View Full Version : Nhân Tướng Học - St
delta
02-21-2008, 05:09 PM
Nhân Tướng Học
Tướng Tùy Tâm Sinh, Tướng Tùy Tâm Diệt
Quyển Thượng
Các Nét Tướng & Các Loại Tướng
Phần Thứ Nhất
- Các Nét Tướng Trong Nhân Tướng Học
Chương 1
- Tổng Quát Về Khuôn Mặt .
- Nguyên tắc coi tướng khuôn mặt trước tiên là phải quan sát một cách tổng quát để có ý niệm sơ khởi về sự cân xứng chung về hình thể rồi sau đó mới đi sâu vào chi tiết của từng nét tướng khác nhỏ hơn . Thông thường, người ta thường gặp các danh xưng tổng quát sau đây khi đề cập đến tướng khuôn mặt :
- Tam Đinh
- Ngũ nhạc
- Lục Phủ
- Tứ Đậu
- Ngũ Quan
Khi quan sát Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ ta biết được một cách tổng quát sự phối trí của khuôn mặt có cân xứng thích đáng hay không . Ngũ Quan sẻ giúp ta biết rỏ từng nét tương đồng trong khung cảnh chung của khuôn mặt .
Sau đó, muốn chi tiết hơn nữa tha đi thêm vào từng nét tướng tế phân quan trọng ( tất cả khoảng 13 khu vực được gọi là 13 bộ vị trọng yếy )
Muốn biết về những bie6'n cố xãy ra trong đời của 1 cá nhân liên quan đến nhiều lãnh vực sinh hoạt : Tật bệnh, tài lộc, anh em, vợ con, .... v.v. ta dựa vào 1 số bộ vị ( hoặc riêng rẻ hoặc liên kết một số bộ vị ) được gọi chung là các cung .
Ngũ Quan có vai trò cực kỳ trọng yếy trong tướng học, nên sau khi khảo sát sơ lược thì ta cần phải di sâu vào từng chi tiết đặc thù, nên phần đó được tách ra làm 5 chương riêng . Do đó, chương này đặt trọng tâm vào việc giới thiệu tổng quát về toàn thể khuôn mătxuyện qua các tiết mục sau đây .
Tam Đình
------------
- Vị trí của Tam đình
Trong tướng học Á Đông chia khuôn mặt làm 3 phần : Thượng Đình, Trung Đình, Hạ Đình .
* Thượnng Đình : tính từ chân tóc đến khoảng giữa 2 đầu lông mày, Trong các bộ vị của Thượng Đình quan trọng nhất là Trán .
* Trung Đình : Từ khoảng giữa 2 Đâu lông mày đến dưới 2 cánh mũi . Các bộ vị quan trọng của Trung Đình là : Mũi, Cặp Mắt, Lưỡng Quyền, 2 tai, 2 lông mày . Nhưng trong các sách tướng người ta chú trọng nhiều nhất đến bộ phận trung ương là Mũi .
* Hạ Đình : Phần còn lại của khuôn mặt tức là từ phần phía dưới 2 cánh mũi đến cằm
delta
02-21-2008, 05:10 PM
- Ý Nghĩa Của Tam Đình :
Tam đình có hai ý nghĩa tổng quát, về vận mạng và về khả năng .
A ) Về Vận mạng :
Theo quan niệm siêu hình của người xưa thì Tam Đình tượng trưng cho Tam Tài ( 3 thể tài trọng yếu nhất trong vạn vật ) Thiên, Địa, Nhân .
Trán thuộc Thiên Đình, tượng trưng cho trời . Trời càng cao, rộng, tươi thì càng tốt . Cho nên cho nên người ta lấy sự kiện trán cao, rộng và tươi làm quí . Nói chung phần đông kẻ nào có đủ 3 điều kiện này thuộc loại quí tướng, số vận suông sẻ .
Bộ phận quan trong nhất của Trung Đình là Mũi . Tượng trưng cho Người . Cơ cấu con người có rộng, dài và cân xứng mới tốt . Nên Mũi cần phải ngay thẳng hoặc tròn trịa và phải đều đặn cân xứng . Kẻ hội đủ điều kiện trên được gọi là " Hửu Nhân Giả Thọ " có trie6~n vọng sống lâu, trung vận gặp nhiều hạnh thông hơn người thường .
Cuối cùng là phần Hạ Đình tượng trưng cho Đất và bộ vị quan trọng nhất của Hạ Đình là Cằm . Vì đất cần phải đầy đặn, vuông vức mới tốt nên quan niệm cổ điển đòi hỏi Cằm phải vuông, dày, chủ về hậu vận sung túc .
Nói chung, trong quan niệm tướng học Á Đông, Thượng Đình dài mà nãy nở hoặc rộng mà vuông là triệu chứng quí hiễn ; Trung Đìnhngay thẳng, cao ráo và dáng vẻ thanh tú thì chủ về trường thọ ; Hạ Đình bằng phẳng, đầy đặn, không lệch lạc, nhất là vuông vức là điểm báo trước sẻ được hưởng vận số tốt lúc về già .
Nếu Thượng Đình nhọn, hẹp hoặc khuyết hảm thì hay bị tai họa, khắc cha mẹ, tính nết ti tiện . Trung Đình mà ngắn hoặc bị le6.ch hảm thường là kẻ bất nhân, bất nghĩa, kiến thức nông cạn, hẹp hòi, đồng thời cũng là dấu hiệu trung vận hao tốn, lênh đênh . Hạ Đình đầy nhưng hẹp hoặc nhọn hay thiếu bề dày thì Điền Trạch Kiếm Khuyết, tuổi già cực khổ .
Nếu Tam Đình cân xứng thì có thể nói là tướng mạo của kẻ thượng đẳng . Cho nên tướng thư có nói : " Tam Đình Bình Ổn, Nhất Sinh Y Thưcvộ Khuy " nghĩa là 3 phần của khuôn mặt mà được tương xứng, đều hợp, không bị khuyết hảm thì cả đời không phải lo đến cơm áo .
B ) Về mặt Khả Năng
Một số tướng gia khác, nhất là những người thuộc trường phái Nhật Bản không mấy chú trọng đến ý nghĩa của vận mạng của Tam Đình mà chỉ căn cứ vào cốt tướng học để tìm khả năng của con người . Theo nhận định của
họ thì :
- Thượng Đình : Biểu tượng cho trí lực
- Trung Đình : Biểu tượng cho khí lưc
- Hạ Đình : Biểu tượng cho hoạt lực
* Khi tiền não bộ của con người phát triễn, óc làm việc nhiều nên Thượng Đình nãy nở tạo ra vầng tráng rộng và cao .
* Khi Trung não diệp phát triễn rỏ rệt và lấn áp các bộ phận khác thì Trung Đình nãy nơrỏ rệt nhất : Sự tăng trưởng của trí tuệ nhường chổ quyết định cho sự vận dụng của bắp thịt .
* Ngược lại khi não bộ phát triễn độc dị thì Hạ Đình cũng phái triễn quá mức mà gây ra cảnh Hạ Đình vừa dài, vừa rộng lấn lướt các phần kia .
Nếu cả 3 đều phát triễn cân phân theo thuật ngữ " Tam Đình Bình Ổn " thì con người sẻ quân bình về cả 3 mặt trí lực, khí lực và hoạt lực : con người sẻ có nhiều triễn vọng về thành công về bất cứ lãnh vực gì trong cuộc mưu tính hằng ngày . Do đó cổ tướng học đã có lý khi nhận định rằng người có Tam Đình bình ổn không phải khốn đốn vì cơm ăn, áo mặc .
Theo nhà tướng học Tô Lãng Thiên, Thượng Đình biểu thị mạng vận tiên thiên ( a . Priori ) . Trung Đình giúp ta quan sát các trạng thái hoạt động hậu thiên ( a . poutériori ). còn Hạ Đình giúp ta trắc định kệt quả khả hửu của các hoạt động của con người ( thành hay bại, xấu hay tốt .....v.v.
Tóm lại :
Thượng Đình cho biết những dữ kiện thiên phú của con người như trí thức, nghệ thuật, cảm xúc, tinh thần .....v.v. .... Nếu trán cao, rộng, kẻ đó được hưởng sự may mắn tiên thiên, tức là khỏi phải nhọc công sáng tạo . Nếu trán lủng hoặc lệch hảm là triệu chứng tiên thiên cho biết thời gian ấu thơ bị khốn quẩn về một hay nhiều lãnh vực nào đó, phần trí lực bị sút kém .
Trung Đình biểu thị cho sự phấn đấu của con người từ thuở thanh niên, có trí khôn đầy đủ, tương đối . Phần đáng lưu ý nhất là Mũi và Lưỡng Quyền . Theo tác giả Tô Lãng Thiên, khu vực Mũi và Lưỡng Quyền ngoài ý nghĩa tiền của, vật chất còn cho ta biết được tài năng tháo vát của con người trong cuộc vật lộn để mưu sinh . Nếu Trung Đình đầy đặn, cân xứng, Mủi thẳng, chóp Mũi tròn, 2 cánh Mũi có thế thì tuy Thiên Đình bị lồi lỏm, sơ vận bị linh đinh, cực khổ nhưng nhờ nổ lực cá nhân bổ cứu mà cuối trung vận có thể phấn chấn lên được . Tóm lại khu vực Trung Đình phát triễn tốt đẹp có thể bổ túc cho sự kiếm khuye6't trí tuệ tiên Thiên . Nhờ quan sát khu vực Trung Đình ta đóan được phần nhân định đối với việc xoay xở định mạng .
Hạ Đình là kết quả tổng hợp của Thượng Đình và Trung Đình . Việc quan sát khu vực Hạ Đình giúp ta có thể đóan được kết quả của việc vận dụng trí tuệ và nổ lực cá nhân .
Hạ Đình bao gồm Thực Thương, Lộc Thương, Pháp Lệnh, Cằm và Nhân Trung biểu thị sự cố gắng lúc tuổi già . Nói rỏ hơn thì lưỡng Thương bao hàm sự thu nhập, Cằm cho biết ảnh hưởng của sự sinh hoạt xã hội đã anh hưởng và tạo thành kết quả nơi cá nhân đó ra sao .
Trong lúc xem tướng phải nhìn toàn bộ khu vực Hạ Đình để tìm sự nhất quán . Sự phong mãn phải nhất quán thì mới chắc chắn là phúc tướng . Nếu chỉ chó hậu nảo bộ phát triễn mà khu vực Hạ Đình không tương xứng thì đó chỉ là biểu hiện của ước vọng vật chất không bao giờ thực hiện được . Ngược lại hậu nảo bộ không mấy phát triễn mà Hạ Đình quá sung mãn thì kết quả thực tiễn do nổ lực cá nhân đem lại vượt quá ranh giới của tiên thiên và chứng tỏ sự thành công của cá nhân đóphần lớn là do nổ lực nhân sự mà có . Sự may mắn hoặc giúp đở của tha nhân đối với hạng tướng nay không đóng vai trò đáng kể .
(( nhất quán là từ trên xuống dưới, từ phải qua tráiđều vững chắc, cân xứng . ))
delta
02-21-2008, 05:11 PM
Ngũ Nhạc
1 - VỊ TRÍ CỦA NGŨ NHẠC
Ngũ Nhạc là 5 dãy núi lớn trong địa lý học cổ điển Trung Hoa . Người Tàu thường có thói quen so sánh mặt người với mặt đất của Trung Nguyên nên đã địa lý hoá các bộ vị nổi bật nhất của khuôn mặt thành 5 danh hiệu của 5 dãy núi chính để rồi căn cứ vào hình dáng, vị thế liên hoàn của chúng mà đoán tương lai, quá khứ của con người .
- Trán : tượng trưng cho dãy núi phía nam gọi là Nam Nhạc ( tên riêng gọi là Hoành Sơn )
- Cằm : tượng trưng cho dãy núi phía bắc nên gọi là Bắc Nhạc ( tên riêng là Hằng Sơn )
- Quyền trái : tượng trưng cho dãy núi phía đông nên gọi là Đông Nhạc ( tên riêng là Thái Sơn )
- Quyền phải : tượng trưng cho dãy núi phía tây gọi là Tây Nhạc ( tên riêng là Hoa Sơn )
- Mũi : tượng trưng cho dãy núi trung ương nên mệnh danh là Trung Nhạc ( tên riêng là Tung Sơn )
2 - ĐIỀU KIỆN ĐẮC DỤNG CỦA NGŨ NHẠC
Điều kiện tối hảo của Ngũ Nhạc là phải có TRIỀU CỦNG ( đôi khi gọi là TRIỀU QUI ) nghĩa là quần tụ theo một thế ỷ dốc liên hoàn, qui về một điểm quan trọng nhất . Theo quan niệm của khoa địa lý phong thủy Á Đông thì sự triều củng khiến cho long mạch ( nguyên khí tinh hoa của tạo hóa trong một khu vực nào đó ) có thể phát huy được tất cả uy lực tốt đẹp . Trong Ngũ Nhạc, Trung Nhạc là chủ yếu, là trung tâm điểm của cả hệ thống nên khí thế của nó phải bao trùm tất cả các Nhạc khác . Theo sự qui định của Tướng Thuật, Mũi là trung tâm của khuôn mặt, lại tượng trưng cho phần Nhân Sự trong Tam Tài nên được gọi là Long Mạch .
Về phương diện xem tướng, Ngũ Nhạc tối kỵ ba khuyết điểm sau :
* Quần Sơn Vô Chủ : ( bốn núi không có sự triều củng đối với Trung ương ) Nói khác đi, Trung Nhạc bị khuyết, hảm hay quá thấp, quá nhỏ so với các Nhạc khác .
* Cô Phong Vô Viện : ( Ngọn chính giữa quá tốt, nổi bật một cách trơ trọi không được sự phát triễn của các ngọn khác hổ trợ ) . Điều này chủ yếu vẫn là Mũi . Mủi tốt mà Trán, Cằm, Lưỡng Quyền khuyết, hảm thì coi là không đáng kể .
* Hữu Viện Bất Tiếp : ( Có vẻ có sự hổ trợ của các ngọn khác nhưng xét kỷ thì lại không có ) . Điều này có nghĩa là một hay nhiều ngọn chung quanh bị lệch hay khuyết . Khiến cho toàn thể liên hoàn hộ ứng của Ngũ Nhạc bị đổ vỡ .
Phạm vào ba điều khuyết điểm trên, sách tướng mệnh danh là ( Long Mạch không có thế khiến cho khí của Long Mạch không phát huy được ) . Đôi khi không những Long Mạch không phát huy được mà còn có thể từ tốt trở thành xấu nữa .
3 - NHỮNG YẾU TỐ BÙ TRỪ
Phép luận tướng phân tướng người thành 2 loại chính là Nam & Bắc tướng . Nam tướng là người sinh trưởng ở miền nam Trung Hoa . Tại đây khí hậu chính là nóng, có đặc điểm chính là Hỏa vượng . Nếu Hỏa Tinh ( Trán ) hay nói theo từ ngũ ở đây là Nam Nhạc là bộ vị chủ yếu của người phương Nam được phát triễn hợp tiêu chuẩn thì dẫu các ngọn khác có hơi thiếu tiêu chuẩn đôi chút, miễn là không khuyết hảm, đặc biệt là Trung Nhạc thì cũNg có thể lấy bộ vị chính yếu làm vật hoá giải .
Nếu Trán của người phương Nam không bị thương tổn thì tinh thần và bản thân sự nghiệp sẻ hạnh thông vượng thịnh . Theo nguyên tắc Ngũ Hành thương sinh thì Hỏa sinh Thổ ( Hỏa chỉ Trán, Thổ chỉ Mũi ) nên nếu Nam Nhạc đắc thế thì dù Trung Nhạc không hoàn toàn tốt đẹp cũng có thể lướt qua được .Tuy nhiên sự đắc cách của Nam Nhạc chỉ hoá giải phần lớn các điều bất tường về vận mạng do Mũi gây ra mà thôi, nó không hoá giải được tâm địa . Nói khác đi, kẻ sinh ở phương nam có Trán tốt mà Mũi xấu vì lệch, thấp thì vận mạng vẫn có thể khá nhưng tâm địa giữ nguyên những khuyết diểmdi Mũi hoặc các bộ vị khác thuộc Ngũ Nhạc gây ra .
Đối với người phương Bắc, bộ vị chủ yếu là Địa Các mà Cằm là chính . Vì phương bắc là CHÍNH THỔ nên tối kỵ THỔ TINH ( Mũi ) khuyết hảm . Do đó, đối với họ khí mạch của Bắc Nhạc liên hệ chặc chẻ với khí mạch Trung Nhạc . Trung Nhạc khuất khúc, nghiêng lệch thì Bắc Nhạc có tốt cũng bị thăng giáng thất thường về vận mạng .
Sự tổng hợp tốt nhất trong cổ tướng học thực nghiệm là cách " Thủy Hoả thông minh " tức là bắc phương nhân, ngoài bản vị tốt đẹp hoàn hảo, còn được Nam Nhạc toàn hảo cộng thêm Ngũ Quan đoan chính . Nam Phương nhân, ngoài Nam Nhạc toàn hảo, Ngũ Quan thanh tú còn được Địa Các nãy nở, vuông vức và được triều củng .
Đông và Tây Nhạc ( Lưỡng Quyền ) cũng cần phải phối hợp tương xứng với Trung Nhạc thì mới làm cho Trung Nhạc có thế . Đông và Tây Nhạc ( đối với đàn ông ) cần phải cao, nở và mạnh mẽ . Tối kỵ nhỏ, nhọn, lộ xương, lẹm gốc hoặc cao hơn các bộ vị của Trong Nhạc hoặc chỉ được lượng mà hỏng về phẩm .
Tóm lại, Ngũ Nhạc chỉ đắc thế khi có sự tương phối, triều củng, minh lãng về cả phẩm lẫn lượng . Đồng thời Ngũ Nhạc còn phải được Tứ Đậu ( Mắt, Mũi, Tai, Miệng ) toàn hảo thì mới thành đại dụng được . Trong Ngũ Nhạc nếu có một ngọn không hợp cách thì dẫu Ngũ Quan có tốt cũng khó đại phát .
4 - SỰ KHUYẾT HẢM CỦA NGŨ NHẠC
Ngoài 3 khuyết điểm căn bản kể trên chung cho Ngũ Nhạc ( Quần Sơn Vô Chủ, Cô Phong Vô Viện, Hửu Viện Bất Tiếp ) Mổi Nhạc còn có những khuyết điểm riêng rẻ sau đây :
* Nam Nhạc : bị coi là khuyết hảm khi mí tóc lởm chởm, tóc mọc quá thấp khiến Trán thành thấp, tóc mọc che lấp 2 bên khiến Trán thành hẹp, Trán có loạn văn như dấu vết rắn bò, xương đầu không đắc cách, xương Trán lồi, ấn đường có sát khí, Trán có các vết hằn 1 cách bất thường .
* Trung Nhạc : bị coi là khuye6't hảm khi sơn căn bị gãy, có hằn, mỏng manh, có nốt ruồi, sống Mủi bị thương tích thành thẹo, lệch ; Lồi lên lỏm xuống, lổ Mũi bị lộ và hướng lên trên, Mũi nhỏ và ngắn, 2 cánh Mũi không nổi cao .
Bị coi là Khuyết hảm tương đối khi chỉ có mũi rất cao, rất tốt mà 4 bộ phận khác thuộc Ngũ Nhạc quá thường ( Cô Phong Vô Viện ) chủ về nghèo khổ, phá tán, thành bại thất thường .
* Đông và Tây Nhạc : bị coi là khuyết hảm khi 2 Quyền lỏm xuống, nhỏ và nhọn, trơ xương, có nhiều vết thẹo hay nốt ruồi, tàn nhang rỏ rệt, Quyền thấp hoặc có diện tích nhỏ mà không có khí thế ( không có xương ăn thông sang khu vực tai ), Lưỡng Quyền cao thấp không đều v.v......
* Bắc Nhạc : bị coi là hảm khi xương quai hàm nhọn, hẹp, cằm lệch, cằm nhọn và dài, cằm mỏng, cằm dưới đưa ra cao hơn trán, miệng lệch, miệng túm, môi dày mỏng không đều, không râu ria, có các nốt ruồi xấu, râu vàng và khô, Nhân trung nông cạn hoặc lệch, mép miệng trễ xuống ...
Nếu mổi Nhạc tránh được khuyết điểm cơ hửu kể trên, và nếu cả trong Ngũ Ngạc triều củng thì gọi là Ngũ Nhạc Đắc Cách
delta
02-21-2008, 05:12 PM
1 - VỊ TRÍ CỦA TỨ ĐẬU .
Đậu là một từ ngữ Trung Hoa chỉ mương nước, chổ có nước chảy . Tứ Đậu là 4 dòng nước chảu bao gồm Giang, Hà, Hoài, Tế . Cả 4 chử trong ngôn ngữ Trung Hoa đều có nghĩa chung là dòng sông .
Cũng vẫn cái lối mượn thiên nhiên để ví vào con người cho dễ hiểu nên người tàu trong lãnh vực diện tướng học, đã địa lý hoá 4 bộ phận : tai, miệng, mắt, mũi ra thành Hiang, Hà, Hoài, Tế .
- Mũi có tên riêng là Tế Đâu
- Mắt có tên riênglàHoài Đâu
- Miệng có tên riêng là Hà Đậu
- Tai có tên riêng là Giang Đậu
Tại sao 4 bộ phận trên được ví như 4 dòng nước ? Sách xưa đã giải thích lối hình dung này như sau :
Nước lúc nào cũng chảy về biển, Bộ óc được ví như biển . Bộ óc là nơi tập trung các tiếp thu của Tai, Mắt, Mũi, Miệng ví như biển gom nước của 4 dòng sông, cho nên bộ óc được gọi là Não Hải, còn Mắt, Mủi, Tai, Miệng được gọi là Tứ Đậu .
2- ĐIỀU KIỆN TỐI CAO CỦA TỨ ĐẬU .
Nước muốn lưu thông cho dễ dàng thì lòng sông phải sâu, mặt sông phải rộng . Do đó, tướng học đòi hỏi Tứ Đậu phải có những điều kiện sau :
* Hà Đậu ( miệng ) phải vuông vức, lăng giác rỏ ràng, lớn, rộng . Nếu như miệng quá hẹp, môi quá mỏng, ví như dòng sông nông cạn, nướckhó lưu thông và không chảy tới biển cho nên vãn niên phúc thọ hư ảo .
* Giang Đậu ( Tai ) cần rộng, sâu, nghĩa là lổ tai phải sâu và rộng, hình thể chắc chắn, đầy đặn chủ về thông minh, gia nghiệp ổn định .
* Hoài Đậu ( mắt ) cần phải sâu, dài, ánh mắt trong sáng, hình thể thon, dài, lòng đen trắng phân minh, đồng tử linh động, Chủ về thông minh, quý hiển .
* Tế Đậu ( Mủi ) thông suốt, tức là 2 lổ mũi phải kín đáo, đầu mũi phải đầy, sống mũi phải thẳng, không cong, không lồi lỏm, 2 cánh mũi phải dày, nở và cân xứng thì cuộc đời mới sung túc, không lo đói rách .
Ở đây một điểm rất trọng yếu cần phải lưu ý đó là Nhân Trung ( phần lỏm sâu chạy dài từ phía dưới chỏm mũi tới chính giữa môi trên ) vì Nhân Trung được coi là mạch chính của Tứ Đậu . Nếu Tứ Đậu đều minh hiễn ( tốt và rỏ ràng ) mà Nhân Trung hẹp, mờ, khuất khúc, bị gạch ngang làm cho mất hản vẻ mỹ quan hoặc trên rộng dưới hẹp, trên sâu dưới nông ... v.v. đều có tác dụng làm tắt nghẽn Tứ Đậu khiến dòng nước không lưu thông dễ dàng . Cái đẹp của Tứ Đậu vì thế bị giảm thiểu . Cho nên người ta đòi hỏi Nhân Trung phải sâu, trên vừa phải, dưới rộng và rỏ ràng, dài là vì cớ đó
delta
02-21-2008, 05:13 PM
LỤC PHỦ
Lục Phủ là danh hiệu dùng để chỉ 3 cặp xương ở 2 bên mặt ( hình dưới đây )
- Hai khu vực xương nổi cao ở 2 bên phía trên ở cuối đuôi chân mày chạy lên sát chổ chân tóc gọi là thiên thương thượng phủ ( #1 )
- Cặp xương Lưỡng quyền thuộc khu vực Trung Đình gọi là quyền cốt trung phủ ( #2 )
- Hai phần 2 bên mang tai tiếp giáp với Lưỡng Quyền và chạy dài xuống phía dưới gọi là tai cốt hạ phủ ( #3 )
Phủ có nghĩa là cái kho chứa đồ vật, của cải, nên dưới nhãn quan tướng học, Lục Phủ cho ta biết khái quát về tài vận . Sáu bộ phận đó có xương và thịt cân xứng, đầy đặn thì cũng giống như kho chứa tài sản, chỉ sự sung túc . Sách Nhân Luân Đại Thống Phú của Trương Hành Giãn đã nói " Nhất phủ tựu, thập tải phong phú " có nghĩa là một phủ đầy đặn thì giàu có 10 năm . Thực ra đây chỉ là 1 câu nói có ý nghĩ tượng trưng chứ không nhất thiết là 10 năm . Nó chỉ có nghĩa là 1 phủ mà đầy đặn thì kẻ đó có khả năng phú túc .
Trong phép quan sát Lục Phủ, phải lấy xương làm điểm chủ yếu : xương nãy nở đúng cách, mạnh mẽ cân xứng là tốt, khuyết hảm là xấu . Kẻ có Lục Phủ hoàn mỹ là kẻ có khuôn mặt ( bên trai lẫn bên phải ) đều tạo thành một thế nhất quán tức là khí sắc tươi mát, xương thịt rắn chắc vừa phải, thịt không lấn xương, xương không quá nhiều đối với thịt (( đây ý nói là trong trường hợp không gầy, không mập, mạnh khỏe tự nhiên . Nếu quá gầy thì lẻ tất nhiên xương phải nhiều hơn thịt, Nếu quá mập thì thịt nhiều hơn xương . Trường hợp cần lưu ý là người mập nhưng mặt ốm : Lục Phủ Trơ Xương ; người ốm mà mặt mập : Lục Phủ Trì Trệ . Lúc đó phải coi là Lục Phủ Biệt Cách .))
Lục Phủ cũNg liên quan đến thời gian thụ hưởng . Thiên Thương ThượngPhủ sung mãn, tươi tắn tượng trưng cho kẻ được hưởng của cải tiền nhân lưu lại hoặc được cha mẹ anh chị em chu cấp . Trung Phủ hoàn mỹ điễn hình cho vận mạng cá nhân lúc trung niên tự mình sáng tạo ra sự nghiệp gia sản . Hạ Phủ sung mãn tươi tắn là điềm báo trước lúc già sinh kế và gia tài phát triễn khả quan .
Thượng Phủ ứng với thiếu niên, Trung Phủ ứng với Trung niên, Hạ Phủ ứng với vãn niên .
Nếu Lục Phủ khuyết hảm, hắc ám thì phải giải đoán ngược lại .
delta
02-21-2008, 05:14 PM
Ngũ Quan
1- VỊ TRÍ CỦA NGŨ QUAN
Ngũ Quan là 5 bộ phận trọng yếu trên khuôn mặt :
- Hai lông mày gọi là bảo thọ quan
- Cặp mắt gọi là giám sát quan
- Hai tai gọi là thám thính quan
- Mũi gọi là thẩm biện quan
- Miệng gọi là xuất nạp quan
Cổ Tướng Kinh bàn về Ngũ Quan có câu : " Trời lấy ngũ tinh để biểu lộ hình thể, đất lấy 5 núi để định khu vực, người thì dựa vào Ngũ Quan để định quí, tiện, bần, phú . Sách Nhân Luân Đại Thống Phú bàn về Ngũ Quan có câu " Nhất Quan thành thập niên quý hiễn "Như vậy đủ rỏ trong tướng học Ngũ Quan đóng một vai trò hết sức quan trọng, cũng bởi lý co trên mà sách này dành 5 chương để chuyên khảo chi tiết từng Quan một .
2 - ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA NGŨ QUAN
Đối với phép quan sát Ngũ Quan, tướng học có câu sau đây đủ để tóm tắt những điều kiện tổng quát của kẻ có Ngũ Quan toàn hảo : " Ngũ Quan cần phải minh lượng và đoan chính " Minh lượng nói về phẩm chất, đoan chính nói về hình dạng .
Từ ngũ Minh Lượng bao gồm :
- Thanh Khiết
- Sáng sủa
- Có thần khí
- Trang nhã
Đoan chính có nghĩa là :
- Ngay thăng Cân xứng và lớn nhỏ thích nghi
- Hình thể rỏ ràng ( chổ nào cần dày thì dày, mỏng thì phải mỏng,đen trắng phân biệt ...v.v. tuỳ theo quan đó là tai, mắt, mũi, miệng hay lông mày )
Đó là 2 tổng tắc căn bản trong phương pháp quan sát Ngũ Quan
delta
02-21-2008, 05:14 PM
MƯỜI BA BỘ VỊ QUAN TRỌNG
Trong phép xem tướng khuôn mặt, người ta chia khôn mặt thành rất nhiều khu vực nhỏ gọi là bộ vị . Thoạt đầu, theo truyền thuyết thì từ đời Đông Chu ( cách đây khoảng 2500 năm ) khuôn mặt được chia thành 13 bộ vị ( hình dưới đây )
1 Thiên Trung
2 Thiên đình
3 Tư Không
4 Trung Chính
5 Ấn Đường
6 Sơn Căn
7 Niên Thượng
8 Thọ Thượng
9 Chuẩn Đầu
10 Nhân Trung
11 Thủy Tinh
12 Thừa Tương
13 Địa Các
delta
02-21-2008, 05:15 PM
Đến đời nhà Hán thì người ta tế phân các bộ vị trên thành 120 bộ vị nhỏ hơn . Đời Đường và Tống, tổng số bộ vị trên khuôn mặt là 130 . Các nhà tướng học khét tiếng nhất như Nhất Hành Thiền Sư đời Đường, Ma Y và Trần Đoàn đời Tống đều ghi lại trong sách tướng của mình con số 130 . Đời sau phần lớn đều số 130 của Ma Y . Đến hai đời Minh, Thanh con số đó tăng lên thành 140 . Nhưng bất kể là 120, 130 hay 140 đó chẳng qua đều là những tế phân vụn vặt, nhiều khi dư thừa vô ích . Ta chỉ cần biết 13 bộ vị chính yếu là đủ để quan sát khí sắc, vận mạng kiết hung . Dưới đây là 13 bộ vị trên khuôn mặt :
- Khu vực Thượng Đình : Thiên Trung, Thiên Đình, Tư Không, Trung Chinh
- Khu vực Trung Đình : Ấn Đường, Sơn Căn, Niên Thượng, Thọ Thượng, Chuẩn Đầu
- Khu vực Hạ Đình : Nhân Trung, Thủy Tinh ( Miệng ) Thừa Tương, Địa Các .
Ý NGHĨA CỦA TỪNG BỘ VỊ
1 - Thiên Trung : được coi là tốt đẹp nếu đầy đặn, sáng sủa . Trong trường hợp đó Thiên Trung là dấu hiệu cho biết thuở nhỏ vận tốt, cha mẹ song toàn, thân thể khỏe mạnh . Ngược lại Thiên Trung thấp, lỏm, lệch lạc trông không có gì khả quan th`i chủ về tuổi ấu thơ không được tốt đẹp, hoàn cảnh sinh sống lúc nhỏ khó khăn chật vật, không được song thân nuôi nấng đúng mức, thiếu tình thương . Nêunhứ Thiên Trung có khí hắc ám, ẩn tàn mường tượng như mạch máu ngầm, có gân xanh chạy dài tới ấn đường ( ở giữa 2 đầu lông mày ) thì đó là triệu chứng trong đời khó thoát tai ương đột ngột, công việc, sinh kế phần lớn khó thành .
2 - Thiên Đình : là phần nằm giữa trán tiếp liền dưới Thiên Trung ( Thông thường Thiên Đình và Thiên Trung chiếm 1/2 bề cao của Trán ) do đó cách quan sát và ý nghĩa tương tự như Thiên Trung về mặt vận mạng cá nhân ; Điều hơi khác là Thiên Trung chủ về cha, Thiên Đình chủ về mẹ . Nếu Thiên Đình khí sắc hắc ám một cách trường cửu thêm vào đó là hình thể khuyết hảm sẻ chủ về cảnh cơ khổ thiếu niên phần lớn là do mẹ gây ra hoặc không được quý nhân tương trợ, do người đàn bà cản trở .
3 - Tư Không : Về vận mạng cũng đồng nghĩa với Thiên Trung và Thiên Đình nhưng thường nặng về ý nghĩa bản thân, trong khi hai bộ vị trên liên quan đến ảnh hưởng cha mẹ . Trong thực tế, khó mà tách biệt được vị trí đích thực của 3 bộ vị . Nếu Tư Không khuyết hảm hoặc khí sắc xấu xuất hiện thường xuyên, chủ về bản thân thường gặp trắc trở trong công việc, không được phụ huynh hay quý nhân giúp đỡ . Ngược lại Tư Không sáng sủa, đầy đặn, có khí thế mạnh mẽ thì đó là dấu hiệu của bản thân khi hành sự được người trên hổ trợ .
4 - Trung Chính : đầy đặn, sắc hồng lạt hoặc vàng, trông sáng sủa, chủ về thành đạt sớm, vừa thông minh tài trí, vừa mạnh khoẻ, ít tật bệnh hiểm nghèo . Nếu thấp, khuyết thì chủ về sự ngu độn, vô tài cán . Nếi chổ này bị vết hănhoặc sẹo tự nhiên hoặc nốt ruồi thì dễ đưa đến bị người ghét bỏ, tính nóng nãy, ngông cuồng .
5 - Ấn Đường : Đó là khoảng giữa hai đầu lông mày là nơi trung gian giữa trán và gốc mũi . Đối với tướng học Á Đông cổ điển bộ vị này rất quan trọng về phương diện vận mạng . Nguyên tắc quan sát ấn đường cũng tương tự như bốn bộ vị vừa kể trên, chủ yếu là lấy sự rộng rải, nãy nở là tốt về hình thức ; Tươi tốt, hồng nhuận là tốt về thực chất . Tốt cả chất lẫn hình chủ về mưu sự dễ thành . Hẹp hoặc khuyết hảm là xấu . Đặc biệt tối kỵ là hai đầu lông mày không được tiếp giáp ở ngay trên ấn đường tạo thành một vệt đen gần như duy nhất chạy dài từ phía mắt phải sang mắt trái . Kẻ có tướng Ấn Đường đó không mong gì có dịp giàu sang nhàn hạ,suốt đời nhọc nhằn . Ấn Đường có nốt ruồi hai bên phải và trái là chủ về tù tội .
Một đặc điểm thường thấy ở những người từ tuổi thanh niên trở đi là Ấn Đường có vết hằn chạy từ hai bên đầu lông mày lên phía trán . Sự kiện này cũng được các sách tướng nghiên cứu tường tận và đưa đến vài nhận xét sau đây :
a ) - Ngay chính giữa Ấn Đường có một vến hănsầu và thẳng thì gọi là luyến trâm văn về mạng vận có ý nghĩa là vợ chồng xung khác, về mặt cá tính đó là kẻ có ý chí mạnh, làm việc có trách nhiệm . ( hình 4 )
b ) - Ấn Đường có ba hằn song song ( hình 5 ) chủ về phá tán di sản, khắc vợ, sống xa quê nhà mới mong tạm đủ ăn mặc .
c ) - Ấn đường có hai hằn giao nhau như hình chử bát ( hình 6 ) chủ về sự nghiệp ba đào . Nếu các bộ vị khác đều tốt đẹp thì phải đợi ngoài 40 tuổi mới mong thỏa nguyện bình sinh . Về mặt cá tính, đó là tướng người ưa tư lự, tập trung tư tưởng dễ dàng và có ý chí mạnh .
d ) - Ấn Đường có loạn văn là điềm bất tường nặng nề nhất ( hình 7 ) đó là dấu hiệu cha mẹ sớm khuất bóng, bôn tẩu tứ phương . Nếu các vết hằn loang lổ đó sau và rỏ thì lại càng xấu, chủ về tính nết buông thả, không thể kềm chế, đến khoảng trên dưới 30 tuổi khó tránh khỏi yểu tử . Nếu các bộ vị khác tốt, mục quan có thần thì chỉ bị đau ốm hay tai ương qua loa .
6 - Sơn Căn : đó là khoảng sống mũI nằm giữa hai mắt . Trong quan niệm Thiên Nhân Tương Dữ của Á Đông . Sơn căn được coi như nơi giao tiếp giữa trời và người, giữa âm và dương ( hai mắt ) cho nên Sơn căn cần phải cao, thẳng, ngay ngắn thì sự giao tiếp đó mới thành tựu mỹ mãn, đưa đến hậu quả tốt . Nếu lệch, hảm, gãy .v.v.... thì không thể khiến con người hấp thụ được tinh anh của trời và trăng sao . Hơn nữa mũi là dấu hiệu quan trọng nhất của sự giàu sang nên nếu Sơn Căn lệch, nhọn hoặc nhỏ thì góc mũi vốn đã hư sẻ khiến cho cả phần còn lại của mũi bị tai hại . Nếu Sơn Căn tốt thì gần như là một định lệ mũi cũng tốt theo và đưa đến tài vận hạnh thông .
Điều cần biết nhất ở đây là nếu Sơn Căn có màu xám như tàn tro thì đó là dấu hiệu báo trước của tật bệnh . Nếu khi sắc đó lan xuống cả phía dưới sống mũi và xuống sát phần tiếp giáp với hai đầu mắt là bệnh càng nặng và có thể chết vì bệnh .
Nốt ruồi ngay Sơn Căn báo hiệu cuộc đời bôn tẩu tha hương, ngoài ra đấy cũNg là dấu hiệu tai hoạ ngục tù nếu như mọc ở chính giữa khu vực trung ương của Sơn Căn ; Mọc ở hai bên phải và trái cho biết kẻ đó trong mình có ác tật .
7 - Niên Thượng : Đó là phần thân mũi ở ngay dưới Sơn Căn và chiếm khoảng 1/4 chiều dài của mũi đo từ khoảng giữa hai mắt tới chỏm mũi . Các bộ vị như Sơn Can, Niên Thượng, Thọ Thượng sẻ được mô tả rỏ ràng ở phần nói về mũi . Nên ở đây chỉ chú trọng tới phần ý nghĩa căn cứ vào khí sắc và nốt ruồi của Niên Thượng mà thôi .
Niên Thượng có sắc khí ám đen như sương mù chủ về người thân có bệnh .
Niên Thượng có nốt ruồi chủ về vận kiếp có số đào hoa nghĩa là hoặc do đam mê sắc dục nữ giới mà thành tai tiếng, tù tội ; hoặc vì giao du xác thịt với đàn bà mà mắc bệnh .
8 - Thọ Thượng : Phần sống mũi tận cùng tiếp giáp dưới ngay Niên Thượng . Nếu phần Thọ Thượng có xương hoặc sụn nổi cao là dấu hiệu trong đời thế nào cũng có phen bị thất bại nặng nề . Về nốt ruồi và khí sắc thì cách luận giải tương tự như phần nói về Niên Thượng, ý nghĩa cũng vậy .Tuy nhiên nếu hai bên ( phải và trái ) của Thọ Thượng có sắc hồng lạt hoặc vàng và tất cả điều tươi mịn, dễ coi thì đó lại là triệu chứng đủ ăn mặc ( với điều kiện là mũi tốt ) .
9 - Chuẩn đầu : Đó là phần chỏm mũi, hình dạng tròn như viên đạn của con nít thường chơi . Chuẩn đầu cần phải lớn, tròn trịa và phải có thịt thì mới tốt, tối kỵ là trơ xương . Tuy nhiên nếu chỉ tốt về hình dạng mà sắc da ở Chuẩn Đầu khô mốc, ám đen thì cũng không thể gọi là tốt vì đó là dấu hiệu của bệnh hoạn hoặc hao phá tiền bạc nặng nhẹ tùy trường hợp .
Người ta thường nói mũi là nơi quan sát của sự giàu nghèo, nhưng thật ra sự giàu nghèo chỉ căn cứ ở phần từ Thọ Thượng xuống đến Chuẩn Đầu ( nhất là Chuẩn Đầu mà thôi ) .
Ngoài ra về mặt xem tướng tài vận nếu chuẩn đầu mập mạp, nhiều thịt, nhưng lổ mũi quá rộng, hếch lên trời, nhiều lông, hai cách muiquã mỏng và ở cao hơn vị trí Chuẩn Đầu thì cũng là tướng hao tài hoặc hửu danh vô thực về tiền bạc .
10 - Nhân Trung : Đó là cái rãnh sâu nằm ngay từ dạ Chuẩn Đầu xuống tiếp giáp với môi trên . Ở phần nói về môi miệng và khu vực Hạ Đình sẻ nói tường tận về các dạng thức và ý nghĩa . Ở đây, chỉ xin nói sơ qua là điều tất yếu để xem là Nhân Trung tốt bao gồm :
- Sâu và rỏ ràng, dài và rộng .
- Ngay ngắn chứ không được lệch lạc .
- Không được có nốt ruồi hay các vạch ngang tự nhiên làm đứt đoạn .
- Trên nhỏ dưới rộng .
11 - Thủy Tinh : là một danh xưng chỉ về môi, miệng ( trong phần nói về Ngũ Quan, miệng được coi là Xuất Nạp Quan và là một trong năm đại bộ phận trọng yếy của khôn mặt . Nên sẻ được miêu tả đầy đủ trong một chương riêng . Bởi vậy độc giả nên tham chiếu chương nói về môi, miệng để biết rỏ hơn ) .
Ở đây, điều kiện tiên quyết của Thủy Tinh hợp cách là :
- Miệng phải ngay ngắn .
- Hai môi phải dày, mỏng tương xứng .
- Khóe miệng phái hướng lên .
- Bề dày phải vừa phải, không nên quá dày hoặc quá mỏng .
12 - Thừa Tương : Là khu vực nằm ở khoang giữa môi dưới và phía tận cùng của khuôn mặt và hơi lỏm xuống ( hình 8 dưới đây ) Nhưng đó chỉ là hình dạng phổ thông . Ở một số người, bộ vị này có thể nhô cao lên hoặc thẳng tắp . Trong những trường hợp như vậy hoặc là quá lỏm đều là hung tướng, chủ về hay bị tai ương sông nước hay ẩm thực . Nếu khí sắc khu ở vực này xám tro hay đen thì lại càng dễ quyết đoán .
13 - Địa Các : Đó là phần tận cùng của khuôn mặt, ta thường gọi chung là cằm . Cằm chủ yếu phải nãy nỡ, cân xứng, không lẹm, không nhọn, không đưa lên cao . Địa các quá ngắn và nhọn chủ về yểu thọ . Quá nhọn và dài chủ về sống lâu nhưng tuổi già lênh đên cô độc . Địa các có nốt ruồi hay lằn vạch tự nhiên do da mặt xếp lại thì được thừa hưởng di sản của tiền nhân để lại, dù rằng có cân xứng .
delta
02-21-2008, 05:17 PM
12 CUNG TRONG TƯỚNG HỌC
Về phương diện mạng vận, từ đời Tống trở đi, các sách tướng có lẻ chịu ảnh hưởng của khoa mạng số nên đã chia khuôn mặt ra thành 12 cung . Mổi cung tượng trưng cho một lãnh vực của mạng vận phân phối như sau : ( hình 9 dưới đây )
1 - Cung Mạng ( h 9/1 ) Vị trí đích thực của nó là khu vực Ấn Đường . Ý nghĩa của nó là niềm khát vọng tìm ẩn và khả năng tiềm ẩn có thể thực hiện được khát vọng đó .
Tuy nhiên, trong phép xem tướng, một bộ vị không đủ để quyết đoán nên phải dựa vào các bộ vị lân cận . Do đó tổng hợp các kiến giải của cổ nhân, Cung Mạng và bộ vị lân cận giúp ta biết được 1 số yếu tố sau đây :
- Nếu Ấn Đường tươi sáng thì kẻ đó có số học vấn, tư chất thông tuệ
- Phụ hoạ với Ấn Đường tươi sáng là cặp mắt sáng sủa, hắc bạch phân minh thì dễ giàu sang .
- Vẫn với Ấn Đường tươi sáng . Khu vực trán cũng tốt trong thế phối hợi đắc cách thì dễ được phú quý song toàn . Ngược lại nếu Ấn Đường và trán đều thấp, trũng thì kẻ đó khó tránh được cảnh nghèo khổ . Trán có vằn, không ra hình ảnh gì cả, vừa hẹp lại thêm sợi lông mày khô, vàng là tướng khắc vợ, phải sống xa nơi chôn nhau cắt rốn .
2 - Cung Quan Lộc : ( h 9/2 ) nằm ngay trung tâm điểm của trán . Bộ vị này có biệt danh là Chính Trung . Ý nghĩa chính của Cung Quan Lộc là cho phép phỏng đóan địa vị, chức nghiệp của cá nhân trong xã hội .
Thời xưa, trong một xả hộu quân chủ trọng chức tước, người ta cho kẻ ra làm quan mới thực sự là kẻ có địa vị trong xã hội, nên được hưởng bổng lộc . Quan Lộc là bổng lộc do địa vị xã hội đem lại . Những kẻ làm quan trời xưa đều có Chính Trung sáng sủa, đầy đặn và rộng .
Theo quan niệm trên, các sách tướng học cổ điển như Ma Y Tướng Pháp, Thủy Kính Tập,Thần Tướng Toàn Biên đều nhất loạt cho rằng kẻ có Chính Trungsáng sủa, tốt đẹp phối hợp với toàn thể tranrộng rãi, sơn căn cao, rộng thì suốt đời làm quan không bao giờ bị rắc rối, trắc trở đến nổi phải " Đáo Tụng Dình " . Nếu khu vực Chính Trung khuyết hảm, trán hẹp, nếp nhăn của trán hỗn loạn thì hoạn lộ thường hay bất trắc . Nếu mắt tự nhiên không có bệnh tật mà có những tia máu ăn lan khắp lòng trắng khiến người ngoài có cảm tưởng là mắt đỏ thì gần như chắc chắn là kẻ đó không chết thảm cũng bị tù đày vì khoa hoạn .
Mấy năm gần đây, chịu ảnh hưởng của Nhật Bản, một số tác giả đã tìm cách giải thích ý nghĩa của cung Quan Lộc theo đường lối tâm lý học . Hai nhà tướng đương thời là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ căn cứ vào các tiến bộ của ngành cốt tướng học cho rằng phần Chính Trung nãy nở là dấu hiệu bề ngoài của kẻ có tâm hồn thông minh, cao ngạo, thích có địa vị bằng cách nổ lực chứng minh tài ba của mình cho mọi người thấy . Hạng người đó dễ dàng thành công trên đường mưu cầu công danh, nhất là thời xưa, sự tuyển lựa quan lại dựa vào tài năng và đức độ thực dự của chính cá nhân đó như vua Nghiêu chọn ông Thuấn, vua Thuấn chọn ông Vũ vậy .
Phần trung ương của trán không đặc biệt nổi rỏ và đẹp nhưng không bị thấp, lỏm hoặc tì vết cũNg có thể xếp vào loại cát tướng . Nếu như cung Quan Lộc hẹp, thấp, có tì vết tự nhiên thì tâm hồn vốn đã không có ý tưởng phấn đấu, ý chí bạc nhược nên khó có thể thành đạt được mộng công danh . Do đó, cổ tướng học đã có lý khi nói rằng : Trung Chính khuyết hảm thì Quan Lộc chẳng ra gì .
3 - Cung Tài Bạch : Toàn thể các bộ vị của Mũi đều được coi như là thuộc cung Tài Bạch . Ý nghĩa chung của cung Tài Bạch là tiền bạc, của cải . Theo quan niệm xưa, Mũi tượng trưng cho Thổ tinh, Thổ là đất, nguồn gốc của tài nguyên nên Mũi mới được xem là Tài Bạch . Tuy vậ, điều này chỉ áp dụng cho nam giới mà thôi . Đối với nữ giới, MũI là phu tinh, xem tướng Mũi đàn bà, ngoài một số ý nghĩa khác, người ta còn có thể đóan được người chồng của đương sự nữa .
Ở đây, riêng về mặt tài vận,nếu mũi thuộc loại tiêm đồng tỵ, huyền đảm tỵ[I] phù hợp chính đáng với Trung Chính ngay ngắn, sáng sủa, không khuyết hảm thì có thể đoán là giàu có vĩnh viễn, không bao giờ nghèo khổ . Ngược lại nếu mũi thuộc loại chim ưng, thấp gãy hoặc nhỏ, nhọn, lổ mũi hếch ( Ngưỡng Thiên Khổng ) thì tài vận khốn quẫn, của cải không bao giờ giữ được .
4 - Cung Điền Trạch
Việc xác định vị trí của cung Điền Trạch hiện nay có hai thuyết :
A) Thuyết thứ nhất : các sách tướng cổ như [I]Sử Quảng Hải ; Ma Y Tướng Pháp ; Thần Tướng Toàn Biên ; Thủy Kính Tập và gần đây là Tào Trấn Hải, tác giả cuốn Mạng Tướng Giảng Tọa, cho rằng vị trí của cung Điền Trạch là cặp mắt . Kẻ mắt mờ, khô và có nhiều tia máu không mong gì có ruộng vườn hoặc có thừa kế di sản thì cũng phá tán cho kỳ hết, về già tay không . Nếu cặp mắt đen láy, lòng đen lòng trắng phân minh ( ví dụ như loại mắt Phượng ), lông mày cao thì dễ có số được hưởng di sanhoặc dễ tậu ruộng vườn . Mắt lớn và lộ dể khuynh gia bại sản .
B) Thuyết thứ hai : Một số tác giả hiện tại như Tô Lãng Thiên trong sách Nhân Tướng Học Đồ Giải và Kiến Nông Cư Sĩ trong Quan Nhân Thuật lại cho rằng vị trí đích thực của cung Điền Trạch là khoảng từ bờ trên của cặp mắt tới bìa dưới của cặp chân mày . Sự tốt xấu của cung Điền Trạch biến thiên theo chiều với sự tốt xấu của khu vực kể trên . Kẻ có cung Điền Trạch rộng rãi, sáng sủa là có nhiều triễn vọng được hưởng di sản của tiền nhân . Trái lại, khu vực của cung Điền Trạch hẹp thì kẻ đó nếu có ruộng vườn là do chính công lao của đương sự chứ không có mấy triễn vọng trở thành điền chủ nhờ âm phúc hoặc tặng dũ của tha nhân .
Riêng Kiến Nông Cư Sĩ còn viết thêm rằng khu vực cung Điền Trạch còn cho ta biết một phần cá tính con người nữa . Khu vực này cao, rộng thì kẻ đó có tư tưởng bảo thủ, không ưa thích các sự thay đổi sâu rộng trong nếp sống hoặc tập quán . Khu vực này hẹp thì trái lại, nghĩa là kẻ đó tính nóng, thích tranh cải . Không ưa gò bó trong khuôn khổ cổ truyền . Do đó, đại đa số những kẻ như vậy đều có óc cấp tiến, không nệ cổ .
5 - Cung Huynh Đệ
Vị trí đích thực của cung Huynh Đệ là cặp Lông Mày . Ý nghĩa chính của cung này là sự tương quan gia vận giữa anh em . Ngoài ra theo sách cổ như Ma Y, Thủy Kính Tập v.v.... con có thể đoán được số anh em trai nữa .
Lông mày thanh nghĩa là sợi không lớn, không nhỏ, khoảng cách đúng tiêu chuẩn, ( xem phần lông mày ) và dài hơn mắt thì anh em hoà thuận . Lông mày đẹp và mịn thì tình nghĩa anh em đậm đà và thắm thiết . Lông mày giống mặt trăng non thì số anh em có người nổi tiếng với đời . Ngược lại nếu lông mày thô, chiều dài quá ngắn là điềm anh em ly tán . Sợi lông mày thô, mịn xen kẻ nhauhoặc đuôi lông mày phải và trái cao thấp, dài ngắn khác nhau là kẻ có anh em dị bào . Sợi lông mày ở hai đầu lông mày giao nhau và sắc lại vàng, thưa thớt và ngắn là số có anh em hoặc chính bản thân chết ở xa nhà . Sợi lông mày mọc ngược và xoắn nhau là số anh em bất hoà .
Riêng về quan điểm cho là căn cứ vào lông mày mà biết được số anh em trai gái ( thuở xưa theo quan điểm " nhất nam viết hửu, thập nữ viết vô chỉ có con trai mới đáng kể ) sách Ma Y Tướng Pháp Toàn Thư có ghi lại đầy đủ và phân biệt ra từng loại lông mày, nhưng theo kinh nghiệm hiện tại, lý thuyết này không được xác thực nên soạn giã không ghi vào đây
Tưởng cũng phải nói thêm là xem tướng lông mày không phải chỉ quan sát riêng cặp lông mày là đủ, phải đặt lông mày vào toàn thể các bộ vị của khuôn mặttrong thế " Hộ Ứng Liên Hoàn" như tác giã Tôn Đăng đã đề cập ( xem phần phụ luận ở đoạn nói riêng về lông mày trong phần sau )
6 - Cung Tử Tức ( h.9/3 )
Vị trí của cung Tử tức là khu vực nằm ngay phía dưới hai mắt gọi là Lệ Đường . Cách cấu tạo và màu sắc cho biết một cách khái quát về sự ràng buộc giữa đương sự và con cái thắm thiết hay lỏng lẻo,phần nào hậu vận của con cái, triễn vọng hay tuyệt tự .
Về mặt liên hệ đến vận mạng con cái, nếu Lệ Đường đầy đặn, tươi hồng thì con cái được thừa hưởng phúc lộc tự nhiên, có cơ hội làm vinh hiễn tổ tông . Trái lại, Lệ Đường mà sâu hỏm, màu sắc thô xạm là biểu hiện con cái không ra gì, cha cọp sinh ra con chó . Nếu lệ đường mà sâu hõm, khí sắc xấu lại có vết sẹo hoặc bị tật bẩm sinh là số tuyệt tự hoặc có con thì khi già cũng thành cô đơn .
Một vài tác giả cổ điễn còn đi xa hơn nữa là phân biệt Lệ Đường bên phải là con gái, bên trái là con trai . Muốn biết một cách khá chính xác phải đem tướng luôn cả khu vực Lệ Đường của người vợ nữa .
7 - Cung Nô Bộc ( h.9/4 )
Vị trí đích thực của cung Nô Bộc là khu vực Địa Các, nhưng trong thực tế nó bao gồm phần lớn Hạ Đình, từ khóe miệng xuống đến tận cằm . Ý nghĩa chung của cung Nô Bộc là sự hổ trợ giữa cá nhân với các người quen biết hoặc giúp việc .
Khu vực Địa Các đầy đặn, cân xứng là số có nhiều người quen biết có tài năng giúp đỡ, đối với tha nhân thì đương số là kẻ có uy lực và có kkhả năng điều động người khác . Khu vực Địa caclệch hảm, nhỏ, nhọn là kẻ có số hay bị tiểu nhân ghen ghét, kẻ giúp việc không hết lòng, có giúp người tận tình thì chung cuộc cũng mang lấy sự oán trách . Nếu khu vực Địa Các có vết hằn, nứt tự nhiên là số có kẻ giúp việc hay thuộc cấp không ra gì, dễ dàng trở mặt với mình .
8 - Cung Thê Thiếp ( h 9/5 )
Cung Thê Thiếp ở về phía hai đuôi mắt, khu vực này có tên riêng là Gian Môn . Cung Thê Thiếp cho ta biết sơ qua về sự liên hệ vợ chồng, sự hạnh phúc trong vấn đề lứa đôi và tình duyên sớm muộn ...
Gian Môn đầy đặn và không bị các vạch ngang dọc làm thành khuyết hãm là kẻ thân thể khang kiện, tình dục mạnh mẽ, cho nên trong đời sống vợ chồng đễ có hạnh phúc vật chất . Nếu bộ vị đó quá nãy nở, bất kể trai hay gái thì vì tình dục quá mạnh khiến kẻ phối ngẫu trung bình thì khó có thể thỏa mãn được nhu cầu nhục dục . Trái lại khu vực Gian Môn quá thấp hoặc hỏm ( tương đối so với sự mập hay gầy của toàn thể khuôn mặt ) thì kẻ đó có tính dâm dục ngấm ngầm .
Về mặt mạng vận, Nam giới nếu có Gian Môn hồng nhuận, không có các vạch ngang và dọc đan chéo nhau là kẻ có được vợ thuận hảo, hạnh phúc lứa đôi mỹ mãn . Đúng mức độ ( không quá nãy nhở, không quá thấp hỏm ) là lấy được vợ hiền thục, giàu có ; nếu bị các vằn ngang dọc giao nhau thì vợ dễ bị chết bất đắc kỳ tử . Gian Môn ảm đạm thì đời sống vợ chồng hay xãy ra những chuyện bất bình .
9 - Cung tật ách ( h 9/6 )
Nằm ở khu vực sống mũi ( bao gồm Sơn Căn, Niên Thượng, Thọ Thượng ) . Cung Tật Ách cho ta biết khái quát về sự khỏe mạnh hay suy kém của đương sự .
Nếu khu vực Sơn Căn cao và hai bên bộ vị kế tiếp ngay ngắn, nãy nở và thẳng xuôi đó là biểu hiện của kẻ được trời phú cho sức chịu đựng bệnh tật rất dẻo dai, có thể bị lâm nguy nhưng không chết vì bạo bệnh . Hơn nữa kẻ đó ít bị bệnh tật .
Khu vực sống mũi thấp, lệch, dễ bị bệnh và nếi kiêm thêm cả các vết hằn tự nhiên thì có thể quyết đoán là quanh năm bệnh tật liên miên, khó thể trường thọ . Nếu tự nhiên khu vực Cung Tật Ách bị xạm đen đó là điềm báo trước bị trọng bệnh . Nếu các bộ vị quan trọng khác như Ấn Đường, Lông Mày, Cặp Mắt đều ảm đạm thì có thể chết vì bạo bệnh trong một tương lai gần .
10 - Cung Thiên Di ( h 9/7 )
Vị trí của Cung Thiên Di ở hai bên phía trên của góc trán ( trong thuật ngữ của Nhân Tướng Học, khu vực này được gọi là Dịch Mã ). Ý nghĩa chính của Cung Thiên Di là sự di chuyển, giao tiếp với các tha nhân không phải là thân quyến của mình . Tuy nói là góc trán phía trên, nhưng cả khu vực lân cận cũng đều được coi trọng . Nếu khi vực Dịch Mã và kế phía dưới đó là Thiên Thương đầy đặn, cân xứng và sáng sủa thì đi xa làm ăn có lợi, được ngoại nhân giúp đỡ . Nếu khu vực Ngũ Vĩ ( đuôi mắt ) tươi đẹp thì đến già vẫn còn có triễn vọng ngao du xa nhà một cách hạnh thông . Nếu khu vực Dịch Mã hõm, lệch thì suốt đời chỉ chuốc lấy thất bại, người ngoài hờ hững . Nếu bộ phận trán và Địa Các lệch lạc không cân xứng thì do ở chổ ngay từ căn bản Dịch Mã bị mất cân bằng, nên kẻ đó suốt đời long đong, không ở yên một chổ .
11 - Cung Phúc Đức ( h 9/8 )
Hiện nay theo chổ hiểu biết của soạn giả thì có hai thuyết trái ngược cả về vị trí lẫn ý nghĩa .
a)- Thuye6't thứ nhất : Được sách cổ điển về tướng học như Ma Y Thần Tướng Toàn Biên, Thủy Kính Tập và gần đây như Nghiẽn Nông Cư Sĩ trong sách Quan Nhân Ư Vi, Thie6't Bút Tủ trong sachTươ'ng Pháp Nhập Môn đều cho rằng vị trí của Cung Phúc Đức nằm ở hai bên má chạy dài từ Thiên Thương xuống đến tận cùng của khuôn mặt .
Về ý nghĩa, Cung Phúc Đức cho phép dự đóan hy vọng về công danh, phú quý ( do các bộ vị khác thể hiện ) có thể có nhiều xác xuất thành tựu trong thực tế hay không . Căn cứ vào kinh nghiệm của cổ nhân thì các cung khác tốt mà Cung Phúc Đức xấu thì sự thành tựu của cá nhân đó bị suy giảm hoặc mất đi . Ngược lại, nếu cung Phúc Đức tốt, các cung kia xấu thì sự xấu đó có thể nguy hại rất nhiều .
Đại khái là Cung Phúc Đức đầu đặn, cân xứng ( trong ý nghĩa là cả hai bên phải, trái không mất quân bình quá rỏ rệt ), khí sắc tươi tắn, thì chủ về phú quý dễ thành . Cằm tròn, trán hẹp, thuở thiếu niên gặp nhiều va6't vả ; Trán rộng, tốt mà cằm nhọn, hẹp thì về già lận đận . Nếu các bộ vị chủ về các cung khác không mấy tốt đẹp, nhưng cũng không xấu lắm mà được mày cao, mắt sáng thì vận số bình thường . Trái lại, vẫn trường hợp kể trên mà chân mày ăn lan xuống tận bờ mắt, tai có Luân, Quách đảo ngược vị trí mà không thuộc loại Hoả Hình Nhân thì đối với kẻ đó chẳng nên đề cập đến chuyện phúc đức làm gì cho vô ích .
b)- Thuyết thứ hai : Thuyết này mới được đưa ra trong mấy năm nay do hai nhà tướng học hiện tại là Tô Lãng Thiên và Kiến Nông Cư Sĩ chủ xướng . Theo hai vị trên vị trí của cung Phúc Đức nằm ở phía trên gần cuối cặp lông mày, giới hạn phía dưới là chân mày, phía trên vào khoảng trên dưới 1 phân tây . Ý nghĩa chính của nó là cho phép ta đoán được sự may rủi có tính cách bất định của tài vận ( tùy theo thay đổi của cách cấu tạo và khí sắc của khu vực trên, thời gian dự đoán có thể lâu hay mau trước khi sự kiện xãy ra ) ( h 9/8 ) .
Bộ phận kể trên có thịt, sắc thái thanh khiết được coi là điềm tốt cho việc mưu cầu tài lộc . Ngược lại có thể nói là kẻ đó ít hy vọng giàu có . Bộ phận chỉ vị trícung Phúc Đức bị vằn hoặc sẹo tự nhiên hoặc nốt ruồi thì phải giải thích là rủi nhiều hơn may trong khi phối hợp với các cung khác để luận đoán các hung .
12 - Cung Tướng Mạo
Vị trí là toàn bộ khuôn mặt, bao gồm tất cả mọi bộ vị, toàn thể các cung hợp lại . Về điểm này, cung tướng mạo cho ta một khái niệm khái quát về những nét trội yếu nhất của một cá nhân và tuỳ theo điểm trội yếu đó liên quan tới cung nào trong số 11 cung kể trên, ta sẻ biết được chiều hướng chính về mạng vận của kẻ đó sẻ đi về đâu và theo đuổi hoạt động nào thì khả dĩ có nhiều triễn vọng thành tựu nhất . Do đó khi nói về toàn thể phép xem tướng mạo, ta lại trở về các nguyên tắc căn bản cổ điển của phép xem tướng ( coi phần : 10 nguyên tắc căn bản cổ điển của phép xem tướng, quyển 2 chương 4 ). Nhưng ở đây xét riêng về mặt các cung, chúng ta chỉ cần lượng định sự phối hợpTam Đình, Ngũ Nhạc và Ngũ Quan có cân xứng hay không mà thôi .
Riêng về phần Phụ Mẫu, Tướng học không xếp riêng thành một cung . Muốn biết về cha mẹ, sách Ma Tướng Pháp Toàn Thư khuyên ta nên quan sát phần Nhật và Nguyệt Giắc Hai khu vực này cao, nổi sáng một cách thanh khiết tự nhiên thì cha mẹ trường thọ, khỏe mạnh . Ngược lại cha mẹ thường hay đau yếu ( hoặc mất sớm nếu thấp hảm và có ám khí tự nhiên và kéo dài từ lúc sơ sinh ) . Nhật Giacmá thấp hơn Nguyệt Giác thì cha mất trước mẹ .Trường hợp ngược lại thì mẹ mất trước cha . Ngoài hai Giác ra cần phải quan sát vị thế cân xứng của hai lông mày nữa . ( vẫn theo nguyên tắc : lông mày trái chỉ cha, lông mày phải chỉ mẹ ) Cả hai cùng một chiều hướng ý nghĩa với hai Giác . Chỉ khi nào hai lông mày và hai khu vực Nhật và Nguyệt Giác phù hợp nhau, sự đoán mới được tạm gọi là chính xác trong phạm vi của cung phụ mẫu . Hơn nữa việc dự đóan cát hung của cha mẹ cũng phải đặt trong phạm vi tổng quát của cung phúc đức và nhất là cung tướng mạo .
* Nhật Giác là góc trán bên trái phía trên, Nguyệt Giác là góc trán bên phải . Đôi khi người ta còn gọi Nhật Giác là Tả Giác, Nguyệt Giác là Hửu Giác .
Powered by vBulletin® Version 4.2.0 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.