violet09
02-02-2008, 09:49 AM
Tết Nguyên Đán & Lễ Nghênh Xuân
Những bài viết cùng tác giả
Nguyên = đầu, Đán = buổi sớm mai. Nguyên Đán là buổi sớm mai của đầu năm. Tết Nguyên Đán là cái lễ đầu tiên của năm mới, vào ngày mồng một tháng giêng âm lịch, song không phải tháng giêng bao giờ cũng bắt đầu vào tháng Dần như hiện nay vì thuở xưa mỗi triều đại lên ngôi lại đổi ngày Chính sóc (sóc = mồng một, đầu tháng âm lịch) .
Âm lịch lấy tên 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...) đặt tên cho 12 tháng, 6 tháng thuộc dương, 6 tháng thuộc âm, theo luật "tiêu trưởng": hễ âm tiêu thì dương trưởng, âm trưởng thì dương tiêu v.v..
Nhà Tần chọn tháng Hợi (tháng 10) làm tháng giêng. Theo Kinh Dịch thì quẻ Khôn ở Hợi cung (Khôn là Đất, là đầu mối mọi cuộc biến thiên) và tháng 10 thì khí dương đã hàm chứa ở dưới.
Nhà Chu chọn tháng Tý (tháng 11) làm tháng giêng. Quẻ Phục ở Tý cung, tháng 11 thuộc tiết Đông chí, dương bắt đầu sinh, khôi phục lại nguyên khí.
Nhà Thương, sau đổi gọi là nhà Ân, chọn tháng Sửu (tháng l2) làm tháng giêng. Quẻ Lâm ở Sửu, Sửu là trâu, trâu thuộc Thổ là Đất, Đất có thể ngăn nước, chống rét nên trong lễ Lập Xuân người ta làm trâu bằng đất để tống khí lạnh đi.
Nhà Hạ, nhà Hán và hiện thời chọn tháng Dần làm tháng giêng. Quẻ Thái ở Dần cung (Thái = hanh thông), khí hậu ấm áp trở lại, tiện cho việc nông, nên ngày Tết Nguyên Đán vừa là ngày lễ mừng mùa Xuân trở lại, vừa là ngày lễ bắt đầu năm mới .
Chúng ta ăn Tết Nguyên Đán chắc là theo Trung quốc vì có nhiều tục lệ của Trung quốc thấy bên ta cũng áp dụng :
1 - Lập Xuân:
Kinh Lễ ghi rằng trước Tiết Lập Xuân ba ngày, quan Thái sử tâu ngày hôm ấy lập Xuân, thịnh đức ở Mộc, thiên tử bèn trai giới. Ngày Lập Xuân, thiên tử dẫn các quan và chư hầu ra cửa thành phía Đông đón Xuân. Khi quay về thưởng cho các công khanh, đại phu ở triều đình rồi ra lệnh ban bố ân đức cho muôn dân, hoàn tất lễ lớn .
2 - Lễ Ban Sóc:
Tương truyền đời vua Nghiêu (2357-2257 tr. TL) sai Hy Hòa làm lịch, phân định bốn mùa để dân thuận theo mùa và thời tiết mà cầy cấy, trồng trọt. Do đó có lệ đầu năm triều đình phát lịch, gọi là Lễ Ban Sóc.
Lịch ấy tính một năm có 360 ngày và có tháng nhuận, song độ số mặt trời tính còn sai. Đời Nam Tề, Tổ Xung Chi sửa lại ; đời Minh, châm chước theo lịch Hồi Hồi cũng vẫn chưa đúng. Đến đời Thanh, Thang Nhược Vọng (Adam Schall) sửa lại lần nữa, theo cách tính của Âu châu [3].
3- Tết Nguyên Tiêu:
Ở Trung quốc có tục chơi đèn suốt đêm rằm tháng giêng, có thể kéo dài từ 13 đến 17 tháng giêng. Khắp thành phố nhà nào cũng chăng đèn ngũ sắc trước cửa, bầy biện trong nhà như ngày đại hội, làm những toà giả sơn trên kết rồng xanh hoặc trắng, có tới mấy nghìn ngọn đèn sáng, có khi giả sơn kết hai con rồng đỏ, vây rất lớn, mỗi cái vây rồng là một ngọn đèn, miệng rồng phun nước trong v.v... Trên cầu, dưới sông thắp đèn rực rỡ, hát múa đủ trò, tiếng ca nhạc vang xa hàng chục dậm, du khách chật đường.
Lê Quý Đôn cho biết : Hán Vũ Đế thờ thần Thái Nhất (Thiên Hoàng Đại Đế ), cúng từ tối đến sáng . Về sau cứ ngày Thượng nguyên (rằm tháng giêng) người ta trưng đèn, tục trưng đèn ngày rằm tháng giêng có từ đấy [4].
Theo Văn Hòe thì nguồn gốc Tết Nguyên Tiêu là ở đạo Lão. Đạo Lão cho là có ba vị thần chủ tể việc giáng phúc, xá tội cho người trần :
a - Thiên quan giáng phúc vào lễ Thượng nguyên là lễ long trọng hơn cả nhất là về ban đêm. Từ đời Đường đã làm lễ này, cũng gọi là lễ Cầu Phúc.
Đường Thư chép rằng đêm Nguyên tiêu hay Nguyên tịch, tức đêm rằm tháng giêng, vua Đường Duệ Tông sai làm một cây đèn cao 20 trượng, thắp 5 vạn ngọn đèn, ánh sáng chiếu khắp nơi, gọi là HỏaThụ (cây lửa), vì thế đêm Nguyên tiêu cũng gọi là Đăng Tiết (Tết Đèn) .
b - Địa quan xá tội vào lễ Trung nguyên, ngày rằm tháng 7 ;
c - Thủy quan giải ách nạn vào lễ Hạ nguyên, ngày rằm tháng 10.
I - Tết Nguyên Đán thời Cổ
Nước ta ăn Tết từ bao giờ thì chưa rõ. Nếu căn cứ vào tục ăn bánh chưng ngày Tết và truyền thuyết cha ông ta biết làm bánh chưng từ thời Hùng vương thì ta đã ăn Tết từ đời các vua Hùng, song đấy chỉ là phỏng đoán, không có bằng chứng. Sách sử của ta chép về Tết rất sơ lược, chỉ một vài chi tiết cho thấy từ đời Lê Đại Hành (980-1005) ta đã có tục chơi đèn vào tháng giêng :
"Năm 992, tháng giêng, Vua ngự điện Càn nguyên để xem đèn"
"Năm 1100, tháng giêng, Lý Nhân Tông bầy hội Quảng-chiếu đăng ở ngoài cửa Đại-Hưng (cửa Nam,
Thăng-Long).
A - Nhà Trần
1 - Tết Nguyên Đán.
Trong An-nam Chí Lược, Lê Tắc chép tương đối khá nhiều tục lệ ăn Tết thời nhà Trần :
Trước Tết hai ngày, vua đi xe ngự dụng, các quan mặc triều phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích (một vị thần trong Phật giáo, làm chủ chư thiên) ở ngoài thành Thăng-Long.
30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-củng cho bề tôi làm lễ, rồi xem con hát múa trăm lối. Đến tối qua cung Động-nhân, bái yết tiên vương. Đêm, cho thầy tu làm lễ Khu-na (đuổi tà ma) ở trong nội.
Dân gian mở cửa, đốt pháo tre, cỗ bàn, trà rượu, cúng tế.
Ngày Nguyên Đán, khoảng canh năm, vua ngự điện Vĩnh-thọ cho các tôn tử (con cháu) và cận thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường-xuân vọng bái các lăng tổ.
Sáng sớm, vua ngự điện Thiên-an, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộn xộn trước điện tấu nhạc. Các tôn tử và bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần. Dâng rượu xong, các tôn tử lên điện chầu dự yến. Các quan nội thần (hoạn quan) ngồi ở tiểu điện phía Tây, các ngoại thần ngồi ở Tả vu, Hữu vu (nhà bên trái và bên phải nối vào chính điện). Tiệc đến trưa mới tan.
Lại sai thợ khéo làm đài Chúng tiên hai từng, ở trước điện. Làm một lúc thì xong, vàng ngọc chói ngời. Vua ngồi ăn trên đài, các quan làm lễ chín lạy, dâng chín tuần rượu rồi giải tán.
Mồng 2, các quan làm lễ riêng ở nhà.
Mông 3, vua ngồi trên gác Đại-hưng xem các tôn tử, các quan nội cung đánh cầu, ai bắt được, không để cầu rơi xuống, là thắng. Quả cầu to bằng nắm tay, làm bằng gấm thêu, có 20 sợi tua dài lòng thòng.
Mồng 5, làm lễ Khai-hạ (hạ nêu, trở lại cuộc sống bình thường). Ăn yến xong, các quan và dân chúng đi lễ chùa, miếu hay đi du ngoạn các vườn hoa.
Đêm Nguyên tiêu (rầm tháng giêng) trồng những cây đèn Quang-chiếu ở giữa sân rộng, thắp mấy vạn ngọn, sáng rực trời đất. Chư tăng đi quanh tụng kinh Phật (...) các quan lễ bái, gọi là lễ Chầu đèn.
Tháng 2, làm cái Xuân Đài. Con hát hoá trang thành 12 vị thần, múa hát trên đài.
Vua coi các trò tranh đua dưới sân, lực sĩ và trẻ con đấu nhau, ai thắng được thưởng. Công hầu cưỡi ngựa, đánh cầu, quan nhỏ thì đánh cờ, đánh vu bồ (bài thẻ) . . .
2 - Tiết Lập Xuân và Lễ Nghênh Xuân.
Sách Lễ ký thiên "Nguyệt lệnh" chép : "Tháng cuối mùa Đông, vua sai quan Hữu-ty (chuyên viên) đem con Trâu đất ra lễ để đuổi khí lạnh đi, trâu giỏi cày có thể chỉ bảo việc làm ruộng sớm hay muộn.
Tùy thư, Lễ Nghi Chí chép : 5 ngày trước Tết Lập Xuân, làm tượng con Trâu đất, Người cày ruộng và Cái cày để ở ngoài cửa Đông môn. Rạng sáng ngày hôm ấy, quan cầm roi ngũ sắc đánh trâu ba roi để tỏ ý khuyến nông.
Điển nhà Thanh chép rằng trong ngày Lập Xuân, dâng vua tượng Mang thần (thần Cỏ Mang, hoa nở sớm hơn các loài hoa khác, hay thần Câu Mang, trông coi tháng giêng, tượng trưng cho mùa Xuân mới đến), tượng Trâu đất và tượng Núi mùa Xuân, đều bầy trên án để làm lễ đón Xuân cùng khí hòa ấm.
Đánh trâu ngụ ý trọng nông.
Thời nhà Trần, ngày Lập Xuân, vua quan làm lễ Nghênh Xuân ở phương Đông (Đông giao). Vua sai vị trưởng họ dùng roi đánh Trâu đất. Sau đó, các quan cài hoa lên mũ rồi vào cung dự tiệc.
Trong tháng Xuân, người làm mối bưng tráp trầu cau đến nhà gái hỏi và tặng lễ vật, thường dân giá trăm, nhà cao sang giá hàng nghìn, những người chuộng lễ nghĩa thì không kể ít nhiều. Con trai, con gái nhà nghèo không có người mai dong để làm hôn lễ thì tự mình phối hợp với nhau
B - Nhà Lê
Sử chép rất ít về Tết đầu thời Lê :
- Năm 1435, mồng một, vua (Thái Tông) dẫn các quan làm lễ yết miếu. Khi về cung mặc áo trắng coi chầu, nổi nhạc, thét đường. Các quan mặc cát phục dâng biểu yên ủi (Thái Tổ mới băng).
Ban yến trong 5 ngày cho các quan văn võ trong ngoài, phát trên cho các quan làm việc ở ngoài theo thứ bực .
- Năm 1 449, tháng giêng ban yến cho các quan- Múa nhạc Bình Ngô Phá Trận do vua Thái Tông làm, .nhớ lại công khó nhọc sáng nghiệp của Thái Tổ, dùng vũ công định thiên hạ. Công thần có người cảm xúc phát khóc .
Các lễ Nghênh Xuân thời Trung Hưng
1 - Lễ Tiến lịch - Lược Phan Huy Chú :
Hàng năm, Tư-thiên-giám tính trước lịch cho năm sau, đến tháng 6 viết hai bản dự thảo, một bản dâng lên Vua và khai Chúa xin tiền in. Vua xem xong, giao cho Trung-thư-giám viết lại, Tri-giám coi việc khắc, khắc rồi Tư-thiên-giám đối chiếu trước khi đem in.
Trong tháng chạp chọn ngày dâng lên Vua chuẩn.
Đến ngày 24 tháng chạp làm lễ Tiến lịch.
Sáng hôm ấy, các quan mặc phẩm phục, theo chỉ của Chúa vào triều làm lễ.
Sáng sớm, Nghi-chế-ty và các Tự-ban đặt cái án dâng lịch ở giữa ngự đạo trước sân rồng. Bốn viên thông-tán, hai viên đứng ở phía Đông và phía Tây, hai viên đúng ở bên Tả và bên Hữu của Đoan-môn.
Ba hồi trông nghiêm , Tự-ban dẫn hai viên Tiến-lịch quan vào bên Đông sân rồng. Vua ngự lên ngai. Tự-ban dẫn quan Tiến-lịch đến giữa ngự-đạo. Xướng: "Cúc cung , bái, hưng (bốn lần), bình thân ". Lễ quan. Xướng .' "Tiến hoàng lịch ", Tự-ban dẫn quan Tiến- lịch đến trước án lịch giấy vàng. Xướng : "Quy, tiến lịch", quan Tiến-lịch để lịch lên án. Xướng: "Phủ phục, hưng, bình thân, phục vị", Tự-ban dẫn quan Tiến lịch từ phía Đông ngự đạo xuống đến vị bái. Xướng: "Cúc cung , bái, hưng (bốn lần), bình thân ". Tự-ban nhấc cái án để lịch lui ra.
Cáp-môn xướng : "Bài ban, ban tề", các quan chia thứ bậc đứng vào ban tề chỉnh. Lại xướng ."Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân ".
Quan Truyền-chế đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu truyền chế" rồi lạy xuống, vẫn quỳ. Quan Tư-lễ -giám đem tờ chế trao cho quan Truyền-chế. Viên này đỡ lấy lui ra, đúng phía Đông, hô .' "Hữu chế". Cáp môn xướng: "Bách quan giai quỵ", các quan quỳ xuống. Quan Truyền-chế đọc chế xong lui về chỗ đứng cũ. Xướng: Phủ phục, hưng, bái (bốn lần), bình thân". Lại xướng : "Bách quan phân ban thị lập", các quan phân ban đứng hai bên mà hầu. Nghi-chế-ty đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu lễ tất". Vua ngự về cung.
Tư-thiên-giám bưng cái án lịch trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa. Quan Lễ khoa đem lịch ban cho các quan. Các quan quỳ xuống nhận, giơ lịch ngang trán. Xong lễ lui ra [10].
2 - Lễ Khóa ấn
25 tháng chạp làm lễ Khóa ấn trong một tháng, hộp đựng ấn úp mặt xuống. Chỉ những việc trọng đại như sát nhân, phản quốc. . . mới được xét ngay, còn trộm cắp lặt vặt, đánh nhau, đòi nợ VV. thì đình chỉ, đợi ngày khai ấn mới xét xử.
3 - Lễ Tiến Xuân Ngưu
Hàng năm đến tháng 11, Tư-thiên-giám tâu ngày nào, tháng nào là tiết lập ít và kê cả kiểu mẫu làm Xuân ngưu (Trâu đất) giao cho Công bộ sai Thường-ban-cục làm. Tượng trâu to bằng thật, mỗi năm nhuộm một mầu, ứng với năm đó, tính theo âm dương ngũ hành.
Trước tiết Lập Xuân một ngày, buổi chiều, Thường ban-cục đem Trâu đến đàn tế, dựng ở phường Đông-hà. Lễ tế vào giờ Tý (nửa đêm), mở đầu ngày Lập Xuân. Quan Phủ-doãn và hai quan huyện Thọ-xương và Quảng-đức làm lễ xong thì sai rước đến đàn ở phường Hà-khẩu. Hôm sau rước đi sớm. Quan Phủ-doãn và các quan huyện lấy cành dâu đánh con trâu đất, rồi đem vào sân điện Vua làm Lễ Tiến Xuân Ngưu
Các quan vâng chỉ của Chúa, mặc phẩm phục làm lễ. Lễ xong, quan Tư-lễ-giám bưng cái án để Xuân ngưu trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa .
- Các nghi tiết thời Trung Hưng
1- Nghi tiết ở điện Kính-thiên. (lược Phan huy Chú) :
Sáng sớm mồng một, Tiết-chế-phủ (Con cả của Chúa Trịnh) vâng chỉ Chúa, dẫn trăm quan mặc phẩm phục vào chầu Vua để chúc mừng năm mới.
Trước một ngày, Thượng-thiết ty đặt ngự tọa của Hoàng thượng ở chính giữa kính thiên, đặt bảo án ở phía Đông, hương án ở trước ngự tọa. Giáo phường đặt Thiều nhạc (nhạc đời vua Thuấn, chính trị tốt, đức hiện rõ) và Đại nhạc gồm nhiều kèn, trống lớn, thanh la, tù và...) ở hai bên Đông và Tây sân rồng. Thủ vệ-ty dàn cớ xí, khí giới. Nghi-chế-ty đặt cái án đế các tờ biểu của Thừa-ty các xứ ở công đường Lễ bộ. Quan Lễ bộ và quan Thừa-ty các xứ trực đêm ở công trường Lễ bộ. Khi canh đã điểm lần thứ năm, trời sáng, trống và nhạc đi trước, các quan Thị dạ (hầu đêm) rước án biểu đến ngoài cửa Đoan-môn, tiến vào để ở phía Đông sân rồng, hơi ngoảnh về Bắc. Các quan rước án biểu đều đứng.
Trống nghiêm hồi đầu, các quan văn võ [kể cả Chấp-sự (Đạo lễ) và Triều-yết] đứng sắp ban ở ngoài cửa Đoan-môn.
Trống hồi thứ hai, quan Đạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ vào chỗ điếm ở Tả, Hữu sân rồng ngồi tạm. Các quan Đạo-lễ tiến vào sân điện Vạn-thọ rước Vua lên ngự giá, làm lễ năm lạy ba vái. Lễ xong lui về chỗ cũ ở hai bên Đông, Tây sân rồng.
Ngự giá đến cửa Kính-thiên thì quan Đạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ đứng phía Đông sân rồng, hơi về hướng Bắc. Tự-ban dẫn các quan vào sắp hàng hai bên Đông, Tây sân rồng. Các quan Thừa-ty, Triều-yết chìa đứng ở ngoài cửa Đoan-môn. Vua lên ngai. Giáo phường tấu khúc nhạc Văn-quang. Dứt tiếng chuông, vút roi (ra lệnh yên lặng khi làm lễ triều bái), nhạc nghi. Tư-thần-lang báo trời sáng. Thông-tán xướng: "Ban tề". Lại xướng: "Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân".
Quan Điển-nghi xướng: "Tiến biểu". Nhạc lại nổi lên. Hai viên Khoa quan dẫn bốn Tự-ban rước án biểu có tàn vàng che từ bên Đông sân rồng đem đặt giữa ngự đạo. Các Khoa quan dẫn bốn Tự-ban rước án biểu có tàn vàng che từ bên Đông sân rồng đem đặt giữa ngự đạo. Các Khoa quan, Tự-ban lui ra chia đứng hai bên Đông, Tây. Dẫn-tán xướng: "Tuyên biểu mục", quan Tuyên-biểu vào giữa ngự đạo quỳ đọc biểu chú c mừng của công hầu và các quan văn võ 12 đạo. Đọc xong, lạy rồi lui về chỗ đứng trước.
(Đến lượt đọc biểu phó của các quan triều thần, cũng theo nghi tiết trên).
Thông -tán xướng: "Phủ phục, hưng, bình thân, các cung tam cũ đạo". Lại xướng: "Bách quan giai quỵ, tung hô", các quan quỳ xuống, giơ tay ngang trán hô theo: "Vạn tuế" , ba lần như thế. Mỗi lần hô thì quân sĩ, phường nhạc, đồng thanh hô theo. Lại xướng: "Phủ phục, hưng, cú cung, bái (nhạc nổi lên), hưng (bốn lần), bình thân". Nhạc nghỉ.
Quan Đạo-lễ dẫn Tiêt-chế-phủ đến bên Đông, đứng ở vị trước. Thóng-tán xướng : "Bách quan phân ban thị lập". Nghi-chế-ty đến giữa ngự-đạo quỳ tâu : "Tấu lễ tất". Giáo phường ty cùng các Thụ đồng văn, Nhã nhạc (nhạc khí nhỏ hơn Đại nhạc) tấu khúc Hưu-minh. Vút roi. Vua về cung. Quan Tư-lễ-giám bưng tờ biểu để tiến vào nội điện. Nhạc nghỉ. Tiết-chế phủ và các quan lui ra .
2 - Nghi tiết ớ phủ Chúa. (lược) :
Sáng mồng một, hiệu Thiên-hùng bắn súng hiệu, hiệu Thị-trung đánh trống nghiêm. Tướng sĩ thuộc các đội thuyền đứng hầu hoặc đi tuân sát.
Tư-thiên-giám đã chọn giờ và phương hướng tốt để Chúa đi lễ. Các quan rước Chúa đến Thái miếu và Cung miếu hành lễ rồi về phủ.
Chúa ngự long tọa. Quan và lính hiệu Thị-hậu đứng hầu. Binh phiên ban tiền thưởng Xuân theo cấp bậc : nhất phẩm được 5 quan tiền, nhị phẩm được 4 quan cửu phẩm một quan, Tư-thiên-giám được 6 tiền, nhạc công một tiên.
Tư-thiên-giám chọn giờ tốt khải Chúa khai ấn. Tiết-chế-phủ dẫn các quan từ cửa Cáp-môn tiến vào phủ đường. Bốn viên Điển-gìám (dùng Khoa quan), hai đứng ở bên Tả và bên Hữu trong phủ, hai đứng ở ngoài phủ. Tiết-chế-phủ và các quan theo thứ tự lạy mừng. Chúa ban yến. Dự yến xong, các quan làm Iễ tạ ơn. Chúa về cung, Tiết-chế-phủ về phủ.
Các quan lại đến phủ Tíết-chế chúc mừng [13].
3- Tết Đàng Trong
Lê Quý Đôn cho biết ở Thuận-hóa, năm Canh-Dần, Tết Chính Đán thì 2 viên Cai cơ công tộc chỉ mừng tiền trầu 2 quan ; Cai đội 11 viên đều một con lợn thay tiền 10 quan, tiền trầu 1 quan ; chư tướng Ngoại tả 1 viên, Chưởng dinh 2 viên, Chưởng cơ 4 viên đều lợn một con thay tiền 10 quan, tiền trầu 5 hay 10 quan tùy hạng ; Cai cơ 10 viên chỉ mỗi viên 2 tiền trầu ; Cai đội 28 viên cũng như lệ Cai đội công tộc ; văn ban 5 viên, mỗi viên 2 tiền trầu vv..
4 - Tết qua ngòi bút của một chứng nhân ổ thế kỷ 17
Năm 1659, Bento Thiện. một "Thảy giảng" đạo Thiên chúa đã viết về Tết như sau :
"Thói nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng, gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy Vua, đoạn lạy Chúa, mới lạy ông bà ông vải, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy Vua Chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn Tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì Vua Chúa đi đền Giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng Địa Kì. Vua Chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bẩy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ an mười ngày. Lại xem ngày nào tốt mới mở ấn ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc ; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội Đài, Ngoại Hiến, Phú Huyện, quan đảng nha môn, mới có kiện cáo. Đến trung tuần mới có Khánh thọ bảo thần cho thiên hạ mừng tuổi Vua. Ai có nghề nghiệp gì thì làm cho Vua xem. Đến hạ tuần tháng giêng, ĐứcChúa lại Tế Kỳ Đạo dưới bãi cát, làm đàn thờ. Trước thì thờ Thiên Chúa Thượng Đê' một đàn, là một đàn từ Vua Lê Thái Tổ cho đến nay, một đàn thì thó Thần Kì Đạo. Đức Chúa lạy ba dàn này. Đoạn đến đàn Thần Kì Đạo, Đức Chúa lạy đoạn, liền chỉ gươm cùng chém, lại bắn cung. Đoạn lại đánh trống mà chỉ gươm cho thiên hạ mới đuôi đi, thì gọi là khao quân. Đoạn liền về tập voi tập ngựa, gọi rằng đã hết năm mới .
Những bài viết cùng tác giả
Nguyên = đầu, Đán = buổi sớm mai. Nguyên Đán là buổi sớm mai của đầu năm. Tết Nguyên Đán là cái lễ đầu tiên của năm mới, vào ngày mồng một tháng giêng âm lịch, song không phải tháng giêng bao giờ cũng bắt đầu vào tháng Dần như hiện nay vì thuở xưa mỗi triều đại lên ngôi lại đổi ngày Chính sóc (sóc = mồng một, đầu tháng âm lịch) .
Âm lịch lấy tên 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...) đặt tên cho 12 tháng, 6 tháng thuộc dương, 6 tháng thuộc âm, theo luật "tiêu trưởng": hễ âm tiêu thì dương trưởng, âm trưởng thì dương tiêu v.v..
Nhà Tần chọn tháng Hợi (tháng 10) làm tháng giêng. Theo Kinh Dịch thì quẻ Khôn ở Hợi cung (Khôn là Đất, là đầu mối mọi cuộc biến thiên) và tháng 10 thì khí dương đã hàm chứa ở dưới.
Nhà Chu chọn tháng Tý (tháng 11) làm tháng giêng. Quẻ Phục ở Tý cung, tháng 11 thuộc tiết Đông chí, dương bắt đầu sinh, khôi phục lại nguyên khí.
Nhà Thương, sau đổi gọi là nhà Ân, chọn tháng Sửu (tháng l2) làm tháng giêng. Quẻ Lâm ở Sửu, Sửu là trâu, trâu thuộc Thổ là Đất, Đất có thể ngăn nước, chống rét nên trong lễ Lập Xuân người ta làm trâu bằng đất để tống khí lạnh đi.
Nhà Hạ, nhà Hán và hiện thời chọn tháng Dần làm tháng giêng. Quẻ Thái ở Dần cung (Thái = hanh thông), khí hậu ấm áp trở lại, tiện cho việc nông, nên ngày Tết Nguyên Đán vừa là ngày lễ mừng mùa Xuân trở lại, vừa là ngày lễ bắt đầu năm mới .
Chúng ta ăn Tết Nguyên Đán chắc là theo Trung quốc vì có nhiều tục lệ của Trung quốc thấy bên ta cũng áp dụng :
1 - Lập Xuân:
Kinh Lễ ghi rằng trước Tiết Lập Xuân ba ngày, quan Thái sử tâu ngày hôm ấy lập Xuân, thịnh đức ở Mộc, thiên tử bèn trai giới. Ngày Lập Xuân, thiên tử dẫn các quan và chư hầu ra cửa thành phía Đông đón Xuân. Khi quay về thưởng cho các công khanh, đại phu ở triều đình rồi ra lệnh ban bố ân đức cho muôn dân, hoàn tất lễ lớn .
2 - Lễ Ban Sóc:
Tương truyền đời vua Nghiêu (2357-2257 tr. TL) sai Hy Hòa làm lịch, phân định bốn mùa để dân thuận theo mùa và thời tiết mà cầy cấy, trồng trọt. Do đó có lệ đầu năm triều đình phát lịch, gọi là Lễ Ban Sóc.
Lịch ấy tính một năm có 360 ngày và có tháng nhuận, song độ số mặt trời tính còn sai. Đời Nam Tề, Tổ Xung Chi sửa lại ; đời Minh, châm chước theo lịch Hồi Hồi cũng vẫn chưa đúng. Đến đời Thanh, Thang Nhược Vọng (Adam Schall) sửa lại lần nữa, theo cách tính của Âu châu [3].
3- Tết Nguyên Tiêu:
Ở Trung quốc có tục chơi đèn suốt đêm rằm tháng giêng, có thể kéo dài từ 13 đến 17 tháng giêng. Khắp thành phố nhà nào cũng chăng đèn ngũ sắc trước cửa, bầy biện trong nhà như ngày đại hội, làm những toà giả sơn trên kết rồng xanh hoặc trắng, có tới mấy nghìn ngọn đèn sáng, có khi giả sơn kết hai con rồng đỏ, vây rất lớn, mỗi cái vây rồng là một ngọn đèn, miệng rồng phun nước trong v.v... Trên cầu, dưới sông thắp đèn rực rỡ, hát múa đủ trò, tiếng ca nhạc vang xa hàng chục dậm, du khách chật đường.
Lê Quý Đôn cho biết : Hán Vũ Đế thờ thần Thái Nhất (Thiên Hoàng Đại Đế ), cúng từ tối đến sáng . Về sau cứ ngày Thượng nguyên (rằm tháng giêng) người ta trưng đèn, tục trưng đèn ngày rằm tháng giêng có từ đấy [4].
Theo Văn Hòe thì nguồn gốc Tết Nguyên Tiêu là ở đạo Lão. Đạo Lão cho là có ba vị thần chủ tể việc giáng phúc, xá tội cho người trần :
a - Thiên quan giáng phúc vào lễ Thượng nguyên là lễ long trọng hơn cả nhất là về ban đêm. Từ đời Đường đã làm lễ này, cũng gọi là lễ Cầu Phúc.
Đường Thư chép rằng đêm Nguyên tiêu hay Nguyên tịch, tức đêm rằm tháng giêng, vua Đường Duệ Tông sai làm một cây đèn cao 20 trượng, thắp 5 vạn ngọn đèn, ánh sáng chiếu khắp nơi, gọi là HỏaThụ (cây lửa), vì thế đêm Nguyên tiêu cũng gọi là Đăng Tiết (Tết Đèn) .
b - Địa quan xá tội vào lễ Trung nguyên, ngày rằm tháng 7 ;
c - Thủy quan giải ách nạn vào lễ Hạ nguyên, ngày rằm tháng 10.
I - Tết Nguyên Đán thời Cổ
Nước ta ăn Tết từ bao giờ thì chưa rõ. Nếu căn cứ vào tục ăn bánh chưng ngày Tết và truyền thuyết cha ông ta biết làm bánh chưng từ thời Hùng vương thì ta đã ăn Tết từ đời các vua Hùng, song đấy chỉ là phỏng đoán, không có bằng chứng. Sách sử của ta chép về Tết rất sơ lược, chỉ một vài chi tiết cho thấy từ đời Lê Đại Hành (980-1005) ta đã có tục chơi đèn vào tháng giêng :
"Năm 992, tháng giêng, Vua ngự điện Càn nguyên để xem đèn"
"Năm 1100, tháng giêng, Lý Nhân Tông bầy hội Quảng-chiếu đăng ở ngoài cửa Đại-Hưng (cửa Nam,
Thăng-Long).
A - Nhà Trần
1 - Tết Nguyên Đán.
Trong An-nam Chí Lược, Lê Tắc chép tương đối khá nhiều tục lệ ăn Tết thời nhà Trần :
Trước Tết hai ngày, vua đi xe ngự dụng, các quan mặc triều phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích (một vị thần trong Phật giáo, làm chủ chư thiên) ở ngoài thành Thăng-Long.
30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-củng cho bề tôi làm lễ, rồi xem con hát múa trăm lối. Đến tối qua cung Động-nhân, bái yết tiên vương. Đêm, cho thầy tu làm lễ Khu-na (đuổi tà ma) ở trong nội.
Dân gian mở cửa, đốt pháo tre, cỗ bàn, trà rượu, cúng tế.
Ngày Nguyên Đán, khoảng canh năm, vua ngự điện Vĩnh-thọ cho các tôn tử (con cháu) và cận thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường-xuân vọng bái các lăng tổ.
Sáng sớm, vua ngự điện Thiên-an, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộn xộn trước điện tấu nhạc. Các tôn tử và bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần. Dâng rượu xong, các tôn tử lên điện chầu dự yến. Các quan nội thần (hoạn quan) ngồi ở tiểu điện phía Tây, các ngoại thần ngồi ở Tả vu, Hữu vu (nhà bên trái và bên phải nối vào chính điện). Tiệc đến trưa mới tan.
Lại sai thợ khéo làm đài Chúng tiên hai từng, ở trước điện. Làm một lúc thì xong, vàng ngọc chói ngời. Vua ngồi ăn trên đài, các quan làm lễ chín lạy, dâng chín tuần rượu rồi giải tán.
Mồng 2, các quan làm lễ riêng ở nhà.
Mông 3, vua ngồi trên gác Đại-hưng xem các tôn tử, các quan nội cung đánh cầu, ai bắt được, không để cầu rơi xuống, là thắng. Quả cầu to bằng nắm tay, làm bằng gấm thêu, có 20 sợi tua dài lòng thòng.
Mồng 5, làm lễ Khai-hạ (hạ nêu, trở lại cuộc sống bình thường). Ăn yến xong, các quan và dân chúng đi lễ chùa, miếu hay đi du ngoạn các vườn hoa.
Đêm Nguyên tiêu (rầm tháng giêng) trồng những cây đèn Quang-chiếu ở giữa sân rộng, thắp mấy vạn ngọn, sáng rực trời đất. Chư tăng đi quanh tụng kinh Phật (...) các quan lễ bái, gọi là lễ Chầu đèn.
Tháng 2, làm cái Xuân Đài. Con hát hoá trang thành 12 vị thần, múa hát trên đài.
Vua coi các trò tranh đua dưới sân, lực sĩ và trẻ con đấu nhau, ai thắng được thưởng. Công hầu cưỡi ngựa, đánh cầu, quan nhỏ thì đánh cờ, đánh vu bồ (bài thẻ) . . .
2 - Tiết Lập Xuân và Lễ Nghênh Xuân.
Sách Lễ ký thiên "Nguyệt lệnh" chép : "Tháng cuối mùa Đông, vua sai quan Hữu-ty (chuyên viên) đem con Trâu đất ra lễ để đuổi khí lạnh đi, trâu giỏi cày có thể chỉ bảo việc làm ruộng sớm hay muộn.
Tùy thư, Lễ Nghi Chí chép : 5 ngày trước Tết Lập Xuân, làm tượng con Trâu đất, Người cày ruộng và Cái cày để ở ngoài cửa Đông môn. Rạng sáng ngày hôm ấy, quan cầm roi ngũ sắc đánh trâu ba roi để tỏ ý khuyến nông.
Điển nhà Thanh chép rằng trong ngày Lập Xuân, dâng vua tượng Mang thần (thần Cỏ Mang, hoa nở sớm hơn các loài hoa khác, hay thần Câu Mang, trông coi tháng giêng, tượng trưng cho mùa Xuân mới đến), tượng Trâu đất và tượng Núi mùa Xuân, đều bầy trên án để làm lễ đón Xuân cùng khí hòa ấm.
Đánh trâu ngụ ý trọng nông.
Thời nhà Trần, ngày Lập Xuân, vua quan làm lễ Nghênh Xuân ở phương Đông (Đông giao). Vua sai vị trưởng họ dùng roi đánh Trâu đất. Sau đó, các quan cài hoa lên mũ rồi vào cung dự tiệc.
Trong tháng Xuân, người làm mối bưng tráp trầu cau đến nhà gái hỏi và tặng lễ vật, thường dân giá trăm, nhà cao sang giá hàng nghìn, những người chuộng lễ nghĩa thì không kể ít nhiều. Con trai, con gái nhà nghèo không có người mai dong để làm hôn lễ thì tự mình phối hợp với nhau
B - Nhà Lê
Sử chép rất ít về Tết đầu thời Lê :
- Năm 1435, mồng một, vua (Thái Tông) dẫn các quan làm lễ yết miếu. Khi về cung mặc áo trắng coi chầu, nổi nhạc, thét đường. Các quan mặc cát phục dâng biểu yên ủi (Thái Tổ mới băng).
Ban yến trong 5 ngày cho các quan văn võ trong ngoài, phát trên cho các quan làm việc ở ngoài theo thứ bực .
- Năm 1 449, tháng giêng ban yến cho các quan- Múa nhạc Bình Ngô Phá Trận do vua Thái Tông làm, .nhớ lại công khó nhọc sáng nghiệp của Thái Tổ, dùng vũ công định thiên hạ. Công thần có người cảm xúc phát khóc .
Các lễ Nghênh Xuân thời Trung Hưng
1 - Lễ Tiến lịch - Lược Phan Huy Chú :
Hàng năm, Tư-thiên-giám tính trước lịch cho năm sau, đến tháng 6 viết hai bản dự thảo, một bản dâng lên Vua và khai Chúa xin tiền in. Vua xem xong, giao cho Trung-thư-giám viết lại, Tri-giám coi việc khắc, khắc rồi Tư-thiên-giám đối chiếu trước khi đem in.
Trong tháng chạp chọn ngày dâng lên Vua chuẩn.
Đến ngày 24 tháng chạp làm lễ Tiến lịch.
Sáng hôm ấy, các quan mặc phẩm phục, theo chỉ của Chúa vào triều làm lễ.
Sáng sớm, Nghi-chế-ty và các Tự-ban đặt cái án dâng lịch ở giữa ngự đạo trước sân rồng. Bốn viên thông-tán, hai viên đứng ở phía Đông và phía Tây, hai viên đúng ở bên Tả và bên Hữu của Đoan-môn.
Ba hồi trông nghiêm , Tự-ban dẫn hai viên Tiến-lịch quan vào bên Đông sân rồng. Vua ngự lên ngai. Tự-ban dẫn quan Tiến-lịch đến giữa ngự-đạo. Xướng: "Cúc cung , bái, hưng (bốn lần), bình thân ". Lễ quan. Xướng .' "Tiến hoàng lịch ", Tự-ban dẫn quan Tiến- lịch đến trước án lịch giấy vàng. Xướng : "Quy, tiến lịch", quan Tiến-lịch để lịch lên án. Xướng: "Phủ phục, hưng, bình thân, phục vị", Tự-ban dẫn quan Tiến lịch từ phía Đông ngự đạo xuống đến vị bái. Xướng: "Cúc cung , bái, hưng (bốn lần), bình thân ". Tự-ban nhấc cái án để lịch lui ra.
Cáp-môn xướng : "Bài ban, ban tề", các quan chia thứ bậc đứng vào ban tề chỉnh. Lại xướng ."Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân ".
Quan Truyền-chế đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu truyền chế" rồi lạy xuống, vẫn quỳ. Quan Tư-lễ -giám đem tờ chế trao cho quan Truyền-chế. Viên này đỡ lấy lui ra, đúng phía Đông, hô .' "Hữu chế". Cáp môn xướng: "Bách quan giai quỵ", các quan quỳ xuống. Quan Truyền-chế đọc chế xong lui về chỗ đứng cũ. Xướng: Phủ phục, hưng, bái (bốn lần), bình thân". Lại xướng : "Bách quan phân ban thị lập", các quan phân ban đứng hai bên mà hầu. Nghi-chế-ty đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu lễ tất". Vua ngự về cung.
Tư-thiên-giám bưng cái án lịch trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa. Quan Lễ khoa đem lịch ban cho các quan. Các quan quỳ xuống nhận, giơ lịch ngang trán. Xong lễ lui ra [10].
2 - Lễ Khóa ấn
25 tháng chạp làm lễ Khóa ấn trong một tháng, hộp đựng ấn úp mặt xuống. Chỉ những việc trọng đại như sát nhân, phản quốc. . . mới được xét ngay, còn trộm cắp lặt vặt, đánh nhau, đòi nợ VV. thì đình chỉ, đợi ngày khai ấn mới xét xử.
3 - Lễ Tiến Xuân Ngưu
Hàng năm đến tháng 11, Tư-thiên-giám tâu ngày nào, tháng nào là tiết lập ít và kê cả kiểu mẫu làm Xuân ngưu (Trâu đất) giao cho Công bộ sai Thường-ban-cục làm. Tượng trâu to bằng thật, mỗi năm nhuộm một mầu, ứng với năm đó, tính theo âm dương ngũ hành.
Trước tiết Lập Xuân một ngày, buổi chiều, Thường ban-cục đem Trâu đến đàn tế, dựng ở phường Đông-hà. Lễ tế vào giờ Tý (nửa đêm), mở đầu ngày Lập Xuân. Quan Phủ-doãn và hai quan huyện Thọ-xương và Quảng-đức làm lễ xong thì sai rước đến đàn ở phường Hà-khẩu. Hôm sau rước đi sớm. Quan Phủ-doãn và các quan huyện lấy cành dâu đánh con trâu đất, rồi đem vào sân điện Vua làm Lễ Tiến Xuân Ngưu
Các quan vâng chỉ của Chúa, mặc phẩm phục làm lễ. Lễ xong, quan Tư-lễ-giám bưng cái án để Xuân ngưu trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa .
- Các nghi tiết thời Trung Hưng
1- Nghi tiết ở điện Kính-thiên. (lược Phan huy Chú) :
Sáng sớm mồng một, Tiết-chế-phủ (Con cả của Chúa Trịnh) vâng chỉ Chúa, dẫn trăm quan mặc phẩm phục vào chầu Vua để chúc mừng năm mới.
Trước một ngày, Thượng-thiết ty đặt ngự tọa của Hoàng thượng ở chính giữa kính thiên, đặt bảo án ở phía Đông, hương án ở trước ngự tọa. Giáo phường đặt Thiều nhạc (nhạc đời vua Thuấn, chính trị tốt, đức hiện rõ) và Đại nhạc gồm nhiều kèn, trống lớn, thanh la, tù và...) ở hai bên Đông và Tây sân rồng. Thủ vệ-ty dàn cớ xí, khí giới. Nghi-chế-ty đặt cái án đế các tờ biểu của Thừa-ty các xứ ở công đường Lễ bộ. Quan Lễ bộ và quan Thừa-ty các xứ trực đêm ở công trường Lễ bộ. Khi canh đã điểm lần thứ năm, trời sáng, trống và nhạc đi trước, các quan Thị dạ (hầu đêm) rước án biểu đến ngoài cửa Đoan-môn, tiến vào để ở phía Đông sân rồng, hơi ngoảnh về Bắc. Các quan rước án biểu đều đứng.
Trống nghiêm hồi đầu, các quan văn võ [kể cả Chấp-sự (Đạo lễ) và Triều-yết] đứng sắp ban ở ngoài cửa Đoan-môn.
Trống hồi thứ hai, quan Đạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ vào chỗ điếm ở Tả, Hữu sân rồng ngồi tạm. Các quan Đạo-lễ tiến vào sân điện Vạn-thọ rước Vua lên ngự giá, làm lễ năm lạy ba vái. Lễ xong lui về chỗ cũ ở hai bên Đông, Tây sân rồng.
Ngự giá đến cửa Kính-thiên thì quan Đạo-lễ dẫn Tiết-chế-phủ đứng phía Đông sân rồng, hơi về hướng Bắc. Tự-ban dẫn các quan vào sắp hàng hai bên Đông, Tây sân rồng. Các quan Thừa-ty, Triều-yết chìa đứng ở ngoài cửa Đoan-môn. Vua lên ngai. Giáo phường tấu khúc nhạc Văn-quang. Dứt tiếng chuông, vút roi (ra lệnh yên lặng khi làm lễ triều bái), nhạc nghi. Tư-thần-lang báo trời sáng. Thông-tán xướng: "Ban tề". Lại xướng: "Cúc cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân".
Quan Điển-nghi xướng: "Tiến biểu". Nhạc lại nổi lên. Hai viên Khoa quan dẫn bốn Tự-ban rước án biểu có tàn vàng che từ bên Đông sân rồng đem đặt giữa ngự đạo. Các Khoa quan dẫn bốn Tự-ban rước án biểu có tàn vàng che từ bên Đông sân rồng đem đặt giữa ngự đạo. Các Khoa quan, Tự-ban lui ra chia đứng hai bên Đông, Tây. Dẫn-tán xướng: "Tuyên biểu mục", quan Tuyên-biểu vào giữa ngự đạo quỳ đọc biểu chú c mừng của công hầu và các quan văn võ 12 đạo. Đọc xong, lạy rồi lui về chỗ đứng trước.
(Đến lượt đọc biểu phó của các quan triều thần, cũng theo nghi tiết trên).
Thông -tán xướng: "Phủ phục, hưng, bình thân, các cung tam cũ đạo". Lại xướng: "Bách quan giai quỵ, tung hô", các quan quỳ xuống, giơ tay ngang trán hô theo: "Vạn tuế" , ba lần như thế. Mỗi lần hô thì quân sĩ, phường nhạc, đồng thanh hô theo. Lại xướng: "Phủ phục, hưng, cú cung, bái (nhạc nổi lên), hưng (bốn lần), bình thân". Nhạc nghỉ.
Quan Đạo-lễ dẫn Tiêt-chế-phủ đến bên Đông, đứng ở vị trước. Thóng-tán xướng : "Bách quan phân ban thị lập". Nghi-chế-ty đến giữa ngự-đạo quỳ tâu : "Tấu lễ tất". Giáo phường ty cùng các Thụ đồng văn, Nhã nhạc (nhạc khí nhỏ hơn Đại nhạc) tấu khúc Hưu-minh. Vút roi. Vua về cung. Quan Tư-lễ-giám bưng tờ biểu để tiến vào nội điện. Nhạc nghỉ. Tiết-chế phủ và các quan lui ra .
2 - Nghi tiết ớ phủ Chúa. (lược) :
Sáng mồng một, hiệu Thiên-hùng bắn súng hiệu, hiệu Thị-trung đánh trống nghiêm. Tướng sĩ thuộc các đội thuyền đứng hầu hoặc đi tuân sát.
Tư-thiên-giám đã chọn giờ và phương hướng tốt để Chúa đi lễ. Các quan rước Chúa đến Thái miếu và Cung miếu hành lễ rồi về phủ.
Chúa ngự long tọa. Quan và lính hiệu Thị-hậu đứng hầu. Binh phiên ban tiền thưởng Xuân theo cấp bậc : nhất phẩm được 5 quan tiền, nhị phẩm được 4 quan cửu phẩm một quan, Tư-thiên-giám được 6 tiền, nhạc công một tiên.
Tư-thiên-giám chọn giờ tốt khải Chúa khai ấn. Tiết-chế-phủ dẫn các quan từ cửa Cáp-môn tiến vào phủ đường. Bốn viên Điển-gìám (dùng Khoa quan), hai đứng ở bên Tả và bên Hữu trong phủ, hai đứng ở ngoài phủ. Tiết-chế-phủ và các quan theo thứ tự lạy mừng. Chúa ban yến. Dự yến xong, các quan làm Iễ tạ ơn. Chúa về cung, Tiết-chế-phủ về phủ.
Các quan lại đến phủ Tíết-chế chúc mừng [13].
3- Tết Đàng Trong
Lê Quý Đôn cho biết ở Thuận-hóa, năm Canh-Dần, Tết Chính Đán thì 2 viên Cai cơ công tộc chỉ mừng tiền trầu 2 quan ; Cai đội 11 viên đều một con lợn thay tiền 10 quan, tiền trầu 1 quan ; chư tướng Ngoại tả 1 viên, Chưởng dinh 2 viên, Chưởng cơ 4 viên đều lợn một con thay tiền 10 quan, tiền trầu 5 hay 10 quan tùy hạng ; Cai cơ 10 viên chỉ mỗi viên 2 tiền trầu ; Cai đội 28 viên cũng như lệ Cai đội công tộc ; văn ban 5 viên, mỗi viên 2 tiền trầu vv..
4 - Tết qua ngòi bút của một chứng nhân ổ thế kỷ 17
Năm 1659, Bento Thiện. một "Thảy giảng" đạo Thiên chúa đã viết về Tết như sau :
"Thói nước Annam, đầu năm mùng một tháng giêng, gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi lạy Vua, đoạn lạy Chúa, mới lạy ông bà ông vải, cha mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy Vua Chúa, thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn Tết ba ngày, mà một ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào tốt, thì Vua Chúa đi đền Giao, gọi là nhà thờ Trời, hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng Địa Kì. Vua Chúa đi lạy mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng bẩy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ an mười ngày. Lại xem ngày nào tốt mới mở ấn ra cho thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện mọi việc ; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội Đài, Ngoại Hiến, Phú Huyện, quan đảng nha môn, mới có kiện cáo. Đến trung tuần mới có Khánh thọ bảo thần cho thiên hạ mừng tuổi Vua. Ai có nghề nghiệp gì thì làm cho Vua xem. Đến hạ tuần tháng giêng, ĐứcChúa lại Tế Kỳ Đạo dưới bãi cát, làm đàn thờ. Trước thì thờ Thiên Chúa Thượng Đê' một đàn, là một đàn từ Vua Lê Thái Tổ cho đến nay, một đàn thì thó Thần Kì Đạo. Đức Chúa lạy ba dàn này. Đoạn đến đàn Thần Kì Đạo, Đức Chúa lạy đoạn, liền chỉ gươm cùng chém, lại bắn cung. Đoạn lại đánh trống mà chỉ gươm cho thiên hạ mới đuôi đi, thì gọi là khao quân. Đoạn liền về tập voi tập ngựa, gọi rằng đã hết năm mới .