư trên nền sân đất. Tiếng tông đơ kêu xành xạch từ ót lên, nhột nhột vòng quanh hai mang tai...Chỉ năm, bảy phút là xong. Chuyện trả tiền, chuyện quét dọn sau đó có má tôi lo. Nhưng có một hôm, ba tôi cho tiền và chỉ cho tôi đến một tiệm hớt tóc gần nhà. Tôi không lạ gì tiệm hớt tóc này, vì đã từng đi ngang, ghé mắt nhiều lần. Tiệm nằm trên đường Khải Định, gần ngã tư Thống Nhất, cũng được kể là một loại ngon lành thời bấy giờ. Được đi hớt tóc tại tiệm còn gì sung sướng hơn. Tôi hí hửng chạy một mạch chừng ba trăm thước thì tới nơi. Chẳng phải do cơ thể hoạt động tích cực vì chạy. Nhưng không hiểu tại sao tôi vô cùng hồi hộp khi dừng chân trước cửa tiệm. Mấy cái ghế nằm vòng quanh, mấy tấm gương soi đồng dạng như có ma lực làm tôi chợt khớp. Phải định thần đến mấy phút, tôi mới rón rén bước vào.
- Hớt tóc hả cậu em?
- Dạ!
- Ngồi đó chờ một chút.
Vừa nói, anh thợ vừa lơi tay đè đầu một ông khách, chỉ cho tôi cái ghế dài kê sát vách. Tôi ngoan ngoãn đến ngồi, mắt không ngừng quan sát. Lúc này tôi mới đếm thầm, quán có năm ghế bành để hành nghề. Những chiếc ghế không mới, hơi thô kệch, nhưng trông chúng thật bề thế, hơn hẳn những cái ghế dựa bằng gỗ ở các mái che hớt tóc bình dân bên lề đường. Trên tường, cạnh năm tấm gương soi đều có treo năm cái chai thủy tinh. Trong mỗi chai là những nhánh cây trường sinh vươn dài mềm mại, xanh tươi như được dán dính vào vách. Cùng với cây lá hồn nhiên còn có những tấm ảnh chân dung thiếu nữ nhiều màu sắc. Ngay chỗ ghế tôi ngồi chờ cũng có một tấm trên vách. Tranh vẽ một cô gái mặc áo bà ba màu tím hoa cà, cầm chiếc nón bài thơ, mắt mơ màng nhìn ra một dòng sông, ẩn hiện xa xa.
Trời đang nghiêng về buổi xế chiều. Ánh nắng hè bên ngoài có phần dịu bớt mùi hăng hắc. Tuy không ngớt quan sát trong quán, ngoài đường, nhưng tôi cũng rình chừng từng người khách sẽ đứng dậy. Trong lúc đang toan tính cái tư thế sắp phải ngồi lên ghế hớt tóc, tôi nghe tiếng xe gắn máy tắt trước cửa tiệm, rồi thấy một người thanh niên ăn vận thật lịch sự.
- Ủa, anh Mỹ, đi Sài Gòn về khi nào ? Về chơi rồi vào lại chớ?
Người thanh niên vừa cười vừa bước vào:
- Ừ, sẽ vào lại. Mình đang theo học nhạc trong đó. Trời nóng quá. Đến phiên mình liền được chưa ?
- Được chứ anh. Xong ngay đây, anh chờ cho một chút.
Người thanh niên tiến gần về phía tôi. Tự nhiên tôi ngồi nhích về một bên. Nhưng ông ấy không ngồi. Ông cũng không nhìn tôi mà ngắm bức tranh, trầm trồ:
- Tranh Lê Trung mượt thật.
Người khách ngồi gần chỗ tôi chờ đã đứng dậy. Tôi chuẩn bị tinh thần để bước tới. Nghĩ thầm trong đầu, cái ghế hình như hơi thấp, không biết có nhìn rõ mặt mình trong gương ? Nhưng người ngồi tiếp trên chiếc ghế vừa trống ấy không phải là tôi mà là người thanh niên mới vào sau. Tôi hơi ngỡ ngàng một chút nhưng đành lặng lẽ nhìn cả thợ lẫn khách đều thản nhiên, quên hẳn tôi cũng là một khách hàng. Tấm vải trắng đã được choàng kín phần trước thân người thanh niên Tôi chợt muốn bỏ về cho bõ ghét. Nhưng không hiểu sao tôi lại ngồi yên, vểnh tai:
- Nghe anh em nói lúc này anh viết nhạc phải không ?
- Ờ, học Quốc gia Âm nhạc nên cũng tập viết lai rai.
- Anh có định cho ca sĩ hát hay in ra bán không ?
- Chuyện in bán chắc còn lâu. Được ca sĩ chọn hát cũng không phải dễ. Nhưng tương lai chắc sẽ cố gắng.
Lời đối thoại giữa chủ khách còn kéo dài, đại khái đủ cho tôi hiểu lơ mơ ông thanh niên này là người làm ra bài hát. Thời bấy giờ tôi chưa biết dùng hai chữ nhạc sĩ. Bên ngoài hình như gió ngưng thổi. Cái nóng chợt gia tăng đôi phần. Tôi thấy một người đàn bà từ phòng sau đi ra. Bà đến nắm sợi dây thòng từ trần nhà xuống, nhẹ nhàng kéo. Tấm vải treo ngang trên đầu mấy cái ghế ngồi lật qua, lật về. Thì ra đây là một cái quạt trần. Tuy lạ mắt nhưng tôi chỉ nhìn thoáng qua. Tôi vẫn còn đang hậm hực trong bụng.
Một khoảng thời gian sau, không còn nhớ bao lâu, khi đến chơi nhà anh Kiều Kiểm, anh rể tôi, cái radio Philips như một cái thùng gỗ của anh, cuốn hút tôi bằng tiếng hát tươi vui:
Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên
hương lúa ngọt tình quê thêm trìu mến
đôi bướm vàng nhởn nhơ khi quyến luyến và
cô gái làng ngẩn ngơ một tình duyên
bên luống cày đời vui đang nở hoa
ôi ảo mộng đời tươi sao đẹp quá
chân bước về tìm vui đan mái lá và
nghe tiếng hò hát đưa duyên mặn mà
em bé thơ ơi, trên mình trâu nắng em ước mong điều gì
cô hái dâu ơi, bên dòng sông vắng cô có buồn người đi
trên đường về quê hương,
nghe dạt dào tình thương
cánh chim giang hồ vẫn trôi giữa đời
bước chân lãng du ơi chỉ mộng thôi
đây bóng dừa xanh xanh tôi mến thương
chim trắng về em vui reo ngàn hướng
kìa cổng làng hàng cau nghiêng nắng xuống
đàn em bé đùa hát ca quên sầu thương
no ấm về tình ta thêm thắm tươi
bông lúa vàng nhờ tay anh cày xới
đây nắng đẹp miền quê thêm sáng chói
bừng lên xóm nghèo ấm êm bao cuộc đời
nắng sớm lên soi tươi sáng chân trời chào niềm vui mới
xóm nghèo ơi
(Nắng Lên Xóm Nghèo, Phạm Thế Mỹ)
Tôi im lặng nghe dòng ca từ nhẹ nhàng, giàu những hình ảnh tràn chảy theo giọng hát nồng nàn, trong veo. Tuy chưa hiểu gì về nghệ thuật, nhưng tôi cũng cảm biết đôi chút nét đẹp của lời ca tiếng nhạc. Âm thanh quả có sức quyến rũ kỳ diệu. Nó chợt trải ra trong lòng tôi những nhớ nhung lạ lùng. “...Đôi bướm vàng nhởn nhơ...hàng cau nghiêng nắng xuống...” sao mà thân quen, tha thiết vô cùng.
Mặc dù đã có ấn tượng tốt về ca khúc Nắng Lên Xóm Nghèo, với tên người sáng tác Phạm Thế Mỹ, nhưng tôi vẫn chưa biết, người dành phần ngồi vào ghế hớt tóc trước mình trước đây, chính là tác giả. Một thời gian sau nữa, lúc được chúng bạn trầm trồ về ông thầy dạy nhạc ở các trường Tây Hồ, Phan Thanh Giản, tôi mới nhớ và nhận ra.
Phạm Thế Mỹ, sinh năm 1930 tại đất Đập Đá, An Nhơn, Bình Định, lưu lạc theo kháng chiến một thời gian, rồi tấp về Đà Nẵng sinh sống. Tôi khởi sự làm thơ trong im lặng, không mấy tin tài sức của mình. Nhưng cái duyên đến với thi ca mỗi ngày một ngọt ngào, giúp tôi có thêm ít nhiều bè bạn hữu danh. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ lúc bấy giờ chưa bước vào thế giới bằng hữu của tôi.
Hình như vào năm 1963, có vụ xử bắn một gian thương hay trọng tội gì đó tại sân vận động Chi Lăng, gần nhà tôi. Tò mò, tôi có dừng trước cổng chính dòm vào, rồi bỏ đi trước tiếng súng nổ. Những hình ảnh không mấy rõ ràng đó giúp cho tôi có thêm một bài ngũ ngôn, với ít nhiều tưởng tượng, sau khi đẩy nạn nhân vào tội danh có màu sắc chính trị:
Chắc trời còn xanh lắm /cho tôi quì xuống đây/ tiếng ru nào trót dậy/ chắc buồn mà không hay/ tôi tay đầy vòng buộc/ thân che lòng cát này/ quê hương sầu tôi đấy /mắt nào nhìn lại đây?/ hỡi người anh phía trước/ hỡi người bạn sau lưng/ hỡi từng viên đạn nhỏ/ cho tôi ly rượu mừng/ mùa xuân nào lại tới/ lời ca nào lại bay/ giấc mơ nào của mẹ/ tiếng lệ nào của em/ cho tôi xin mở mắt/ nhìn tay người đang run/ chiến công nào cao lớn/ hơn mạng người đau thương ?/ lạy trời tôi đừng biết/ tôi là người như anh/ lạy trời tôi đừng biết/ tôi chết vì tay anh.
(Lời Nguyện Pháp Trường – Lê Hân kẻ nhạc, chép lời, in như một phụ bản trong thi phẩm Chết Trong Lòng Người trang 31, 32. Lối in phụ bản bằng nhạc, có lẽ đây là lần đầu tiên của những sáng tác thơ văn đã in)
http://i214.photobucket.com/albums/cc72/delta38_1/themy3.jpg
Bài thơ được tạp chí Văn Học “đi”. Anh Phạm Thế Mỹ đã đọc được và phổ nhạc. Đây là món quà ngoài mong đợi của tôi, khi được quen biết với anh. Trong khi phổ nhạc, Phạm Thế Mỹ tôn trọng tuyệt đối lời thơ, không thay đổi bất cứ chữ nào, và cũng không bỏ bớt câu nào. Ca khúc này về sau được cô sinh viên Vạn Hạnh, mang tên Đăng Lan phổ biến trong khuôn viên trường Đại học Phật giáo tại Sài Gòn. Phạm Thế Mỹ rất vừa lòng với giọng ca Đăng Lan. Nhưng khi cho thu vào dĩa nhựa và cassette của nhà sản xuất băng nhạc Việt Nam (101 Võ Di Nguy Sài Gòn), anh đã chọn giọng của nam ca sĩ Miên Đức Thắng, có lẽ để cho hoàn toàn thích hợp với nội dung. Miên Đức Thắng cũng là một môn đệ của Mỹ. Thắng về sau cũng có viết nhạc. Tôi gặp Thắng một lần tại Montréal. Anh bạn có giọng hát rất trầm ấm này khá lãng mạn, nếu có thêm chút đào hoa, có lẽ anh đã phải lụy vì tình ở xứ sở mới của tôi. Còn cô Đăng Lan khi rời Đại học, đã trở thành ca sĩ, và hiện nay, hình như định cư tại Úc. Ngày ấy, Phạm Thế Mỹ có mang về Đà Nẵng cho tôi nghe giọng hát Đăng Lan, trong một cuốn băng thu thử và không tiếc ca ngợi, rất tiếc tôi chưa có diễm phúc gặp mặt. Quả đất vẫn tròn, nhưng tuổi đời sắp cạn, có lẽ tôi phải chờ một hóa kiếp bay bướm hơn, mới có cơ hội nhìn được Đăng Lan, để nghe cô ấy hát lại Lời Nguyện Pháp Trường.
Phạm Thế Mỹ, khi tôi quen, sống cùng gia đình trong căn nhà thuê của bà kim hoàn Tâm, thân mẫu của Hoàng Thị Hồng, trên đường Pasteur. Một đôi lần tôi ghé đến chơi, với mục đích nghe anh kể về mấy cô học trò học piano của anh. Với anh, cô nào cũng ngoan, cũng đẹp. Quả đúng vậy, như Minh Xuân đường Độc Lập chẳng hạn. Tuy khen học trò mình đẹp, nhưng Phạm Thế Mỹ là một ông thầy rất mực đứng đắn và yêu nghề. Thành phố Đà Nẵng khá rộng, nhưng thị dân như cùng nằm trong một bàn tay. Tiếng lành tiếng dữ một sớm một chiều, người người đều biết. Mấy ông rao giảng cái nghề dễ tạo cơ hội bướm hoa là âm nhạc như Phạm Thế Mỹ, Hoàng Bích Sơn đều nhận được sự tôn trọng tuyệt đối của học sinh. Giữ cho lòng được thanh thản và không vơi đi những lãng mạn cần thiết cho việc sáng tác, quả rất bản lãnh. Phạm Thế Mỹ thực hiện được điều này trong suốt thời kỳ anh đứng trên những bực giảng của các trường trung học tại Đà Nẵng.
Vào một buổi sáng năm 1964, tôi cùng Hoàng trọng Bân từ Cổ viện Chàm thả bộ dọc theo bờ sông. Trời đẹp. Nhưng con đường Bạch Đằng chỉ thật sự quyến rũ từ đoạn Ty Bưu điện chạy xuống Trẹm. Khi vừa đến sân quần vợt, chúng tôi gặp đám người biểu tình chống hiến chương Vũng Tàu, từ phía Thanh Bồ kéo về Tòa thị Chính. Lòng đường, vỉa hè, bờ sông, người theo người. Không đông lắm, nhưng tưng bừng, huyên náo. Tôi và Bân rất bất ngờ, nhưng cũng tò mò theo đoàn người đến đứng trước cơ quan hành chánh của thành phố. Tiếng đả đảo mỗi lúc một lớn dần. Có lẽ khiếp sợ những âm thanh, ngôn ngữ này nên Bân nói nhỏ với tôi, anh cần về nhà có công chuyện. Tôi không lạ tính nhát gan của Bân nên lặng lẽ bắt tay anh. Còn lại một mình, tôi lớ ngớ chưa thật sự nhập vào đám đông, nếu không chợt gặp Hà Xuân Kỳ. Kỳ không phải là bạn tôi. Anh là một người hàng xóm thời tôi còn ở khu Thuận Thành. Anh là một học sinh giỏi của trường bán công, học trên tôi nhiều năm, làm thơ rất hay. Thời ở Thuận Thành anh thuê nhà chung với anh Ngọc, không rõ họ gì, người Lăng Cô. Tôi thường qua chơi với cả hai. Dù mỗi lần diện kiến tôi chỉ làm người dựa cột.
Gặp Kỳ. Anh kéo tôi ào vào Tòa Thị chính. Những viên công chức đã tan sở từ bao giờ. Đêm hôm đó, chúng tôi chiếm giữ cơ quan lớn nhất thành phố này bất hợp pháp. Đội ngũ cầm đầu cuộc xuống đường mỗi lúc một đông. Tôi gặp cả anh chàng Trăng Tàn Trên Hè Phố rất năng nổ. Về khuya, mặc cho mấy anh ‘mưu đại sự’ suy suy tính tính với nhau, tôi mò lên tầng cao hơn. Một cái giường rộng lớn tối đa, với ra nệm tươm tất mời gọi tôi. Tôi để nguyên giày, phóng lên nằm. Lim dim đâu được một lát, giật mình sợ mấy anh bên dưới sè sẹ rút lui. Tôi lừ đừ trở xuống. Gió sông Hàn mát rượi. Nếu được ngủ vài đêm thanh thản trong căn nhà này thích biết mấy.
Sáng hôm sau chúng tôi được tiếp chuyện với tướng Tôn Thất Xứng, Tư lệnh Vùng I. Tướng Xứng, người nhỏ con, không có cái oai của một võ quan. Ông lịch sự, nhã nhặn như một ông thầy giáo (hiện nay Tướng Xứng ở Montréal). Mấy đứa chúng tôi đứng sát sau lưng ông, khi ông phát biểu đôi điều trước quần chúng, từ cái lan can của Tòa Thị chính. Chẳng có một thỏa thuận nào, nhưng chúng tôi quyết định rời Tòa Thị chính, chuyển “bản doanh chỉ huy” lên rạp hát Trưng Vương. Tôi là một trong những người đi tiên phong đến địa điểm này. Khi sắp đến nơi, tôi chứng kiến một đám đông vây đánh hội đồng một người nào đó ngay trước cửa hiệu ảnh Lê Hậu. Cuộc xuống đường đã trở thành cuộc bạo động đẫm máu. Tôi lặng lẽ rút lui. Tuy vậy tôi vẫn theo dõi diễn tiến hoạt động của các bạn tôi đang tiếp tục dấn thân vào. Một Hà Nguyên Thạch hừng hực với tờ lá cải Đứng Đầu Gió, một Phạm Thế Mỹ kín đáo nhưng tích cực. Anh cho người đến nhờ tôi đi thuê thợ khắc con dấu cho “ủy ban” tranh đấu. Không thể từ chối, tôi hoàn tất cho anh công việc này. Nhưng khi đến giao, anh chán nản lắc đầu:
- Hoán đem về hủy nó giùm đi. Mình nản quá rồi.
Tôi mang con dấu chưa đóng thử lần nào bỏ xuống máng xối nhà Lý, rồi đạp xe qua nhà Châu Văn Tùng rủ đi uống cà phê, nhẹ nhàng kết thúc một vụ tham gia “tranh đấu tài tử”. Ngày nay nghĩ lại, tôi nghiệm ra, những cuộc xuống đường tại Đà Nẵng thường xảy ra sau Huế và nhiều nơi khác. Nhưng đã có màn tranh đấu là gần như có bạo động, có chảy máu. Và tôi không thiếu thơ thời sự cho những vụ này. Rất may theo năm tháng, những “trời dở mưa dở nắng / thở hơi khói cay và mùi người chết...” được tôi hủy bỏ không chọn in.
Năm 1969, tôi thủ diễn xuất sắc vai người thương binh của nhạc sĩ Phạm Duy. Mẹ đã mất, nhà không có ao vườn, nên người cha già của tôi không cần phải lần mò. Ông đứng yên lặng trước ngưỡng cửa, đôi mắt ánh lên những nét cười ngậm ngùi.
- Thôi vậy được rồi, yên tâm rồi...
Câu nói của ba tôi không là thơ. Nhưng đối với tôi là một nguồn thi ca vô giá. Cùng với nguồn thi ca này, tôi còn có những đôi vai, và nhiều bàn tay của bè bạn khắp nơi. Những thăm hỏi, gởi gấm quí giá của các anh Trần Phong Giao, Phan Kim Thịnh, Xuân Hiến... cùng một nén hương đốt lên bởi nhiều người đã đỡ tôi đứng dậy. Trong nén hương này, Phạm Thế Mỹ, người bạn lớn hơn tôi 11 tuổi, thắp những lời chân tình bằng âm nhạc:
“Châu ơi / sao mày không chết / sao mày không chết/ mà lại mất một chân / mà lại mất một chân / Châu / tao nghe nói / mày ước mơ / ngày hòa bình / mày chạy bộ từ Nam ra thăm xứ Bắc / theo con đường sắt quê hương / nhưng bây giờ / chân mày đâu / chân mày đâu / hỡi Châu ? / ôi tao không ngờ / tao con đủ nước mắt để khóc mày đêm nay.../rồi mai đây / và mai sau / mày sẽ nói gì / với con mày / khi nó hỏi / sao bố đi chân gỗ ? / bàn chân bố đâu ?/ chẳng lẽ mày im / chẳng lẽ mày nói / Châu Châu ơi / tao xin mày / đừng khóc đừng khóc nghe Châu ! / Châu / ngày hòa bình ngày hòa bình / sắp đến / và đứa con đứa con mày / sắp ra đời.../ nhưng thôi...tao nghĩ.../ mày vẫn còn may / vẫn còn đủ hai tay / vẫn còn cả trái tim / thôi nghe Châu / đêm nay / tao chúc mày / ngủ thật say / ngủ thật say...”
(Bàn Chân Nối Liền Nam Bắc nhạc và lời của Phạm Thế Mỹ)
Có lẽ chẳng cần vẽ lại cái giây phút chúng tôi ngồi bên nhau. Mỹ vịn vào tiếng guitar để cất giọng. Nhưng chẳng phải một hai lần anh hát được trọn vẹn sáng tác của anh... Tôi xin bỏ qua. Bỏ qua. Một thời gian ngắn sau, chúng tôi thực hiện đúng tinh thần mấy câu thơ của Lê Vĩnh Thọ:... “mất một chân có phải là điều bi đát / và cuộc đời đã đáng bi quan / gặp nhau vẫn bàn chuyện phải làm / vẫn bàn chuyện phải đến...” Và chúng tôi mỗi người chú tâm hoàn tất phần việc của mình. Bản thảo Hòa Bình Ơi Hãy Đến đã sẵn sàng trình làng. Phạm Thế Mỹ lúc bấy giờ đã có một số giờ dạy tại Viện Đại học Vạn Hạnh. Anh chuẩn bị dời cả gia đình vào Sài Gòn để thuận tiện mọi sinh hoạt của anh.
Tập Hòa Bình Ơi Hãy Đến với bìa thật tuyệt hảo của họa sĩ Nghiêu Đề, cùng hai phụ bản độc đáo của Đinh Cường, Nghiêu Đề là một công trình ưng ý của chúng tôi. Tuyển tập được chia làm ba phần: thơ Luân Hoán, nhạc Phạm Thế Mỹ, thơ Lê Vĩnh Thọ. Phần nhạc của Phạm Thế Mỷ gồm các ca khúc: Tiếng Hát Loài Chim Chiến Tranh (tặng Đinh Cường), Lời Nguyện Pháp Trường (thơ Luân Hoán, in lại từ CTLN), Tôi Phải Nói Với Anh Điều Này, Thầy Phù Thủy Giết Người, Nước Sông Nào Chẳng Mát Chẳng Ngon, Hỡi Hồn Mẹ Việt Nam, Rao Bán, Sài Gòn Vui Không Em, Giấc Mơ Của Mẹ (tặng má và anh Phạm Hổ), Cây Súng Ngủ Quên, Sớm Mai Hồng (cho Loan và Huệ), Hát Cho Quê Hương, Người Về Thành Phố, Hòa Bình Ơi Hãy Đến.
Nội dung phần thơ nhạc của ba chúng tôi nặng nề tính cách phản chiến. Viết về Phạm Thế Mỹ, nên tôi xin trích một bài tiêu biểu dòng nhạc này của anh:
“Năm chục đồng ai mua tôi bán / năm triệu đồng ai mua tôi bán / năm triệu đồng một triệu thanh niên / năm chục đồng một thằng sinh viên / đôi chân còn lành / đôi tay còn mạnh / ai mua tôi bán ai mua tôi bán / năm triệu đồng một vạn sinh viên / trăm triệu đồng triệu triệu thanh niên / tôi đang cần tiền / tôi đang cần rượu / ai mua tôi bán ai mua tôi bán / bán cả ruộng vườn / bán cả tình thương / bán cả bạn bè / bán cả vợ hiền / thêm một triệu đồng / bán cả luôn tôi / ai mua tôi bán ai mua tôi bán / thêm một triệu đồng bán cả luôn tôi / thêm một triệu đồng bán cả luôn tôi / tôi đang cần con dân yêu nước / ai dư dùng tôi đây mua hết / năm vạn đồng một thằng ma cô / năm triệu đồng một cụ quan to / ăn lương thật nhiều / lên lon đều đều / ai dư xin bán tôi đây mua hết / tôi đang cần nhiều bàn tay hôi / tôi đang cần nhiều thằng ăn chơi / thơm như bọ vườn / lang thang đầy đường / tôi xin mua hết / tôi xin mua hết/ đây một triệu đồng/ mua một thầy tu/ đây một triệu đồng / xây một nhà tù / thêm một triệu đồng / nhớ đừng quên tôi/ ai dư xin bán tôi đây mua hết / ai dư xin bán tôi đây mua hết / thêm một triệu đồng nhớ đừng quên tôi / thêm một triệu đồng nhớ đừng quên tôi” (trở lại đoạn đầu để hết).
Trước khi chống nạng xuống gặp anh Nguyễn Rô, giám đốc Ủy ban Kiểm duyệt Vùng 1 Chiến thuật, tôi đã dự đoán tập thơ có nhiều bài khó qua ải, nên đã có chút đỉnh “ma giáo” để qua mặt anh. Thành thật gởi lời xin lỗi muộn đến nhà thơ Thuận Xuyên (bút hiệu của anh Rô), hiện cư ngụ tại Dallas Hoa kỳ. Sau khi được cấp phép in ngày 22 tháng 4 năm 1969 với số kiểm duyệt 41BUBKDVICT, Phạm Thế Mỹ mang bản thảo vào Sài Gòn và in xong ngày 14 tháng 5 năm 1969.
Công việc in sách thật ra chẳng dễ dàng với ba chúng tôi. Tôi đã nảy ra một sáng kiến, để có tiền in, chúng tôi cho in một số biên lai bán sách. Việc in biên lai giao cho Lê Vĩnh Thọ thực hiện, với phương tiện của tiểu đoàn 10 Chiến tranh Chính trị, hiện Thọ đang có thẩm quyền. Biên lai in xong, Phạm Thế Mỹ mang vào các trường bán trước cho học sinh của anh. Con số các em học sinh có lòng lên đến 600 người, nên chúng tôi cho in đến 600 cuốn trên giấy tốt. Dù sách in đã xong nhưng nhận ra và gởi về Đà Nẵng còn gặp sự trục trặc, Phạm Thế Mỹ phải nhờ đến uy tín của vị Viện trưởng để giải quyết.
Một cuộc chơi khá gian nan đã qua. Với số vốn là những tâm tư chân tình, chúng tôi lời được những nghi kỵ, ngờ vực. Có một số ít người lâu nay, vẫn cho Phạm Thế Mỹ là “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”. Thật ra anh chỉ là một Phật tử, yêu đạo, yêu đời và yêu nước. Nhiệt tình của anh khá mạnh trong những sinh hoạt tập thể đâm gây ra những đố kỵ. Thêm vào đó, một đôi lần trong các cuộc chuyện trò, anh có bày tỏ ít nhiều trọng vọng với miền đất ngàn năm văn vật, mà người anh trai của anh, nhà thơ Phạm Hổ, đang phục vụ, nên dễ gây ngộ nhận. Đừng nói gì Mỹ, thương phế binh chính hiệu như tôi, trong thời đó, cũng bị ông nhà giáo, TDN, tặng cho hai chữ Vi Xi, khi tôi tiếp chuyện nhà thơ Ngô Kha từ Huế vào thăm. Buổi sinh hoạt ra mắt tập Lục Bát Ca của tôi, Lê Vĩnh Thọ và Vĩnh Điện đã tưởng bất thành nếu bạn Tống Nhạn, không đứng ra mượn hộ hội trường trường Phan Châu Trinh, nơi tôi xuất thân. Tống Nhạn là sĩ quan, gốc nhà giáo, con ông Tống Quyền, một viên chức rất có uy tín tại Hội An. Nhạn cùng tôi, Hà Nguyên Thạch, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thiếu Dũng...có mặt trong tạp chí Nhận Thức ở Huế một thời. Chính Nhạn cũng giải độc hai chữ VC hộ tôi bằng cách mời Đại tá Nguyễn Văn Thiện, Thị trưởng Đà Nẵng, ghé nhà tôi chơi, có xe quân cảnh hộ tống và gác đường đàng hoàng. Tình bè bạn không ăn nhập gì với lý tưởng của bạn bè. Chúng tôi không hại lẫn nhau khi đã là bạn, nhất là bạn sinh hoạt văn học nghệ thuật. Tội nghiệp, sau 1975 Tống Nhạn tinh thần bất ổn và đã qua đời. Dĩ nhiên, Phạm Thế Mỹ cũng có quen biết Nhạn.
Giữa năm 1969, Phạm Thế Mỹ đã chuyển hết gia đình vào Sài Gòn. Giai đoạn này tôi thật sự không nắm rõ những sinh hoạt của anh. Nghe nói anh dạy nhạc và giữ chức Trưởng phòng Văn mỹ nghệ Viện Đại học Vạn Hạnh. Gần đây, trên trang điện toán Một Thời Áo Trắng, tôi đọc được một số viết về anh, từ những cựu học sinh Mạc Đỉnh Chi Sài Gòn. Xin được hân hoan trưng ra những tình cảm chân tính này:
“Thấm thoát đã hơn ba mươi năm kể từ ngày người viết bài này được ngồi nghe tim mình đập nhanh theo từng tiếng hát uất nghẹn của thầy Phạm Thế Mỹ khi thầy dồn hết tâm tư diễn đạt một cách xuất thần nhạc phẩm "Huế Của Ta" mà thầy vừa sáng tác...
.... Còn nhớ Thầy ngồi trên chiếc bàn học trò ấy, dồn hết tâm tình, mắt rưng rưng, môi rung rung theo những lời hát trong bài "Huế Của Ta", một bài hát như được kết tụ bởi màu xám của óc, màu trắng của xương, và màu đỏ của máu. Giọng Thầy có lúc chìm xuống, trầm hùng
"lửa Đông Ba lửa cháy Vân Lâu / lửa cửa Tây ra tới cửa Đông / lửa nội thành lan ra đường phố "
Rồi vút cao lên trong kinh hoàng đớn đau cùng cực, " Huế ơi!". Tiếng hát khởi đi từ con tim uất nghẹn, uất nghẹn trước những gẫy đổ, điêu tàn nát vụn của chiến tranh... Và tiếng hát của thầy tiếp tục cất lên qua mắt lệ long lanh :
"Cầu Trường Tiền đau thương gục xuống, hàng vạn người bơ vơ không nhà, hàng vạn người bơ vơ đường phố, Huế ơi...!"
Tiếng hát của Thầy đã dứt nhưng Thầy vẫn ngồi đó, bất động. Cả lớp cũng gần như chết lặng. Mắt Thầy vẫn đăm đăm nhìn vào một cõi mênh mông. Chừng như trước mặt Thầy vẫn lảng vảng là những núi Ngự, dòng Hương, Đại Nội, Vân Lâu, Trường Tiền, Thừa Phủ. Chừng như trong mắt Thầy vẫn còn là những màu xám xịt của đất đá vụn vỡ, màu đỏ quạch của những bãi máu khô, màu trắng của áo trắng học trò . Và màu trắng trập trùng của ngàn giải khăn sô.
...Người viết bài này tin rằng thầy Phạm Thế Mỹ không chỉ là một nhạc sĩ tài ba mà còn là một thi nhân với tấm lòng nhân hậu mà câu văn lời thơ là những nhịp đập thoi thóp của một con tim luôn rung theo âm điệu của tình yêu, quê hương và cuộc sống...
Khách Ly Hương (Vinh danh thầy PTM,Virginia, 7-5-2001)
“Tuy không có cơ hội học nhạc với thầy Phạm Thế Mỹ, cũng như chưa có dịp tốt như Khách Ly Hương, được nghe Thầy hát trực tiếp trong lớp, nhưng Nguyên Dung đã may mắn được làm học trò của thầy qua sinh hoạt văn nghệ dưới mái trường Mạc Đĩnh Chi lúc học Đệ Ngũ ( 1966- 1967) và Đệ Tam ( 1968-1969 ): Thầy đã điều khiển hai màn vũ Trống Mê Linh và Bên Cầu Tơ Liễu ( Kim Trọng, Thúy Kiều ) của trường. Từ đấy, Nguyên Dung cảm thấy mình gần gũi với Thầy, với những sáng tác nổi tiếng từ trước đến nay như: Bông Hồng Cài Áo.Những Ngày Xưa Thân Ái, Bóng Mát, Tóc Mây.... Mỗi lần được nghe bạn bè văn nghệ trình bày một bản nhạc của Thầy, Nguyên Dung đều cảm thấy vui vui, hãnh diện như muốn nói với người bạn đó rằng: “ Tác giả bản nhạc đó là Thầy dạy múa của Dung đấy”!
Nguyên Dung - Paris, 11-2002
...“Hình ảnh thầy Phạm Thế Mỹ trong trí nhớ tâm tưởng của những cựu học sinh Mạc Đĩnh Chi là một thầy giáo, một nhạc sĩ nổi tiếng với những bản nhạc đượm tình quê hươnng và tình người rất được nhiều người ưa thích...Phải nói học sinh Mạc Đĩnh Chi may mắn có được sự dạy dỗ của thầy. Đặc biệt thầy đã nối tiếp bước chân của thầy Nguyễn Văn A để đưa sinh hoạt văn nghệ Mạc Đĩnh Chi, với những trường ca của thầy, cho ban hợp xướng, cho ban vũ (trong thập niên 60) được nổi tiếng khắp thủ đô Sài Gòn trong giới học sinh trung học”...
Bùi Mạnh Hùng - đông bắc Hoa Kỳ 9-11-2003
“Cassette nhà ai mở / Từ phía bên kia đường / Bản nhạc đã nằm lòng / Của người thầy nhạc cũ / Tôi thầm gọi Thầy ơi! / Bài giảng Thầy đây rồi / Những ‘vạch nhịp cuộc đời” / Như fa thăng - mi giảm / Những Schubert, Mozart / Phát tiết ngàn tinh hoa / Cho cây đời xanh lá / Giọng Thầy còn vang mãi / Rối rắm, móc đơn đôi / Như ngõ ngách cuộc đời / Tình người nhiều hệ lụy /Trăng sắp tàn hay chưa? / Trên đường phố ngày xưa / Không trăng xưa vẫn sáng / Trắng bàng bạc giữa đời / Trong miết suốt hồn tôi / Giữa ngày xuân nắng ấm!”
Vĩnh Tân, 1977
Những bày tỏ tình cảm như trên còn khá nhiều, nhưng tôi không thể trích dẫn hết, dù đây là những chi viện, tiếp sức rất quí. Trong khi chuẩn bị viết bài này, một tin rất vui, nhà văn Song Thao vừa cho biết, không thể không ghi lại vài dòng:
Trang điện tử của đài VOVN.com, tại thành phố Houston, Hoa Kỳ, đã đưa tin: nhóm thân hữu và hoc trò cũ của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sẽ tổ chức một buổi nhạc vinh danh ông với chủ đề Nhạc Sĩ Phạm Thế Mỹ, Những Ngày Xưa Thân Ái. Tuy chỉ thực hiện một nguồn tin, nhưng buổi phát thanh ngày 07 tháng 3 năm 2006 vừa qua tại đài VOVN, phải được xem là một sinh hoạt văn học khởi đầu của nhóm tổ chức chương trình vinh danh sắp tới. Có nhạc mở đầu (bằng giọng ca Quang Lê thể hiện Trăng Tàn Trên Hè Phố), có nhạc kết thúc (với Áo Lụa Vàng qua tiếng hát Khánh Ly). Và dưới hình thức một cuộc bàn chuyện với ít nhiều tâm sự, những nhân vật trong ban tổ chức cho thính giả biết một cách tường tận mục đích và ý nghĩa của sinh hoạt.
Chị Phương Hoa, với tư cách người của đài, giàu thông minh, duyên dáng lẫn dí dỏm dẫn cuộc nói chuyện rất vén khéo. Anh Sơn Huy, một học trò cũ, đã từng mục kích thảm cảnh của thầy mình trong những năm gần đây, vắn tắt vài dòng về Phạm Thế Mỹ, trước khi bày tỏ mục đích việc anh chủ xướng thực hiện sinh hoạt. Các anh chị Trần Chí, Đoàn Hữu Đức, Bạch Hạc...cũng nói rõ thêm ý nghĩa của đêm văn hóa nghệ thuật sắp tới, đồng thời thông báo mọi người tham dự sẽ được vào cửa tự do. Có thức ăn nhẹ miễn phí, có quà lưu niệm quí giá, là một CD gồm toàn những ca khúc để đời của Phạm Thế Mỹ, sưu tập từ sản phẩm của những trung tâm phát hành âm nhạc cho phép. Những giọng ca trong đêm sinh hoạt cũng được giới thiệu, gồm Hoàng Tường, Vi Liên, Kim Loan, Bạch Hạc...Những người góp tấm lòng qua các tờ chi phiếu đầu tiên cũng được xướng tên, tạ ơn.
Với chỉ một công việc thông báo đã rất đậm đà chất văn học như vậy, chắc chắn buổi Phạm Thế Mỹ, Những Ngày Xưa Thân Ái tại thành phố Houston sẽ rất thành công. Thành phố xinh xắn này khá đông người Việt, và quan trọng là đồng bào mình ai cũng rất dễ thương, “vui chơi nhưng không quên trách nhiệm” theo nhận xét và chữ dùng của chị Phương Hoa. Tôi bùi ngùi vui mừng cho bạn tôi. Một điện thư ngay sau đó cho anh Sơn Huy, không để đóng góp tài chánh, mà để xin một số địện thoại, có lẽ tôi vô duyên, lố bịch quá rồi. Thư không được hồi âm, điều đương nhiên. Xin được xin lỗi và cảm ơn anh Sơn Huy (1) Chắn chắn tôi đã thiếu tế nhị khi thèm nghe một giọng nói, vốn hát rất hay, đang phải chỉnh sửa lại âm giọng, sau một cơn tai biến đường máu.
Trở lại một thời đã qua. Vào ngày 20 tháng 2 năm 1975, hai tháng trước khi Việt Nam Cộng Hòa thân thương của chúng ta tan hàng, tạp chí Phổ Thông, một công trình của cố thi sĩ Nguyễn Vỹ để lại, từ địa chỉ 816 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, đã phát hành 3000 ấn bản Phổ Thông số 30. Trong số này có in bản công bố kết quả cuộc thăm dò dư luận do tạp chí Phổ Thông thực hiện, nhân kỷ niệm Sinh nhật 20 của Phổ Thông -1955-1975.
Cuộc thăm dò bắt đầu từ năm 1974 qua 51 vị giáo sư, nam nữ công tư, 108 sinh viên của nhiều phân khoa, 20 nông dân,43 công tư chức, 33 ký giả, nghệ sĩ, nhà văn, 54 quân nhân các cấp, 47 thương gia và tiểu thương, 33 bà nội trợ cùng 115 công nhân lao động các giới. Năm trăm lẻ bốn người này ở đều khắp miền nam Việt Nam, đã chọn, tôn vinh 16 nhân vật, gọi là “Người của năm 1974”, không phân biệt phe nhóm, ngành hoạt động, gồm có: Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thượng tọa Thích Trí Quang, Linh mục Trần Hữu Thanh, Chính khách Nguyễn Văn Huyền, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Nhà báo Trần Tấn Quốc, Nhà báo Nam Đình, Tiến sĩ Kinh tế Châu Kim Ngân (Tổng trưởng Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng Hòa), Tướng Ngô Quang Trưởng, Họa sĩ Nguyễn Hải Chí (Chóe), Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, Nhà báo Vương Hữu Bột (cũng là nhà thơ Đỗ Quý Toàn), Giáo sư Lý Chánh Trung, Tiến sĩ Công pháp Nguyễn Huy Hân (Tổng Giám đốc Thuế vụ VNCH), Nhà thơ Luân Hoán, Nhà văn kiêm Luật sư Dương Kiền. Tất cả 16 người trên đều có chân dung in kèm. Trong phần giới thiệu Phạm Thế Mỹ, Phổ Thông viết:
“Phạm Thế Mỹ mở rộng thêm đường đi của anh trong năm 1974, bằng Trái Tim Việt Nam, trái tim bốc lửa khát vọng hòa bình. Người và cảnh vật trên đất nước ta chỉ tồn tại được, vươn cao lên, và bao dung mãi nhờ ngọn lửa ấm hòa bình.
Nhạc Phạm Thế Mỹ phản ảnh tiếng thì thầm, lời kêu gọi chân tình những người Việt hãy tỉnh dậy, sau cơn mê dài chiến tranh - cuộc tang tóc của chúng ta nằm mãi trong toan tính khôn khéo của ngoại bang trục lợi ? Riêng Phạm Thế Mỹ, anh trả lời bằng cách cất cao tiếng hát, ca tụng tình người và tình quê hương Việt Nam muôn đời.
Phạm Thế Mỹ sinh năm 1932 (2) tại Bình Định. Tham gia kháng chiến chống Pháp thời kỳ 1945-1954. Học Quốc gia Âm nhạc Sàigòn: 1954-1959 . Dạy Việt Văn tại trường Trung Học Bồ Đề, Đà Nẵng từ 1959 - 1970. Giữ chức Trưởng Phòng Văn Mỹ Nghệ Viện Đại Học Vạn Hạnh từ 1970 – 1975.
Những tác phẩm đã xuất bản :
Nhạc bản rời: Bản đầu tay : Nắng Lên Xóm Nghèo. Bản mới nhất (cuối năm 1974): Nhớ Chứ Em Ơi Tổ Quốc Mình.
Tập Nhạc: Hòa Bình Ơi, Hãy Đến (in chung thơ Lê Vĩnh Thọ, Luân Hoán), Trái Tim Việt Nam (Đối Diện xuất bản), Việt Nam Trong Lòng Thế Giới (thơ Quốc tế bản dịch Lê Vĩnh Thọ, Phạm Thế Mỹ phổ nhạc)
Trường Ca : Lửa Thiêng 1963, phổ biến hạn chế, Con Đường Trước Mặt (Phật Tử Âu Châu xb 1971), Trang Sử Mới (Sinh Viên Phật Tử Pháp xb), Thêm Một Lần Hoa Nở (Viện ĐH Vạn Hạnh xb), Những Dòng Sông Anh Em (phổ biến hạn chế)
Nhạc Kịch : Sắc Lụa Trữ La, Tiếng Hát Dậy Từ Lòng Đất, Miếu Âm Hồn”
(trang 13, Phổ Thông 30)
Có lẽ sẽ hơi dư thừa nếu đưa thêm vài nét nhận định về nhạc Phạm Thế Mỹ qua bất cứ chủ đề nào. Xin hãy đọc một ít ca từ. Tôi tin nguồn âm nhạc sẽ sống lại tức thời trong trí nhớ bạn:
“Những ngày xưa thân ái anh gởi lại cho ai/Gió mùa xuân êm đưa rung hàng cây lưa thưa/ Anh cùng tôi bước nhỏ, áo quần nhăn giấc ngủ/ Đi tìm chim sáo nở, ôi bây giờ anh còn nhớ ?
Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho ai/ Trăng mùa thu lên cao, khóm dừa xanh lao xao/ Anh cùng tôi trốn ngủ, ra ngồi hiên lá đổ/ Trông bầy chim trắng hiện mơ một nàng tiên dịu hiền
Đêm đêm nằm nghe súng nổ giữa rừng khuya thác đổ,/ anh còn nhắc tên tôi ?/ Đêm đêm nhìn trăng sáng tỏ bên đồi hoa trắng nở, cuộc đời anh có vui ?
Thời gian qua mau tìm anh nơi đâu/ Tôi về qua xóm nhỏ con đò nay đã già/ Nghe tin anh gục ngã/ Dừng chân quán năm xưa/ Uống nước dừa hay nước mắt quê hương
Những đường xưa phố cũ thôi nỡ đành quên sao/ Xin gọi lại tên anh giữa trời sao long lanh/ Anh giờ yên giấc ngủ tôi nằm nghe súng nổ/ Như lời anh nhắc nhở, ôi căm hờn dâng ngập lối
Những ngày xưa thân ái xin buộc vào tương lai/ Anh còn gì cho tôi, tôi còn gì cho em/ Chỉ còn tay súng nhỏ giữa rừng sâu giết thù/ Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho em”
Phạm Thế Mỹ - Những Ngày Xưa Thân Ái)
Trang trọng mời tìm đọc thêm những Bến Duyên Lành, Bên Gối Mộng, Đan Áo Mùa Xuân, Đưa Em Về Quê Hương, Rừng Cây Trút Lá, Tàu Về Quê Ngoại, Thư Về Em Gái Thành Đô, Thương Quá Việt Nam, Thuyền Hoa...để thấy chân tình của một nhạc sĩ đã dành cho quê hương. Có lẽ quá nổi tiếng về nhạc quê hương, về ca khúc thắm thiết tình người như Bóng Mát, Bông Hồng Cài Áo...mà nhiều người không biết tên tác giả những tình khúc nồng nàn như Tóc Mây, Áo Lụa Vàng, tôi không ngại chép lại lời các bài hát ấy như để nhắc nhớ:
“Theo gió heo may đến đêm gọi tình/ Một trời áo tím trong mắt trên môi/ Như chiếc nôi êm ru cơn mộng lành/ Gọi vầng trăng cũ sáng cho hồn vui
Như cánh hoa đêm đong đưa nụ tình/ Gọi mời cơn gió hôn lá trên cao/ Như cánh chim đêm bơ vơ một mình/ Trời bao nhiêu gió tóc bao nhiêu buồn
Mùa hè vui đôi chân chấp cánh/ Tóc mây hồng cho mắt long lanh/ Trời mùa đông môi em thắp nắng/ Tóc mây dài, chân vui đường vắng/ Rồi mùa xuân cây thay áo mới/ Tóc mây vàng cho nắng thêm tươi/ Rồi mùa thu xôn xao lá úa/ Tóc mây buồn phủ kín tim tôi
Ôi tóc mây bay ru lên điệu buồn/ Sợi tình theo gió vỗ cánh bay xa/ Ôi tóc mây thơm men say lạ thường/ Tình ta xanh lá tóc mây không vàng”.
(Tóc Mây - Phạm Thế Mỹ)
“ Ngày xưa em đến, em mặc áo lụa vàng/ Em đi trong nắng, chân chim xinh xắn,/ Chưa hề lấm bụi trần, chưa hề vướng cỏ sầu./ Em đi vào mộng mơ.
Ngày mai em đến, xin mặc áo lụa vàng, nghe em hãy nhớ./ Quê hương anh đó, đang cần đến tình người, đang cần đến nụ cười./ Cho tâm hồn nghỉ ngơi.
Ôi ! nắng lụa vàng, nắng lụa vàng nắng ướt môi em./Ôi ! nắng lụa vàng, nắng lụa vàng quấn quít chân em./ Trên con đường nầy, ngày xưa, ngày xưa/ Trên con đường nầy, chiều nay, chiều nay .....
Chiều nay em đến, vẫn màu áo lụa vàng,/ Như xưa trong trắng, mang theo ánh nắng./ Cho đời bớt lệ sầu, cho lòng bớt hận thù./Anh đi vào tuổi thơ.
Mùa thu đã đến, trên đường lá rụng vàng./ Anh đi trong nắng, mang theo ánh sáng./ Với màu áo tuyệt vời, với màu nắng rạng ngời,/ Anh đi vào niềm vui.
(Áo Lụa Vàng - Phạm Thế Mỹ)
Phạm Thế Mỹ không chỉ thành danh bởi nhạc bản, trường ca, nhạc cảnh, mà còn rất tài hoa trong việc điều khiển những dàn hợp xướng, kịch đoàn, vũ công. Ra đời trong một gia đình gồm 11 người con. Với vai vế người sau cùng, anh có phần được người mẹ hiền ban thưởng tình thương yêu, sự chiều chuộng nhiều hơn. Tôi rất thường ghé thăm lúc anh cư ngụ trong một con hẻm trên đường Hoàng Diệu, Đà Nẵng. Thân mẫu anh có hình dạng nhẹ nhàng hơn bà Năm Sa Đéc, kịch sĩ, một chút. Vui vẻ, thương bạn của con là bản tính hầu hết của những người mẹ Việt Nam chúng ta. Nhành hoa Huệ bên anh thì quá đỗi hiền hòa. Và Điểm, trưởng nữ của Mỹ, có lẽ nhờ ăn ngủ cùng âm thanh nên rất xinh đẹp. (Điểm hiện đang ở California, theo tin của nhạc sĩ Vĩnh Điện).
Có nghe Phạm Thế Mỹ hát mới thấy sự say nhạc của anh. Những hình ảnh đẹp nhất trong khi hát được anh gởi vào nơi bàn tay, chợt mở ra, chợt thu về, như trao gởi như gìn giữ trang trọng
- Sao, sao, Hoán nghe ra sao. Dễ sợ thật...
Câu hỏi thân quen này vẫn còn ấm tai tôi. Nụ cười sung sướng rất trẻ thơ của anh được nở ra mãn nguyện. Là một nhạc sĩ giàu tình cảm nhưng Phạm Thế Mỹ sống khá mực thước. Vì là một ông thầy của những học sinh sẵn sàng yêu, nên anh đứng đắn trong lịch sự. Hơi chải chuốt một tí. Quần áo, đầu tóc bao giờ cũng tươm tất, gọn gàng. Có một điều chắc ít ai biết, Phạm Thế Mỹ không bao giờ ngồi xe thồ, xe ôm. Nếu không có phương tiện cá nhân, bắt buộc phải đi đâu cần thiết, anh đều nhờ vào xích lô. Không hút thuốc, không uống rượu, bia. Không la cà, bát phố. Anh chân tình với bạn bè, nghe lọt tai những góp ý hữu lý. Tôi nhớ một lần, anh viết : “Đường Việt Nam thênh thang một lối...” Tôi và Lê Vĩnh Thọ đề nghị anh thay từ “một” có vẻ “độc đảng” quá, anh thay ngay bằng từ “ngàn” một cách vui vẻ.
Tôi xem anh như một huynh trưởng. Anh quen gọi nửa sau bút danh của tôi: Hoán và xưng “mình” trong mọi dịp gặp mặt, chuyện trò. Không phách lối, kẻ cả. Anh thường hay xài một vài chữ khá ngộ. Để tán thưởng khen ngợi ai, hay một cái gì, điều gì, anh thường dùng ba chữ “dễ sợ thật”. Ví dụ, sau khi kể thành tích tuyệt vời về những hoạt động của linh mục Nguyễn Ngọc Lan, anh nối liền vào... “dễ sợ thật !” một cách ngon lành.
Phạm Thế Mỹ rất kính trọng nhạc sĩ Phạm Duy. Nhưng hình như người nhạc sĩ lớn này không thưởng thức tài hoa của đàn em cùng họ Phạm, sinh khác miền đất. Có một lần Phạm Thế Mỹ đưa tôi đến thăm nhà anh Phạm Duy ở Phú Nhuận. Đêm đó là là đầu tiên tôi trình diện tác giả Tình Ca mà tôi hằng ngưỡng mộ.
Nhạc sĩ Phạm Duy không có tuổi già trong âm nhạc, trong văn hóa nghệ thuật, nên tôi xin được gọi là anh. Anh Phạm Duy tiếp chúng tôi trong phòng ngủ nhỏ của riêng anh. Thân tình này chợt giảm đi tình thân, khi anh Duy tự tại, nằm dài trong bộ áo quần bà ba đen một thời của nông dân mình. Anh không thèm nhỏm dậy, cho những người đi sau có cơ hội chạm tay anh để lấy hơi. Với một người vô danh như tôi, điều này không chút mặc cảm tự ti nào. Nhưng với Phạm Thế Mỹ, người đã có dịp được anh truyền đạt ít nhiều tay nghề, khó có thể không buồn. Một chữ đủ làm thầy, nhưng tình thầy trò có bắt buộc hướng thượng một chiều ? Tôi nhớ đêm hôm đó anh Phạm Duy nói cả phần của chúng tôi. Nhưng tôi không nghe, không hiểu gì cả. Bộ áo quần bà ba đơn giản dễ thương và chất phác trở thành rất xa, rất lạ dưới mắt tôi. Chẳng phải vì chúng có sứ mệnh “xây dựng nông thôn” mà vì một điểm gì đó, tôi chưa nghĩ ra, không mong nghĩ ra. Tôi là người rất kính trọng tài hoa của anh Phạm Duy. Từng lén nghe nhạc anh để ngậm ngùi rơi nước mắt, đến nỗi làm ra thơ, thời sau 1975. “...Đêm mưa nằm ngủ không đành/ tôi trôi theo giọng Thái Thanh dập dìu / Tôi còn yêu, tôi cứ yêu..nhạc bao la trải bóng kiều liêu trai...”. Bây giờ cũng vậy. Một điều nhỏ, thú thật tôi đã tiếc, là anh đã chợt xin làm sống lại những ca khúc lỗi lạc vốn chưa hề chết của anh. Cái tiếc vớ vẩn của tôi hẳn được anh Phạm Duy cho là lãng mạn với ít nhiều ngu muội. Tôi vẫn một lòng kính quí người có “tình hoài hương” tuyệt vời này. Khi nhận điện thư lúc 15:08:22-0800 ngày 23 feb.2006 của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân từ quê nhà tin: “Sáng sớm 23-2-2006 anh Phạm Duy ho ra máu phải vào bệnh viện Việt Pháp cấp cứu. May chưa can chi...” tôi rất buồn, đã nhắn đến anh một lời chúc sức khoẻ chân tình. Còn sức khoẻ Phạm Thế Mỹ, bạn tôi ra sao? Chính anh ấy đã thố lộ:
“Tôi vừa trải qua cơn bạo bệnh, bị đứt mạch máu, liệt nửa người, nằm đến 7 tháng, hiện vẫn còn nói ngọng. Tôi vẫn sáng tác, mới nhất là một trường ca dài 30 phút. Hiện ngoài những ca khúc rời, tôi đã viết 6 trường ca và 4 nhạc kịch”
(trích lại từ trích dẫn trong bài viết của Bùi Mạnh Hùng).
Dễ sợ thật !
Anh bạn Mỹ của tôi hiện nay là vậy. Trước những bất hạnh của anh mà sao tôi như mỉm cười ?
Năm 1984, gặp nhau tại Sài Gòn. Phạm Thế Mỹ nắm tay tôi lôi về nhà đãi ăn và khoe một người đàn bà mới đến định cư trong đời anh. Anh vô cùng hào hứng:
- Hoán biết không ? Thật kỳ diệu, bà mới của mình cũng là Trần Thị Lý, giống y chang họ tên vợ của Hoán. Dễ sợ thật !
Thực hư về cái tên tôi không rõ. Tôi có chút vui cũng có chút buồn. Nhiều lần định gọi thăm cháu Điểm, (hẳn đã là một người đàn bà), để thăm hỏi nhiều điều nhưng lại thôi. Trong suốt 21 năm qua, tôi có nhận được mấy dòng thư của Phạm Thế Mỹ vào năm 1989. Anh có vẻ rất buồn. Bút tự cùng vài hình ảnh xưa cũ được bày ra để nhớ lại “những ngày xưa thân ái”
http://i214.photobucket.com/albums/cc72/delta38_1/phamthemy4.jpg
Trong khi lúng túng khi muốn viết những dòng đóng lại bài này cho thật chân tình. Tôi chợt nhớ đến một số bằng hữu và nảy ra ý, gởi e-mail xin vài nhận xét, với câu hỏi chung:
- Anh (chị) có biết nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ ? Đã từng nghe qua nhạc Phạm Thế Mỹ ? Anh (chị) nghĩ thế nào về tác giả, tác phẩm ?
Những câu trả lời, bắt buộc không quá 10 dòng, như một món quà thân mến gởi về người bạn cũ. Tôi tin anh Phạm Thế Mỹ sẽ vui vẻ khi nhận được, dù trong món quà có thể có ngọt ngào lẫn chua chát, tùy quan niệm thưởng ngoạn nghệ thuật cùng cái tâm của mỗi người. Câu trả lời, chỉ nhận qua e-mail trong vòng 72 giờ, xếp theo thứ tự nhận được. Cảm ơn quí bạn đã tham dự
Nhà thơ, nhạc sĩ Phan Ni Tấn ND:
date : Sun, 19 Mar 2006 20: 40: 09-0500 (EST)
From: phannitan@yahoo.com
“ Biết. Đã từng nghe. Nhạc PTM rấy hay, đặt trọng tâm về quê hương và thân phận con người”.
Họa sĩ La Toàn Vinh:
date: Sun, 19 Mar 2006 21: 41: 26 EST
From: LATOANVINH@aol.com
“Trong những năm cuối của thập niên 60 tôi đã từng nghe nhạc Phạm-Thế-Mỹ trên đài phát thanh, truyền hình v.v Nhạc của ông lồng lộng một vùng trời quê hương , man mác như bao cánh diều thăng trầm bên cạnh những biến động thời cuộc; đó là sự hiện diện của CHIẾN TRANH... như trong nhạc phẩm "Trăng Tàn Trên Hè Phố..."
Âm điệu trong nhạc Phạm Thế Mỹ đượm chất dân gian, rất dễ dàng chuyên chở đến từng con người, rất dễ hát , dễ cảm , để chia xẻ với nhau thêm, trong từng con người trẻ thời bấy giờ đang đối diện , nhận diện về sự đổ vỡ đã gần như tận cùng... Ðể cùng ước ao cho một ngày mai đoàn viên trong Thanh Bình...”
Nhà văn Song Thao
date: Mon, 20 Mar 2006 09:47:07-0500
From: tatrungson@hotmail.com
“Anh hỏi về nhạc với tôi thì cũng như...bù trất. Tôi nghe nhạc chỉ bằng một tai, nghĩa là nghe vậy thôi, còn hỏi tác giả của bản nhạc thì tôi phải thú nhận rất dở. Có khi tình cờ nghe thấy một bài nhạc quen quen, khi họ nói tên tác giả thì mới... “A! ra đó là nhạc của ông ấy”. Nhạc Phạm Thế Mỹ cũng vậy. Bữa trước tình cờ nghe thấy một bài nhạc quen quen, người giới thiệu nói đó là nhạc của Phạm Thế Mỹ lúc đó mới biết ông Phạm Thế Mỹ cũng khá...quen với mình mà không biết. Phải chi anh hỏi về ca sĩ, nhất là nữ ca sĩ thì tôi rành sáu câu hơn nhiều!”
Nhà viết biên khảo Nguyễn Vy Khanh
date : Mon, 20 mar 2006 11:01:31 – 0800 (PST)
From: nguyenvykhanh@yahoo.com
“Tôi không quen biết nhạc sĩ PTM nhưng thời học trò rất yêu thích một số bài hát như Ðan Áo Mùa Xuân, Trăng Tàn Trên Hè Phố, Thư Về Em Gái Thành Ðô, Những Ngày Xưa Thân Ái, ... Tuy nhiên khoảng đầu thập niên 1970, dấn thân trong một số hoạt động sinh viên ở Sài-gòn, tôi tình cờ biết được một số hoạt động trí thức và sinh viên vận của phía bên kia, cá nhân tôi bớt và rồi hết thích các sáng tác của những người lúc nào cũng có mặt bên các sinh viên học sinh hoặc viết báo chống chính quyền. Những năm gần đây, ở ngoài rồi, có những lúc (khá hiếm) nghe được các nhạc phẩm của các nhạc sĩ ấy thì nhạc của PTM được đón nhận lại, như một tiếc nuối, như nỗi buồn phiền đã nguội nhưng vẫn chưa nguôi !”
Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn (còn là một giọng ca trong nhiều sinh hoạt công cộng)
date : Mon, 20 Mar 2006 11: 24: 06-0800 (PST)
From: son_hoang42@yahoo.com
“Tôi không biết nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ có sáng tác nhiều hay không, nhưng chỉ nghe chừng vài bài cũng đã thấm thía. Theo tôi nhạc PTM có giá trị thẩm định với thời gian. Nét nhạc của ông dạt dào hồn quê và thắm đượm tình người. Tôi có diễn ca nhạc PTM và có được sự đáp ứng khá nồng nhiệt phía người nghe. Ca khúc Bông Hồng Cài Áo há chẳng phải là một trong những tuyệt tác viết về Mẹ hay sao ? ”
Nhà thơ Triều Hoa Đại
date : Mon, 20 Mar 2006 11:36 : 02-0800 (PST)
From : thdai1@yahoo.com
“Theo tôi, bất kỳ ai đã từng ở Đà Nẵng và miền Trung thì cũng đều biết đến nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, bởi vì ông là một người có một tâm hồn rất nghệ sĩ, tính tình hòa nhã. Lời nhạc của Phạm Thế Mỹ là tiếng nói từ trái tim ông bộc phát, một trái tim yêu người, yêu cuộc đời. Và hơn thế nữa, theo tôi, hình như ông rất yêu những người “chân lấm tay bùn”, “Đây xóm nghèo quê tôi khi nắng lên, hương lúa đẹp tình quê thêm trìu mến...”. Tôi rất thích bài này khi còn đi học, và chắc sẽ còn thích mãi đến cuối đời”
Nhà thơ Song Vinh
date : Mon, 20 Mar 2006 21: 55: 46-0800 (PST)
From: songvinh@yahoo.com
“Sài Gòn của những năm 1973 là thời điểm để nhạc của Phạm Thế Mỹ đi sâu vào lòng người. Có lẽ trong chúng ta ai cũng một lần đã nghe Những Ngày Xưa Thân Ái. Bài ca gắn liền tuổi trẻ với loạn ly, để hôm nay trở thành tiêu mục cho nhiều trang học sinh hải ngoại. Nhạc Phạm Thế Mỹ không ngừng ở đó. Hãy nghe thêm Bông Hồng Cài Áo, Đường Về Hai Thôn, Thư Về Em Gái Thành Đô, Tóc Mây...để biết trên dòng nhạc của Phạm Thế Mỹ gắn bó với nhiều thứ tình: quê hương, con người, lứa đôi.. Khi bước chân xa xứ hôm nay, chúng ta vẫn còn Bóng Mát của Phạm Thế Mỹ như một chúy gì nhớ nhung nhắn gởi”
Nữ sĩ Nguyên Thảo
date: 21 Mar 2006 05 : 44: 44 -0800(PST)
From: chantam1@yahoo.com
“Cho dù ở độ tuổi nào trong thời chinh chiến tại quê nhà, chỉ cần có nghe nhạc, thích nghe nhạc một chút xíu thôi, có lẽ hầu hết mọi người đều biết đến dòng nhạc êm đềm của người nhạc sĩ mang tên Phạm Thế Mỹ. Tình bạn, tình quê hương và trên tất cả là tình Mẹ, phải nói rằng nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã chinh phục hàng triệu con tim Việt Nam qua ba nhạc phẩm tiêu biểu Những Ngày Xưa Thân Ái, Trăng Tàn Trên Hè Phố và Bông Hồng Cài Áo.
Phạm Thế Mỹ người nhạc sĩ đã 77 tuổi hiện đang sống quãng đời còn lại trên một căn gác nhỏ nghèo khó ở Khánh Hội, Sài Gòn, sau khi bị chấn thương sọ não hơn một năm trước”
Nhà phê bình Đặng Tiến (nhà thơ Nam Chi)
date: Wed 22 Mar 2006 12:55:41 + 0100
From: dangtien@wanadoo.fr
“Tôi có quen Phạm Thế Mỹ, ông ấy là hàng xóm ở Đà Nẵng. Những năm 60 tôi có nghe nhạc Phạm Thế Mỹ. Nhạc trong sáng, dịu dzàng, lời ca thường gợi cảnh nông thôn, êm đềm, thi vị. Ông ấy còn làm thơ, thường là thơ mới, hiện đại. PTM là người nặng lòng với dzân tộc và đất nước, nên đã tham gia những phong trào đấu tranh cho dzân chủ, tự dzo và hòa bình vào những năm 1963-1975. Thơ nhạc của ông phản ánh tâm tình dzân tộc thiết tha của ông ấy. Tôi cũng biết hai người anh là nhà thơ Phạm Hổ (Hà Nội), nhà văn Phạm Văn Ký (Paris, đoạt giải thưởng lớn về tiểu thuyết của Hàn Lâm Viện Pháp quốc với truyện dzài Perdre La Dameure - Mất Nơi Trú Ẩn- 1962. Phạm Văn Ký là người đã viết tựa cho tập Gái Quê của Hàn Mặc Tử năm 1932. Thời ấy ông đã có tập thơ tiếng Pháp Une Voix Sur La voie - Tiếng Nói Trên Đường- ông ấy đã qua đời). Tôi vẫn nhớ bà mẹ PTM mà tôi quí mến, sinh thời bà ấy quan tâm và rất thương tôi”
Nhạc sĩ Phạm Anh Dũng
date: Wed, 22 Mar 18 : 26: 35-0800 (PST)
From: phamanhdung1@yahoo.com
“Phạm Thế Mỹ là một nhạc sĩ có tài. Anh viết nhiều loại nhạc, kể cả trường ca, nhạc kịch. Nhưng Phạm Thế Mỹ nổi tiếng về những ca khúc hay nhạc âm hưởng dân tộc, ngũ cung, tiêu biểu như Bong Hồng Cài Áo. Ngoại trừ bài Tóc Mây có âm điệu trữ tình của nhạc tiền chiến”.
Nhà văn Phan Nhật Nam
Thu 23 Mar 2006 12:22:19 EST
From: Pnn943@aol.com
“Khi ở Đà Nẵng (50-60), có giai đoạn (57-59), tôi ở sau lưng nhà Phạm Thế Mỹ (đường Nguyễn Thị Giang, bên cạnh trụ sở Lao động và nghĩa trang người Pháp) Vì là người dị ứng với giới ca nhạc từ nhỏ (lúc chưa đủ trí khôn để hiểu tại sao), khi lớn lên tôi hiểu ra (và tin là mình hiểu đúng). Những người đến với âm nhạc vì nhu cầu nghề nghiệp và thành công nhờ kỹ thuật hơn là một tấm lòng, Văn Cao, Phạm Duy hay Trịnh Công Sơn cũng thế. Tuy nhiên khi ở tù ngoài Bắc, nghe anh em đàn hát (trong giá lạnh, đem đen, cảnh khổ, sự chết) bài Trăng Tàn Trên Hè Phố làm tôi rất xúc động, vì đây là của miền Nam chứ không chỉ của Phạm Thế Mỹ”
Ca sĩ Quỳnh Giao
Thu 23 Mar 2006 19: 15 : 05-0500
From: quynhgiaomusic@aol.com
“Tôi thích bài Tóc Mây khi nghe Thái Hiền hát bài này. Nhưng bản thân tôi thì chưa hát bài nào của anh Phạm Thế Mỹ. Tôi nghĩ phải biết một số tác phẩm về một người mới có ý kiến chính xác được... Nếu có ý kiến nho nhỏ, thì nhạc anh Phạm Thế Mỹ, theo tôi, có nét đặc thù của quê hương, từ lời đến âm điệu, điển hình nhất là bài Bóng Mát”.
Nhà thơ Phan Xuân Sinh
PXsinh@comcast.net . 25 Mar
“Tôi không những biết nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ, mà là học trò của thầy PTM thời trung học đệ 1 cấp. Tôi đã nghe nhiều nhạc PTM. Nhạc của ông là một trong những loại nhạc hiếm hoi thời đó. Nói lên được tâm trạng của một thế hệ không may mắn vì ngụp lặn trong một cuộc chiến tồi tệ. Riêng cá nhân tôi rất kính trọng phong cách của ông và nhạc của ông là tấm gương soi cho thế hệ chúng tôi, cất tiếng gìum chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thiết nhất”.
Trong số những bạn tôi xin câu trả lời, có ba người từ chối. Trò chơi kết thúc như trên kể cũng đẹp quá rồi.
Montréal, hôm nay, 21 tháng 3 năm 2006, đất trời chính thức bước vào mùa xuân. Tuy vẫn còn đang ở bảy độ âm, nhưng tôi thấy ấm áp vô cùng. Mới chỉ tạm hoàn tất 9 bài viết cho một dự trù gồm trên hai mươi bằng hữu. Nhưng chắc rồi sẽ xong ngay thôi. Kể chuyện “đời xưa chưa cũ” đâu có gì phức tạp, khó khăn lắm, nhất là kỷ niệm đã có sẵn trong lòng, trong đầu, vui tay thì cứ việc gõ lên bàn chữ. Hơi khó hơn làm thơ một chút vì chưa quen ngón nghề. Câu, từ còn lủng củng, nhưng chắc không có sao. Có trăng, có chữ là được rồi. Không thành văn thì thành thơ xuôi. Hơi đâu nghe chị vợ, tình cờ một hôm thắc mắc: “Anh viết cái gì cả ngày vậy, không biết mỏi lưng à ?” rồi giả đò quan tâm, liếc mắt kiểm soát, đọc thoáng một chặp, la hoảng “viết cái gì lẩm cẩm, vô ích quá. Đứng dậy xuống rửa ba cái chén giúp tôi một tay, coi bộ tốt hơn”. Rửa chén thì tôi vẫn rửa ngon lành đấy chứ, nhưng “lẩm cẩm” cũng phải có để mà thư giãn tinh thần của một người... ngồi không chớ bộ. Có lẩm cẩm mới nhớ được thằng A còn sống, thằng B đã chết, thằng C vẫn còn cưới vợ như ông gì bảy mươi, cha ca sĩ Trần Thu Hà ấy.
Bạn của tôi ơi ! hỡi những “bạn già.. lớp trước nay còn mấy / chuyện cũ mười điều chín chẳng như” (Nguyễn Khuyến) của tôi ơi, Tôi nhớ tất cả các bạn, muốn viết một vài dòng cho mỗi người, từ các bạn thời tiểu học, thời ở mặt trận... Nhưng chắc chắn tôi không thực hiện nổi. Dù tôi không dùng quĩ thời gian còn lại để viết những bài bôi bẩn một người tài danh nào đó đã khuất núi, để ăn ké chút hào quang, như một số người, cũng có danh tài chút đỉnh, đã viết, đã liên tục gởi vô tội vạ đến địa chỉ điện thư của nhiều người, trong đó có tôi. Tôi nhắc điều này ở đây có vẻ như lạc đề. Nhưng nghĩ kỹ có lẽ không. Người viết về người cả đấy mà. Và tôi phải băn khoăn, sao có người không chịu để tâm hồn của chính họ thanh thản? Có lẽ nhận e-mail không sạch sẽ nhiều quá, tôi đâm cáu. Thôi thì hôm nay phải tạm nghỉ ít giờ ra ngoài trời thở vài cái cho vững sức mà nhớ nhung tiếp.
Ghi thêm:
Sau 2 phút kết thúc bài viết, tôi nhận được điện thư của anh Sơn Huy, đài VOVN cho số điện thoại của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Chữ “đương nhiên” tôi ghi trên khi chưa nhận được hồi âm có vẻ vội vàng. Thật ra chính vì hiểu nguyên tắc, không ai báo số điện thoại người khác cho một người chưa rõ xuất xứ, chữ đương nhiên chính là điểm này. Mong anh Sơn Huy thông cảm và không quên cảm ơn anh một lần nữa.
Cơm tối xong. Nằm thẳng lưng trên giường, định xem hockey nhưng lại thôi, tôi nhờ Lý bấm số điện thoại gọi Phạm Thế Mỹ, vào lúc 20 giờ 38 phút, số gọi đầy đủ từ Montréal về Sài Gòn: 0118-488.265.434. Chuông reo, con gái Mỹ bắt phone, rồi tôi gặp được người muốn gặp Cuộc điện đàm đến 21 giờ 11 thì ngưng.
Những giây phút đầu thật xúc động. Anh Mỹ thỉnh thoảng gọi lớn: Hoán ơi ! nhớ quá...tôi thì xưng hô lộn xộn lúc tôi, lúc em. Giọng anh nói có lúc nghe rõ như xưa, có lúc không nghe được. Giọng tôi anh nghe rất rõ, không thay đổi, theo nhận xét của anh. Anh cho biết ăn được, ngủ được. Thân thể không ốm yếu, chỉ bên chân phải không đi được tử tế. Anh buồn vì cả ngày như bị giam, có ngồi trước đàn dương cầm nhưng chóng chán. Anh thúc hối gởi thơ về cho anh phổ nhạc chơi. Anh đọc cho tôi địa chỉ: cư xá Vĩnh Hội, Phòng T11, Phường 6, Quận 4 thành phố HCM. Tôi hỏi về người mang tên Sơn Huy, anh không biết, nhưng lại biết anh Nguyễn Ngọc Túy, học sinh cũ. Anh Túy có tin cho anh biết về buổi Phạm Thế Mỹ Ngày Xưa Thân Ái, anh mừng lắm và đang mong đợi ngày ấy chóng đến, dù anh không được trực tiếp tham dự. Anh kể với tôi chuyện gia đình, khoe sắp có cháu nội và chị Lý vẫn đi dạy học lai rai nuôi gia đình qua ngày. Mỹ có ba cháu với chị Huệ, hiện đã trưởng thành, cùng ở California với chị. Anh cũng có một trai, 27 tuổi và một gái, vừa xong tú tài, với chị Lý. Anh cho biết Miên Đức Thắng đã đi đi về về Việt Nam làm ăn, và thỉnh thoảng ghé đến thăm anh. Ngoài Thắng ra gần như không còn ai. Anh cũng cho biết đã điện thoại thăm anh Phạm Duy, anh Duy vẫn thích nói nhiều như xưa. Anh nhắc đi nhắc lại đã 76 tuổi rồi (sinh năm 1930 là chính xác), lại không đi đâu được, bạn bè chẳng còn ai. “Còn ai, ai biết còn ai / còn riêng ta với quan tài nhớ thương/ quệt tìm một chút bụi đường / gắng hình dung thử nỗi buồn đến đâu /ai về đâu, ai đến đâu/ đến đâu là đến đâu đâu bây giờ ?/ còn văn, còn nhạc, còn thơ / có còn cái chỗ cùng vào ba hoa/ cho dù chỉ còn lòng ta/ vẫn xin bè bạn thiết tha ghé về...” (Luân Hoán).
Tôi hứa sẽ cố gắng về thăm anh, nhưng chính mình cũng không rõ giá trị của lời hứa được bao nhiêu phần trăm khả thi. Hoán ơi, nhớ quá ! anh gọi lên năm, bảy lần trong câu chuyện. Làm sao mà không nhớ được những năm tháng đã có với nhau những kỷ niệm vui buồn. Tôi sẽ gởi cho anh những cuốn sách của tôi theo như lời anh căn dặn. Những thứ xa xỉ phẩm này chưa biết gởi bằng cách nào. Ước chi Bưu điện Việt Nam thực thi nghị quyết 36, 37 hay 38 gì đó một cách “vô tư” về văn hóa phẩm...Buồn buồn tôi viết mấy câu chơi, tạm lấy tên “thăm nhau qua điện thoại”.
chợt nghe được giọng bạn hiền
sao tôi bỗng lặng im liền mấy giây
coi kìa, giọt nước gì đây
rịn trên khóe mắt cay cay bất ngờ ?
Hoán ơi, nhớ quá...bao giờ
gặp nhau như thuở dật dờ ngày xưa ?
anh hỏi, tôi lặng... quên thưa
gượng tay chặm mắt lòng chưa sạch lòng
giọng anh như tấm gương trong
không soi cũng thấy tháng năm chúng mình
cái thời anh rót chân tình
lên từng nốt nhạc hiển linh cho đời
cái thời tôi mãi ham chơi
bỏ rơi một đoạn chân nơi chiến trường
nhạc anh thòng cánh tay buồn
nâng tôi đứng dậy bình thường lâu nay
bây giờ, ai đỡ anh đây
câu thơ tôi chỉ sợi dây úng sầu
có còn được vịn vào nhau
vui chân qua khắp chiều sâu thân tình
giữ cho lòng mãi rập rình
cái thương cái nhớ xinh xinh cuộc đời
sống trong anh sống trong tôi
hạt thơ mầm nhạc xanh chồi như xưa
tôi chưa thừa, anh chưa thừa
ít ra còn điểm tựa vừa nhớ nhung
vét tình vãi rộng không trung
Hoán ơi, nhớ quá, nơi dừng, đến chưa ?”
*lưu ý: mọi những dấu (/), sử dụng phía trên, được thêm vào để thay dấu chấm xuống hàng, không có trong nguyên bản.
Luân Hoán
Powered by vBulletin® Version 4.2.0 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.