PDA

View Full Version : THANH HẢI VÔ THƯỢNG SƯ và PHÁP MÔN QUÁN ÂM - Tác giả : LƯU THỊ KỲ NAM



Pages : 1 [2] 3

Nhím Hoàng Kim
09-06-2008, 11:39 AM
"Nghiệp chướng của chúng ta không phải ở ngoài da , cũng không phải ở trên thân nên không thể dùng nước để rửa sạch . Tại Ấn độ , mỗi năm có rất nhiều người đến sông Hằng tắm . Họ tưởng làm như vậy có thể rửa sạch nghiệp chướng . Thiên chúa giáo đồ cũng dùng nước rửa tội , có phải không ? Nhưng làm như vậy chẳng có ích gì".

"Nếu là một vị Minh sư có lực lượng lớn , Ngài nhất định không cần dùng nước rưới lên thân mình . Ngài chỉ cần dùng ngón tay đụng mình một cái , lập tức mình được rửa sạch nghiệp chướng , hoặc Ngài cũng có thể dùng cặp mắt để rửa sạch nghiệp chướng cho mình , không nhất định phải dùng nước . Trong Thánh kinh có ghi , thánh Giăng nói : 'Ta đương nhiên dùng nước rửa tội , nhưng có người (chúa Giêsu) lực lượng cao hơn ta sẽ không dùng nước mà dùng đức Thánh linh để rửa tội , dùng lửa rửa tội'. Lửa nghĩa là ánh sáng chứ không phải dùng lửa đốt người , nhưng người đời sau không hiểu . Có lúc chúng ta thấy có người đi trên lửa , tưởng như vậy là có thể tiêu trừ nghiệp chướng . Có nhà thờ còn để thau nước bên ngoài , người nào vào cũng phải rửa tượng trưng một chút . Họ không hiểu rằng không phải nước đó có thể rửa được nghiệp chướng của chúng ta , Nước Cam Lồ (Diệu Âm , Ngôi Lời) là một thứ nước vô hình , dùng thứ nước vô hình nầy mới có thể rửa được nghiệp chướng vô hình của chúng ta".

Ngũ độc tham , sân , si , ngã chấp là một trở ngại vô cùng lớn lao cho chúng ta trên con đường tâm linh . Ý thức về cái 'Ta' đã làm cho chúng ta cách biệt với Thượng đế . Khi chúng ta tách rời khỏi Ngài , đó là lúc chúng ta đi vào vòng sinh tử .

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Ngã chấp thực sự có nghĩa là gì ? Đó là một thứ cảm nhận hết sức sâu đậm về sự hiện hữu của cái 'Ta'. Ta muốn điều nầy , ta muốn làm điều kia ... thật sự rất phiền phức . Nếu không có cái Ta nầy , thì những nỗi khổ đau mà chúng ta trải qua chỉ như cơn gió thoảng vậy , sẽ giảm đi rất nhiều".

"Chúng ta bị ngăn cách với vạn vật vì nghĩ rằng chúng ta chỉ hiện hữu trong thân thể vật chất nầy mà thôi . Nếu không chúng ta thật sự là vô sở bất tại . Chúng ta thật sự đều giống nhau , cùng chung một dòng điện mà thôi . Có thể có nhiều bóng đèn khác nhau nhưng dòng điện bên trong dây điện đều giống nhau".

"Quý vị cho rằng bóng đèn của quý vị đẹp hơn những bóng đèn của người bên cạnh ... Quả thực có những bóng đèn đẹp hơn những bóng đèn khác , hình dáng lớn nhỏ khác nhau . Quý vị có thể hài lòng với lớp vỏ bên ngoài của mình , nhưng đừng quên chúng ta là đồng nhất thể . Chúng ta dùng chung một nguồn điện giống nhau , chúng ta cũng cùng một gốc mà ra , nếu không có nó thì không có chúng ta ... Chúng ta thực sự không có sự khác biệt . Nếu quý vị quên mất điều nầy thì sẽ có nhiều rắc rối xảy ra , nhiều phiền não sẽ tới và nhiều đau khổ sẽ xâm lấn , không phải chỉ cho chính mình mà còn cho người khác nữa . Chúng ta còn đem đau khổ đến cho những người khai ngộ .

Thân xác của chúng ta sẽ hoàn toàn trở nên vô dụng khi 'con người thật' của chúng ta với những hiểu biết ra đi , nằm chết ở đó . Lúc chết là lúc chúng ta trở về tổng đài . Bóng đèn bên ngoài có thể bị hư hại , nhưng nguồn điện bên trong vẫn còn đó . Ngay khi chúng ta thay một bóng đèn mới thì dòng điện sẽ trở lại . Cho nên quý vị thấy sau khi chúng ta lấy đi những cảm giác hỷ nộ ái lạc thì chúng ta là ai ? Chúng ta có phải là những cảm giác nầy không ? Cũng giống như biển vậy , nếu không có gió thì làm sao có sóng ? Sóng tuy là một phần của biển , nhưng không do chính biển tạo ra mà là gió".

"Cho nên không nên chấp vào hình tướng bên ngoài rồi nói rằng 'tôi khác anh'. Nếu quý vị không hiểu rõ điều nầy thì quý vị là vô minh nhất . Tội lớn nhất không biết mình là ai , tạo ngăn cách với mọi người rồi gây ra nhiều đau khổ . Vì thế mới tạo nên luân hồi và nhân quả , bởi vì chúng ta bám vào những việc chúng ta làm và những gì chúng ta biết . 'Tôi là bác sĩ', 'Tôi rất thành công', 'Tôi làm được việc nầy còn họ làm không được' ... Rồi dựa vào ý niệm nầy quý vị có xung đột , cạnh tranh trong việc buôn bán và va chạm với nhau , tất cả chỉ vì không hiểu được 'họ' cũng giống như 'ta'."

Nhím Hoàng Kim
09-09-2008, 08:06 PM
"Linh hồn không mang nghiệp chướng , trí cóc mang theo nghiệp chướng từ đời nầy đến đời sau . Nghiệp chướng là một hình thái năng lực vô hình đối với nhục nhãn của chúng ta . Năng lực nầy tạo ra một khuông mẫu hay mô hình và linh hồn kinh qua những kinh nghiệm , thăng trầm ... trong thế giới nầy . Sau một thời gian dài , linh hồn tự đồng hóa mình với khuôn mẫu đó thay vì nhận thức rằng nó tự do , không liên hệ gì với khuôn mẫu nầy".

"Chúng ta phải hiểu rằng không có 'người', bất luận 'người' nầy vĩ đại như thế nào , đó cũng chỉ là một hiện tượng mà thôi . Đó là phẩm chất mà họ có hoặc chính họ biết họ có thứ phẩm chất đó rồi đem ra dùng mà thôi , họ không phải là 'người' đó . Cho nên chúng ta không có sanh cũng không có tử , chỉ có những ý niệm được tạo ra và tàn lụi mà thôi . Nếu chúng ta không bỏ xuống những ý niệm nầy mà cứ tiếp tục theo đuổi những thứ về sinh lão bịnh tử , hỷ nộ ái lạc , rồi sau đó cho rằng chúng ta là những cảm giác ấy , thì đương nhiên chúng ta bị luân hồi . Chúng ta không phân biệt được người ăn táo và trái táo , cứ dính mãi vào trong trái táo . Cả ngày cứ đi tìm táo , tìm hết chỗ nầy rồi lại đi tìm chỗ khác , cứ mãi tiếp tục tìm cho nên cứ phải luân hồi . Có lúc vì tìm những cái chúng ta thích hoặc tránh những điều chúng ta không thích , cho nên chúng ta mới bị phiền phức như thế , mới luân hồi , nếu không Chân ngã không có luân hồi . Nó là chứng nhân , vĩnh viễn bất sanh bất diệt , vĩnh viễn là quan sát viên mà thôi , giống như chúng ta đang đi xem kịch vậy".

"Người không bị điều gì ảnh hưởng , giết Người , Người cũng không chết , đốt Người , Người cũng không cháy , dìm Người , Người cũng không chìm , như vậy thì còn có 'Người' nào luân hồi trong vòng sinh tử ? Chỉ có thân thể nầy luân hồi chứ không phải chúng ta , nhưng nếu chúng ta không tu hành , không thật sự suy nghĩ chín chắn , không bình tâm để hiểu rõ , thì dù tôi có giảng như thế nào , quý vị chỉ có thể biết như vậy mà thôi . Không có cách nào cắt bỏ được cảm giác sinh tử luân hồi , rồi sau đó nói rằng mình không có cách nào để giải thoát . Thật ra chúng ta vốn đã giải thoát rồi".

Theo Minh sư nhận định nghiệp không thể đổi , nhưng có thể chuyển trong một vài trường hợp . Vị Minh sư tại thế có thể làm nhẹ bớt nghiệp chướng hiện tiền cho đệ tử , hay chuyển một ít định nghiệp của đệ tử bằng cách đưa nó vào trong giấc mơ của đệ tử .

Chẳng hạn như theo số mạng an bài , một đệ tử phải lấy một người vợ trong kiếp nầy , nhưng Ngài biết rằng nếu lấy người nầy sẽ không tốt cho sự tu hành của đệ tử , Ngài sẽ cho đệ tử thấy làm một đám cưới với cô nầy trong một giấc mơ để trả xong cái duyên nghiệp vợ chồng . Hoặc giả có đệ tử số định là sẽ bị giết trong kiếp nầy , vị Minh sư có thể chuyển nó thành nhẹ hơn , cho đệ tử thấy mình bị giết trong mơ , hay bị người phỉ báng , bị chặt một ngón tay hay cánh tay chẳng hạn . Hoặc giả số của đệ tử đáng lẽ phải bị thương rất trầm trọng , hay có thể mất mạng trong một tai nạn đã được an bài , nhưng người nầy chỉ bị xây xát chút ít mà thôi , vì vị Minh sư đã gánh bớt nghiệp chướng nầy cho đệ tử . Có khi chính vị Minh sư bị đụng xe hay bị một căn bịnh nào đó , cũng là lý do nầy . Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập tự giá cũng để gánh nghiệp cho đệ tử của Ngài lúc đó .

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Đối với người thường thì định nghiệp không thể chuyển , nhưng thật ra điều nầy có thể làm được nếu có sự giúp đỡ của một Đại sư . Nằm mộng cũng là một phương cách để trả định nghiệp ... Giả sử có một người định nghiệp chủ định rằng vào lúc sáu mươi tuổi thì bị xe tông chết , hoặc nửa thân người bị thương . Nhưng nếu người nầy may mắn gặp được Minh sư tại thế và cố gắng tu hành cho đến năm sáu mươi tuổi , có thể không bị đụng xe nhưng có thể nằm mơ bị xe đụng một nửa thân hình rất đau đớn . Lúc tỉnh dậy thì chẳng có chuyện gì , nhưng chỗ bị đụng trong giấc mơ cũng còn hơi đau một chút . Qua bốn mươi ngày sau thì thân thể không còn đau nữa , thân thể không bị thương . Cho nên chúng ta nói định nghiệp không thể chuyển nhưng cũng có thể chuyển , đó là ý nghĩa như vậy . Nếu như quý vị không có Minh sư giúp đỡ thì cái định nghiệp nầy không thể chuyển được , bởi vì nghiệp chướng của chúng ta rất nặng nề".

"Tuy thế giới nầy có pháp luật và nhân quả , nhưng nếu chúng ta câu thông với lực lượng cao nhất , cũng chính là bản lai diện mục của chúng ta , câu thông với lực lượng đại từ bi , đại hùng đại lực vĩnh viễn tồn tại , thì chúng ta sẽ dứt tuyệt duyên với nhân quả . Cho nên Sư Phụ nói định nghiệp có thể sửa đổi , chính là ý nghĩa nầy".

"Chúng ta theo một vị đại tu hành , phước báu của vị nầy có thể cải biến định nghiệp của chúng ta . Cho nên theo Phật học sẽ rất mau thành A la hán , Thinh văn , Bồ tát ... Sư tổ của Sư phụ có một đệ tử sau đó trở thành Sư ông , cũng là một đại sư . Có một hôm Ngài té từ trên ngựa xuống bị trật xương , rất đau đớn mà chữa không hết . Một sư tỷ thấy vậy mới đi báo với Sư tổ . Sư tổ nói 'để thầy tra coi' rồi mới tọa thiền một ngày . Sau khi xuất định mới nói với vị sư tỷ 'định nghiệp đã chuyển từ năm năm thành năm tháng'. Trong hàng đệ tử của Sư phụ cũng có chuyện đó , Sư phụ bảo khỏi cần mổ , rốt cuộc đã tránh được chuyện mổ xẻ phiền phức nầy".

Nhím Hoàng Kim
09-14-2008, 04:12 PM
CHƯƠNG BỐN
MINH SƯ VÀ TÔN GIÁO


Bất cứ học ngành gì chúng ta cũng cần một vị thầy còn sống để chỉ dạy cho chúng ta . Ngành khoa học tâm linh cũng đòi hỏi một vị Thầy để hướng dẫn chúng ta tìm về Nguồn Cội . Ngay cả sau khi một Minh sư xuống trần , để nhớ lại địa vị cao cả của mình nơi Thiên quốc , Ngài cũng phải thọ Tâm Ấn với một Minh sư còn tại thế khác , bởi vì đây là luật tâm linh của Thượng đế .

Chúa Giêsu đã nhận sự Rửa Tội của Thánh Giăng Báptít , mặc dù đẳng cấp Ngài quá cao so với đẳng cấp của Giăng Báptít . Minh sư Kabir đã thọ Tâm Ấn với Ramananda . Bên ngoài dưới con mắt của thế gian , khi minh sư Kabir mới thọ pháp , chúng ta thấy Ngài khiêm tốn ngồi dưới chân của Ramananda như là một đệ tử . Nhưng thật ra đẳng cấp tâm linh của Ngài quá vĩ đại so với đẳng cấp của Ramananda , bởi vì cuối cùng Ngài là người giải thoát cho Ramananda .

Minh sư Kabir nói : "Tất cả các Minh sư đến thế giới nầy với những kiến thức và lực lượng tiềm ẩn ngay từ lúc mới sanh , nhưng theo truyền thống tâm linh , các Ngài phải có một vị Thầy". Cho nên khi thấy một vị Minh sư ngồi dưới chân một vị khác , chúng ta đừng vội cho rằng vị Minh sư nầy đẳng cấp thấp hơn vị kia .

Trong cuốn The Celestial Music , An Introduction To Kirpal Singh (Tiếng Nhạc Trời , Giới Thiệu Minh sư Kirpal Singh) xuất bản năm 1974 , Leonard G. Parrott , đệ tử của Minh sư Kirpal Singh viết : "Con đường tâm linh là một sự thật , nó không phải là một đề tài hay vấn đề để bàn cãi hay biện luận ; càng phân tích , càng biện luận , chúng ta càng đem nó xa sự thật hay chân lý . Trong lãnh vực học vấn , một cuốn sách dầu hay cách mấy cũng không thể thay thế một ông thầy giỏi được , huống chi là lãnh vực tâm linh của linh hồn , vì đây là một ngành khoa học khó khăn nhất trong các ngành khoa học của nhân loại .

Dĩ nhiên chúng ta phải tôn kính những Minh sư trong quá khứ ; gương sống của họ , giáo lý đầy ánh sáng chân lý của họ đã nhắc nhở , mời gọi chúng ta trở về lại Ngôi Nhà Xưa . Nhưng chúng ta không thể chối cãi được định luật thiên nhiên của vũ trụ : chỉ có người sống mới có thể chỉ dạy người còn sống và truyền cho người ấy sức sống của cuộc đời . Chỉ có người đang sống với chúng ta , biết rõ và làm chủ được con đường tâm linh mới có thể đảm nhận công việc đưa chúng ta về nhà .

Minh sư Huzur Baba Sawan Singh là người thừa kế của Minh sư Jamail Singh . Để nhấn mạnh về sự cần thiết của một Minh sư tại thế , Ngài đã dùng những thí dụ rất điển hình cho một bệnh nhân không thể nào được chữa trị bởi một bác sĩ đã quá cố , một vụ kiện không thể nào được xử bởi một ông tòa đã qua đời , cũng như một người đàn bà không thể cưới một người chồng đã quá vãng mà có thể sinh con . Cũng vậy một Minh sư đã qua đời không thể nào đảm nhận công việc của thế giới nầy nữa . Khi Ngài ra đi , Ngài giao phó công việc lại cho người kế thừa , bởi vì con người chỉ có thể được chỉ dạy bởi con người , và Thượng đế làm việc trong thế giới nầy phải qua trung gian của một Minh sư tại thế trong thân xác của con người .

Nhím Hoàng Kim
10-04-2008, 06:30 PM
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ của mình , Ngài thường chuyển giao công việc lại cho người thừa kế để công việc giúp đỡ những linh hồn muốn về đoàn tụ với Thượng đế không bị gián đoạn . Ngay cả nếu một Minh sư đã qua đời muốn giải thoát cho một linh hồn còn sống trong một thân người ở thế giới nầy , Ngài cũng phải làm theo luật thiên nhiên , tức là cũng phải qua trung gian của một Minh sư còn tại thế khác . Chúng ta sẽ được những Minh sư trong quá khứ giúp đỡ khi chúng ta đến cõi tâm linh mà họ đang ngự trị .

Khi những Minh sư ở vào cái đẳng cấp của Ngài và chúng ta còn ở vào cái đẳng cấp của con người , thì việc cho rằng Ngài có thể giúp đỡ chúng ta từ những cõi tâm linh cao của Ngài đều hoàn toàn dựa vào sự tưởng tượng , suy luận hay cảm xúc mà thôi . Chỉ trừ khi Phật nhãn , Mắt Trí Huệ hay Cánh Cửa Thứ Mười của chúng ta đã mở , chúng ta khó có thể biết được sự thật , rất dễ bị những ấn tượng từ tiềm thức hoặc từ những âm linh không trong sạch lừa dối . Chúng ta càng khó nhận ra được những Minh sư đã qua đời , vì chúng ta đã không biết Ngài khi Ngài còn tại thế trong thân thể con người , và như vậy chúng ta càng dễ bị lầm lẫn và lừa dối hơn .

Nếu chính Thượng đế có thể trực tiếp cứu rỗi những linh hồn thì Ngài đã không đưa xuống thế giới nầy nhưng Minh sư trong quá khứ . Nếu quá khứ đã từng có những Minh sư như một sự cần thiết thì bây giờ sự cần thiết đó vẫn còn ; bởi vì Thượng đế muốn dạy dỗ con người trên trái đất nầy , Ngài phải lấy hình dáng của con người và thị hiện trong nhục thể của một Minh sư tại thế .

Minh sư Kirpal Singh đã trích dẫn đạo nầy trong kinh Thánh : 'Chắc chắn là Thượng đế sẽ không làm gì cả , nhưng Ngài khải thị cái bí mật của Ngài cho những người phụng sự cho Ngài' Amốt 3:7".

"Có nhiều trở ngại cho một người tìm đạo . Thánh Kinh nhắc nhở đến điều nầy trong đoạn quan trọng sau đây : 'Cánh cổng chật và con đường nhỏ hẹp dẫn chúng ta đến cuộc sống đời đời , nhưng chỉ có rất ít người tìm thấy nó'. Mathiơ 7:14.

Từ nhỏ chúng ta đã quá chấp nhứt vào những kiến thức hay tư tưởng qua sách vở , đến nổi chúng ta không thể nào chấp nhận một cái gì khác ngoài những thứ trên . Chúng ta quên rằng Thượng đế đã gởi Con của Ngài xuống đây không những hai ngàn năm qua , mà Ngài còn tiếp tục làm như vậy cho tất cả các thời đại vì tình thương vô bờ bến của Ngài .

Mỗi Minh sư là một người con của Ngài và cho thời đại đó . Chính chúa Giêsu đã vạch rõ về sự tạm thời hay nhất thời trong sứ mạng của Ngài trên thế gian nầy qua câu sau đây : 'Đương khi Ta còn ở thế gian , Ta là ánh sáng của thế gian'. Câu nầy nói rõ ràng Ngài sẽ không là ánh sáng của thế gian sau khi Ngài đã ra đi .

Sau đó không lâu , khi nói với một đám đông quanh Ngài , Ngài lại làm sáng tỏ thêm : 'Tuy nhiên Ánh sáng còn ở trong ngươi chỉ ít lâu thôi . Hãy bước đi khi ngươi còn có Ánh sáng , đừng để bóng tối chiếm ngự ngươi , và ai bước đi trong bóng tối sẽ không biết mình đi đâu . Trong khi ngươi đang có Ánh sáng , hãy tin vào Ánh sáng và ngươi có thể trở thành những người con của Ánh sáng'. Giăng 12:35.

Nhím Hoàng Kim
10-10-2008, 04:43 PM
Chúa Giêsu là Minh sư của thời đại Ngài , là Ánh sáng của thế gian khi Ngài còn đảm nhiệm sứ mạng được giao phó cho Ngài trên trái đất nầy . Cũng như tất cả các Minh sư đến trước hay sau Ngài , Ánh sáng đó đã được chuyển tiếp từ vị nầy qua vị khác".

Các tôn giáo thường cho rằng chỉ có một đấng Cứu rỗi thôi và đó là vị Minh sư hay Giáo chủ đã qua đời của mình . Thành kiến nầy làm cho chúng ta bị kẹt ở đó , gây ra những chia rẽ giữa con người , giữa các tôn giáo với nhau , đưa đến chiến tranh tôn giáo , làm cho chúng ta phí phạm thời giờ quý báu của thân người , không lo đi tìm một vị Chân sư tại thế khác có khả năng giải thoát cho chúng ta .

Một tín đồ Hồi giáo nói với Vô Thượng Sư Thanh Hải : "Kinh Koran nói rằng , tôn giáo duy nhất đến từ Thượng đế là Hồi giáo và không có tôn giáo nào khác ngoài Hồi giáo".

Ngài giải thích : "Đúng 100% khi nói rằng 'không có tôn giáo nào khác', bởi vì vào thời điểm đó Mohammed truyền đạt sự dạy dỗ trực tiếp từ Thượng đế . Cho nên đối với những ai tin tưởng Ngài khi Ngài còn sống và nhận sự dạy dỗ trực tiếp từ Ngài , thì Hồi giáo là giáo lý thật sự , bởi vì vị Giáo chủ còn sống và đang trực tiếp truyền đạt giáo lý của Ngài . Tất cả những tôn giáo khác trước thời đó chỉ là lý thuyết mà thôi .

Cho nên khi Ki Tô còn tại thế , tôn giáo đó là chân thật . Do sự dạy dỗ trực tiếp , người ta có thể thấy được hào quang và câu thông trực tiếp với Thượng đế . Nhưng khi bất cứ vị Minh sư nào vãng sinh rồi thì một vị Tiên tri khác , dù là đầu tiên hay cuối cùng , sẽ phải đến để câu thông con người với Thượng đế trở lại . Đối với những người trong thời điểm đó thì đó là tôn giáo chân thật duy nhất .

Chỉ vì quý vị chưa thấy được Thượng đế ; đó là lý do tại sao chúng ta tranh luận về chữ nghĩa , quan niệm và lý thuyết . Nếu quý vị chỉ nhắm mắt lại , tôi có thể giúp quý vị thấy được Thượng đế tức khắc . Rồi quý vị có thể nói chuyện với Ngài và hỏi Allah của quý vị : Đâu là sự thật ? Đâu là chân lý ?' Quý vị rất sùng đạo và rất thành tâm và tôi rất cảm động bởi niềm tin của quý vị , nhưng có một điều thiếu sót - Thượng đế . Chúng ta luôn luôn nói về Thượng đế , về vị Tiên tri cuối cùng và chúng ta nói về Chân lý nhưng chúng ta không thấy nó .

Nếu quý vị thấy được những gì tôi thấy , chúng ta sẽ không bao giờ phải bàn cãi nữa . Quý vị có muốn thấy Thượng đế bây giờ không ? Quý vị có muốn thấy hào quang không ? Tôi có thể chỉ cho quý vị thấy , tôi có thể giúp quý vị ! Nếu chúng ta không hiểu điều nầy , nếu chúng ta không thấy được Thượng đế , thì kiến thức của chúng ta rất giới hạn . Kinh Koran là giáo lý chân thật nhưng người ta không hiểu được , bởi vì quý vị phải lên đến cùng một đẳng cấp , hay tối thiểu gần bằng đẳng cấp của Mohammed mới có thể hiểu được lời của Mohammed , bằng không sẽ có nhiều sự hiểu lầm . Đó là lý do tại sao có chiến tranh và giết chóc giữa các tôn giáo , thậm chí trong cùng một tôn giáo , về cùng một Thượng đế ! Điều nầy xảy ra bởi vì chúng ta dựa vào sự hiểu biết giới hạn của mình thay vì của Thượng đế . Cho nên chúng ta có thể bàn luận mãi bởi vì tôi hiểu khác hơn anh , và rồi chúng ta thậm chí có thể gây chiến với nhau".

Chúng ta lấy một danh từ chung "Phật , Chúa , Tiên tri" làm thành một danh từ riêng , rồi chúng ta nghĩ rằng chỉ có một vị Phật thôi , đó là Phật Thích Ca ; chỉ có một vị Con Trời thôi , đó là Giêsu ; chỉ có một vị Tiên tri thôi , đó là Mohammed ... Nếu chúng ta dùng danh từ "Minh sư" của tiếng Trung hoa để chỉ chung cho các vị Phật , Thánh , thì sẽ tránh được nhiều sự hiểu lầm đem đến không biết bao nhiêu là tai nạn , phiền toái , trở ngại và đau khổ cho những vị Minh sư đến sau , cũng như cho những người muốn tìm đạo giải thoát .

Tự cổ chí kim có rất nhiều Minh sư đã ra đời ở nhiều nước khác nhau , qua nhiều thời đại khác nhau . Minh sư Nanak giáo chủ của đạo Sikhs nói : "Vị Minh sư có cái chìa khóa để mở cửa vào nhà của linh hồn . Linh hồn của chúng ta bị xiềng xích vào thân thể và đầu óc của chúng ta ! Không có vị Minh sư hoàn hảo , không có cách chi chúng ta có thể thoát khỏi ngục tù nầy".

Minh sư Kabir ở Ấn độ nói về chính Ngài : "Ta đến từ Thiên quốc để thi hành luật của Thượng đế".

"Ta đến thế giới nầy để giải thoát những linh hồn nào nhận ra ta".

"Ta đến đây qua nhiều thời đại và trong tất cả thời đại mà ta đến , những linh hồn được đánh thức được ta gởi về Thiên quốc".

Chúa Giêsu nói : "Ta là cửa để chiên ra vào ... Nếu ai bởi Ta mà vào thì sẽ được cứu ... Ta biết chiên Ta và chiên Ta quen Ta , cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha vậy". Giăng 10:7-15. Qua sự giúp đỡ của chúa Giêsu lúc đó , những đệ tử của Ngài đã được cứu rỗi . Trong tâm linh , vị Minh sư biết người nào là đệ tử 'Ta biết chiên Ta', và người nào số mạng an bài là đệ tử của Ngài đã nhận ra Ngài 'chiên Ta quen Ta'.

Nhím Hoàng Kim
10-19-2008, 03:05 PM
Các Minh sư là nguồn gốc của mọi tôn giáo , nhưng khi các Ngài còn tại thế , chỉ có pháp mạch mà không có tôn giáo . Sau khi Ngài rời bỏ thế gian , không còn ai để truyền dòng Âm lưu và ánh sáng nội tại nữa , pháp mạch bị gián đoán . Sau một thời gian dài , các tín đồ bắt đầu thành lập nên một tôn giáo mới , và lấy tên của Ngài đặt tên cho tôn giáo đó .

Các Ngài là linh hồn của pháp mạch và chỉ có hồn mới có thể truyền qua hồn được . Khi trở thành tôn giáo chỉ còn cái xác mà không có hồn . Kinh điển , giáo lý chỉ là những cái xác còn rơi rớt lại sau khi các Ngài ra đi . Những đền thờ bắt đầu được xây cất lên và những nghi lễ bên ngoài được đặt ra như phương cách cầu nguyện , tôn thờ Thượng đế và tôn thờ vị Minh sư đã qua đời .

Chúa Giêsu là vị Thánh sống lúc đó , nhưng phần lớn người đương thời lại không tin nhận Ngài , bởi vì họ bận rộn nghiên cứu kinh điển của những Minh sư đã qua đời : "Các ngươi nghiên cứu kinh Thánh vì nghĩ rằng các ngươi sẽ tìm được sự sống đời đời ở trong đó ; hãy biết rằng kinh Thánh được viết ra để làm chứng về Ta vậy . Thế mà các ngươi lại không muốn đến cùng Ta để được sự sống !" Giăng 5:39-40.

Cho nên khi còn tại thế , Minh sư Thích Ca không sáng lập ra đạo Phật , Minh sư Giêsu không sáng lập ra Thiên chúa giáo , Minh sư Lão Tử không tạo ra đạo Lão , Minh sư Khổng Tử không tạo ra đạo Khổng , Minh sư Nanak không lập nên đạo Sikhs và Minh sư Mohamed không đặt ra đạo Hồi ...

Vì vậy có sự khác biệt giữa tín đồ (followers) và môn đệ (disciples). Tín đồ là những người sau khi vị Giáo chủ qua đời , tin tưởng Ngài , cầu nguyện với Ngài , đọc hay tụng kinh điển của Ngài , làm những hình thức lễ nghi tôn giáo bên ngoài .

Môn đồ là những đệ tử đã thọ Tâm Ấn hay Rửa Tội Bằng Đức Thánh Linh với vị Minh sư khi Ngài còn sống , trực tiếp nhận pháp mạch từ Ngài , thực sự thể nghiệm Âm thanh và ánh sáng của Thượng đế bên trong ; đó là những ấn chứng mà kinh điển của các tôn giáo đã từng đề cập đến .

Qua lịch sử các tôn giáo , trong Thiên chúa giáo , ngoài Minh sư Giêsu , chúng ta còn thấy có thánh Elijah , Giăng Báp tít , Phirơ , Phao Lồ ... Chúa Giêsu đã chọn Phirơ làm Minh sư kế thừa (successor) của Ngài : "Ngươi là Phirơ , trên đá nầy . Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta , và các cửa âm phủ sẽ không thắng được Vương quốc Thiên đàng". Mathiơ 16:18-19.

Phật giáo thường dùng danh từ Tổ để chỉ các vị Phật hay Minh sư kế thừa pháp mạch của Phật Thích Ca , nhưng một số chúng ta lại lầm tưởng rằng các vị Tổ sư không phải là Phật , chỉ có Phật Thích Ca là Phật mà thôi .

Tại Pháp hội Linh Sơn , Minh sư Thích Ca nói : "Ta có chánh pháp Nhãn tàng , Niết bàn Diệu tâm , thật tướng mà không tướng . Ấy là pháp môn vi diệu , không có lập văn tự và truyền ngoài các giáo lý . Nay ta truyền cho Đại Ca Diếp".

Ma Ha Ca Diếp là vị Tổ thứ nhứt được truyền thừa , nối dõi pháp mạch của Phật Thích Ca . Pháp mạch nầy được truyền xuống tới hai mươi tám đời Tổ nữa và Bồ Đề Đạt Ma là Tổ thứ hai mươi tám ở Ấn Độ . Sau đó Bồ Đề Đạt Ma đem pháp Đốn giáo "Trực chỉ nhơn tâm , kiến tánh thành Phật" qua Trung quốc và truyền xuống cho Nhị Tổ Huệ Khả , rồi Tam Tổ Tăng Xám , Tứ Tổ Đạo Tín , Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn , Lục Tổ Huệ Năng ... Ngoài ra ở Trung hoa còn có Lão Tử , Khổng Tử và nhiều vị khác nữa .

Tại Ấn độ , đến năm 1891 Minh sư Baba Jaimal Singh sáng lập ra đoàn thể Radha Soami Satsang Beas , và giáo lý pháp môn Quán Âm lúc đó được gọi là "Sant Mat" (Giáo lý của Minh sư).

Trong cuốn Sant Mat and the Bible Narain Dass viết : "Nhiều Minh sư đã xuất hiện ở Ả rập , Palestine , Ấn độ . Ngoài ra nhiều Thánh nhân và những nhà Huyền học cũng đã từng sống và dạy người tại Ấn độ , Ba tư và Thổ nhĩ kỳ . Những nhà Huyền học nổi tiếng Sufi như là Khawaji , Hafiz , Shamas Tabriz , Fabri-u-Din , Attar , Bu-ali-Qalander và những vị khác xuất hiện ở Ba tư , Mesopotamia và Ả rập . Những tên Minh sư như Kabir , Minh sư Nanak và chín vị kế thừa nổi tiếng của Ngài rất là phổ biến ở Ấn độ .

Trong đoàn thể Radha Soami ở Punjap , Ấn độ cũng đã xuất hiện các Minh sư nổi tiếng như Radha Swanmi Dayal còn được gọi là Swami Ji (1818-1878), Baba Jaimal Singh Ji tức là Baba Ji (1839-1903), Huzur Baba Sawan Singh (1858-1948), Sardar Bahadur Jagat Singh , Karpal Singh (1894-1974), Charan Singh (1916-1984) ...

Nhím Hoàng Kim
10-26-2008, 09:00 AM
Tulsi Sahib (1788-1848), Paltu Sahib , Dadu Dayal , Jagjvan Sahib , Swanmi Hari Das , Madan Dahid và những vị khác ở những phần khác của Ấn độ .

Ngoài ra còn có Baba Favid (1173-1265), Mansur Hallaj , Shamas-i-Tabriz , Maulana Rumi , Khwajz , Sarmad , Mujadid Alfasani ... cũng đều là những Minh sư của đạo Hồi".

Cuốn The Ocean of Love (Biển Tình Thương) được diễn dịch từ cuốn Anurag Sagar là một cuốn sách được viết theo hình thức những câu hỏi đáp giữa đệ tử Dharam Das và Đại Minh sư Kabir . Trong đó Kabir Sahib nói Ngài đã từng đến thế giới nầy trong cả ba thời đại tâm linh (yuga , age) trước Thiên chúa rất xa . Trong thời đại Hoàng kim (Sat Yuga , Golden Age), Ngài được gọi là Sat Sukrit ; thời Bạc kim (Treta yuga , Silver Age), người ta gọi Ngài là Karna Mai ; thời Đồng kim (Dwapar yuga , Copper Age), Ngài là Manindar . Đến thời đại Mạt pháp hay Sắt kim (Kali yuga , Iron Age) Ngài là Kabir .

Qua lịch sử các tôn giáo , chúng ta đã thấy có rất nhiều Minh sư ra đời để nối dòng pháp mạch . Không có Minh sư tại thế thì không có pháp mạch để truyền , cũng như không có cha mẹ thì sẽ không truyền giống được . Pháp mạch Quán Âm bây giờ được tiếp nối bởi vị Minh sư đang còn tại thế , Thanh Hải Vô Thượng Sư .

Minh sư có nghĩa là một vị thầy khai ngộ (enlightened Master). Trong chữ 'enlightment' của tiếng Anh , 'light' có nghĩa là ánh sáng . Khi khai ngộ , chúng ta sẽ thấy ánh sáng bên trong . Người Ấn độ gọi thầy của họ là 'guru'. Trong tiếng Phạn , 'gu' có nghĩa là bóng tối , 'ru' có nghĩa là người đuổi đi bóng tôi hay sự vô minh . Cho nên vị thầy nào có khả năng giúp chúng ta khai ngộ , đem ánh sáng đến giải thoát cho chúng ta , người ấy là Minh sư . Bất cứ vị nào đã lên đến đẳng cấp tâm thức thứ năm , đạt đến trạng thái liễu ngộ Đấng Tối Cao và thành đồng nhất thể với Ngài , vị ấy là Minh sư .

Narain Dass viết trong Sant Mat And The Bible : "Nếu Mohammed và Jesus được chúng ta coi là Minh sư cuối cùng cho tất cả mọi thời đại , thì ý nghĩa của Mahdi và Giêsu thứ hai , việc trông đợi sự tái giáng sinh của Chúa Giêsu được hứa hẹn trong kinh Thánh trong tương lai là gì ?"

Phần dẫn giải trong cuốn The Ocean of Love viết : "Hiện thân của vị Minh sư là sự thị hiện bằng thân xác từ tinh túy (essence) của Thượng đế . Hiện thân nầy còn vĩ đại hơn , bởi vì tinh túy nầy không thể giải thoát linh hồn khi nó chưa thị hiện trong thân xác vị Minh sư".

Vị Minh sư tại thế là sự thị hiện của Thượng đế trong thân xác con người , cho nên khi chúng ta thấy Ngài tức là chúng ta thấy Thượng đế . Chúa Giêsu nói "Ai thấy Ta tức là đã thấy Cha Ta . Ngươi không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta sao ?" Giăng 14:9-10. Chúng ta chỉ có thể "thấy" chúa Giêsu khi Ngài còn tại thế , nếu Ngài đã qua đời rồi làm sao chúng ta thấy được Ngài ?

Chúng ta không thể học với một ông thầy đã chết , cũng như một cây nến đã tắt không thể làm cho cây nến khác cháy lên được . Narain Dass viết : "Có phải thật là lạ lùng không khi chúng ta có thể tin tưởng những cuốn sách đã được viết từ bao nhiêu thế kỷ qua , nhưng chúng ta lại bị khó khăn trong việc tin tưởng một vị Minh sư tại thế trong chính thời đại của chúng ta trên thế giới nầy ...

Nhím Hoàng Kim
11-07-2008, 09:17 PM
Mohammed đã phải chạy trối chết đến Medina , Chúa Giêsu bị đóng đinh bởi vì những người Do thái đã không tin Ngài . Những vị khác cũng cùng chịu chung một số mệnh ...

Thường thường một vị Minh sư không được trọng vọng ở quê nhà , khi còn sống trong thân thể con người trong thời đại của Ngài . Khi các Ngài đã rời bỏ sự nghiệp tâm linh lại thế gian , càng cổ xưa trong ký ức của con người , sự tôn trọng dính liền với tên tuổi các Ngài càng thêm vĩ đại ! Con người thường tôn thờ quá khứ : những ký ức của quá khứ , truyền thống của quá khứ , những con người của quá khứ đã chết và ra đi rồi , những Thánh giá , Thánh tích , cổ mộ trong đó chôn giữ những di tích còn lại của các vị Thánh và Tiên tri của thời xa xưa . Trong khi đó các Ngài đã âm thầm chết đi mà không được người đương thời khóc than hay thương tiếc".

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Phật Thích Ca nói trăm ngàn vạn ức kiếp mới có thể gặp được một vị Minh sư một lần , nếu không tìm được Minh sư không thể giải thoát , Chúa Giêsu cũng nói : 'Không có ai đến được Thiên quốc , trừ khi xuyên qua Ta'. Ý của Ngài là muốn nói đến cái 'Ta' của một vị Minh sư chứ không phải cái Ta phàm phu . Không phải chúa Giêsu có ngã chấp , ý của Ngài nói là lúc Ngài còn tại thế , lực lượng của Ngài có thể giúp người ta giải thoát ... Cái 'Ta' ở đây không phải là cái Ta ngã mạn mà là Chân ngã trong chúng ta , cái mà tiếng Trung Hoa gọi là 'bản lai diện mục' thường được nhắc đến trong Thiền tông Phật giáo . Cái Ta là con người thật bên trong là cái Chân ngã được thức tỉnh khi thọ Tâm Ấn bởi một vị Minh sư có thẩm quyền .

Chúa Giêsu nói : 'Ta là ánh sáng của thế gian , khi nào Ta còn ở thế gian'. Giăng 9:5. Điều nầy có nghĩa rằng có những người khác sau đó sẽ đến . Ngài cũng nói rằng : 'Đừng than khóc cho Ta , vì sao Ta đi , Ta sẽ gởi những đấng An ủi khác đến với các ngươi'. Điều đó có nghĩa rằng một sự tái sanh khác sẽ đến ... Thượng đế đã gởi nhiều đấng An Ủi , không phải chỉ duy nhất có chúa Giêsu . Trước chúa Giêsu có thánh Elijah , có thánh Giăng Báp tít , có rất nhiều vị thánh ... Cho nên trước chúa Giêsu đã có những Minh sư và sau chúa Giêsu cũng sẽ có những Minh sư khác , trước đức Phật đã có những vị Phật và sau đức Phật cũng có những vị Phật khác".

"Có Minh sư tại thế mới có pháp chân chính , mới có chơn lý chân chính ; sau khi Minh sư đi rồi , trải qua vài trăm năm thì cái pháp mạch ấy sẽ từ từ đứt đoạn , sau đó pháp mạch ấy lại truyền đến nơi khác . Những tín đồ còn ở lại bắt đầu tổ chức , họp lại để trở thành một tôn phái . Sau đó lạy Phật tượng , lạy Minh sư quá khứ của họ , niệm những kinh điển mà những vị Minh sư của họ để lại . Về sau càng ngày càng biến thành không có gì cả , chỉ còn sót lại một số hình thức bề ngoài , không có tinh hoa , không có pháp mạch , có hiểu ý của Sư phụ không ?

Quý vị không cần phải nói đến Tây phương hay Đông phương , không có Minh sư thì không có phương nào cả , không có Minh sư thì không có chân lý thực sự , chỉ còn lại ngoại giáo (giáo lý bên ngoài) mà thôi , không có nội giáo , hiểu không ? Cần phải có pháp mạch mới được kể là kinh điển thực sự , thiếu sót pháp mạch nầy cho dù là tốt hay không tốt cũng giống như nhau , có ích lợi gì , chỉ ràng buộc thêm nhiều để chúng ta không có thì giờ đi tìm Minh sư , không có cơ hội tìm chân lý , càng trở nên rắc rối thêm mà thôi . Cho nên lúc Minh sư đi giảng kinh , rất ít người xuất gia đi nghe kinh".

Nhím Hoàng Kim
11-24-2008, 06:38 PM
"Bồ Đề Đạt Ma nói tất cả hữu vi pháp đều như huyễn mộng . Nếu như không lập tức tìm Minh sư tu hành thì một đời bỏ không . Tất cả mọi người đều có Phật tánh , nhưng không nhờ Minh sư , cuối cùng cũng chẳng hiểu biết rõ ràng . Không gặp Minh sư chỉ đạo mà liễu ngộ được , thì vạn người hiếm có một .

Phật Thích Ca nói về sau có rất nhiều vị Bồ tát tùng địa dũng xuất để hộ pháp ; bởi vậy nhất định phải có Minh sư mới có thể truyền pháp được . Tìm Minh sư học thì hiểu được Phật , bởi vì Phật có nói 'Nếu không có Minh sư tại thế chúng ta sẽ không thể nào liễu thoát sanh tử'. Không hiểu câu nói nầy biểu lộ rằng chúng ta không hiểu Phật , cho nên chúng ta mới đi lạy Phật gỗ , lạy Phật đá . Nếu chúng ta hiểu rõ Phật Thích Ca , chúng ta sẽ đi tìm Phật tại thế , về sau càng tu càng hiểu rõ Phật".

"Bất cứ chúng ta làm bao nhiêu công đức , phước báu , cất chùa lớn , bố thí tài sản ... đều là vọng ngoại , nếu vị thầy không cho chúng ta chìa khóa để chúng ta đi vào , làm sao có thể tu hành ? Lực lượng gia trì của Chân sư chỉ là lòng thương của vị thầy . Nếu như không có lực lượng của vị thầy , chúng ta không có cách nào giải thoát . Dù cất nhiều chùa , bố thí cho rất nhiều người nhưng nếu như không có Chân sư dạy cho pháp môn tối cao cũng không làm gì giải thoát được .

Vì lợi ích của chúng sinh , Bồ tát mới hóa thân thành người , chúng ta làm sao biết được . Vì thế nếu có người có thể chỉ đạo cho chúng ta thể nghiệm như kinh điển đã ghi chép , ta nên tin họ , bởi vì chúng ta có thể đem thể nghiệm của mình so sánh với kinh điển , nếu đúng y như vậy thì nên tin".

Các Minh sư luôn khuyên chúng ta nên làm việc thiện , nhưng việc bố thí hay từ thiện phải phát xuất một cách tự nhiên từ lòng thương người , không phải vì thể diện , ngã chấp hay vì bị một áp lực nào đó một cách công khai hay âm thầm .

Các Ngài cũng khuyên chúng ta nên làm trong yên lặng . Chúa Giê su nói : "Hãy coi chừng , đừng phô trương việc phúc thiện các ngươi trước mặt người ta cho họ trông thấy ; bằng không các ngươi chẳng có phần thưởng gì cả của Cha các ngươi ở trên trời . Khi các ngươi bố thí , đừng thổi kèn ầm vang trước mặt như bọn đạo đức giả thường làm trong các hội đường và ngoài đường phố , cốt để người ta khen ngợi ... Nhưng khi ngươi bố thí đừng để tay trái ngươi biết tay phải ngươi làm gì , để việc phúc thiện các ngươi được kín đáo , và Cha ngươi là Đấng thấy trong chỗ kín đáo và sẽ thưởng cho ngươi". Mathiơ 6:1-4.

Từ thiện sẽ giúp chúng ta được nhân thiên phước báu về sau , nhưng bố thí không thôi sẽ không dẫn chúng ta đến sự giải thoát . Minh sư Kabir nói : "Sự tu khổ hạnh , nhịn ăn và bố thí chẳng có giá trị gì nếu không đi cùng với thiền định".

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Cúng dường Tam bảo có phước báu , nhưng Phật Thích Ca không hề nói cúng dường Tam bảo có thể thành Phật . Nếu như trì giới có thể thành Phật thì đệ tử của Ngài đã khỏi cần tu thiền , khỏi cần thiền định ... Còn đệ tử tại gia của Ngài không thể trì giới rõ ràng thì làm sao giải thoát đây ?"

Trong Lục Tổ Đàn Kinh , trong một tiệc chay lớn thiết đãi Lục Tổ Huệ Năng . Vi Thứ Sử thưa với Ngài rằng : "Đệ tử có nghe nói khi vua Lương Võ Đế hỏi Bồ Đề Đạt Ma : 'Trẫm trọn đời cất chùa , độ tăng , đãi chay , làm phước , có công đức gì ?' thì Đạt Ma Tổ sư nói : 'Thiệt chẳng có công đức gì !' Đệ tử chưa hiểu thấu lẽ ấy , xin Ngài giảng giải cho'.

Huệ Năng nói : 'Thiệt là không có công đức ! Võ Đế lòng tà , không biết chánh pháp . Cất chùa , độ tăng , đãi chay , làm phước , ấy gọi là cầu phước , không thể lấy phước mà kể là 'công đức' được . Công đức ở trong pháp thân (Dharma-Kaya , linh hồn , Phật tính), chứ chẳng phải ở chỗ tu phước ... Chư thiện tri thức , công đức phải thấy trong tánh mình , chớ chẳng phải tìm ở chỗ cúng dường và bố thí (làm phước). Bởi vậy phước đức với công đức là khác nhau . Vua Võ Đế không biết chân lý , chớ chẳng phải Tổ Sư sai lầm'."

Nhím Hoàng Kim
12-07-2008, 10:00 AM
Giáo lý Minh sư không phải là một hình thức tôn giáo có hệ thống do con người đặt ra , nó là một sự chỉ dẫn để tiến tới việc thực hành pháp môn Quán Âm .

Các Minh sư cũng không phải tự mình đến thế gian nầy , chúa Giêsu nói : "Ta không tự mình đến đây nhưng do Ngài sai Ta đến". Giăng 8:42. Tuy nhiên phần đông con người thường nghĩ rằng các Ngài đến đây để thành lập nên một tôn giáo mới , để tranh giành tín đồ , sửa đổi xã hội , muốn làm chính trị để lật đổ một chính thể nào đó , muốn làm vua hay bá chủ thiên hạ ...

Sự hiểu lầm tai hại nầy đã gây ra không biết bao nhiêu là đau khổ , khó khăn và trở ngại cho việc hoằng pháp cứu độ chúng sanh của các Ngài . Các Ngài phải rày đây mai đó , trốn lánh vất vả . Chúa Giêsu nói : "Chồn cáo có hang , chim trời có tổ , nhưng Con Người không có chỗ gối đầu". Mathiơ 8:20. Khi đọc câu nầy , chúng ta có cảm thấy đau lòng không ?

Không những vậy , tánh mạng của các Ngài lúc nào cũng như chỉ mành treo chuông , thập phần nguy hiểm . Chúa Giêsu bị đóng đinh . Thánh Giăng Báptít bị chặt đầu . Thánh Phao Lồ gặp không biết bao nhiêu là hoạn nạn . Socrates bị xử tử bằng thuốc độc , vì đã dám khuyên người đương thời đừng bận tâm tìm thần thánh bên ngoài , mà hãy quay vào trong tìm hiểu chính mình . Mohammed cùng đệ tử của Ngài phải trốn chui trốn nhủi trong thời đại của Ngài .

Trong mục Tìm Hiểu Đạo Phật , trong bài "Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni" đăng trên tạp chí Tiếng Vang . Gia Tuệ viết : "Đức Phật luôn phải đương đầu với nhiều sự đối nghịch mãnh liệt trên con đường chu du hoằng hóa . Ngài bị chỉ trích nghiêm khắc , bị đối xử tàn tệ , chửi mắng và tấn công một cách tàn bạo . Kẻ đối nghịch là những người theo những hệ thống tôn giáo , chủ trương những nghi thức dị đoan , tạo ra phong tục vô ích có hại đến xã hội và ngăn chặn sự tiến bộ của tinh thần , hoặc những kẻ có tham vọng thấp hèn , vị kỷ . Trong đó Đề Bà Đạt Đa (anh em họ của đức Phật) là một điển hình lớn nhất".

Minh sư Huệ Năng cũng phải qua phương Nam lánh nạn trên mười mấy năm trước khi bắt đầu sứ mạng thiêng liêng . Khi hoằng dương pháp môn Quán Âm , Ngài cũng không khỏi bị người đương thời chống đối : "Lục tổ thấy môn đồ các tông tụ tập dưới Pháp tòa đều khởi ý vấn nạn . Sư thương xót cho họ nên bảo rằng : Người học đạo cần phải dứt trừ tất cả thiện niệm , ác niệm ; cho đến chẳng còn chỗ để gắn tên , rồi lại gắn tên nơi tự tánh ; tự tánh vốn bất nhị , gọi là thật tánh . Từ nơi thật tánh mới kiến lập tất cả các giáo môn . Pháp 'Đốn giáo' nầy thì cần phải có ngay đó , tự ngộ tự thấy mới được".

Vì sự vô minh của người đời , vị Minh sư trong thời đại của Ngài đã phải chịu rất nhiều chống đối , ngược đãi và bất công . Chúa Giêsu xác nhận : "Con người cũng sẽ xuất hiện trong ngày của Người thể ấy . Nhưng trước hết , Người phải chịu nhiều đau khổ và bị thế hệ nầy khước từ đã". Luca 17:24-25.

Vô Thượng Sư Thanh Hải ra đời tại Việt Nam , đã tạo nhân duyên để chúng ta có cơ hội đến với Ngài . Nhưng cùng chung số phận như những Minh sư khác , Ngài bị chính người Việt Nam phỉ báng , chỉ trích và gây nhiều khó khăn nhất . Ngày nay tuy sống trong thời đại văn minh , nhân quyền và quyền tự do tính ngưỡng được hầu hết các quốc gia tự do khắp nơi trên thế giới tôn trọng , Ngài và một số đệ tử cũng phải chịu không biết bao nhiêu là khổ nạn . Chúa Giêsu đã xác nhận : "Một Tiên tri không được tôn trọng ở nơi quê hương mình , giữa các bà con mình và người trong gia đình". Mác 6:4.

Nhím Hoàng Kim
12-14-2008, 05:15 PM
Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Bất cứ vị Đại sư nào khi đến thế giới ta bà đều gặp rất nhiều khó khăn và nguy hiểm , cũng giống như phải bơi trong dòng nước dơ dáy mới có thể cứu được những người sắp bị chết chìm , và chính họ thiếu chút nữa cũng bị chết chìm theo , bởi bên trong nước đầy những chất độc . Chính họ phải bơi vào những vùng nước vừa độc vừa sâu thẳm mới có thể đem người sắp chết chìm lên bờ , chính vì vậy mà họ bị độc của vùng nước dơ , có lúc có thể bị chết đi .

Cho nên các vị Thánh nhân đời đời kiếp kiếp khi đến thế giới Ta bà rất khó sống được , quý vị đọc lịch sử thì biết , bất cứ Minh sư nào cũng đều bị phỉ báng , cũng đều bị người hãm hại , bị người giết hại . Lục Tổ Huệ Năng , đức Phật Thích Ca , Chúa Giêsu Ki Tô cũng không tránh khỏi . Ở Ấn Độ có nhiều vị đại sư bị người ta dùng những hình phạt vô cùng đau đớn để tra tấn , lại bị người phỉ báng , bị rất nhiều người ngộ nhận , rất ít người hiểu rõ và tin họ . Không phải chỉ có người ngoài phỉ báng và ngộ nhận , ngay cả chính học trò của họ cũng phỉ báng họ nữa .

Trong số học trò của tôi cũng có người phỉ báng tôi , nhưng cũng không phải là chuyện lạ gì . Cũng giống như Đề Bà Đạt Đa , cũng là người anh em bà con thân thuộc của Phật , lại là người phỉ báng Phật nhiều nhất . Chúa Giêsu bị người ta đóng đinh là vì ai quý vị có biết không ? Đó là một trong những môn đồ của Ngài đi mật báo cho các quan lại thời đó biết chúa Giêsu là ai , nên họ mới đến bắt Ngài đi ... Quý vị muốn độ chúng sanh , cần phải sớm thành Phật thì tự mình sẽ biết , không cần phải hỏi tôi . Độ chúng sanh là một công việc vô cùng khó khăn , bị áp lực nặng nề và cũng rất đau khổ".

"Vị Minh sư đời thứ năm hay thứ sáu của đạo Sikh bị bắt ngồi trên một cái chảo nóng , dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời với ngọn lửa cháy ở dưới ! Mặc dù với lực lượng tối cao , Ngài cũng không tránh được việc nầy . Không phải Ngài yếu hèn , nhưng Ngài chịu sự trừng phạt nầy vì lợi ích cho các đệ tử của Ngài . Ngài nhận nghiệp chướng , những nghiệp chướng xấu xa và nặng nề của các đệ tử trên thân thể của Ngài . Cho nên Ngài phải nhận chịu một số hình phạt .

Cũng như chúa Giêsu , Ngài có thể biến mất nếu Ngài muốn , có thể bay đến Thiên đàng , có thể làm một vài thần thông , nhưng Ngài không muốn trốn tránh ma quỷ nên để họ đóng đinh Ngài . Không phải vì Ngài không thể chạy trốn , Ngài có thể chạy trốn , Ngài có thể biến mất nếu Ngài muốn , Ngài có thể làm nhiều thần thông . Ngài đã biến mất nhiều lần theo sự ghi chép trong Thánh kinh . Ngài đã học được nhiều thuật của các đạo sĩ yogi , Ngài có thể biến mất , hiện ra , chữa người bệnh , người mù hoặc đi trên mặt nước qua sông , nhưng Ngài đều không dùng đến . Tại sao ? Bởi vì Ngài muốn rửa sạch nghiệp chướng của các đệ tử vào thời điểm đó .

Mỗi vị Minh sư phải chịu đựng nghiệp chướng của những người đến dưới chân Ngài để cầu sự khai ngộ , bởi vì nghiệp chướng của con người được thâu thập từ đời đời kiếp kiếp , không thể nào tưởng tượng nổi nó to lớn như thế nào ! Đức Phật đã nói rằng : 'Nếu nghiệp chướng của một người có thể thấy được , thì sẽ thấy nó đầy tràn cả vũ trụ'. Nghiệp chướng của một người thôi mà cũng đã đầy tràn cả vũ trụ rồi ! Trong Thánh kinh cũng có nói : khi sanh ra , chúng ta đã có tội rồi . Chúng ta thừa hưởng những tội lỗi trong máu của chúng ta , vậy làm sao chúng ta có thể rửa sạch nó với trí tuệ và sức mạnh hạn hẹp cá nhân chúng ta ? Chúng ta cần Con của Thượng đế , đấng Cứu thế , Minh sư , người biết cách để rửa sạch nó".

Nhím Hoàng Kim
12-21-2008, 07:51 AM
Chúa Giêsu xác nhận "khi ở thế gian", Ngài có quyền tha tội , tức là có thể rửa tội cho những người đến với Ngài lúc đó : "Nhưng để các ngươi biết rằng khi ở thế gian , Con Người có quyền tha tội". Mác 2:10. Ngài nói với môn đồ , thân thể Ngài là để gánh nghiệp chướng cho họ : "Đây là thân thể Ta , vì các ngươi mà phó cho ... Chén nầy là chén giao ước mới trong huyết Ta , vì các ngươi mà đổ ra". Luca 22:19-20.

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Tại sao người Con duy nhất của Thượng đế lại phải chịu đau đớn , hành hình trên thập tự giá , hoặc một vị như Phật Thích Ca có tất cả quyền lực , lại phải chịu sự hiểu lầm , sỉ nhục và tấn công từ con người thời bấy giờ ? Một phần vì sự vô minh của quần chúng , một phần vì thân xác của vị Minh sư là phải nhận lãnh những nghiệp chướng của đệ tử . Vị Minh sư chỉ có thể làm được việc nầy khi họ có thân xác mà thôi ...

Tình thương lai láng và quyền năng tối thượng có thể rửa sạch hầu hết những đau khổ mà người ta mang đến , nhưng có những phần thừa thãi vẫn còn bám víu vào người được gởi gấm , và thân xác của vị Minh sư phải gánh chịu những đau đớn nầy".

"Muốn làm Minh sư phải có năng lực tiêu hóa nghiệp chướng của chúng sabh . Tôn kính vị thầy quá khứ , hiện tại , vị lai là chuyện đương nhiên , nhưng muốn giải thoát thì phải tìm Minh sư tại thế , là người đã mở cửa trí huệ , đã khai ngộ và có chìa khóa mở cửa trí huệ của chúng ta . Trong kinh điển có nói rằng nếu như gặp được một Chân sư hay Phật tại thế là phước báu lớn nhất , vì nếu không gặp được họ thì không có cách nào giải thoát".

"Thân thể của Minh sư được sinh ra là vì hai lý do . Lý do thứ nhất là để đệ tử của thế giới vật chất nhìn thấy , vì họ chưa thể thấy được hóa thân của vị Minh sư . Lý do thứ hai , thân thể của Minh sư là để hy sinh , nhận lãnh tất cả mọi thứ mà đệ tử của họ cần phải bỏ , hoặc để thâu nhặt nghiệp chướng của đệ tử và kế đó phải rửa sạch .

Phật cũng chịu đau khổ , nhưng về tinh thần . Có một ngày Ngài chịu không nổi nên Ngài bỏ cả đệ tử và đi vào rừng đến ba tháng . Dĩ nhiên Minh sư không thường nhắc đến sự đau khổ bên trong , nhưng nó có . Không có Minh sư nào trốn chạy được điều nầy , nó lộ ra ngoài cơ thể như một bịnh trạng vô căn , hoặc ra ngoài bị công kích hoặc phỉ báng . Áp lực bên trong còn nặng nề hơn sự chịu đựng bên ngoài .

Một số người ganh tỵ nên đã bỏ thuốc độc hại Milarepa , Ngài biết được điều đó nhưng Ngài vẫn chấp nhận điều nầy ... Quý vị không có sự chọn lựa khi Thượng đế muốn để rửa sạch nghiệp chướng của đệ tử . Ramana Maharshi đã chết vì ung thư và cả Swanmi Shivananda nữa . Thế giới nầy là thế giới của phủ định , các Ngài phải tuân theo luật lệ của thế giới nầy , các Ngài không thể phá luật . Đây là đất nước của Ma vương , nếu vào lãnh thổ nầy thì phải tuân theo luật của nó .

Các Thánh nhân xuống đây để lý luận , giải thích cho chúng sanh để họ trọn quyền lựa chọn . Các Ngài không dùng thần thông hoặc thôi miên để dụ dỗ quý vị . Đây là lý do vì sao công việc của Minh sư đầy khó khăn và đau khổ . Luật nhân quả phải được tôn trọng , thí dụ như lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập tự giá , thì các đệ tử của Ngài và những người tin Ngài lúc đó đều được rửa nghiệp .

Nhím Hoàng Kim
12-28-2008, 07:52 PM
Khi một vị Minh sư truyền Tâm Ấn cho cả trăm hoặc cả ngàn người , vị ấy phải có đủ lực lượng cho từng người một . Lực lượng nầy phải thực mạnh để rửa nghiệp chướng trong vạn ức kiếp của người ấy . Để đốt sạch nghiệp chướng của một người và luôn cả trăm đời thân nhân của họ thì phải tốn rất nhiều công lực . Nếu người nào không thấy được ánh sáng hoặc nghe được âm thanh là tại vì nghiệp chướng của người ấy quá nặng nề . Tất cả lực lượng ấy phải mạnh hơn nữa . Người thường không thể chứa đựng nổi lực lượng ấy . Cũng giống như bóng đèn , muốn sáng thì phải chứa đựng điện thế rất cao . Bóng đèn nầy nhìn giống như bóng đèn kia , nhưng cấu tạo khác nhau về sức chứa đựng năng lượng . Để cho quý vị một ánh sáng như vậy , vị Minh sư phải tự mình chịu đựng được loại điện thế cực mạnh nầy , do đó mà thân thể Minh sư đương nhiên phải khác với người thường . Thông thường Minh sư ít đề cập đến chuyện nầy trừ khi có người hỏi đến".

Kinh điển chỉ giới thiệu con đường nhưng không cho chúng ta con đường . Bí quyết để chấm dứt sinh tử luân hồi không nằm trong kinh điển , mà nằm trong tay vị Minh sư tại thế , và năng lực giải thoát nằm trong chính chúng ta . Người nào may mắn nhận ra và tin tưởng vị Minh sư tại thế sẽ đạt được đời sống vĩnh cửu của linh hồn . Chúa Giêsu nói : "Thật vậy , đây chính là ý muốn của Đấng đã sai Ta , hễ ai nhìn biết Con và tin Con , thì được sự sống đời đời". Giăng 6:40.

"Ta là con đường , chân lý và sự sống . Không ai đến với Cha mà không qua Ta . Nếu các ngươi biết Ta thì cũng biết Cha Ta , và từ nay trở đi các ngươi đã biết và đã thấy Ngài". Giăng 14: 6-7. Bất cứ ai muốn đến với Thượng đế phải qua sự trung gian của Ngài lúc đó . Bởi vì khi còn tại thế , vị Minh sư có thể câu thông linh hồn đệ tử với Ngôi Lời và ánh sáng bên trong . Nối kết được với hai thị hiện nầy của Thượng đế , chúng ta mới có thể "biết" và "thấy" Thượng đế , như các môn đồ ngày xưa của Chúa Giêsu "đã biết và thấy Ngài".

Vị Minh sư tại thế bao gồm ba thân : nhục thân , Hóa thân và Pháp thân :

- Nhục thân (physical body) của vị Minh sư là sự thị hiện của Thượng đế ở thế gian nầy . Nhục thân là để cho chúng sinh thấy , nhứt là các đệ tử của Ngài , để thuyết pháp tìm đệ tử , để dạy dỗ đệ tử bên ngoài và để truyền Tâm Ấn . Không có nhục thân không thể truyền Tâm Ấn được , vì đây là luật tâm linh của Thượng Đế . Vì vậy Thượng đế đã phái rất nhiều Minh sư xuống trần qua nhiều thời đại khác nhau .

- Hóa thân (transformation , manifestation bodies) : Một vị Minh sư có vô số Hóa thân . Hóa thân có hình dáng giống như nhục thân , nhưng là thân Ánh sáng của Ngài (radiant body). Hafiz , một nhà thơ thần bí nói : "Giống như một mặt trăng mới mọc , chỉ có Mắt Huệ thanh cao mới có thể thấy được Hóa thân . Sự vinh hiển của Ngài không thị hiện cho tất cả mọi đôi mắt thường".

Minh sư Nanak của đạo Sikhs nói về sự lộng lẫy của Hóa thân : "Hóa thân rực rỡ hào quang của vị Minh sư đẹp mê hồn . Chỉ có vị Chân sư mới có thể thị hiện bằng Hóa thân cho linh hồn thấy".

Nhím Hoàng Kim
01-03-2009, 03:20 PM
"Gurudev" là danh từ để chỉ Hóa thân của vị Minh sư . Guru có nghĩa là vị Thầy tâm linh , Dev bắt nguồn từ ngữ - căn "Div" trong tiếng Phạn , có nghĩa là ánh sáng . Vì vậy Gurudev chỉ Hóa thân rực rỡ hào quang của Ngài . Mỗi Hóa thân sẽ đi vào Mắt Huệ của từng đệ tử vào lúc Tâm Ấn .

Cho dù đệ tử thấy được Hóa thân hay không , Hóa thân nầy vẫn luôn ở với họ , hướng đẫn họ đến cõi tâm linh vi tế bên trong , dạy dỗ , bảo hộ họ bên trong lẫn bên ngoài trong suốt con đường tâm linh , ngay cả sau khi họ rời bỏ thế gian . Vào lúc đệ tử vãng sanh , Hóa thân sẽ thị hiện để tiếp dẫn linh hồn đệ tử , đưa họ đến cảnh giới đã được dành sẵn cho họ .

Khi một đệ tử đã sẵn sàng đi vào trong vùng tâm linh vi tế bên trong , Hóa thân của Ngài sẽ xuất hiện nơi Mắt Huệ của đệ tử . Khi thấy được Hóa thân , đệ tử có thể nói chuyện và hỏi những điều cần biết , Hóa thân sẽ trả lời .

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói về Hóa thân trong buổi thuyết pháp Tại Trung Tâm Văn Hóa Nhật ở San Paulo , Ba tây ngày 18/6/1989 : "Nếu quý vị cần gặp vị Minh sư thì Ngài liền xuất hiện . Chúng ta gọi đó là Hóa thân hay thân thể ánh sáng . Nó trông giống như xác thân nầy , nhưng lại không có da thịt . Quý vị có thể nắm giữ được nhưng chỉ trong chốc lát thôi , và rồi vị Minh sư tan biến vào trong không gian . Đôi khi quý vị thấy vị Minh sư bay qua cửa sổ , nhưng đó không phải thân xác nầy bay , đó là Hóa thân qua lực lượng đại định của Ngài . Đó là lý do tại sao Phật giáo nói : 'Hàng vạn thân xác , hàng vạn Hóa thân'. Thiên chúa giáo hay Ấn độ giáo gọi là vô sở bất tại , nghĩa là không có nơi nào là Ngài không có , nơi nào Ngài cũng có . Một vị Chân sư có thể có hàng ngàn , hàng vạn , hàng trăm ngàn Hóa thân , hàng triệu Hóa thân để giúp đỡ đệ tử khắp mọi nơi vào bất cứ lúc nào . Nếu một vị thầy không có nhiều Hóa thân , vị đó không thể chăm sóc đệ tử của mình được , và nếu một vị thầy không thể có nhiều Hóa thân thì vậy thầy đó không phải là một Chân sư".

- Pháp thân (Dharma Kaya) của Ngài là tinh túy của Thượng đế , đồng nhất thể với Thượng đế . Vị Minh sư là một sự phối hợp của nhục thân sanh ra từ thân xác của cha mẹ ở thế gian và một pháp thân đến từ Thượng Đế . Dòng Âm lưu nội tại (Ngôi Lời , Diệu Âm) là sự thị hiện của Thượng đế , và vị Minh sư là sự thị hiện của Dòng Âm lưu đó . Khi "Ngôi lời trở thành xác thịt và sống giữa chúng ta". Giăng 1:14 , hay khi "Diệu Âm hóa thân Phật", chúng ta có sự hiện hữu của vị Minh sư tại thế .

Cho nên khi chúng ta đến với một Minh sư , chúng ta nên nhìn Ngài qua cả ba thân nầy . Nếu chúng ta chỉ nhìn vào nhục thân và những hành động bên ngoài của Ngài , sự đánh giá của chúng ta sẽ hoàn toàn sai lạc .

Thông thường , chúng ta thường phát họa trong trí một vị Minh sư theo quan niệm hạn hẹp của chúng ta , theo thói quen và thành kiến của người đời . Chúng ta lồng Ngài vào trong cái khung cứng ngắc chúng ta đã phát họa trong đầu , và muốn Ngài phải giống như những gì chúng ta nghĩ về một Chân sư . Nếu thấy Ngài không giống như những tiêu chuẩn chúng ta áp đặt cho Ngài , chúng ta sẽ kết luận rằng Ngài không phải là Minh sư .

Đầu óc phàm phu của chúng ta sẽ quay cuồng với bao nhiêu câu hỏi . Tại sao Ngài lại cười thành tiếng vậy ? Đáng lẽ ra Ngài chỉ được cười mím chi thôi và phải trang nghiêm như tượng Phật chứ . Tạo sao Ngài lại khóc ? Đáng lẽ Ngài phải như bất động , Ngài là Thánh tại sao Ngài lại còn tình cảm với nhân loại thường tình ? Tại sao Ngài lại giận dữ như thế kia ? Đáng lẽ ra lúc nào Ngài cũng phải đưa mắt hiền từ nhìn chúng sanh với tất cả lòng từ bi mới phải . Tại sao y phục của Ngài lại như thế nầy ? Tại sao Ngài lại trang điểm ? Tại sao Ngài để tóc ? Tại sao Ngài lại mang giày ? Đáng lẽ Ngài phải cạo đầu , đi chân đất và mặc quần áo như các vị tu sĩ ngày xưa mới phải . Tại sao Ngài là đàn bà mà không phải đàn ông ? Đàn bà mà cũng thành Phật được sao ? Tại sao Ngài cũng bị bịnh , cũng già , cũng chết như chúng ta , có khi còn bị hành hạ , đóng đinh , thuốc độc , có vị chết vì ung thư nữa ?

Nhím Hoàng Kim
01-09-2009, 09:37 PM
Bận rộn nhìn những hiện tượng bên ngoài của Ngài , chúng ta vội vàng phán đoán , chỉ trích , phê bình , mà quên mất một việc quan trọng ; chúng ta phải bình tâm để nhận ra vị Minh sư tại thế . Bởi vì Ngài không phải là những gì chúng ta thường nghĩ và tưởng tượng . Ngài sống trong lớp vỏ của một con người , nhưng Ngài vượt thoát khỏi sự ràng buộc của con người . Ngài sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian .

Vị Minh sư trong thân thể con người bao gồm hai tính chất : cá biệt (personal) và vô cá biệt (impersonal) :

- Cá biệt là những gì thuộc về cá nhân của một con người bình thường , như tiểu sử , hình dáng , cá tính , lối sống riêng tư ... Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Mỗi vị Tổ sư , mỗi vị Giáo chủ hoặc Minh sư , cuộc sống của họ đều không giống nhau . Chúng ta không thể hy vọng hoàn cảnh của mỗi Ngài đều như nhau . Trong 'Thập Ngưu Đồ' có giảng , những người đại tu hành không theo vết chân của các Minh sư đời trước , họ cũng không phỏng theo cuộc sống của các đại sư ngày trước , họ là họ , có cuộc sống riêng của họ".

Nhục thể , cảm xúc và tâm trí của một con người bình thường được Ngài dùng như những phương tiện để gần gũi và dạy dỗ chúng sanh , nhất là các đệ tử của Ngài . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói "Những người khai ngộ , nội tâm của họ luôn hoan hỷ tự tại , nhưng vì dạy dỗ chúng sanh , họ phải có những diện mạo khác nhau ... Đối với Phật , giận hay không giận , hỷ nộ ái lạc cũng không có gì là hỷ nộ ái lạc , tất cả đều là phương tiện để độ chúng sanh mà thôi , họ không có lòng phân biệt . Còn không quý vị đi tìm Phật gỗ , cả ngày đều cười hì hì phải không ?"

"Có lúc các Ngài khóc , có lúc các Ngài cười , có lúc các Ngài hình như tức giận hoặc hình như hoan hỷ , nhưng tâm các Ngài vẫn vĩnh viễn là Đạo , vĩnh viễn như như bất động".

"Lòng của một người khai ngộ rất thanh thoát đối với hỷ nộ ái ố . Những tình cảm nầy không chế ngự được họ , đôi khi họ có thể giả bộ để hòa mình với người khác".

- Vô cá biệt là tinh túy của Ngài và chúng ta không thể thấy nó bằng mắt thường , đây chính là cái Pháp thân vô hình vô tướng của Ngài . Vì Pháp thân nầy là Dòng Âm lưu đến từ Nguồn cội (Universal Source , God) nên Pháp thân nầy cũng chính là Thượng đế . Cho nên khi chúng ta đến với vị Minh sư tại thế , chúng ta đến với Thượng đế qua thân thể của một con người .

Vị Minh sư có nhiều cách để độ người . Phật giáo nói Phật tùy chúng sanh mà thị hiện thành những hình tướng khác nhau . Một mặt Ngài thuyết pháp hay làm những việc nào đó để tạo nhân duyên hay gây sự chú ý cho những đệ tử tương lai . Thí dụ như biết người nầy thích đánh cờ tướng , Ngài sẽ chơi cờ tướng thật giỏi ; biết người kia thích thơ , ca hát , Ngài sẽ làm thơ , ngâm thơ và ca hát . Có khi muốn độ một người nào đó trong giới nghệ sĩ , minh tinh hay trình diễn thời trang ... Ngài phải dấn thân vào giới của họ , để tạo cơ hội cho những đệ tử tương lai nầy gặp gỡ Ngài .

Mặt khác , đôi khi chúng ta thấy Ngài làm những hành động rất lạ lùng , khó hiểu , có vẻ như trái ngược với lề lối , tập quán của xã hội , nghịch lý với sự suy nghĩ thường tình của chúng ta về một vị Chân sư . Ngài cố tình làm như vậy như một hình thức gạn lọc trước , để cho những người chưa được chọn sẽ không nhận ra Ngài . Ngài cũng có thể làm như vậy để khảo nghiệm đức tin của đệ tử , kinh Thánh nói : "Hễ cây nào Cha ta trên trời không trồng thì sẽ bị nhổ". Mathiơ 15:13.

Nhím Hoàng Kim
01-12-2009, 05:28 PM
Trong Radha Soami Teachings kể chuyện Guru Amar Das khi muốn thử đệ tử , Ngài bảo họ làm những bục gỗ , rồi lại bảo họ phá bỏ đi , làm lại cái mới . Sau nhiều lần như vậy , tất cả những đệ tử khác không vâng lời Ngài nữa , họ nói rằng vì Ngài đã già nên đâm ra lẩm cẩm . Nhưng một đệ tử thuận thành vẫn tiếp tục làm và sau đó được chọn làm Minh sư kế thừa , đó là Minh sư Ram Das .

Cũng vậy Guru Nanak có một lần bảo đệ tử ăn xác chết . Ai mà dám ăn xác chết ! Nhưng chỉ có một đệ tử sẵn sàng làm chuyện kinh dị nầy và sau đó đã được chọn làm Minh sư kế thừa , đó là Minh sư Angad Sahib .

Một người bạn làm chung sở với tác giả khi trước kể rằng , một hôm Sư tổ của ông dẫn đệ tử vào xóm điếm tìm một cô gái . Mục đích của Ngài đến với cô gái là để truyền pháp mạch cho cô bởi vì cô có số làm đệ tử của Ngài . Ngoài ra Ngài làm như vậy để thử đức tin của các đệ tử khác đối với mình . Kết quả là một số đệ tử đi theo Ngài lúc đó thấy vậy chịu không nổi đã bỏ Ngài !

Nhị Tổ Huệ Khả vì muốn chứng minh sự thành tâm của mình , đã phải chặt một cánh tay để cầu đạo với Bồ Đề Đạt Ma . Có những nhân duyên cùng nghiệp chướng mắt thường của chúng ta không thể nào nhìn thấu , chỉ có vị Minh sư mới biết được căn duyên nên hành động theo nhân quả của người đó .

Trường hợp của Milarepa , một Minh sư nổi tiếng người Tây Tạng là một thí dụ điển hình . Milarepa , lúc chưa trở thành Minh sư , đã dùng hắc thần thông giết chết rất nhiều người từng làm hại gia đình của Ngài trước đó . Sau đó Ngài biết rằng với nghiệp chướng sâu nặng như vậy , nếu không tìm gặp Minh sư , chắc chắn Ngài phải xuống địa ngục . Sau một thời gian kiếm tìm , Ngài gặp được Chân sư Marpa từ chối . Qua bảy tám năm trời , Marpa hành hạ và đánh chửi Ngài thậm tệ , bắt Ngài xây hết nhà nầy đến nhà khác . Vừa xây xong cái nầy thì Marpa lại bắt Ngài phải phá nó xuống rồi xây cái khác . Ngài phải tự vào rừng kiếm nguyên liệu , chặt cây , khuân đá ... để xây nhà và không có ai được quyền giúp đỡ Ngài .

Thân thể Ngài tơi tả , máu mủ từ những vết thương lở loét bung ra đau đớn vô cùng nhưng Ngài cắn răng chịu đựng . Có lúc Ngài chắt chiu để dành tiền mua thức ăn đem dâng lên thầy . Chẳng những không nhận , Marpa lại còn giận dữ đổ hết thức ăn và quát tháo ầm ĩ . Có khi không làm điều gì sái quấy , Ngài cũng bị Thầy nổi cơn thịnh nộ đuổi đi không thương tiếc , nhưng Ngài vẫn trở lại xin thầy tha thứ . Sự chịu đựng của Ngài cuối cùng đã đạt thành kết quả , sau bảy tám năm trời đau khổ , Ngài đã được thầy truyền pháp Quán Âm .

Có thể chúng ta sẽ tự hỏi nếu Marpa thực sự là Chân sư , tại sao Ngài không có lòng từ bi ? Nếu quả là Thánh , tại sao Ngài không kềm chế được những cơn thịnh nộ của mình ?

Có lẽ Marpa đã phải hành xử như vậy vì Ngài đã nhìn thấy trọn vẹn căn cơ cùng nhân quả của đệ tử . Ngài biết rằng Milarepa là một người tài giỏi , thần thông lỗi lạc , nên cái ngã của Milarepa cũng rất lớn , sẽ làm trở ngại cho con đường tâm linh . Bằng cách hành hạ , chửi bới , la mắng , nhục mạ , Marpa giúp cho Milarepa tập tính nhẫn nhục và khiêm tốn , dần dần bỏ đi cái ngã chấp của mình . Thứ hai là để Milarepa tự rửa đi những nghiệp chướng đã gây ra trong đời nầy . Thứ ba ngoài việc dạy dỗ đệ tử , việc la rầy của vị Minh sư cũng là một cách rửa nghiệp chướng cho họ .

Nhím Hoàng Kim
01-21-2009, 04:43 PM
Ngoài ra vì Milarepa có mệnh làm Minh sư , những thử thách cam go , đắng cay như vậy sẽ giúp cho Milarepa có đủ sức chịu đựng những khốn khổ khi làm công việc của một Minh sư trong tương lai . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Được thừa kế làm Minh sư phải chịu nhiều khảo nghiệm khó khăn , lâu dài để thử sức chịu đựng , lòng nhẫn nhục , sự kiên trì và lòng dũng cảm . Không những là đẳng cấp bên trong phải cao mà còn cần đến phong độ bên ngoài , bởi vì người được vinh danh , ca ngợi thế nào cũng gặp sự chống đối , phỉ báng hoặc hảm hại".

Có khi chúng ta thấy vị Minh sư bỗng dưng nổi giận la rầy một đệ tử nào đó , trong khi người nầy không làm điều gì sai quấy cả . Có thể lúc đó vị Thầy thấy nghiệp chướng sắp sửa đến với đệ tử , nên tìm cớ la mắng để rửa bớt nghiệp cho đệ tử đó đã phạm giới luật hay làm một chuyện gì đó có hại cho sự tu hành , nhưng người khác nhìn vào không biết được .

Ngài thấy rất rõ bầu linh khí (aura) của đệ tử hay bất cứ người nào đến với Ngài ; trong bầu linh khí đó , tất cả mọi việc đều được phơi bày như chúng ta nhìn vào tấm kính vậy . Với đầu óc và đôi mắt phàm phu , làm sao chúng ta biết được một người đã làm những gì , chỉ có người ấy và vị Minh sư biết được mà thôi . Cho nên có khi đệ tử bị la không bỏ đi vì biết lỗi của mình , nhưng người không bị la lại động tâm bỏ thầy .

Tùy mỗi đệ tử và tùy từng trường hợp , Ngài dùng những phương pháp cách dạy dỗ khác nhau . Có khi Ngài dùng phương pháp nhẹ nhàng như ân cần chăm sóc , thương mến vỗ về . Nhưng có khi Ngài phải dùng phương cách mạnh mẽ , đau đớn hơn để thức tỉnh họ . Cũng như cái áo hơi dơ thì chỉ cần nhẹ tay cũng giặt sạch , nhưng cái áo dơ quá thì phải chà xát mạnh hơn , có khi phải dùng đến thuốc thật mạnh để tẩy xóa . Trong trường hợp nầy , đương nhiên người được chăm sóc sẽ cảm thấy rất đau đớn . Nếu đạo tâm và đức tin không đủ , ngã chấp còn nhiều , người nầy sẽ bỏ thầy .

Ngoài ra vị Minh sư là tấm gương phản chiếu những gì phát ra từ chúng ta . Có một lần tác giả dự thiền tứ (Bốn ngày) ở Đài Loan . Lúc đó một nữ đồng tu người Trung hoa hỏi một câu gì đó , Vô Thượng Sư Thanh Hải bỗng nổi giận la cho một chặp . Liền sau đó một người khác hỏi Ngài , Ngài nhìn người nầy đầy thương mến và trả lời câu hỏi một cách vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra trước đó .

Người đồng tu ngồi cạnh bỗng nghiêng người nói nhỏ vào tai tác giả : "Tại sao Sư Phụ thay đổi nhanh như chong chóng vậy , mới giận dữ đó liền vui vẻ ngay ?" Tác giả thầm thì : "Có lẽ cô đó có cái gì đó không ổn mà mình không biết được ; còn bà kia có lẽ tâm hồn của bà vui vẻ , đơn thuần , nên được Sư Phụ trả lời một cách vui vẻ . Sư Phụ như một tấm kính chiếu soi gương mặt của chúng ta trong đó . Nếu mình cười , gương mặt trong gương sẽ cười lại với mình , nếu mình giận dữ , gương mặt sẽ phản chiếu lại gương mặt giận dữ của mình".

Nhím Hoàng Kim
01-31-2009, 10:34 AM
Một thời gian sau , tác giả đọc lại bài tự thuật của một nữ đồng tu người Trung Hoa trên tạp chí của hội Thanh Hải , và nhận ra chính cô là người bị la rầy hôm đó . Cô nói trong kỳ thiền tứ đó , cô bị Sư Phụ la hai lần . Lần đầu , một hôm đến phiên nhóm đồng tu Âu Lạc (Việt Nam) được ngồi gần Ngài , cô muốn ngồi gần Thầy nên chen lẫn vào nhóm đồng tu người Âu Lạc để được ngồi phía trước . Cô nghĩ người Hoa và người Âu Lạc trông cũng giống nhau thôi , làm sao Sư Phụ biết được . Nhưng khi vừa mới bước vào , Ngài biết ngay nên la cô và đuổi cô xuống ngồi với nhóm người Hoa .

Lần thứ nhì , vì muốn được Sư Phụ chú ý đến mình nên cô lại tìm cớ hỏi chuyện , và một lần nữa cô lại bị Ngài la rầy . Tuy đau vì bị la rầy trước mặt mọi người nhưng cô hết sức phục Thầy . Cô tự biết bấy lâu nay cô tu hành rất tệ nên cô mới bị Thầy la khi gặp mặt . Từ ngày đó , cô ăn năn , vâng lời , tin tưởng Thầy và tu hành tinh tấn hơn .

Lực lượng của vị Minh Sư tại thế bất khả tư nghì . Chỉ cần được nhìn Ngài một lần hay chạm vào từ trường tâm linh của Ngài , người hay chúng sinh may mắn đó liền được gieo vào lòng hạt mầm tâm linh vô giá . Đẳng cấp tâm thức liền được hoán chuyển và nâng cao , mặc dù người đó hay chúng sinh đó hoàn toàn không hay biết . Phật Thích Ca đã cầm bình bát đi khất thực để nhiều người có cơ hội được nhìn pháp tướng của Ngài và được gieo duyên với Ngài . Ngài bận áo hở một bên vai , có lẽ vì muốn độ những con chim trời may mắn nhìn xuống thấy một phần thân thể của Ngài .

Trong phần chú giải của cuốn The Ocean Of Love viết : "Trong những sứ mạng của vị Minh Sư , có một sứ mạng đặc biệt là Ngài có quyền năng làm ngắn lại tiến trình thăng hoa của bất cứ chúng sinh nào . Ngài có thể ban phát cho chúng sinh từ những loài thấp được đầu thai làm người ngay , mà không cần trải qua quá trình tiến hóa (evolution) tự nhiên của đẳng cấp tâm linh (tức là đáng lẽ phải thăng hoa từ đất đá , côn trùng , chim chóc , thú vật rồi mới được thân người).

Minh sư Baba Sawan Singh (1859-1948) rất nổi tiếng thời bấy giờ nói : 'Khi một vị Thánh bước đi trên mảnh đất nào , đất đó sẽ biến thành tinh khiết và thiêng liêng . Khi Ngài bước trên cỏ hoặc trong khi bước đi như vậy , nếu vô tình Ngài giẫm chân lên một côn trùng nào , những cây cỏ và côn trùng đó sẽ được ban phát thân người ngay sau khi chết . Nếu trái của một cây nào hoặc hột nào của những cây ngũ cốc nào may mắn được Ngài dùng , những cây đó sẽ được thân người ngay mà không cần kinh qua những đẳng cấp côn trùng , chim chóc hay thú vật .

Ngay cả Ngài dùng tăm xỉa răng hay uống sữa , cái cây may mắn được làm ra cái tăm đó , hoặc con bò may mắn cho ra sữa đó sẽ được ban phát cho thân người ngay sau khi chết . Cũng tương tự như vậy với những con thú nào được Ngài cỡi , hoặc bất cứ những sinh vật khác như kiến , côn trùng ... được may mắn chạm vào dòng nước Ngài tắm , hay bất cứ con chim nào bất ngờ được thấy một phần thân thể trần của một vị Thánh , con chim may mắn đó sẽ được phước báu tương tự'.

Nhím Hoàng Kim
02-05-2009, 12:02 PM
Những chúng sinh được ban cho thân người , mà không cần trải qua tiến trình tiến hóa tâm linh nầy , thường có những bất lợi như rất khó cho họ thích ứng với đẳng cấp mới cùng hoàn cảnh tâm linh mới ; vì những linh hồn nầy không quen với sự tự do nên thường lạm dụng nó bằng nhiều cách . Tuy nhiên họ lại có lợi điểm ; vì được ban cho thân người trực tiếp từ vị Minh sư , nên họ có khuynh hướng dễ bị lôi cuốn đến vị Minh sư tại thế , và có thể trở thành đệ tử của Ngài . Cho nên nếu có những đệ tử của Minh sư nào có thói quen tiểu thuyết hóa tiền kiếp của họ , hoặc tự nghĩ rằng họ xứng đáng với ân điển của vị Minh sư ban phát cho , họ phải nên tự ngẫm nghĩ lại trong trường hợp nầy .

Đây cũng là một trong những lý do vị Minh sư thường tìm đến những người thấp hèn , tội lỗi để cứu rỗi họ như kinh Thánh đã đề cập : 'Đương khi chúa Giêsu ngồi ăn tại nhà Mathiơ, có nhiều người thâu thuế cùng kẻ xấu nết đến ngồi ăn với Ngài và các môn đồ . Người Pharisi thấy vậy thì nói cùng môn đồ của Ngài rằng : Làm sao thầy của các ngươi lại ngồi ăn chung với họ vậy ? Đức Chúa nghe điều đó bèn phán rằng : Chẳng phải người khoẻ mạnh cần thầy thuốc đâu , song là người bịnh'. Mathiơ 9:10-12.

Ngoài ra , đây cũng là lý do tại sao các Ngài thường gặp rất nhiều phiền phức , gây ra bởi sự thiếu phẩm hạnh và hiểu biết về con đường tâm linh của các đệ tử thuộc về những linh hồn nêu trên".

Khi một người đến với vị Minh sư , Ngài chỉ nhìn vào linh hồn và sự thăng hoa của linh hồn người đó . Ngài không để ý đến những thứ bên ngoài như học thức hay không , giàu hay nghèo , tội lỗi nhiều hay ít ... Mary Magdalene là một cô gái điếm , nhưng bà đã tin nhận Chúa Giêsu là đấng Cứu thế nên đã được Ngài cứu rỗi .

Cho nên khi chúng ta đến với vị Minh sư , chúng ta cũng nên nhìn vào pháp thân của Ngài , vào lực lượng của Thượng đế ngự trị trong Ngài , và không nên phán xét Ngài qua những hành động hay những hiện tượng bên ngoài của Ngài .

Nhím Hoàng Kim
02-09-2009, 05:00 PM
http://img385.imageshack.us/img385/3621/honghieu8uz9.gif (http://imageshack.us)

VĂN NGHỆ THIÊN CUNG

Phỏng vấn Kỳ Nam , tác giả sách "Thanh Hải Vô Thượng Sư và Pháp Môn Quán Âm" (http://www.suprememastertv.com/au/bbs/board.php?bo_table=ee_au&wr_id=140&goto_url=&page=16&url=link2_0#v)


http://img241.imageshack.us/img241/5549/honghieu7nz1.gif (http://imageshack.us)

Nhím Hoàng Kim
02-13-2009, 04:30 PM
CHƯƠNG 5
ĐẶC ĐIỂM CỦA MINH SƯ TẠI THẾ

Kinh Thánh nói "Ánh sáng đó là ánh sáng thật , đã đến thế gian để soi sáng mọi người . Ngài đã vào trong thế gian , nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài". Giăng 1:9-10. Thật vậy , vị Minh sư là người mang ánh sáng của Thượng đế đến giải thoát cho chúng ta , nhưng khi Ngài xuất hiện bằng nhục thể của một con người , rất khó cho chúng ta nhận ra Ngài , vì Ngài trông cũng không khác gì một con người bình thường . Tuy nhiên có một số đặc điểm có thể chúng ta nhận ra Ngài :

1 - Các Ngài cho chúng ta biết rằng chúng ta chứa đựng lực lượng vĩ đại của Thượng đế bên trong , và chúng ta cũng có khả năng trở thành Minh sư như các Ngài . Đức Phật nói "Ta là Phật đã thành , các con là Phật sẽ thành". Chúa Giêsu nói với người Do Thái : "Há chẳng phải trong Thánh thư của các ngươi có chép : Ta nói : các con là Thiên chúa sao ? " Giăng 10:34.

"Ta là cây nho , các con là cành nho". Giăng 15:5.

"Ai tin Ta sẽ làm việc Ta làm và người ấy sẽ làm những việc lớn hơn nữa". Giăng 14:12.

"Osho nói : - Ta là Phật , các ngươi cũng là Phật nhưng chưa nhận ra . Hôm qua ta còn say ngủ nhưng nay đã thức . Hôm nay các con còn say ngủ nhưng ngày mai sẽ thức . Khi tỉnh thức các con sẽ nhận ra tính Phật của mình". (Trích từ bài "Chu Dịch" của Nguyễn đình Phong).

"Việc đầu tiên Phật làm sau khi giác ngộ là quì xuống tạ ơn Dipankara Buddha (Nhiên Đăng Phật). Ba ngàn năm trước , sau khi nghe Dipankara giảng pháp , Gautama cúi xuống lạy . Trước sự ngạc nhiên của Gautama , Dipankara cúi xuống lạy Gautama .

Gautama hỏi : - Ngài là Phật nên con cúi lạy , nhưng tại sao Ngài cũng cúi lạy con ? Dipankara trả lời : - Ta là Phật nhưng con cũng là Phật tuy con chưa nhận ra . Cúi lạy con là ta cúi lạy Phật tính của con vậy". (Trích từ bài "Chu Dịch" của Nguyên đình Phong).

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Pháp môn của Sư Phụ dạy cho quý vị trở thành Minh sư , chứ không phải chỉ thờ phụng Minh sư thôi . Cho nên quý vị đừng tôn sùng Sư phụ , Sư phụ không cho đệ tử tôn sùng Sư phụ . Sư phụ chỉ dạy họ tìm sự vĩ đại của họ ở đâu , đi tìm chân giá trị của họ để trở thành Minh sư . Nếu quý vị nghĩ là Sư phụ vĩ đại thì Sư phụ sẽ dạy quý vị trở nên giống như Sư phụ vậy".

"Ông thầy hay vị Minh sư không phải là người mà quý vị lệ thuộc vào , nhưng từ những người nầy quý vị mới học hỏi được kinh nghiệm và trí huệ , rồi sau đó tự một mình quý vị bước đi . Nếu vị thầy là người xứng đáng , họ nên dạy học trò theo cách nầy . Điều tối hậu là bên trong vị Minh sư và bên trong của quý vị , qua vị Minh sư quý vị sẽ tìm được điều tối hậu".

"Quý vị phải nương tựa vào chính lực lượng của quý vị để có thể biết được sự vĩ đại của chính mình . Sư Phụ chỉ chỉ ra con đường cho quý vị mà thôi . Cho dù Sư phụ có vĩ đại đến mức độ nào chăng nữa , quý vị cũng không hưởng được lợi ích gì nếu quý vị không cố gắng khám phá ra sự vĩ đại của chính mình và sử dụng nó".

"Công việc của đệ tử là tu tập để trở thành Minh sư , vì vậy quý vị không nên mãi là đệ tử của Sư phụ . Quý vị thậm chí cũng không cần phải làm đệ tử của Sư phụ bởi vì quý vị thật ra đã là Minh sư , nhưng vì quý vị không biết điều nầy mà thôi . Cho nên công việc của Sư phụ là để chỉ cho quý vị biết làm cách nào để nhận thức lại chính mình , có thế thôi".

Nhím Hoàng Kim
02-20-2009, 02:28 PM
"Những Minh sư đến đây không phải vì muốn chúng ta ca ngợi , vinh danh Ngài , mà là muốn giúp đỡ cho chúng ta biết được chúng ta là ai , và chúng ta và họ đều như nhau . Nếu chúng ta đi theo bước chân giống như họ , thì chúng ta sẽ thấy sự vĩ đại của chúng ta và họ đều như nhau".

2 - Vị Minh sư tại thế là người không những tán thán Pháp môn Quán Âm , mà Ngài còn có quyền năng truyền Tâm Ấn cho đệ tử , tái sinh linh hồn của đệ tử , và cho đệ tử bằng chứng của sự khai ngộ : sự tự thể nghiệm Âm thanh và Ánh sáng bên trong của Thượng đế .

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Còn về lực lượng của thầy , lúc thọ Tâm Ấn quý vị có thể biết được phần nào . Sau một thời gian tu hành , quý vị tự tịnh hóa chính mình thì sẽ được hiểu thêm , khi trí huệ khai mở quý vị sẽ nhận thức được sự vĩ đại của vị Minh sư . Để nhận ra vị Minh sư chân chính , không phải chỉ trong một ngày , nhưng quý vị có thể biết chút ít qua thể nghiệm mà vị nầy đã cho quý vị trong khi giao tiếp hoặc lúc truyền Tâm Ấn".

"Một vị thầy phải có thể cho chúng ta 'sanh mạng', không để cho chúng ta đời đời kiếp kiếp luân hồi sinh tử , vị đó có thể dẫn chúng ta giải thoát , chỉ cho chúng ta tìm được Sư phụ của mình (Phật tính , bản lai diện mục , linh hồn), như vậy mới gọi là thầy . Nếu không thầy chỉ là một thứ tên để xưng hô chứ không có lực lượng thật sự của một Chân sư . Tôn xưng Cha vì người đó như người cha , có thể sanh trở lại chân thể của chúng ta , để cho chúng ta vĩnh viễn không chết".

3 - Các Ngài đều nói rằng chúng ta không cần đi đâu cả để tìm Phật , tìm Thượng đế . Bởi vì Thượng đế không ngự trong những đền thờ hay trong những hình tượng làm bằng bàn tay của con người , mà Thượng đế thực sự ngự trị trong chính cái đền thờ thân thể của chúng ta . Các Ngài cũng không dạy chúng ta tu khổ hạnh , nhịn ăn , đi hành hương , lạy sông , lạy núi , lạy tượng ...

Phật giáo nói "Phật tại tâm", chúng ta nên nội quan quán chiếu để tìm ra vị Phật bên trong của mình . Kinh Thánh nói rõ ràng là Thượng đế ngự trị bên trong chúng ta và khuyên chúng ta đừng thờ lạy những hình tượng làm bằng vàng , đồng , đá , gỗ bên ngoài :

"Những người còn lại , tức là những người không bị giết bởi những tai hoạ ấy , vẫn không ăn năn công việc của tay họ . Họ vẫn không từ bỏ sự thờ lạy các quỷ và các thần tượng làm bằng vàng , bằng bạc , bằng đồng , bằng đá , bằng gỗ là những thứ không thể thấy được , không thể nghe được và không thể đi được". Khải Huyền 9:20.

"Anh chị em há chẳng biết mình là đền thờ đức Chúa trời và đức Thánh linh của đức Chúa trời đang ngự trị trong anh em sao ?" I Côrinhtô 3:21.

"Người ta sẽ không nói : ở đây hay là ở đó , vì nước Đức Chúa Trời ở trong ngươi". Luca 17:21.

"Nhưng đền thờ mà Ngài muốn nói đó là để chỉ về ngôi đền thờ của thân thể Ngài". Giăng 2:21.

"Kìa nhà của đức Chúa trời ở giữa loài người , và Ngài sẽ ngự trong họ". Khải Huyền 21:3.

"Đức Chúa Trời là đấng dựng nên vũ trụ nầy và mọi vật trong đó . Đấng chúa tể của trời và đất nầy không ngự trong các đền thờ do tay loài người làm nên . Ngài cũng không cần con người sùng bái Ngài bởi những bàn tay của họ". Công Vụ 17:24-25.

"Đừng thờ thần tượng như một số người trong vòng họ đã thờ". I Côrinhtô 10:7.

"Vậy xin anh em hãy lánh xa sự thờ thần tượng". I Côrinhtô 10:14.

Nhím Hoàng Kim
02-25-2009, 08:29 PM
Trong kinh Cựu Ước , điều Răn thứ hai của Đức Chúa Trời nói : "Ngươi chớ làm tượng chạm , cũng đừng quỳ lạy và hầu việc chúng . Con người không được phép làm tượng của người nào hay một vật gì , ở trên Trời hay dưới đất ; cũng không được quỳ lạy trước các hình tượng đó và không phục vụ hay dâng lễ vật cho các hình tượng". Xuất Êdíptôký 20:4-5.

Trong cuốn The Ocean Of Love , Minh sư Kabir cho biết Kal , Giáo chủ Tam giới sẽ tạo nên kinh Vệ đà , Shastras , Simritis và nhiều kinh điển khác để người ta chỉ chú ý đến những thứ nầy , mà quên đi việc quan trọng là đi tìm vị Minh sư tại thế .

Ngài tiết lộ tất cả ba vị thần Brahma , Vishnu và Shiva sẽ đặt nhiều cạm bẫy và từ miệng họ sẽ truyền bá kiến thức và giáo lý của lực lượng Ma vương để giam cầm chúng ta trong Tam giới . Họ sẽ làm cho linh hồn sùng bái đền thờ , những tượng , những hòn đá và sẽ bị bận rộn vào việc đi hành hương , nhịn ăn ... Tất cả thế giới sẽ sùng bái , thờ lạy Thượng đế xuyên qua việc giết người hay thú vật để cúng tế hay cúng quỷ thần .

Ngài cũng nói Kal sẽ làm cho những linh hồn bị cột chặt vào những việc nầy , sẽ đặt ra những việc như tu khổ hạnh , hy sinh như giết người hay vật để tế thần , tạo ra những nghi lễ hàng ngày , đặt ra những luật lệ về đạo đức và nhiều thứ bẫy khác nữa để những linh hồn bị lầm lạc , không thể nhận ra vị Minh sư tại thế .

4 - Vị Chân sư luôn luôn là người cho chứ không phải là người nhận . Ngài không bao giờ sống nhờ vào tiền bạc , tài sản của bất cứ người nào , hoàn toàn không nhận sự cúng dường của bất cứ ai cho sự tiêu xài riêng tư của Ngài , cho dù là đệ tử của Ngài . Ngài tự lo liệu lấy bằng cách làm việc để kiếm sống như tất cả mọi người .

Nhìn vào tấm gương sống của Ngài , đệ tử của Ngài cũng phải tự lực cánh sinh để không bị lệ thuộc vào thế gian và mắc nợ thế gian . Căn cứ vào câu "Phật cho , Ma lấy", chúng ta có thể nhận ra vị Chân sư nhờ vào đặc điểm chỉ cho mà không lấy của Ngài . Nhưng đặc điểm nầy đôi khi lại làm cho những người phàm phu khó lòng hiểu nổi ; vì đã quen với với sự lợi dụng của người đời nên họ đâm ra nghi ngờ , nghĩ rằng làm gì có chuyện chỉ cho mà không nhận . Thánh Phao Lồ nói : "Tôi không ham bạc vàng hay áo quần của ai hết . Anh chị em đã biết rõ là đôi tay nầy đã làm việc để cung cấp nhu cầu của tôi và những người đi với tôi . Chúa Giêsu chính Ngài đã phán 'Ban cho có phước hơn nhận lãnh'."

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Ít nhất người nầy không muốn thứ gì từ quý vị , đó là dấu hiệu an toàn , quý vị có thể bỏ đi bất cứ lúc nào mà không bị thiệt hại gì".

"Những Minh sư không nhận cúng dường để dùng vào việc riêng tư . Họ sinh sống bằng những gì do chính tay của họ làm ra . Đây là điều kiện tiên quyết vì Thượng đế chỉ cho mà không lấy".

Các Ngài đến để hy sinh , dâng hiến và phụng sự cho con người , chứ không phải để được hiến dâng và phục vụ . Chúa Giêsu nói : "Vì Con Người đến không phải để được phục vụ , mà để phục vụ và phó mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người". Mác 10:45.

Nhím Hoàng Kim
03-07-2009, 12:40 PM
5 - Các Ngài dùng trí huệ , sự khai ngộ , tình thương , lý luận của Ngài để thuyết phục chúng ta . Ngài không dùng thần thông hay bất kỳ sự dụ dỗ nào để lôi kéo chúng ta ngoại trừ trong rất ít trường hợp , Ngài phải dùng thần thông vì một lý do đặc biệt nào đó .

Rarain Dass viết : "Chúa Giêsu đã cố gắng tránh những việc biểu diễn thần thông nơi công chúng . Ngài dặn rằng : 'Hãy coi chừng , đừng nói với ai điều gì ... Nhưng người ấy (Một người bị bịnh phung được chữa lành khi Ngài đưa tay chạm vào người ấy) đi ra rao báo cho nhiều người và đồn rao chuyện này ra , đến nổi Ngài không thể vào thành một cách công khai được'. Mác 1:44-45.

'Khi đám đông tụ lại càng đông hơn , Chúa Giêsu bắt đầu phán : Thế hệ nầy là một thế hệ gian tà , họ đòi xem một dấu lạ , nhưng họ sẽ không được ban cho dấu lạ nào , ngoại trừ dấu lạ của Giôna . Vì Giôna đã trở thành một dấu lạ cho dân Ninie thế nào thì Con Người cũng sẽ thành một dấu lạ cho thế hệ nầy thế ấy'. Luca 11:29-30.

Dĩ nhiên những đệ tử sau khi thọ Tâm Ấn với vị Minh sư và tiến bộ bên trong sẽ nhận được rất nhiều bằng chứng về những phép lạ nầy".

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Những người tu pháp môn Quán Âm phải vì trí huệ mà đến , với giáo lý của Sư Phụ phải hiểu cho rõ ràng , tin tưởng Sư Phụ mà đến , tin tưởng pháp môn Quán Âm mà đến , chứ không phải vì những lý do khác , có hiểu ý của Sư Phụ không ?

Cho nên Sư Phụ không cho quý vị (đệ tử) dùng bất cứ một diệu kế nào , bất cứ thần thông nào , mưu kế nào để thu hút người khác đến . Sư Phụ cũng không cho phép quý vị dùng thần thông để cứu bịnh cho người , không cho quý vị coi bói toán ... Nếu như Sư Phụ muốn pháp môn Quán Âm truyền ra rất mau , chỉ cần sử dụng thần thông cứu bịnh thì cả Đài Loan sẽ chạy đến , hà tất phải dùng pháp môn bói toán cỏn con của quý vị . Sư Phụ có rất nhiều pháp môn để sử dụng , nhưng Sư Phụ học Phật rất tự tại , ai muốn đến thì đến , Sư Phụ không dùng bất cứ diệu kế nào để lôi cuốn người khác".

"Phật Bồ Tát không cố ý độ người hay dùng thần thông quyến rũ người khác hay làm những gì đặc biệt . Tình trạng nầy tự nhiên mà có , nếu như còn cố ý là vẫn chưa phải là Đạo . Nếu như Sư Phụ còn phải đi lấy nước cho quý vị uống , nghĩa là Sư Phụ vẫn chưa phải là nước . Nếu Sư Phụ là nước , quý vị sẽ biết liền . Chúng ta chỉ đụng vào thân thể sẽ ướt liền , cảm thấy mát liền , cũng có thể vốc lên uống".

6 - Dù bị người đương thời chống đối và phỉ báng dữ dội , Ngài vẫn thẳng thắn , kiên trì , dũng cảm và nhẫn nhục để hoàn thành sứ mạng Thượng Đế giao phó cho Ngài . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Các Minh sư rất kiên tâm , dũng cảm và chịu đựng . Tâm chịu đựng chân chính là bất luận người khác phỉ báng điều gì vô lý , vẫn tiếp tục hoằng pháp . Không phải gặp phỉ báng thì chùn chân thoái bước , không phải hễ người ta nói chúng ta là ngoại đạo thì lập tức trốn chạy , cho rằng người ta nói như vậy tôi rất e ngại , không dám đi giảng kinh nữa . Không thể như vậy được , tán thán và phỉ báng đều như nhau , người ta phỉ báng lại càng nên tiếp tục hoằng pháp nữa .

Nhím Hoàng Kim
03-24-2009, 07:51 PM
Những người phỉ báng cũng là Phật , Bồ tát , sự cản trở của họ cũng là trợ giúp , tại sao vậy ? Vì có thể gạt những người không xứng đáng ra bên ngoài . Họ nghe một chút ít phê bình bên ngoài thì tin liền người nầy người kia là ngoại đạo , những người đó căn bản không đáng được dạy dỗ , dạy họ sẽ rất phiền . Nghe người ta phê bình một câu là lập tức tin theo , không có trí huệ phân biệt chuyện thị phi . Những người đó đương nhiên là bị cản ở bên ngoài . Họ sẽ đi quảng cáo người nầy người kia là ngoại đạo ... Những người ưa nghe chuyện nhảm lập tức sẽ tin ngay , tự nhiên không muốn đến nghe kinh , tự nhiên không muốn đến học đạo . Cho nên những người phỉ báng cũng rất đỡ rất nhiều , không phải nói làm như vậy là xấu , nghịch lại Sư phụ , mà là Sư Phụ rất cám ơn những người đó , nhưng vì họ không phỉ báng trước mặt Sư phụ nên Sư phụ không có cơ hội cám ơn họ .

Độ chúng sinh là một chuyện không đơn giản , căn cơ chúng sinh bất đồng , cần phải dạy dỗ mỗi người một cách riêng . Lúc Phật còn tại thế mở hội Pháp hoa , có năm ngàn người rời khỏi pháp hội của Ngài , cũng phỉ báng Ngài . Ở Ấn độ hơn hai ngàn năm về trước cũng đã vậy rồi , huống chi hiện tại . Cho nên những người phỉ báng tức là Bồ tát , quý vị đừng ra ngoài công kích họ".

Người đời chống đối , phỉ báng các Ngài vì nhiều lý do :

- Lý do thứ nhứt là vì họ không nhận ra Ngài và không hiểu được giáo lý của Ngài . Chúa Giêsu nói : "Khi một người nghe ta rao giảng về đạo của Nước Trời mà không hiểu , thì ác quỷ đến cướp giật đi những gì đã gieo vào lòng người ấy . Đây là hạt giống đã rơi trên mặt đường". Mathiơ 13:19.

Phật Thích Ca sau khi thành Đạo đã có ý muốn nhập Niết bàn , vì Ngài nghĩ rằng việc đắc pháp của Ngài thật là sâu xa , người đời khó mà hiểu được , chỉ có Phật mới hiểu được Phật mà thôi . Bởi vì tâm trí họ bị che lấp bởi tham sân si , tà kiến , kiêu mạn , tà mê , còn vì bạc phước độn căn , không đủ trí huệ . Nhưng nhờ lúc ấy có Đại Phạm Vương đến xin ; vì lòng từ bi , Ngài đã ở lại truyền bá pháp môn Quán Âm , giải thoát sinh tử luân hồi cho những người đến với Ngài lúc ấy .

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Bị phỉ báng là chuyện tự nhiên bởi hai người không cùng trí huệ , hiểu biết như nhau , hướng nhìn cũng khác nhau . Phật Thích Ca đã từng nói ngoài Phật ra hoặc những Bồ tát đẳng cấp cao , không ai có thể hiểu được Phật . Những loại trí huệ vô lượng vô biên nếu chúng ta không đạt được , không vận dụng trí huệ nầy , thì làm sao chúng ta hiểu được".

"Mỗi lần có một vị giáo chủ ra đời , giáo lý của Ngài dạy thông thường người khác không chịu chấp nhận . Chân lý đã thất truyền lâu rồi , người đời sau đều chỉ nghe người ta nói mà thôi , tự mình không thể nghiệm cho nên tưởng rằng Ngài dạy những thứ gì khác , liền phỉ báng".

Nhím Hoàng Kim
03-31-2009, 07:57 PM
- Lý do thứ hai là vì Ngài luôn nói sự thật , và không nói để làm vừa lòng người nghe . Ngài nói thẳng những hình thức bên ngoài như nghi lễ , thờ cúng những tượng , hành hương , nhịn ăn , khổ hạnh ... đều không dẫn chúng ta đến việc giải thoát , hãy đến với các Ngài khi các Ngài còn tại thế để được dẫn dắt về nhà . Những gì Ngài nói không giống như những gì chúng ta thường làm , thường nghe nên chúng ta cho rằng Ngài là ngoại đạo .

Bình thường các Ngài không bao giờ muốn nói về địa vị tâm linh của mình , nhưng nếu có người hỏi , Ngài phải nói sự thật . Thí dụ như có người hỏi Ngài có phải là đấng Cứu rỗi , Phật , Thánh không . Ngài sẽ trả lời phải , và khi nói ra sự thật nầy những hiểm nguy , rắc rối sẽ đến với Ngài ; bởi vì người không tin sẽ cho rằng Ngài kiêu mạn nên phỉ báng hay tìm cách giết hại Ngài .

Trong một buổi thuyết pháp , có người hỏi Vô Thượng Sư Thanh Hải có phải Ngài là đấng Cứu rỗi không . Ngài trả lời : "Nếu tôi trả lời phải , tôi có bị đóng đinh không ? Còn nếu tôi trả lời không thì tôi đến đây để làm gì ?"

Thật ra Minh sư là những người khiêm tốn nhất thế gian . Vô Thượng Sư Thanh Hải nói lúc các Ngài đắc đạo , phản ứng đầu tiên của các Ngài là rất ngạc nhiên , vì thấy rằng tất cả chúng sanh đều là Phật , là Thánh , tại sao họ lại không biết !

Đọc bài thơ sau đây của Vô Thượng Sư Thanh Hải , chúng ta sẽ cảm nhận được tâm trạng của Ngài cũng như các Minh sư khác khi thành đạo . Lúc ấy , các Ngài thấy "không có chúng sanh để cứu độ", vì biết rằng tất cả chúng sanh đều là Phật , là Thánh .


Sắc Không

Bước một bước là trở về nguyên thủy ,
Lùi một ly là trở lại trần ai !
Thì vẫn vậy năm qua và tháng lại
Khác gì đâu thế tục với liên đài ...

Ta vẫn ngỡ Niết bàn là thế thế ,
Nào ngờ đâu lầm lạc đã bao ngày !
Phút khai ngộ ngỡ ngàng đâu tứ đại
Hề càn khôn ! Một giấc mơ dài !

Mới rõ Phật bốn mươi năm lặng lẽ
Tổ Đạt Ma cũng chẳng thốt một lời .

Rồi mai đây về đâu mà giải thoát ,
Chúng sanh đâu mà độ khỏi luân hồi .

Nhím Hoàng Kim
04-11-2009, 12:44 PM
- Lý do thứ ba người đời chống đối vị Minh sư vì họ hoang mang , nghĩ rằng nếu pháp môn Quán Âm là chánh pháp tại sao không truyền công khai cho đại chúng , mà chỉ truyền cho đệ tử trong vòng bí mật .

Có hai loại giáo pháp : Một loại là Hiển giáo (exoterics), giáo lý bên ngoài , được công khai truyền bá trong công chúng (ngoại giáo công truyền). Đó là những lời thuyết pháp trước công chúng của vị Minh sư hay kinh điển , sách vỡ của Ngài . Loại thứ hai là Mật pháp (esoterics), được vị thầy truyền trực tiếp và bí mật cho đệ tử (nội giáo bí truyền) khi Ngài còn tại thế .

Các tôn giáo chỉ có hiển pháp mà không có mật pháp , Pháp môn Quán Âm bao gồm cả hai : vừa có giáo lý của Minh sư bên trong , vừa có Mật pháp do Ngài truyền đạt bên trong .

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn của Phật giáo , Ngũ Tổ biết Huệ Năng là người có căn duyên , ngộ đạo nên muốn truyền pháp Quán Âm cho Huệ Năng : "Hôm sau Tổ lén đến nhà giã gạo , lấy gậy gõ lên cối ba cái rồi bỏ đi . Huệ Năng hiểu ý Tổ , nên canh ba vào thất . Tổ dùng áo cà sa che lại không cho người thấy , rồi truyền phép Đốn ngộ giáo cho Huệ Năng".

Ngũ tổ đã phải "lén" đến nhà giã gạo , và vì không muốn cho người khác biết nên phải dùng tín hiệu "lấy cây gậy gõ lên cối ba lần", lại "lấy áo cà sa che lại không cho người thấy" khi truyền pháp .

Ngũ Tổ nói với Huệ Năng : "Còn pháp thì lấy tâm truyền tâm , khiến cho người tự mình sáng tỏ , tự mình hiểu biết . Từ xưa chư Phật chỉ truyền cái bổn thể (bổn tánh , Phật tánh) là cội rễ của các pháp và chỉ trao 'kín' cái bổn tâm mà thôi".

Bồ Đề Đạt Ma đã dùng phép Đốn Ngộ , dùng tâm truyền tâm "trực chỉ nhơn tâm , kiến tánh thành Phật", bí mật truyền ngoài các giáo lý phổ thông "giáo ngoại biệt truyền". Đây là chủ yếu của phái Bát Nhã Thiền tông , thuộc về Đại Đạo , là chánh pháp của Phật giáo . Kinh Thánh cũng nói rằng đây là mạt pháp , chỉ truyền cho những người được lựa chọn khi chúa Giêsu còn tại thế : "Cha Ta đã trao mọi sự cho Ta . Không ai biết rõ Con ngoài Cha , cũng không ai biết rõ Cha ngoài Con , và kẻ Con chọn (đệ tử) để giải bày cho". Laca 10:22. "Ta đã cho các người (môn đồ) biết những bí mật của Thiên Quốc , nhưng đối với những người ngoài (người chưa thọ pháp với Ngài), thì vẫn phải dùng ẩn dụ mà nói , để họ xem mà không thấy , lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết". Luca 8:10, Mác 4:11-12. Đệ tử của chúa Giêsu cũng phải thực hành pháp môn trong bí mật : "Nhưng khi người cầu nguyện , hãy vào phòng riêng , đóng cửa lại rồi cầu nguyện với Cha ngươi ở nơi kín nhiệm đó , và Cha ngươi là đấng thấy trong chỗ kín nhiệm đó sẽ thưởng cho ngươi". Mathiơ 6:6.

Nhím Hoàng Kim
04-22-2009, 06:23 PM
7 - Có một vài dấu hiệu khi vị Minh sư tại thế xuất hiện ; đó là sự ồn ào , phỉ báng và chống đối của người đời , và có khi Ngài cố tình gây ra những việc như vậy . Minh sư Huzur Baba Sawan trong cuốn Philosophy of the Masters (Triết lý của các Minh sư), ấn bản tiếng Anh lần đầu tiên năm 1973 tại Ấn độ viết :

"Bất cứ khi nào những vị Phật , Thánh hay những Đấng thiêng liêng xuất hiện , đôi khi Ngài tạo nên một bầu không khí làm cho những người trí óc còn phàm phu không ưa và rất khó chịu . Sở dĩ Ngài làm như vậy để những người nô lệ của thế giới nầy và những kẻ chỉ biết tôn thờ tiền bạc , thường bu quanh Ngài như ruồi , sẽ tản đi nơi khác , để cho những người thành tâm cầu đạo không bị làm phiền . Chính Ngài cố ý gây nên những chỉ trích , phê bình đó .

Chẳng lẽ không có ai giữ cửa cho các Ngài sao ? Dĩ nhiên phải có người gác cửa , để những người phàm phu không thể chen chân vào được . Những hành động phỉ báng và những người phỉ báng chính là những hộ pháp cho các Ngài , ngăn cản không cho những người không xứng đáng đến gần Ngài .

Minh sư Nanak nói bất cứ khi nào vị Minh sư xuất hiện , Ngài thường bị những người theo những hình thức bên ngoài của các tôn giáo phê bình và chỉ trích . Chỉ có một số ít người theo Ngài , và rồi họ cũng bị người đời chỉ trích , gièm pha . Người ta sẽ quên di sự hội nhập với Dòng Âm Lưu nội tại , mà chỉ đọc những chữ viết hay quỳ gối đọc những lời cầu nguyện . Người ta sẽ tụng niệm những tên của các Minh sư , mà không biết đến con đường cứu rỗi bên trong".

8 - Vị Minh sư có biện tài vô ngại . Bất cứ thắc mắc nào liên quan đến bất luận việc gì , Ngài đều có thể trả lời một cách nhanh chóng , thông suốt và rõ ràng ; trong lời nói của Ngài có sức mạnh của một sự tin chắc và chúng ta có thể cảm nhận được . Bởi vì sự hiểu biết của Ngài không đến từ kinh điển , sách vở , kiến thức thế gian , nhưng đến từ chân lý và trí huệ của Thượng đế . Chúa Giêsu nói : "Chúng ta nói điều chúng ta biết , chúng ta làm chứng điều chúng ta thấy , thế mà các ngươi không chịu nhận những lời chứng của Ta". Giăng 3:11.

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Không thể chứng minh được nhiều một người sau khi khai ngộ . Quý vị nhìn thấy Phật Thích Ca có gì khác những người Ấn độ khác không ? Không có , quý vị đi Ấn độ sẽ thấy phần đông những người Ấn độ đều giống như Phật Thích Ca vậy . Một số người Do thái cũng giống như Chúa Giêsu vậy . Sau khi họ khai ngộ , có thể chúng ta nhận không ra , nhưng lúc chúng ta nói chuyện hoặc là đặc câu hỏi với họ , họ trả lời một cách lưu loát , nhanh chóng , không cần phải suy nghĩ . Bất cứ câu hỏi gì họ cũng có thể trả lời , từ điểm nầy chúng ta biết được họ có một thứ gì khác thường bên trong . Nếu họ truyền pháp cho chúng ta , chúng ta có một chút ấn chứng thể nghiệm của khai ngộ giống như kinh điển đã nói vậy , thì chúng ta có thể kết luận người đó đã được khai ngộ . Không theo học với người đó thì chúng ta sẽ không hiểu được nhiều . Càng học với họ chúng ta càng biết được người đó vĩ đại như thế nào . Nếu chỉ đứng ngoài nhìn vào thì họ cũng giống như người bình thường mà thôi".

Nhím Hoàng Kim
05-01-2009, 05:05 PM
9 - Trong lúc Ngài đang thuyết pháp hay nói chuyện , nếu chúng ta có một thắc mắc nào đó nhưng chưa kịp hỏi , tự nhiên sau đó Ngài sẽ giải đáp cho chúng ta .

10 - Khi ở trong sự hiện diện của Ngài , chúng ta cảm thấy bị lôi cuốn đến Ngài một cách mãnh liệt . Chúng ta ngây ngất đắm chìm trong niềm hạnh phúc , an lạc và tình thương lai láng tỏa ra từ Ngài . Chúng ta không muốn xa Ngài dù chỉ một bước , không muốn rời mắt khỏi Ngài dù chỉ một giây . Tại sao lại lạ lùng như vậy ? Đây chỉ là luật đồng tánh tương ứng với nhau . Ngài chứa đựng cái ái lực bao la của Thượng Đế bên trong ; ái lực nầy sâu đậm gấp triệu lần so với tình yêu cha mẹ , con cái hay nam nữ thường tình . Cho nên cái ái lực nhỏ của chúng ta sẽ bị cái ái lực lớn của Ngài hấp dẫn , như sắt bị hút bởi nam châm , như con thiêu thân lao mình vào ánh sáng , như ong bướm bị quyến rũ bởi mật ngọt , hương hoa .

Trong kinh Thánh , Mary Magdalene rất thương yêu chúa Giêsu : "Mary lấy một cân dầu cam tùng nguyên chất rất quý giá xức chân đức chúa Giêsu , rồi lấy tóc mình mà lau . Mùi thơm ngào ngạt tỏa ra khắp nhà". Giăng 12:3 , Luca 7:37-38. Sự quý trọng và tình thương thắm thiết của Bà dành cho Ngài đã làm cho những người phàm phu ngộ nhận , vì họ không thể nào hiểu được tình yêu thiêng liêng và sâu đậm giữa đệ tử với vị Minh sư .

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Một người khai ngộ có tình yêu rộng lớn hơn nên lôi cuốn được nhiều người . Mọi người cảm thấy được an tâm , thương mến và bảo bọc . Người đời không hiểu được điều nầy ; họ nhìn chúa Giêsu hay các bậc giác ngộ khác với cặp mắt tầm thường , tham lam và phàm phu".

"Minh sư đạt được ái lực của siêu thế giới rồi , khi ra ngoài mọi người cảm thấy hình như ta có cái gì hấp dẫn , dễ thương không thể diễn tả được , và họ chỉ muốn nhìn chúng ta , theo sau chúng ta . Chúng ta chỉ cần nhìn họ một lần , mọi người cũng cảm thấy dễ chịu rồi , khỏi cần ta nói thương yêu họ . Ái lực nầy thuộc siêu Tam giới vượt khỏi tình yêu nam nữ , tình phụ mẫu , khiến kẻ địch cũng bị cảm động".

Cũng sức hấp dẫn mãnh liệt nầy từ vị Minh sư , người đời không thể nào hiểu nổi , nên cho rằng có lẽ vị thầy bỏ bùa hay làm pháp thuật để câu hồn . Nếu Ngài bỏ bùa hay câu hồn thì sẽ bỏ hết cho tất cả mọi người , tại sao chỉ "câu" có một thiểu số mà thôi ? Trong số hàng tỷ dân trên thế giới , bao nhiêu người may mắn đã đến với Ngài ? Trong số những người đến dự những buổi thuyết pháp của Ngài , chỉ có một số ít xin thọ pháp với Ngài mà thôi .

Ngoài ra thông thường mục đích của người bỏ bùa là để lấy tiền bạc , tài sản của người bị bùa hay lợi dụng họ điều gì đó . Vị Minh sư không bao giờ lấy tiền bạc hay lợi dụng đệ tử để làm bất cứ điều gì cho cá nhân Ngài . Sau khi thọ Tâm Ấn , mỗi đệ tử về nhà tự tu . Vị thầy thậm chí không biết mặt hay danh tánh họ , không cần biết họ ở đâu , cũng không màng để ý đến nhứng thứ bên ngoài như giàu nghèo , tốt xấu , học thức hay vô học ... Nhưng bên trong Ngài biết rõ từng người , vì sau khi thọ pháp hai linh hồn đã được kết hợp với nhau .

Hơn nữa , khi nhìn một người bị bỏ bùa chúng ta sẽ biết ngay , họ trông thất sắc , thất thần , ngơ ngáo , hôn trầm . Chúng ta hãy nhìn những người đã thọ Tâm Ấn xem thần sắc họ như thế nào , họ có tươi sáng hơn xưa không , có sáng suốt không , có vẫn làm ăn sinh sống đàng hoàng như một người bình thường không ? Hãy quan sát và nhận xét , chúng ta sẽ có câu trả lời .

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Tại sao Trời không cứu nổi mình , quý vị có hiểu không ? Tại vì con người là một chúng sanh cao nhất trong vũ trụ . Chúng sanh không muốn Trời đến là Trời cũng không dám đến . Chúng sanh không cầu là Phật không độ được . Quý vị rất cao quý , rất vĩ đại ; nếu quý vị không cho phép , không có ông Phật nào độ được hết . Cho nên đừng nói là Sư phụ dụ dỗ , dùng bùa ngãi . Dùng sao được ?"

Chúng ta có ngạc nhiên không khi một đoàn thể bị cho là tà đạo , trong khi họ giữ giới luật rất nghiêm minh và thiền định mỗi ngày theo giáo pháp tất cả các Minh sư tự cổ chí kim đã truyền dạy . Trong Lục Độ Ba La Mật của Phật giáo có bố thí , trì giới , nhẫn nhục , tinh tấn , thiền định , trí huệ . Những người tu pháp môn Quán Âm là những người thực sự thực hành Lục Độ nầy . Đức chúa Giêsu đã thiền định bốn mươi ngày trước khi Ngài thành Thánh , đức Phật cũng đã thiền định bốn mươi chín Ngài trước khi Ngài thành chánh quả . Nếu các Ngài không hành thiền trước thời gian đó , làm sao các Ngài có thể ngồi một lúc lâu đến bốn mươi hay bốn mươi chín ngày ?

Chúng ta hãy bình tâm nhận xét cẩn thận , hãy theo pháp của vị Minh sư và đừng nhìn vào những hiện tượng bên ngoài của Ngài . Tà hay không tà rất dễ thấy . Có thể trong tâm linh chúng ta không nhận ra Ngài , chưa biết được sự vĩ đại của Ngài , nhưng chúng ta cũng có thể nhận ra Ngài qua những đặc điểm kể trên .

Chúng ta cũng có thể nhận xét Ngài qua gương sống đầy tình thương , vị tha và tinh thần hy sinh cao cả của Ngài , cũng như qua những giới luật (không sát sanh , không nói dối , không trộm cướp , không tà dâm , không cờ bạc , không hút thuốc , không uống rượu , không xì ke , ma túy) mà Ngài đòi hỏi đệ tử của Ngài phải tuân theo .

Nhím Hoàng Kim
05-16-2009, 09:22 PM
http://img124.imageshack.us/img124/5237/okhoaal8.jpg

CHƯƠNG 6
PHÁP MÔN QUÁN ÂM
DÒNG ÂM LƯU NỘI TẠI
(NGÔI LỜI , DIỆU ÂM)


Các Minh Sư tự cổ chí kim đã ca ngợi pháp môn Quán Âm "Quan Yin method" là loại yoga cao đẳng nhất trong tất cả các loại yoga ; bởi vì thực tập môn nầy sẽ dẫn đến việc giải thoát sinh tử luân hồi , đưa linh hồn về hội nhập với đấng Tối cao .

Đức tin vào Thượng đế và con đường của các Minh sư không phải là tôn giáo (non-denomination). Pháp môn Quán Âm là một ngành khoa học tâm linh (spiritual science) hay ngành khoa học của linh hồn (soul science). Pháp môn nầy được vị Minh sư truyền cho đệ tử lúc Ngài còn tại thế .

Con đường của các Minh sư vì vậy không có những lễ nghi , hình thức bên ngoài , không có tu sĩ , đền thờ , nhịn ăn , khổ hạnh , hành hương ... mà chỉ có sự thực hành thiền dòng Âm lưu và ánh sáng bên trong của Thượng đế . Bất cứ ai , không phân biệt chủng tộc , địa vị xã hội , giàu nghèo , học thức hay không ... cũng đều có thể vào pháp môn .

Các Minh sư gọi pháp môn Quán Âm bằng nhiều tên khác nhau , nhưng giáo lý của các Ngài cũng như cách thực tập pháp môn nầy từ cổ chí kim không bao giờ thay đổi . Vì pháp môn nầy không phải do con người hay bất cứ vị Minh sư nào đặt ra , mà đây là con đường thiêng liêng đã có từ xa xưa của đấng Tối Cao . Lục Tổ Huệ Năng nói : "Giáo pháp (pháp mạch) là do bậc Thánh xưa truyền lại , chẳng phải tự trí của Huệ Năng". Thánh kinh nói : "Như Ngài đã phán trước qua miệng của các Tiên tri Thánh của Ngài đã có từ xưa". Luca 1:70.

Chân lý , Lẽ Thật hay Sự Thật (the Truth) thường được đề cập trong các kinh điển không phải là những danh từ trống không để chúng ta bàn cãi , lý luận bằng lý trí của con người . Chân lý là sự thị hiện của Thượng đế (God's manifestation) trong thân thể con người , là "Dòng Âm Lưu nội tại" (the inner Sound Current) có quyền năng đưa chúng ta về lại đấng Tối Cao .

Dòng Âm lưu được đề cập rất nhiều trong kinh điển của các tôn giáo , nhưng phần đông những tín đồ của các tôn giáo không biết nó là gì . Dòng Âm lưu được gọi bằng nhiều tên khác nhau như Âm nhạc Thiên đường (the Heavenly Music), Nhạc Trời (the Audible Life Stream), Nội Âm (the Shab), Âm thanh Vĩnh cửu (The Eternal Sound), Âm nhạc Vũ trụ (Music of the Sphere), Logos (Thánh từ) ...

Các nhà Huyền học Ba tư gọi nội âm nầy là Shaghi-i-Sultan-ui-Azkar . Kinh Koran gọi là Kalma , Isme-i-Azam , Bang-i-Asmani , Kalam-i-Illahi , có nghĩa là Âm nhạc Thiên đường . Kinh Vệ đà gọi là Nad hay Udgit . Kinh Adi Granth của Đạo Sikhs gọi là Nam , Ram Nam , Hari Nam , Gurbani , Bani and Dhun ...

Phật giáo gọi là Dòng Âm Lưu là Phật Âm , Nước Cam Lồ ... Thiên chúa giáo gọi là Ngôi Lời (the Word), Đức Thánh Linh (the Holy Ghost), Nước Nguồn Sống (the Living Water), Thần Ngôn Thiên Chúa ... Lão giáo gọi nội âm nầy là Tào , Đạo .

Nhím Hoàng Kim
05-31-2009, 12:55 PM
Tất cả những tên nầy chỉ là những danh từ chúng ta có thể nói hoặc viết ra , nhưng cái Nội Âm thần thánh , thiêng liêng âm vang trong mỗi chúng ta , chúng ta không thể nói hay viết ra được . Những danh xưng do con người đặt ra luôn thay đổi với thời gian và tùy theo người muốn nói đến chúng bằng cách nầy hay cách khác , nhưng dòng Âm lưu nội tại thuộc về Thượng đế , vĩnh viễn trường tồn và bất biến . Danh xưng chỉ là những cái vỏ trống rỗng , trong khi chính dòng Âm Lưu mới là Chân lý , tinh túy của Thượng đế bên trong .

Có khi nào chúng ta tự hỏi tại sao những đền thờ của các tôn giáo , người ta thường thắp đèn và đổ chuông , đánh trống , đánh coòng , đánh phèn la ... Chắc phải có cái gì bên trong giống nhau , nên họ đã làm thành những biểu tượng bên ngoài tương tự như vậy . Đạo Sikhs và Ấn độ giáo rung chuông , đánh coòng và thắp đèn trong những ngôi đền của họ . Thiên chúa giáo cũng đổ chuông trên nóc giáo đường và thắp đèn cầy trong nhà nhà thờ . Trong những ngôi chùa của Phật giáo cũng đánh chuông , gõ mõ ...

Minh sư Charan Singh nói : "Những tiếng chuông reo vang ở những gác chuông nhà thờ và những ngôi đền Ấn độ giáo có ý nghĩa gì ? Đây là một câu hỏi mà có một lần người ta đặt ra với một giáo sĩ Ấn độ giáo và một thầy cả , và cả hai vị nầy chỉ lắp bắp mà không thể trả lời thỏa đáng được . Những sách vở , kho tàng độc nhất của những tu sĩ và thầy cả , phần lớn đều im lặng về đề tài nầy . Có một số ít đề cập đến , nhưng những học giả lại không hiểu được một cách thấu đáo vì không có sự dẫn dắt của một vị Chân sư còn tại thế".

Những tiếng chuông , tiếng coòng , tiếng trống bên ngoài chỉ là những nhắc nhở về tiếng chuông , tiếng coòng , tiếng trống , những Âm thanh bên trong . Những ngọn nến bên ngoài chỉ là những biểu tượng (symbols) cho Ánh sáng bên trong của Chân thể chúng ta .

Mỗi tôn giáo có những hình thức , lễ nghi riêng biệt khác nhau , nhưng tinh túy nằm tận cùng trong mỗi tôn giáo đều giống nhau . Khi chúng ta tu pháp môn Quán Âm , chúng ta sẽ biết rằng tất cả các tôn giáo đều bắt đầu từ một nguồn cội . Nguồn cội đó là Sự Thật hay Chân lý của vũ trụ : Dòng Âm lưu và ánh sáng nội tại , mà vị Giáo chủ của mỗi tôn giáo ban cho đệ tử của Ngài khi Ngài còn tại thế .

Trong cuốn The Path (Con Đường) xuất bản năm 1969 , Minh sư Charan Singh viết : "Chúng ta thấy những gì xảy ra trên thế giới nầy ? Những người tưởng nhớ Thượng Đế gọi Ngài là Wah-i-Guru bắt đầu tự gọi họ là những người đạo Sikhs ; những người nhớ Ngài như là Allah gọi họ là những người Hồi Giáo ; trong khi những người nhớ Ngài như là Ram gọi họ là những người Ấn Độ Giáo . Chúng ta trở nên quá hẹp hòi đến nổi chúng ta khó có thể đối mặt với nhau dù chúng ta đều có cùng một đấng Cha lành .

Nếu chúng ta thấm nhập dòng tâm thức của chúng ta với Tên Thật nầy , tất cả những bất đồng , tranh chấp , dị biệt sẽ chấm dứt . Chúng ta thực sự không có tôn phái hay quốc gia nào . Những sự xung đột chỉ kéo dài khi chúng ta bị điếc không nghe được Âm nhạc của Tên Thật nầy".

Nhím Hoàng Kim
06-12-2009, 09:45 PM
Nguyễn Hoài Vân trong bài "Sáng Thế Ký Đọc Bởi Một Người Việt Nam" đăng trong Thế Kỷ 21 viết : "Tử Thư nói : Thấy 'ánh sáng', ánh sáng nền tảng , màu trắng của Đại Nhật Như Lai (Vairocana). Vị Phật của Chân Không (Phật Tổ Tối Cao , Thượng Đế) nầy là khởi điểm của tất cả , từ đó mà thị hiện thành vạn pháp . Sáng thế ký cũng đặt ánh sáng ở điểm khởi thủy của sự tác thành vạn vật . Trong Tử Thư , nếu người chết thấy 'ánh sáng nguyên thuỷ' mà nhận ra rằng mình không thực có , mà chỉ là sự thị hiện của ánh sáng ấy , thì liền hòa nhập với đức Đại Nhật Như Lai (Chân Không) và được giải thoát .

Trong các kinh nghiệm 'gần chết sống lại' (near death experience), người ta cũng thường ghi nhận việc nhìn thấy ánh sáng . Trong truyền thống Ky Tô giáo thì người ta nguyện người chết được đặt trong ánh sáng như trong đoạn kinh Requiem Aeternam , phỏng theo Esdras , tôi dịch thoát như sau :

Trong giấc ngủ muôn đời
Xin dang tay đón người
Đặt người trong Ánh sáng
Nguồn sáng của Bầu Trời

Được chan hòa trong ánh sáng , người chết trở về điểm khởi thủy , nơi chỉ còn Thiên chúa , để qua Ánh sáng ấy , trực diện với Ngài và (hy vọng) nhận biết Ngài , để được giải thoát .

Tôi có từng đọc Nguyễn Kết trong Thế Kỷ 21 , cho rằng nếu bạn leo được lên một hạt quang tử (photon) và duy chuyển với tốc độ của ánh sáng , thì bạn sẽ không còn thấy thời gian trôi nữa , không còn quá khứ , vị lai mà chỉ còn hiện tại , giây lát , lúc nào cũng là lúc nầy . Bạn sẽ thấy 'Big Bang' và tận thế cùng lúc . Đức Phật đản sanh và nước Pháp thắng giải túc cầu thế giới 2006 trong một khoảng khắc duy nhất . Bạn cũng sẽ được trực diện với Thiên chúa , ít nhứt là lúc Ngài tuyên bố : Ánh sáng hãy hiện hữu".

Khi chúng ta nhập định vào trong Ánh sáng và Âm thanh mầu nhiệm của Thượng đế , những ảo tưởng của tâm trí về thời gian và không gian của thế giới vật chất sẽ không còn hiện hữu . Lúc đó sẽ không có ở đây hay ở đó , không còn quá khứ hay tương lai mà chỉ còn Chân Như , không đến mà cũng không đi , ở một nơi nhưng đồng thời cũng ở mọi nơi , ở mọi nơi nhưng đồng thời cũng ở một nơi . Đó là đẳng cấp tâm thức đồng nhất thể với Thượng đế .

Từ thế giới vật chất lên những tầng tâm linh cao hơn có năm giai đoạn chánh ; ở mỗi giai đoạn hay mỗi cõi có những Âm thanh riêng cho cõi đó . Vì vậy có năm Âm thanh chính cho năm cõi tâm linh . Bất cứ hành giả nào đi vào con đường Quán Âm cũng sẽ nhận được những Âm thanh nầy cho đến khi bước vào cõi vĩnh cửu , không sanh không diệt các Minh sư gọi là Thiên quốc , Niết bàn , Tuyệt đối , Sach Khand hay Radha Soami Lok .

Trong thực tế dòng Âm lưu chỉ là một vì nó bắt nguồn từ Thượng đế và nó là Thượng đế . Nhưng ở mỗi cõi khác nhau , dòng Âm lưu thị hiện thành những âm thanh khác nhau . Cũng như khi một dòng nước chảy xuống từ núi cao chúng ta nghe tiếng thác đổ . Khi nó chảy qua những khe đá , chúng ta nghe tiếng suối reo róc rách . Khi nó chảy qua đồng bằng , chúng ta nghe tiếng cuồn cuồn của một con sông . Khi nó chảy ra biển , chúng ta nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm . Vị Minh sư tại thế sau khi truyền Tâm Ấn cho đệ tử , sẽ đem dòng thần thức của đệ tử đi qua những cõi nầy , hòa nhập linh hồn họ với năm Tên Thực hay Âm thanh thần thánh và dẫn họ về lại Ngôi Nhà của Thượng đế .

Nhím Hoàng Kim
06-20-2009, 11:44 AM
Chúng ta hãy cùng nhau đọc lại kinh điển của các tôn giáo để tìm hiểu về dòng Âm Lưu nội tại nầy , để nhận biết rằng tất cả các tôn giáo đều bắt nguồn từ pháp môn Quán Âm .

Hầu hết những kinh điển của các tôn giáo lớn trên thế giới đều chỉ dạy chúng ta hãy quay vào bên trong để tìm lại Thiên Quốc hay quốc độ của mình .

Lão Tử nói : "Từ vô lượng kiếp đến nay , ta nhờ xem tâm mà đắc đạo".

Socrates nói : "Chúng ta không thấy được chúng ta thật sự là gì . Tất cả những gì chúng ta thấy được chỉ là cái bóng của chúng ta mà thôi".

Nhà bác học Einstein nói : "Không có cái gì sinh ra cũng như không có cái gì biến mất , mà chỉ có sự thay đổi của trạng thái vật chất".

Pháp môn Quán Âm là pháp môn giúp chúng ta tìm thấy lại cái "tâm", cái Chân thể "không sinh ra cũng như không biến mất" của mình , để có thể nhận biết lại "chúng ta thật sự là gì" mà các bậc thiện tri thức đã nói ở trên .

Nguyễn văn Thọ viết rong bài "Ra Đời Vào Đạo", Hoa Sen số 32 : "Đọc lịch sử đức Phật ta thấy Ngài đã thụ pháp với Đại Sư Arada Kalama về học thuyết tiền Samkya (đại khái là phép nội quan quán chiếu).

Đạo Lão với những chủ trương : 'Thiên tại nội , nhân tại ngoại' (Nam Hoa kinh), hoặc 'Đi ra ngoài là cầu cạnh vào ngoại vật để mong hoàn thành ; nội quan quán chiếu là thấy trong tâm có đầy đủ tất cả' (Liệt Tử , Xung Hư Chân kinh). Mục đích của đạo Lão là chỉ vẽ cho ta nội giáo chân truyền . Nho giáo chủ trương cả vạn vật ở trong ta . Mạnh tử cũng nói quay vào trong mà tìm đạo ấy .

Tất cả đều chủ trương nội giáo . Có điều lạ là theo đà thời gian , tất cả các đạo giáo lớn đều biến từ 'nội giáo chân truyền' thành 'ngoại giáo công truyền'. Vì thấy làm như vậy mới có người theo".

"Có điều lạ là đạo nào cũng cho mình là Chân đạo , còn đạo khác là tà đạo ; mặc dù chính bản chất của mình vốn là tà đạo . Tà đạo vì không nhìn ra được Chân bản thể của con người , chân thể của vũ trụ , chân giá trị của con người , mục đích chân chính của cuộc tiến hóa quần sinh . Ngoại đạo vì chỉ biết những lễ nghi hình thức hời hợt bên ngoài , chạy theo những phù phiếm , phiến diện bên ngoài , mà ù cạc về những điều trọng yếu , những lý sự tiềm ẩn bên trong vũ trụ và con người".

Nhím Hoàng Kim
06-25-2009, 08:36 PM
"Đại Đạo tâm linh chỉ có một mục đích duy nhứt là thành Phật , thành Trời chứ không chủ trương lại Phật , lạy Trời , làm tôi tớ cho Trời , cho Phật . Nó không có lễ nghi , hình thức , không chủ trương xì xụp van vái . Nó chỉ có một mục đích duy nhứt là giúp con người tìm ra cái Bản thể thần linh siêu việt nơi mình . Chúng ta muốn gọi nó là gì cũng được : là Tuyệt đối , là Allah ... nhưng đừng bao giờ quên nó , xa lìa nó".

"Thực ra từ trước đến nay , dù nói xa nói gần , tôi vẫn thường đề cập đến cái Đại Đạo tâm truyền ấy ; khi thì tôi gọi đó là Đại Đạo , khi thì tôi gọi đó là Tinh hoa các tôn giáo , khi thì tôi gọi là đạo Huyền Đồng . Cái Đạo nầy thật ra nó đã tiềm ẩn sẵn trong lòng mọi người , tôi chỉ muốn khơi động nó lên , chứ thực ra nó đã có từ muôn thuở .

Cái Đạo nầy bắt đầu có từ khi mà Bản thể vô biên tế của vũ trụ nầy bắt đầu phóng phát , tán phân , bắt đầu hình hiện thành quần sinh vũ trụ . Khi đã phóng phát , tán phân thành quần sinh vũ trụ nầy rồi , thì Đại thể vô biên , linh minh huyền diệu ấy lại tiềm ẩn sẵn trong lòng sâu của vũ trụ , quần sinh và con người .

Như vậy vũ trụ , quần sinh và con người có hai bình diện : Một là bình diện Bản thể , duy nhất bất khả phân , thường hằng vĩnh cửu , siêu tuyệt , tuyệt đối . Tùy cung cách trình bày , cảm nhĩ của các bậc Thánh hiền mà bản thể ấy mang nhiều danh hiệu như : Hư , Vô , Vô cực , Thái cực , Chân Tâm , Chân như , Thượng đế , Allah , Trời , Jehovah , Elohim , Atman , Niết bàn , Nước Trời ... Đó cũng là cõi Thiêng , siêu sinh tử , siêu không gian , siêu thời gian .

Hai là bình diện Hiện tượng , hình tướng biến thiên , đa tạp , lệ thuộc vào vòng hình danh , sắc , tướng , không gian , thời gian , vòng duyên nghiệp , sinh tử , luân hồi , có danh mà không có thực , phù du , hư ảo , như những áng mây bồng bềnh trên khung trời thẳm , hay như những bọt bèo biến hiện trên mặt trùng dương vô biên , vô tận . Đây là thế giới của cá nhân , cá tính , của những gì vô minh , hư ảo . Đây là 'nước thế gian' theo danh từ Tân Ước , hay 'cõi tục', hồng trần tục lụy , bể khổ bến mê nói theo kiểu Á Đông .

Khi đã nhìn rõ được hai phương diện nầy , tự nhiên một câu hỏi được nêu lên : Giữa cái khổ và cái lạc , cái biến và cái hằng , cái giả và cái chân nói trên , chúng ta sẽ chọn cái gì ? Dĩ nhiên là ta phải chọn cái Thường Hằng , vĩnh cửu , cái gì là chân thực , cái gì là quang minh chính đại , cái gì là lý tưởng .

Tất cả những phương tiện dẫn từ Phù sinh đến Trường sinh , từ hiện tượng tới Bản thể , đó gọi là Đại Đạo , vì nó là con đường duy nhất mà nhân loại bắt buộc phải băng qua để tiến tới trường sinh , vĩnh cửu .

Khi một người tiến từ phù sinh lên trường sinh , từ hiện tượng vào tới Bản thể , thì sự kiện ấy được mệnh danh là giải thoát , nhập Niết bàn , phối Thiên , đắc Đạo , thực hiện Tự tính (Self-Realization), thực hiện Thượng đế (God-Realization)".

"Đại Đạo Tâm linh" ông Nguyễn văn Thọ đề cập đến , chính là con đường dẫn dắt đến sự liễu ngộ Chân thể của mình và liễu ngộ Thượng đế . Đại Đạo Tâm linh vì vậy cũng là một danh xưng khác để gọi Pháp môn Quán Âm , bởi vì pháp môn Quán Âm cũng dẫn đến cùng một cứu cánh .

Nhím Hoàng Kim
07-01-2009, 06:09 PM
Muốn chuyển hóa tâm thức từ phù sinh , vô thường thành Bản thể hay Chân Ngã (Self) trường sinh , vĩnh cửu , con đường duy nhứt của chúng ta là phải dựa vào dòng Âm lưu nội tại .

Minh sư Nanak , Giáo chủ của đạo Sikhs nói : "Chính Diệu Âm đem đến sự vinh hiển trong Thượng Đế . Không dâng hiến cho Diệu Âm , không một người nào có thể được cứu rỗi . Bao lâu mà chúng ta chưa khám phá được Diệu Âm , bóng tối của vô minh trong chúng ta sẽ không tiêu tan , chúng ta sẽ không thể nào nhận biết Thượng Đế . Người hoàn hảo là người thấm nhập trong Diệu Âm . Chỉ cần một ánh lửa Diệu Âm của Thượng Đế do Minh Sư châm vào , mọi tội lỗi tồn kho của chúng ta đều tiêu tán".

"Nếu người tìm đạo một lần được nối với Âm thanh bên trong , Âm thanh đó sẽ không bao giờ rời bỏ người đó và người đó sẽ về lại với Thượng Đế . Nhờ Ân sủng của vị Chân sư , chúng ta được sống trong từ trường của dòng Âm lưu và dòng Âm lưu sẽ kéo chúng ta lên với Thượng Đế . Nương vào dòng Âm lưu chúng ta sẽ tìm ra hướng Ngôi Nhà thật sự của chúng ta , nương vào Ánh sáng , chúng ta được dẫn dắt lên trên con đường tìm về Nguồn Cội".

Minh sư Kabir Sahib nói : "Giống như một đống cỏ khô bị đốt thành tro bụi vì một ngọn lửa , tất cả mọi tội lỗi của chúng ta sẽ đều bị thiêu huỷ khi Diệu Âm đi vào trong chúng ta . Khi chúng ta thực hành thiền quán Diệu Âm , tất cả mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được rửa sạch . Sự vinh hiển thực sự nằm trong Diệu Âm ; ngay cả một người cùi , da lở lói vì nhiễm trùng cũng được ban ân điển nếu người đó câu thông với Diệu Âm . Diệu Âm của các Minh sư không ở bên ngoài , nó hiện hữu bên trong thân thể của chúng ta".

Minh sư Swami Ji nói : "Diệu Âm đốt sạch tất cả những nghiệp chướng tích lũy từ đời đời kiếp kiếp . Diệu Âm làm cho chúng ta hòa nhập với Thượng Đế".

Dòng Âm lưu là lực lượng của Thượng đế , đã sáng tạo và nuôi dưỡng toàn thể vũ trụ . Lão tử nói : "Tào (Đạo) đã lập nên thế giới".

Trong cuốn The Path , Minh sư Charan Singh viết : "Dòng Âm Lưu , Ngôi Lời hay Diệu Âm đã sáng tạo vũ trụ . Một khi Thượng Đế thu hồi lại lực lượng bên trong đã nuôi dưỡng tất cả mọi vật , vũ trụ sẽ bị lâm vào sự hủy diệt (dissolution) và đại hủy diệt . Toàn thể vũ trụ bao gồm năm thành phần là Đất , Nước , Gió , Lửa và Linh khí Ê-te . Tất cả mọi thứ chúng ta thấy trong thế giới nầy đều có một hay nhiều hơn những thành phần nầy . Tất cả năm thành phần nầy đối nghịch nhau nhưng chúng được hòa hợp với nhau và nuôi dưỡng bởi lực lượng của Dòng Âm Lưu nầy .

Khi lực lượng bên trong nầy bị rút lại , nước sẽ làm tan vỡ đất , lửa sẽ làm khô nước , không khí sẽ làm tiêu tán lửa và linh khí ê-te sẽ thiêu hủy không khí , tất cả thế giới sẽ bị tan rã . Thân thể chúng ta bao gồm năm thành phần đó , khi chúng ta còn có Dòng Âm Lưu nầy bên trong chúng ta , chúng ta còn sống trong thế giới nầy , nhưng khi lực lượng của Dòng Âm Lưu nầy bị lấy đi , thân thể của chúng ta sẽ chết và tan rã . Năm thành phần sẽ trở về tụ hợp với nguồn cội của chúng ta và chúng ta không còn hiện hữu nữa".

"Những nhà Minh triết và Thấu thị của Ấn Độ cổ xưa nói trong kinh Vệ Đà : nhờ vào Akash-Bani (Âm thanh Thần thánh), thế giới đã được sáng tạo . Kinh Koran nói Kalma (Âm Thanh) đã sáng tạo mười bốn tầng trời . Triết lý Trung hoa xa xưa cũng nói Tào (Đạo , Âm Lưu) đã lập nên thế giới .

Các Minh sư của đạo Sihks cũng đề cập đến sự quan trọng của Dòng Âm Lưu nầy . Arjan Dev , Minh sư thứ năm của Đạo Sihks nói : 'Tất cả mọi sinh vật lớn hay nhỏ , tất cả các tầng Trời đều phải dựa vào lực lượng của dòng Âm lưu'. Amar Das , Minh sư thứ ba của Đạo Sihks nói : 'Tất cả mọi thứ chúng ta thấy trên thế giới đều là do sự sáng tạo của Diệu Âm . Những người không biết đến Diệu Âm đều là những người mù và điếc . Không có Diệu Âm thì không có hy vọng nào , chúng ta không thể được cứu rỗi cũng như thoát khỏi bánh xe sinh tử luân hồi . Người nào không tìm kiếm Thượng Đế bên trong mà tìm bên ngoài sẽ không tìm được Diệu Âm và sẽ bị đắm chìm trong đau khổ .

Những người tìm Diệu Âm bên ngoài thân thể sẽ không tìm thấy nó . Nếu một vật nằm trong nhà , làm sao chúng ta có thể tìm thấy nó nếu chúng ta cứ tìm kiếm bên ngoài ?" Các Minh sư Ấn độ gọi pháp môn Quán Âm là "Surat Shab Yoga". Trong tiếng Phạn , Yoga có nghĩa là sự hội nhập , Surat là dòng thần thức , linh hồn hay Phật tính , và Shab có nghĩa là Dòng Âm lưu nội tại .

Surat Shab Yoga là pháp môn thực hành việc hội nhập linh hồn với Âm thanh và ánh sáng bên trong của Thượng đế . Âm thanh và Ánh sáng sẽ giúp chúng ta tìm lại Chân ngã của mình , liễu ngộ Thượng đế và thành đồng nhất với Ngài .

Pháp môn Quán Âm không phải là một con đường mù quán , dị đoan , tin tưởng vào một cái gì không có thực và không chứng minh được . Nó là một ngành khoa học tâm linh , nhờ vào Âm thanh và Ánh sáng bên trong , hành giả có thể chứng nghiệm được trong chính cái phòng thí nghiệm thân thể của mình .

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Pháp môn Quán Âm rất là nhanh . Đời đời kiếp kiếp nghiệp chướng gì cũng tiêu hết , tiêu lập tức , tiêu liền , nhứt định là phải thành công thôi , không có cách gì mà không thành công hết . Những người nào tu pháp môn Quán Âm mà không thành Phật , thì chuyện đó không thể có được . Cũng như bây giờ đem hai cục kẹo để gần hai cục kẹo mà nói không thể nào thành bốn , thì điều đó không thể có được . Tu pháp môn Quán Âm cũng như vậy , không thể nào không thành công , không thể nào không tiến hóa tâm linh , không thể nào không khai ngộ được cả".

Nhím Hoàng Kim
07-09-2009, 07:19 PM
CHƯƠNG 7
PHÁP MÔN QUÁN ÂM TRONG PHẬT GIÁO


Trong các kinh điển Phật giáo , chư vị Phật , Bồ Tát đều tán thán Pháp môn Quán Âm , các Ngài đều dạy chúng ta hãy quay vào bên trong để tìm lại Phật tánh hay bản lai diện mục của mình . Phật Thích Ca nói : "Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh xưa nay chẳng sanh , chẳng diệt , bởi vì mê ngộ nên có thăng trầm".

Trong "Lục Độ Ba La Mật" của Phật giáo , ngoài bốn pháp tu đầu là bố thí , trì giới , nhẫn nhục , tinh tấn , còn có thiền định và trí huệ . Có thiền định mới phát sinh trí huệ , hai phép nầy đi đôi với nhau . Nhưng thiền đinh cũng phải đúng pháp môn mới có thể mở cánh cửa trí huệ tiềm tàng trong chúng ta , và chính trí huệ nầy sẽ đưa chúng ta đến bờ giải thoát . Trong tiếng Phạn "Thiền định" gọi là Dhyana và "Trí huệ" (Wisdom) gọi là Prajna (Bát nhã). "Bát nhã ba la mật" tiếng Trung Hoa gọi là "Trí huệ đáo bỉ ngạn (Trí huệ đến bờ bên kia)". Đây là hai phép cao nhất trong sáu pháp tu của chư vị Phật , Bồ tát , còn được gọi là "thiền Ba la mật" (Dhyana paramita). Thiền Ba la mật , phép tu mở Trí huệ để vượt qua biển sanh tử luân hồi và trở thành Minh sư (Phật , Thánh), chính là Pháp môn Quán Âm mà các Minh sư trong quá khứ đã tán thán , và Vô Thượng Sư Thanh Hải đang truyền bá ngày nay .

Trong Phật giáo , Pháp môn Quán Âm đã được gọi bằng nhiều danh từ khác nhau : Đại đạo , Đốn ngộ , Kiến tánh thành Phật , Đà-ra-ni , Kim Cang , Viên giác , Nhĩ căn viên thông , Phản văn văn tự tánh , Phổ độ ...

Phật giáo cũng đã dùng rất nhiều danh từ khác nhau để chỉ Chân ngã "Self" hay linh hồn của chúng ta : bản lai diện mục , Phật tánh , tự tánh , bổn lai chân tánh , bổn thể , Phật tâm , bổn tâm , Diệu âm , Kim Cang tâm , tự tâm , trực tâm , Chân Phật , thanh tịnh pháp thân ...

Thiền sư Hoàn thượng Minh Trực , một dịch giả của Pháp Bửu Đàn Kinh viết trong phần Lời Tựa : "Ngày xưa Đạt Ma Tổ sư qua Đông độ cũng đã dùng Chánh pháp Nhãn tàng mà đặng quả Niết bàn . Phép phối hiệp Nhãn và Tâm là phép Thiền định tập trung thần quang mà chiếu vào tâm khiếu , gọi là hồi quang phản chiếu . Tu hạnh nầy thì lìa khỏi ngũ trược , các sự phiền não trần lao không làm rối tự tâm . Thế là đắc cảnh chân không , phát đại Trí Huệ mà chứng quả Chánh chơn giác hay là Niết bàn Diệu tâm vậy . Kinh gọi phản bổn hoàn nguyên , chính là chỉ chỗ bí quyết nầy .

Nhím Hoàng Kim
07-17-2009, 11:50 PM
Như Lai Chánh pháp Nhãn tàng với Niết bàn Diệu tâm là bí quyết của Tổ , Tổ tương truyền bằng tâm , ngoài các giáo lý phổ thông , cho nên gọi là 'giáo ngoại biệt truyền'. Ấy là phép huyền diệu nhiệm mầu thuộc về Đại Đạo (Grand Symbol), là cang yếu của Phật pháp di truyền trong phái Bát Nhã Thiền tông vậy".

"Chánh pháp Nhãn tàng (mở Mắt Huệ để thấy ánh sáng) hiệp với Niết bàn Diệu tâm" cũng chính là Pháp môn Quán Âm , bởi vì khi truyền pháp Quán Âm hay truyền Tâm Ấn , vị Minh sư nối kết "Diệu Tâm" (linh hồn) với ánh sáng bên trong .

Ngày nay một số Phật tử đến chùa thỉnh khăn "Đà-Ra-Ni" để đắp mặt cho người thân đã qua đời , và áo "Kim quang" để mặc cho họ , với hy vọng họ sẽ được siêu thoát . Đây là những hình thức bên ngoài còn rơi rớt lại của Pháp môn Quán Âm ngày xưa . Áo Kim quang là biểu tượng của Ánh sáng bên trong và khăn Đà Ra Ni là biểu tượng của Âm thanh bên trong , vì chữ "Dhara" (đà-ra) trong tiếng Phạn có nghĩa là Âm thanh . Kinh Viên Giác nói : "Nầy các thiện nam , Vô Thượng Pháp Vương có một pháp môn Đại Đà Ra Ni gọi là Viên Giác , từ đó lưu xuất tất cả thanh tịnh Chơn như , Bồ đề , Niết bàn và Ba La Mật , dạy dỗ cho các Bồ tát".

Muốn được giải thoát , chúng ta phải tìm đến vị Minh sư tại thế để Ngài truyền pháp môn Quán Âm . Từ đó chúng ta sẽ thực sự cảm nhận Âm thanh và ánh sáng nội tại , chứ không phải làm những hình thức bên ngoài . Âm thanh và ánh sáng bên trong mới có năng lực tiêu trừ nghiệp chướng , giúp cho linh hồn giải thoát , về hội nhập với Phật Tổ Tối Cao .

Việc thực hành pháp môn Quán Âm gồm có hai phần : thiền quán Âm thanh và Ánh sáng nội tại . Kinh điển Phật giáo nói rất nhiều về hai thị hiện nầy của Thượng đế hay Phật Tổ Tối Cao . Trong kinh Pháp Hoa , phẩm Pháp Sư Công Đức nói "Tai Thanh tịnh" có thể nghe những Diệu Âm bên trong như tiếng chuông , tiếng trống , tiếng phèn la , Âm nhạc Phạm thiên ... Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm có đề cập đến Diệu Âm , Quán Thế Âm , Hải triều Âm , Phạm Âm (tiếng Om là một trong những Phạm Âm) và Thắng bỉ thế gian âm .

Trong kinh Lăng Nghiêm , để đáp lại lời yêu cầu của đệ tử A Nan , Phật Thích Ca bảo hai mươi lăm vị Bồ Tát hãy bày tỏ những chỗ viên thông trong pháp tu của họ . Các Ngài nói nhờ vào pháp môn thiền quán Âm thanh và Ánh sáng bên trong mà được thành chánh quả . Xin trích dẫn một vài thí dụ trong kinh :

- Ngài Ma Ha Ca Diếp nói rằng kiếp trước Ngài ở thế gian , được thọ pháp với Phật Nhựt Nguyệt Kim Quang mà được ngộ nhập vào trong ánh sáng : "Cứ thấp đèn nối bóng quang minh".

"Thân của tôi thường viên mãn tụ cái sắc kim quang , hễ cổi áo ra thì ánh sáng chiếu cả mặt trời". Ý câu nầy muốn nói Ngài tu pháp môn Quán Âm nên thấy ánh sáng phát ra toàn thân . Kinh Thánh nói "Khi mắt ngươi còn lại một , thân thể ngươi sẽ tràn đầy ánh sáng".

- Bồ tát A Na Luật Đà nói nhờ pháp Nhãn căn (Mắt trong) Lạc kiến chiếu minh mà được vào viên thông : "Pháp ấy toàn là công phu xây cái thấy lại mà thấy Tự tánh", tức là quay vào bên trong để thấy ánh sáng của Phật tánh .

Nhím Hoàng Kim
07-30-2009, 07:56 PM
- Bồ tát Xá Lợi Phất nói nhờ pháp Nhãn thức (Mắt trong) mà "tri kiến quang minh cực điểm". Khi Ngài thấy ánh sáng rực rỡ thì trí huệ khai mở "soi tỏ đến chỗ cực sâu xa , bất kể sự gì cũng được minh liễu".

- Bồ tát Phổ Hiền nói nhờ nơi Nhĩ thức (Tai trong) "Tôi chỉ dùng nhĩ thức mà phân biệt chỗ biết , chỗ thấy của chúng sanh", nên được thông suốt hết "soi khắp pháp giới mà đặng phần tự tại".

- Bồ tát Lưu Ly Quang Vương Tử nói nhờ nơi "Phong đại" mà được vào chánh định : "Xét cái lực của gió nguyên không nương đâu , mà tôi ngộ được tâm Bồ Đề vào chỗ chánh định".

"Cho nên tam thiên đại thiên thế giới cùng bao nhiêu chúng sanh , trong đó có khác nào như một cái vò nhốt trăm vạn muỗi mòng , vo vo kêu loạn trong khoảng rộng , càng sanh cuồng cáo". Ngài Lưu Ly đã tiết lộ những Diệu Âm như tiếng gió , tiếng của nhiều côn trùng , và Ngài cũng thấy được ánh sáng của tự tánh bên trong : "Thân tâm tôi phát khởi quang minh".

Kinh Thánh cũng nói về tiếng gió bên trong : "Chớ ngạc nhiên về điều Ta nói với các ngươi . Các ngươi phải được sanh lại . Gió muốn thổi đi đâu thì thổi . Ngươi nghe tiếng Gió nhưng không biết Gió từ đâu đến và sẽ đi đâu . Ai sinh ra bởi đức Thánh linh (NGôi Lời , Diệu Âm) thì cũng như vậy". Giăng 3:7-8.

- Bồ tát Đại Thế Chí nói nhờ kiến đại cái tánh Phật bên trong mà ngộ nhập : "Tôi dùng cái hương quang niệm Phật mà trang nghiêm cái tánh Phật trong thân tâm tôi ... lấy cái tâm niệm Phật mà chứng đặng vô sanh nhẫn". Ngài nói hằng hà sa số kiếp về trước , Ngài được Phật Siêu Nhựt Nguyệt Quang dạy ngài pháp "niệm Phật chánh định". Niệm Phật chánh định có nghĩa là khi hành giả hành thiền vào chánh định , sẽ kiến tánh Phật của mình , sẽ giao tiếp được với vị Phật bên trong , chứ không phải là miệng niệm bên ngoài . Khi đã câu thông với vị Phật của mình , chúng ta mới tưởng nhớ đến Ngài như lời thuyết dụ của Siêu Nhựt Nguyệt Quang Phật : "Như hai người đều nhớ nhau , hai cái nhớ đều khắn khít , thì chắc là gặp thấy nhau".

Bồ tát còn nói : "Hễ niệm thì có Phật , niệm đâu thì Phật đó , cảnh Tây phương thường ở nơi tâm , chẳng cần mượn phương tiện , mà tâm đặng mở tỏ". Khi chúng ta "niệm Phật" cũng vào được chánh định và có kết quả như Bồ tát "hễ niệm thì có Phật , thấy được cảnh Tây phương trong tâm", thì đó mới là "Niệm Phật chánh định". Cho nên "niệm Phật" ở đây muốn nói đến việc kiến tánh Phật bên trong của mình , chứ không phải miệng niệm bên ngoài .

Ngài nói "Gần Phật nhiễm Phật rồi thì tâm cũng thành Phật , cũng như gần hương nhiễm hương rồi thì thân cũng thành hương". Khi chúng ta chưa bao giờ gần Phật , trông thấy Phật , làm sao chúng ta có thể hình dung ra Ngài để nhớ nhung , quán tưởng . Cho nên "gần Phật" có nghĩa là gặp được vị Chân sư tại thế , và nhờ đó chúng ta cũng có thể thành Phật như Ngài "Tâm cũng thành Phật , thân cũng thành hương".

Nhím Hoàng Kim
08-15-2009, 10:25 PM
Nếu để ý , chúng ta thấy tên của những vị Phật như Đại Nhật Như Lai , Nhựt Nguyệt Kim Quang , Siêu Nhật Nguyệt Quang đều có chữ "nhựt , nguyệt", ý muốn chỉ đến ánh sáng của chư vị Phật .

- Sau khi hai mươi bốn vị Bồ tát tường thuật về pháp môn của mình rồi . Quán Thế Âm Bồ Tát liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn và bạch rằng :

"Bạch Thế Tôn ! Tôi nhớ hằng hà sa số kiếp về trước , có một vị Phật ra đời hiệu Quan Âm . Tôi nhờ Phật đó phát Bồ đề tâm . Phật đó dạy tôi theo nơi Nghe (Văn), Nghỉ , Tu mà vào chỗ chánh định . Khi những trần cảnh sở đối đã diệt , bỗng nhiên tôi vượt khỏi thế gian và không bị tam giới ràng buộc nữa . Chỉ thấy mười phương tròn sáng , liền được công đức thù thắng : trên hiệp tâm bản Diệu giác của chư Phật trong mười phương và đồng với Như lai một từ lực , dưới hiệp với chúng sanh trong sáu đường .

Mỗi người tu mỗi pháp khác nhau , còn riêng tôi thì chỉ do chỗ đặng căn bản viên thông , chỉ tại nơi môn 'Nhĩ căn phát diệu' rồi tu thân tâm mầu nhiệm , ngâm bọc tất cả pháp giới . Do tôi tu tập cái tánh bổn diệu của 'Nhĩ căn viên thông', sau khi cái bản căn đã được thanh tịnh rồi thì tôi dạo chơi các thế giới (Những cảnh giới tâm linh vi tế bên trong). Nay Phật hỏi viên thông , thì tôi chỉ do một cửa , nơi căn Lỗ Tai soi tròn chính định , nên tùy tâm thị hiện các nơi đều tự tại ; thế thì nguyên nhơn thiệt do cái tướng vào Dòng (dòng Âm Lưu nội tại) mới nhập được chỗ chính định , thành tựu đạo Bồ Đề bậc nhứt . Thầy của tôi là Quan Âm Như Lai khen tôi khéo đặng cái pháp môn viên thông , nên ở giữa Đại Hội thọ ký cho tôi là Quán Thế Âm . Bởi tôi xem nghe mười phương đều được tròn sáng nên cái danh Quán Thế Âm của tôi khắp cả mười phương thế giới".

Nhờ tu pháp "Nhĩ căn viên thông", nghe Âm thanh bằng tai trong , tức pháp môn Quán Âm , Bồ tát Quán Thế Âm đạt được tần số chấn động lực với Phật Tổ Tối Cao "đồng với Như Lai một từ lực", thành đồng nhất thể với tất cả vạn vật trong vũ trụ "Hiệp với chúng sang trong sáu đường". Pháp thân Ngài bao trùm tất cả pháp giới , trở thành vô sở bất tại , có thể hiện hữu cùng khắp mọi nơi "tôi dạo chơi các thế giới", và có thể thị hiện bất cứ nơi nào "tùy tâm thị hiện các nơi đều tự tại".

Vô Thượng Sư Thanh Hải nói : "Kinh điển không phải là cốt tủy của bất cứ tôn giáo nào , chỉ là cách chỉ dẫn để tìm cốt tủy tôn giáo đó mà thôi . Tu pháp môn Quán Âm không phải chỉ niệm Phật Quán Âm thôi . Niệm Quán Âm là một việc tu nhỏ , ở dưới , sơ cấp , niệm Quan Thế Âm Bồ tát để cầu Ngài giúp đỡ . Còn cao cấp Quán Thế Âm Bồ tát là mình biến thành cùng với Quan Thế Âm Bồ tát , cùng với Ngài thành một , vạn vật đồng nhất thể . Từ đó mình có thể nghe được tiếng kêu cứu của tất cả mọi người".

Nhím Hoàng Kim
09-05-2009, 08:21 PM
Những đoạn sau đây trong kinh Lăng Nghiêm đã đề cập đến Diệu Âm , Ánh sáng cùng những linh ảnh bên trong : "Đang lúc Phật phóng quang (ánh sáng) thì những rừng cây , ao , đầm đều diễn tiến Pháp Âm (Diệu Âm). Ánh sáng giao dệt như lưới tơ báu , các đại chúng trong hội đều được nghe thấy (Âm thanh , Ánh sáng) cái điều chưa từng có và đắc pháp Kim Cang Tam Muội cả .

Liền trong khi ấy , Trời rưới bông sen bá bảo xanh vàng trắng đỏ xen lộn mười phương hư không , thanh sắc bảy thứ báu , các tướng núi sông , đất liền nơi cõi Ta Bà nầy đều ẩn mất , chỉ thấy vi trần quốc độ trong mười phương hiệp lại thành một cõi và nghe Phạm Âm phúng tụng , ca vịnh tự nhiên vang rền .

Lúc đó đức Phật mới bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi , trong hai mươi lăm pháp tu hành của hai mươi lăm vị Bồ tát đó , pháp nào hợp với căn của A Nan , và sau khi đức Phật tịch diệt rồi , chúng sanh cõi nầy muốn vào bực Bồ tát , cầu đạo Vô Thượng thì nên dùng pháp môn nào cho dễ thành tựu . Bồ tát Văn Thù thưa rằng Ngài chọn pháp "Nhĩ căn viên thông".

Ngài nói tất cả các vị Phật nhiều như bụi vi trần của quá khứ , hiện tại và vị lai đều nhờ pháp môn Nhĩ căn viên thông mà đạt được Đạo . Các bậc Bồ tát , các người tu học trong đời hiện tại và vị lai cũng đều phải nương vào pháp môn nầy để đến Niết bàn . Phật Thế Tôn đã đem pháp môn nầy cứu đời mạt kiếp . Chính Ngài cũng chứng quả từ pháp môn nầy chứ không phải chỉ có Phật Quán Thế Âm . Ngài nguyện để lại pháp nầy cho người sau cứ nương theo đó mà hành , đừng nghi hoặc , vì đó là phương tiện dễ thành tựu nhất . Nên Ngài cũng đem dạy cho A Nan và những kẻ trầm luân thời Mạt kiếp làm căn bản tu hành để viên thông siêu thoát .

Chúng ta thấy tai của các vị Phật và Bồ tát được người ta tạc hoặc phát họa rất lớn . Tai lớn để ám chỉ việc nghe âm thanh bên trong , chứ không phải khi các Ngài thành Phật rồi tai của các Ngài dài lớn thêm ra .

Trong kinh Lăng Nghiêm , đức Phật nói : "Hình hài tan rã nhưng tánh Nghe chẳng mê , còn hoài . Nếu bỏ được tâm sanh diệt , chẳng chạy theo các trần cảnh sở đối , chỉ giữ nguyên tánh chơn thường mà xoay các căn soi trở vào trong , thì tánh thể thường quan thị hiện sáng tỏ (ánh sáng), căn , trần và thức tâm đều tiêu lạc". "Tánh Nghe" là khả năng "Nghe" của linh hồn hay Phật tính ; bởi vì linh hồn có hai tính năng : nghe Âm thanh (Surat , hearing faculty) và thấy ánh sáng (Nirat ,seeing faculty).

Đức Thế Tôn nói rằng nên hiểu rõ cái Chân tánh của mình xưa nay là Phật , trong tâm có Phật . Trong chúng ta ai cũng có Phật tánh , cho nên chúng ta không cần phải cầu xin , lễ bái bên ngoài mà hãy quay vào bên trong để tìm lại Phật tánh của mình qua sự giúp đỡ của vị Minh sư tại thế .

Trong kinh A Di Đà , Minh sư Thích Ca nói với ngài Xá Lợi Phất : "Cõi nước của đức Phậtt A Di Đà thường trỗi những Âm nhạc cõi trời ... Có những làn gió hiu hiu thổi rung các hàng cây báu , cùng những mạng lưới báu , phát ra những tiếng vi diệu , ví như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng thời trỗi lên". Đoạn kinh nầy đã tiết lộ những Diệu Âm của thế giới tâm linh bên trong : tiếng chim hót , tiếng gió thổi , tiếng vi diệu của nhiều thứ âm nhạc cõi trời đồng thời trỗi lên . Kinh Thánh cũng có nói đến tiếng của nhiều nhạc khí trỗi lên cùng một lúc .

Trong Đại Thừa Kim Cang kinh , Bồ tát Văn Thù Sư Lợi xin đức Phật cho biết vì sao gọi là kinh Kim Cang . Đức Thế Tôn nói : "Kim Cang là Tánh (Phật tánh) của mình , còn kinh là tâm (bổn tâm) của mình , nếu người nào rõ tâm của mình , thấy Tánh mình , người nầy tự trong người có kinh , nên sáu căn thường hiện ra sáng suốt , chói lòa (ánh sáng) trời đất , đầy đủ công đức như cát sông Hằng". Khi một người kiến tánh Phật của mình , câu thông được với ánh sáng bên trong sẽ thấy hào quang hiện ra chói lòa .


Email : luukynam@yahoo.com