delta
02-07-2008, 12:17 PM
Thuốc Aspirin và Công Dụng
Thuốc Aspirin còn được gọi là acetylsalicylic acid, một loại thuốc trị đau nhức thông thường. Thuốc Aspirin đã được dùng từ thế kỷ thứ 5 trước Dương Lịch. Ông Hippocrates tìm được thuốc Aspirin từ vỏ cây liễu và dùng Aspirin để trị đau nhức và bệnh sốt. Salicin, loại thuốc đầu tiên trong gia đình salicylate, đã được lọc tinh chất ra từ vỏ cây willows năm 1829. Từ Salicin ra thuốc Sodium salicylate, một loại Aspirin thô sơ, dùng trị phong thấp và đau nhức.
Thuốc Sodium salicylate đã không được thông dụng vì nó làm dạ dầy rất khó chịu và đau bụng. Năm 1897, một Hóa học gia tên Felix Hoffman làm cho thuốc Aspirin thành thông dụng. Ông Hoffman làm cho hãng Bayer đã dùng Sodium salicylate để trị bệnh phong thấp cho cha của ông. Vì thuốc Sodium salicylate làm đau bụng và khó chịu bao tưỦ, ông Hoffman biến chế thuốc Sodium salicylate thành Acetylsalicylate hay Aspirin (ASA). Từ đó, thuốc ASA trở thành thuốc trị đau nhức được bác sĩ dùng nhiều nhất.
Tuy nhiên, bác sĩ không hiểu rõ tại sao thuốc Aspirin lại có công dụng làm giảm đau nhức. Mãi cho tới năm 1970, một Dược sĩ người Anh tên John Vane mới khám phá ra công dụng của thuốc Aspirin là làm giảm lượng kích thích tố Prostaglandin, một chất được tiết ra ở các tế bào khi bị thương làm chỗ bị thương bị sưng và đau. Aspirin còn ngăn cản hiệu lực của tiểu cầu (platelet). Nhiệm vụ của tiểu cầu là làm cho máu đông lại khi cơ thể bị thương chảy máu do đó Aspirin lại có thêm công dụng làm loãng máu.
Bệnh mạch máu vành tim thường bị gây ra là vì máu dễ bị đông trong các mạch máu vành tim, làm cho máu không lưu thông được để đưa dưỡng khí và các dinh dưỡng cho tế bào tim, làm cho tim bị hư và chết đi. Thành ra với công hiệu làm loãng máu khiến máu không đông, thuốc Aspirin trở thành thuốc tim sau khi công dụng loãng máu được phám phá bởi ông John Vane. Vì bệnh nhồi máu cơ tim và bệnh tai biến mạch máu não có liên hệ đến máu đông, thuốc Aspirin trở nên rất cần thiết cho những bệnh nhân này.
Công dụng của thuốc Aspirin:
Trị đau nhức và sưng vì bất cứ lý do gì. Thí dụ như sưng vì thấp khớp, trặc chân, tay.
Trị đau tim vì bị nghẽn mạch vành tim.Õ
Trị bệnh tai biến mạch máu não (stroke hay brain attack).
Trị bệnh rung tâm nhĩ (atrial fibrillation).
Trị bệnh sưng màng bọc tim (pericarditis).
Trị bệnh sốt Rheumatic (rheumatic fever).
Dùng cho những bệnh nhân đã mổ nối mạch máu vành tim (coronary artery bypass).
Dùng cho những bệnh nhân đã được thông tim (cardiac angioplasty) hay được đặt ống lò xo stent trong mạch tim.
Dùng cho những bệnh nhân bị nghẽn mạch vành tim (coronary artery stenosis).
Dùng cho những bệnh nhân đã bị nhồi máu cơ tim (heart attack).
Dùng cho những bệnh nhân bị bệnh van tim (cardiac valvular disease) mà lại không uống thuốc loãng máu mạnh Coumadin được.
Nghiên cứu cho thấy thuốc Aspirin không những chỉ chữa bệnh nhưng còn phòng và giúp giảm tỷ lệ bị bệnh tim hay tai biến mạch máu não cho những bệnh nhân dễ bị bệnh tim hay tai biến mạch máu não.
Những người nên uống thuốc Aspirin để ngừa và giảm bị bệnh tim và tai biến mạch máu não:
Những bệnh nhân đàn ông trên 40 tuổi bị bệnh tiểu đường (diabetes), cao huyết áp (high blood pressure), cao mỡ cholesterol, hút thuốc, nên uống thuốc Aspirin 75 mg hay 165 mg để phòng bệnh tim.
Những bệnh nhân phái nữ trên 50 tuổi và có những yếu tố tương tự cũng nên uống lượng Aspirin 75 mg hay 165 mg này.Õ
Mọi người trên 50 tuổi có thể uống thuốc Baby Aspirin (81 mg) để phòng bệnh.
Cũng như bất cứ các loại thuốc khác, thuốc Aspirin cũng có những phản ứng phụ (side effects) cho người dùng. Phản ứng phụ của Aspirin:
Gây ra loét hay sưng dạ dầy.
Làm đau bụng nhưng không loét.
Làm dễ chảy máu ruột hay những nơi khác trong người.
Làm ngứa hay nổi mề đay nếu bị kị thuốc Aspirin.
Gây ra bệnh Reyes syndrome cho những em bé khi dùng trong lúc các em bị cảm, nóng sốt.
Những bệnh nhân không nên uống thuốc Aspirin:
Những bệnh nhân bị chảy máu ruột, dạ dầy, đầu, hay những chỗ khác trong cơ thể.
Bệnh nhân bị loét hay sưng dạ dầy.
Những bệnh nhân bị ợ chua thường (gastroesophageal reflux disease).
Bị ngứa hay đau bụng nếu uống Aspirin.
Những bệnh nhân đang uống thuốc loãng máu Coumadin (ngoại trừ những bệnh nhân dễ hay bị đông máu nặng và được bác sĩ khuyên nên uống cả hai loại).
Những trẻ con.
Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như bệnh nhân đi mổ tim hay nhổ răng, bác sĩ thông thường khuyên bệnh nhân nên ngưng uống Aspirin khoaỦng 7 tới 10 ngày trước khi đi mổ để tránh bị chảy máu sau khi mổ hay nhổ răng.
Tóm lại, thuốc Aspirin có nhiều công dụng chứ không phải chỉ dùng làm thuốc đau nhức như đa số bệnh nhân nghĩ. Thuốc Aspirin có khi được gọi là thuốc tiên vì trị được nhiều bệnh hiểm nghèo như bệnh nhồi máu cơ tim và cũng làm giảm tỉ lệ tai biến mạch máu não.
Bác sĩ John Hậu Liên, tốt nghiệp Y khoa tại UC Irvine và tốt nghiệp Chuyên khoa bệnh Nội Thương và Chuyên khoa bệnh Tim và Huyết Quản tại Saint Mary Medical Center. Bác sĩ Hậu hiện đang hành nghề tư tại San Jose, California.
Thuốc Aspirin còn được gọi là acetylsalicylic acid, một loại thuốc trị đau nhức thông thường. Thuốc Aspirin đã được dùng từ thế kỷ thứ 5 trước Dương Lịch. Ông Hippocrates tìm được thuốc Aspirin từ vỏ cây liễu và dùng Aspirin để trị đau nhức và bệnh sốt. Salicin, loại thuốc đầu tiên trong gia đình salicylate, đã được lọc tinh chất ra từ vỏ cây willows năm 1829. Từ Salicin ra thuốc Sodium salicylate, một loại Aspirin thô sơ, dùng trị phong thấp và đau nhức.
Thuốc Sodium salicylate đã không được thông dụng vì nó làm dạ dầy rất khó chịu và đau bụng. Năm 1897, một Hóa học gia tên Felix Hoffman làm cho thuốc Aspirin thành thông dụng. Ông Hoffman làm cho hãng Bayer đã dùng Sodium salicylate để trị bệnh phong thấp cho cha của ông. Vì thuốc Sodium salicylate làm đau bụng và khó chịu bao tưỦ, ông Hoffman biến chế thuốc Sodium salicylate thành Acetylsalicylate hay Aspirin (ASA). Từ đó, thuốc ASA trở thành thuốc trị đau nhức được bác sĩ dùng nhiều nhất.
Tuy nhiên, bác sĩ không hiểu rõ tại sao thuốc Aspirin lại có công dụng làm giảm đau nhức. Mãi cho tới năm 1970, một Dược sĩ người Anh tên John Vane mới khám phá ra công dụng của thuốc Aspirin là làm giảm lượng kích thích tố Prostaglandin, một chất được tiết ra ở các tế bào khi bị thương làm chỗ bị thương bị sưng và đau. Aspirin còn ngăn cản hiệu lực của tiểu cầu (platelet). Nhiệm vụ của tiểu cầu là làm cho máu đông lại khi cơ thể bị thương chảy máu do đó Aspirin lại có thêm công dụng làm loãng máu.
Bệnh mạch máu vành tim thường bị gây ra là vì máu dễ bị đông trong các mạch máu vành tim, làm cho máu không lưu thông được để đưa dưỡng khí và các dinh dưỡng cho tế bào tim, làm cho tim bị hư và chết đi. Thành ra với công hiệu làm loãng máu khiến máu không đông, thuốc Aspirin trở thành thuốc tim sau khi công dụng loãng máu được phám phá bởi ông John Vane. Vì bệnh nhồi máu cơ tim và bệnh tai biến mạch máu não có liên hệ đến máu đông, thuốc Aspirin trở nên rất cần thiết cho những bệnh nhân này.
Công dụng của thuốc Aspirin:
Trị đau nhức và sưng vì bất cứ lý do gì. Thí dụ như sưng vì thấp khớp, trặc chân, tay.
Trị đau tim vì bị nghẽn mạch vành tim.Õ
Trị bệnh tai biến mạch máu não (stroke hay brain attack).
Trị bệnh rung tâm nhĩ (atrial fibrillation).
Trị bệnh sưng màng bọc tim (pericarditis).
Trị bệnh sốt Rheumatic (rheumatic fever).
Dùng cho những bệnh nhân đã mổ nối mạch máu vành tim (coronary artery bypass).
Dùng cho những bệnh nhân đã được thông tim (cardiac angioplasty) hay được đặt ống lò xo stent trong mạch tim.
Dùng cho những bệnh nhân bị nghẽn mạch vành tim (coronary artery stenosis).
Dùng cho những bệnh nhân đã bị nhồi máu cơ tim (heart attack).
Dùng cho những bệnh nhân bị bệnh van tim (cardiac valvular disease) mà lại không uống thuốc loãng máu mạnh Coumadin được.
Nghiên cứu cho thấy thuốc Aspirin không những chỉ chữa bệnh nhưng còn phòng và giúp giảm tỷ lệ bị bệnh tim hay tai biến mạch máu não cho những bệnh nhân dễ bị bệnh tim hay tai biến mạch máu não.
Những người nên uống thuốc Aspirin để ngừa và giảm bị bệnh tim và tai biến mạch máu não:
Những bệnh nhân đàn ông trên 40 tuổi bị bệnh tiểu đường (diabetes), cao huyết áp (high blood pressure), cao mỡ cholesterol, hút thuốc, nên uống thuốc Aspirin 75 mg hay 165 mg để phòng bệnh tim.
Những bệnh nhân phái nữ trên 50 tuổi và có những yếu tố tương tự cũng nên uống lượng Aspirin 75 mg hay 165 mg này.Õ
Mọi người trên 50 tuổi có thể uống thuốc Baby Aspirin (81 mg) để phòng bệnh.
Cũng như bất cứ các loại thuốc khác, thuốc Aspirin cũng có những phản ứng phụ (side effects) cho người dùng. Phản ứng phụ của Aspirin:
Gây ra loét hay sưng dạ dầy.
Làm đau bụng nhưng không loét.
Làm dễ chảy máu ruột hay những nơi khác trong người.
Làm ngứa hay nổi mề đay nếu bị kị thuốc Aspirin.
Gây ra bệnh Reyes syndrome cho những em bé khi dùng trong lúc các em bị cảm, nóng sốt.
Những bệnh nhân không nên uống thuốc Aspirin:
Những bệnh nhân bị chảy máu ruột, dạ dầy, đầu, hay những chỗ khác trong cơ thể.
Bệnh nhân bị loét hay sưng dạ dầy.
Những bệnh nhân bị ợ chua thường (gastroesophageal reflux disease).
Bị ngứa hay đau bụng nếu uống Aspirin.
Những bệnh nhân đang uống thuốc loãng máu Coumadin (ngoại trừ những bệnh nhân dễ hay bị đông máu nặng và được bác sĩ khuyên nên uống cả hai loại).
Những trẻ con.
Ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như bệnh nhân đi mổ tim hay nhổ răng, bác sĩ thông thường khuyên bệnh nhân nên ngưng uống Aspirin khoaỦng 7 tới 10 ngày trước khi đi mổ để tránh bị chảy máu sau khi mổ hay nhổ răng.
Tóm lại, thuốc Aspirin có nhiều công dụng chứ không phải chỉ dùng làm thuốc đau nhức như đa số bệnh nhân nghĩ. Thuốc Aspirin có khi được gọi là thuốc tiên vì trị được nhiều bệnh hiểm nghèo như bệnh nhồi máu cơ tim và cũng làm giảm tỉ lệ tai biến mạch máu não.
Bác sĩ John Hậu Liên, tốt nghiệp Y khoa tại UC Irvine và tốt nghiệp Chuyên khoa bệnh Nội Thương và Chuyên khoa bệnh Tim và Huyết Quản tại Saint Mary Medical Center. Bác sĩ Hậu hiện đang hành nghề tư tại San Jose, California.