Dan Lee
06-29-2008, 06:19 PM
Phép Thánh Thể và hoạt động truyền giáo
Thánh Thể là trái tim và linh hồn của hoạt động truyền giáo. Quả vậy, chính trong những năm im lặng và cô đơn, bị cắt đứt khỏi các nhiệm vụ mục tử, nhưng vẫn mật thiết kết hợp với Phép Thánh Thể ấy, Phanxicô đã hiểu bằng chính toàn bộ con người của mình rằng chính Chúa, chứ không phải công việc của Chúa, mới là tâm điểm đời ta. Cái hiểu ấy đã mở tung cánh cửa để Chúa Thánh Thần biến đổi các năm tháng cực kỳ hạn chế kia thành các thời kỳ phúc âm hóa sinh động nhất và mang nhiều hoa trái nhất trong cuộc đời ngài. Trong cuốn sách Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá của mình, Phanxicô thuật lại quãng đời đặc biệt được ngài coi là quãng đời có nhiều phát triển thiêng liêng chính yếu. “Nhiều lúc tôi bị cám dỗ, bị dằn vặt bởi sự kiện mình mới chỉ 48 tuổi, đang tuổi phơi phới trong đời. Tôi lại thủ đắc được nhiều kinh nghiệm mục vụ, thế mà mình lại ở đây,bị cô lập, không hoạt động, xa cách giáo dân của mình. Nhưng một đêm kia, tôi nghe một giọng nói khích lệ tôi từ tận đáy trái tim: ‘Tại sao con lại dằn vặt con như thế? Con phải biết phân biệt Chúa với công việc của Chúa. Con phải chọn một mình Chúa mà thôi, chứ không phải các công việc của Người”. Khi cộng sản thẩy ngài lên chiếc tầu chở hàng cũ kỹ đi Hải Phòng, cách 1,700 cây số về phía bắc, ngài bỗng nhiên thấy mình giữa 1,500 tù nhấn khác đ2ây tuyệt vọng và đói khát. Ngài cảm nhận được sự tức giận, nỗi thất vọng và ý muốn trả thù của họ, và ngài bắt đầu chia sẻ buồn đau kiếp người với họ; nhưng với tiếng nói từ bên trong lập tức thúc giục ngài phải chọn Thiên Chúa, chứ không phải các công việc của Người, ngài mau chóng nhận ra rằng, trong tình đồng đội tù tội này, ngài đã được trao cho một ngôi chính tòa đầy các giáo hữu để chăm sóc. Ngài quyết định trở thành một khẳng định sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chiếc tầu hàng chở nỗi thống khổ nhân bản này. Ngài nâng đỡ các bạn tù trong suốt hải trình dài 10 ngày này và ráng đưa lại cho họ niềm an ủi thoải mái. Ngài thầm lặng cử hành Thánh Lễ vào ngày lễ Kính Thánh Phanxicô Xaviê [Zenit viết là Assisi], thánh quan thầy của ngài, đấng cũng đã du hành lên phía bắc trên cùng một hải trình như thênếày trong Biển Nam Hải. Đến lúc tầu chở tù nhân cập bến Hải Phòng, Thuận mới hiểu ra mình đã theo chân Chúa Giêsu trở lại gốc rễ của việc rao giảng phúc âm. Như thể đã được cùng Người đi chết ‘extra muros” tức ở ngoại thành, ngoài thành thánh (Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá).
Văn Thuận mô tả việc ngài thi hành thừa tác vụ của mình ở Trại Tù Vĩnh Quang như sau: “Ban đêm, các tù nhân thay phiên nhau thờ lạy. Với sự hiện diện trong im lặng của mình, Chúa Giêsu Thánh Thể giúp chúng tôi nhiều cách không thể tưởng tượng được. Nhiều Kitô hữu đã quay về với cuộc sống đức tin sốt sắng, và việc họ âm thầm bày tỏ phục vụ và yêu thương còn gây tác động lớn lao hơn nữa nơi các tù nhân khác. Ngay các anh em Phật giáo và các anh em không phải là Kitô hữu cũng tham gia đức tin nữa. Sức mạnh do sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Giêsu không thể cưỡng lại được. Đêm đen của nhà tù đã trở thành ánh sáng phục sinh, và hạt giống đã nẩy mầm trên mảnh đất giông bão. Nhà tù được biến đổi thành trường dạy giáo lý. Người Công Giáo đã rửa tội nay rửa tội cho các bạn đồng tù và trở thành cha đỡ đầu cho các bạn đồng cảnh ngộ. Văn Thuận không bao giờ ngưng ca tụng sự quan phòng của Chúa khi để gần 300 đến 400 linh mục bị giam trong nhiều nhà tù khác nhau trên khắp Việt Nam trong suốt thời kỳ 1975 đến cuối thập niện 1990: sự hiện diện của các ngài ở đấy đã mở ra cả một thời kỳ đối thoại tôn giáo thực sự có ý nghĩa và cổ vũ nhiều tình bằng hữu sâu sắc giữa hàng trăm ngàn tù nhân thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau. Một dịp kia, một nhóm tù nhân chạy đến xin ngài giúp đỡ: một tù nhân vì quá thất vọng đang cố ý thắt cổ bằng dây điện. Văn Thuận qùy bên người đàn ông ấy vừa cầu nguyện vừa lựa lời an ủi khích lệ nạn nhân. Các tù nhân khác, xúc động trước việc bầy tỏ niềm tin mạnh mẽ của ngài, cũng đã cùng ngài cầu nguyện, và cuối cùng người đàn ông kia đã xìu lòng, bật khóc nức nở, và phó thác cho Chúa. Nhiều năm sau này, Thuận và người tù có lần toan tự tử kia đã tái ngộ tại California, và cùng nhau, họ đã hâm nóng lại ký ức về những ngày hồng phúc ấy khi sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm cho việc chữa lành thành chuyện có thể.
Trong 9 năm biệt giam, ngài cử hành Thánh Lễ mỗi ngày vào khoảng 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối và chết trên thánh giá. Vì có một mình, nên ngài có thể hát Lễ bằng thích bằng tiếng Latinh, Pháp hay Việt ngữ. Ngài luôn mang trong áo sơ- mi chiếc hộp nhỏ đựng Phép Bí Tích Cực Thánh. Ngài luôn lặp đi lặp lại: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa ở trong con và con ở trong Chúa” mà thờ lạy Chúa Cha. Qua các trước tác, Văn Thuận nhắc nhở ta nhớ rằng cử hành Thánh Thể đúng theo các nghi thức phụng vụ chưa đủ. Ngài nhấn mạnh với hết thẩy chúng ta rằng Chúa Kitô dâng lễ hy sinh của Người với lòng sốt sắng vô biên, như trong giờ chịu nhục hình và đóng đinh, khi Người vâng lời Đức Chúa Cha; và điều này nữa, vâng lời đến độ chịu chết nhục nhã trên thánh giá để đem về cho Chúa Cha một nhân loại đã được cứu chuộc và một sáng thế đã được rửa sạch.
Trong nhà tù với Chúa Giêsu Thánh Thể ở giữa họ, các tù nhân Kitô hữu lẫn không Kitô hữu từ từ lãnh nhận được ơn thánh (đủ) để hiểu rằng mỗi giây phút hiện tại trong cuộc sống của họ dưới các điều kiện vô nhân nhất này có thể được kết hiệp với lễ hy sinh tối cao của Chúa Giêsu và được dâng làm hành vi thờ lạy cách long trọng lên Thiên Chúa Cha. Mỗi ngày, Thuận đều nhắn nhủ mình và khiuyến khích người khác cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin cho chúng con dâng lễ hy sinh Thánh Thể bằng tình yêu, biết chấp nhận vác thánh giá, và chịu đóng đinh vào thánh giá ấy để tuyên xưng vinh quang Chúa, phục vụ anh chị em chúng con”.
Năm tháng trước cuộc giải phẫu lớn lần cuối cùng, ngài bay về Sydney, Úc Châu, để cử hành sinh nhật lần thứ 100 của mạ chúng con. Cùng với mạ và các thành viên khác của gia đình, mỗi ngày ngài đều cử hành Thánh Lễ tại phòng sinh hoạt nhìn ra hải cảng tươi đẹp. Mọi người hiện diện trong các buổi sáng ấy đều xúc động sâu xa trước sự cung kính, thư thái, và hoàn toàn hoà điệu của các buổi thờ lạy sau khi rước lễ. Mọi âu lo, mọi đớn đau sung sướng, mọi bất trắc đều được dâng lên cho Chúa như lời Xin Vâng hoàn toàn đối với Thánh Ý Người.
Tại Bệnh Viện Casa di Curia nơi ngài qua đời, chúng ta hiểu rõ ràng hơn điều ngài muốn nói khi ngài viết trong Chứng Nhân Hy Vọng: “Tôi mơ thấy Tòa Thánh, với mọi cơ quan của nó, như Mình Thánh vĩ đại, một tấm bánh dâng trong lễ hy sinh thiêng liêng giữa lòng Giáo Hội, và mọi người chúng ta như những hạt lúa mì, chấp nhận chịu xay nát bởi nhu cầu hiệp thông ngõ hầu tạo nên một thân thể, hoàn toàn hiệp nhất và hoàn toàn triển nở làm dấu chỉ hy vọng cho nhân loại”. Như vậy, chúng ta hiểu rằng như ngài đã sống các năm tù đầy của ngài thế nào, thì ngài cũng sống các bệnh tật và chấp nhận cái chết của mình như thế ấy, làm một phần trong sự Hiệp Nhất Thánh Thể.
Con muốn kết thúc các suy niệm của con bằng các ý tưởng dịu dàng sau đây đã được ngài ghi xuống nhân ngày Lễ Mân Côi, mồng 7 tháng Mười, năm 1976, tại nhà tù Phú Khánh, lúc bị biệt giam: “con hạnh phúc ở đây, tại xà lim này, nơi những chiếc nấm trắng mọc trên chiếu ngủ của con, vì có Chúa ở đây với con, vì Chúa muốn con sống ở đây với Chúa. Con đã nói nhiều trong đời con rồi: bây giờ con không nói nữa. Đến lượt Chúa nói với con rồi đấy, lạy Chúa Giêsu; con đang lắng nghe Chúa”. Mỗi lần con đọc những dòng ấy, con không thể không tưởng tượng ra anh con, đang ngồi trong xà lim tối tăm, mặt quay vào khoảng trống toàn diện, nhưng dịu dàng mỉm cười như anh vẫn làm như thế, ngay cả trong những ngày cuối đời, tay nắm chặt và đầy yêu thương chiếc túi áo sơ-mi nơi Chúa Thiên Đàng đang cư ngụ.
Ước chi người cựu tù nhân từng cảm nghiệm được sự hài hòa của Thiên Đàng, tình yêu và sự sống viên mãn nhất trong cảnh khổ sầu của xà lim nhà tù này tiếp tục hướng dẫn chúng ta để chúng ta trở thành như các môn đệ trên đường Emmaus từng kêu lên: “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con và nuôi dưỡng chúng con bằng Thân Xác Người”. Từ tận đáy lòng con, con xin cám ơn qúy vị và các bạn đã cho phép con được đi trên hành trình Đức Tin này với qúy vị và các bạn.
Vũ Văn An
Thánh Thể là trái tim và linh hồn của hoạt động truyền giáo. Quả vậy, chính trong những năm im lặng và cô đơn, bị cắt đứt khỏi các nhiệm vụ mục tử, nhưng vẫn mật thiết kết hợp với Phép Thánh Thể ấy, Phanxicô đã hiểu bằng chính toàn bộ con người của mình rằng chính Chúa, chứ không phải công việc của Chúa, mới là tâm điểm đời ta. Cái hiểu ấy đã mở tung cánh cửa để Chúa Thánh Thần biến đổi các năm tháng cực kỳ hạn chế kia thành các thời kỳ phúc âm hóa sinh động nhất và mang nhiều hoa trái nhất trong cuộc đời ngài. Trong cuốn sách Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá của mình, Phanxicô thuật lại quãng đời đặc biệt được ngài coi là quãng đời có nhiều phát triển thiêng liêng chính yếu. “Nhiều lúc tôi bị cám dỗ, bị dằn vặt bởi sự kiện mình mới chỉ 48 tuổi, đang tuổi phơi phới trong đời. Tôi lại thủ đắc được nhiều kinh nghiệm mục vụ, thế mà mình lại ở đây,bị cô lập, không hoạt động, xa cách giáo dân của mình. Nhưng một đêm kia, tôi nghe một giọng nói khích lệ tôi từ tận đáy trái tim: ‘Tại sao con lại dằn vặt con như thế? Con phải biết phân biệt Chúa với công việc của Chúa. Con phải chọn một mình Chúa mà thôi, chứ không phải các công việc của Người”. Khi cộng sản thẩy ngài lên chiếc tầu chở hàng cũ kỹ đi Hải Phòng, cách 1,700 cây số về phía bắc, ngài bỗng nhiên thấy mình giữa 1,500 tù nhấn khác đ2ây tuyệt vọng và đói khát. Ngài cảm nhận được sự tức giận, nỗi thất vọng và ý muốn trả thù của họ, và ngài bắt đầu chia sẻ buồn đau kiếp người với họ; nhưng với tiếng nói từ bên trong lập tức thúc giục ngài phải chọn Thiên Chúa, chứ không phải các công việc của Người, ngài mau chóng nhận ra rằng, trong tình đồng đội tù tội này, ngài đã được trao cho một ngôi chính tòa đầy các giáo hữu để chăm sóc. Ngài quyết định trở thành một khẳng định sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chiếc tầu hàng chở nỗi thống khổ nhân bản này. Ngài nâng đỡ các bạn tù trong suốt hải trình dài 10 ngày này và ráng đưa lại cho họ niềm an ủi thoải mái. Ngài thầm lặng cử hành Thánh Lễ vào ngày lễ Kính Thánh Phanxicô Xaviê [Zenit viết là Assisi], thánh quan thầy của ngài, đấng cũng đã du hành lên phía bắc trên cùng một hải trình như thênếày trong Biển Nam Hải. Đến lúc tầu chở tù nhân cập bến Hải Phòng, Thuận mới hiểu ra mình đã theo chân Chúa Giêsu trở lại gốc rễ của việc rao giảng phúc âm. Như thể đã được cùng Người đi chết ‘extra muros” tức ở ngoại thành, ngoài thành thánh (Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá).
Văn Thuận mô tả việc ngài thi hành thừa tác vụ của mình ở Trại Tù Vĩnh Quang như sau: “Ban đêm, các tù nhân thay phiên nhau thờ lạy. Với sự hiện diện trong im lặng của mình, Chúa Giêsu Thánh Thể giúp chúng tôi nhiều cách không thể tưởng tượng được. Nhiều Kitô hữu đã quay về với cuộc sống đức tin sốt sắng, và việc họ âm thầm bày tỏ phục vụ và yêu thương còn gây tác động lớn lao hơn nữa nơi các tù nhân khác. Ngay các anh em Phật giáo và các anh em không phải là Kitô hữu cũng tham gia đức tin nữa. Sức mạnh do sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Giêsu không thể cưỡng lại được. Đêm đen của nhà tù đã trở thành ánh sáng phục sinh, và hạt giống đã nẩy mầm trên mảnh đất giông bão. Nhà tù được biến đổi thành trường dạy giáo lý. Người Công Giáo đã rửa tội nay rửa tội cho các bạn đồng tù và trở thành cha đỡ đầu cho các bạn đồng cảnh ngộ. Văn Thuận không bao giờ ngưng ca tụng sự quan phòng của Chúa khi để gần 300 đến 400 linh mục bị giam trong nhiều nhà tù khác nhau trên khắp Việt Nam trong suốt thời kỳ 1975 đến cuối thập niện 1990: sự hiện diện của các ngài ở đấy đã mở ra cả một thời kỳ đối thoại tôn giáo thực sự có ý nghĩa và cổ vũ nhiều tình bằng hữu sâu sắc giữa hàng trăm ngàn tù nhân thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau. Một dịp kia, một nhóm tù nhân chạy đến xin ngài giúp đỡ: một tù nhân vì quá thất vọng đang cố ý thắt cổ bằng dây điện. Văn Thuận qùy bên người đàn ông ấy vừa cầu nguyện vừa lựa lời an ủi khích lệ nạn nhân. Các tù nhân khác, xúc động trước việc bầy tỏ niềm tin mạnh mẽ của ngài, cũng đã cùng ngài cầu nguyện, và cuối cùng người đàn ông kia đã xìu lòng, bật khóc nức nở, và phó thác cho Chúa. Nhiều năm sau này, Thuận và người tù có lần toan tự tử kia đã tái ngộ tại California, và cùng nhau, họ đã hâm nóng lại ký ức về những ngày hồng phúc ấy khi sự hiện diện của Chúa Giêsu Thánh Thể đã làm cho việc chữa lành thành chuyện có thể.
Trong 9 năm biệt giam, ngài cử hành Thánh Lễ mỗi ngày vào khoảng 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối và chết trên thánh giá. Vì có một mình, nên ngài có thể hát Lễ bằng thích bằng tiếng Latinh, Pháp hay Việt ngữ. Ngài luôn mang trong áo sơ- mi chiếc hộp nhỏ đựng Phép Bí Tích Cực Thánh. Ngài luôn lặp đi lặp lại: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa ở trong con và con ở trong Chúa” mà thờ lạy Chúa Cha. Qua các trước tác, Văn Thuận nhắc nhở ta nhớ rằng cử hành Thánh Thể đúng theo các nghi thức phụng vụ chưa đủ. Ngài nhấn mạnh với hết thẩy chúng ta rằng Chúa Kitô dâng lễ hy sinh của Người với lòng sốt sắng vô biên, như trong giờ chịu nhục hình và đóng đinh, khi Người vâng lời Đức Chúa Cha; và điều này nữa, vâng lời đến độ chịu chết nhục nhã trên thánh giá để đem về cho Chúa Cha một nhân loại đã được cứu chuộc và một sáng thế đã được rửa sạch.
Trong nhà tù với Chúa Giêsu Thánh Thể ở giữa họ, các tù nhân Kitô hữu lẫn không Kitô hữu từ từ lãnh nhận được ơn thánh (đủ) để hiểu rằng mỗi giây phút hiện tại trong cuộc sống của họ dưới các điều kiện vô nhân nhất này có thể được kết hiệp với lễ hy sinh tối cao của Chúa Giêsu và được dâng làm hành vi thờ lạy cách long trọng lên Thiên Chúa Cha. Mỗi ngày, Thuận đều nhắn nhủ mình và khiuyến khích người khác cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin cho chúng con dâng lễ hy sinh Thánh Thể bằng tình yêu, biết chấp nhận vác thánh giá, và chịu đóng đinh vào thánh giá ấy để tuyên xưng vinh quang Chúa, phục vụ anh chị em chúng con”.
Năm tháng trước cuộc giải phẫu lớn lần cuối cùng, ngài bay về Sydney, Úc Châu, để cử hành sinh nhật lần thứ 100 của mạ chúng con. Cùng với mạ và các thành viên khác của gia đình, mỗi ngày ngài đều cử hành Thánh Lễ tại phòng sinh hoạt nhìn ra hải cảng tươi đẹp. Mọi người hiện diện trong các buổi sáng ấy đều xúc động sâu xa trước sự cung kính, thư thái, và hoàn toàn hoà điệu của các buổi thờ lạy sau khi rước lễ. Mọi âu lo, mọi đớn đau sung sướng, mọi bất trắc đều được dâng lên cho Chúa như lời Xin Vâng hoàn toàn đối với Thánh Ý Người.
Tại Bệnh Viện Casa di Curia nơi ngài qua đời, chúng ta hiểu rõ ràng hơn điều ngài muốn nói khi ngài viết trong Chứng Nhân Hy Vọng: “Tôi mơ thấy Tòa Thánh, với mọi cơ quan của nó, như Mình Thánh vĩ đại, một tấm bánh dâng trong lễ hy sinh thiêng liêng giữa lòng Giáo Hội, và mọi người chúng ta như những hạt lúa mì, chấp nhận chịu xay nát bởi nhu cầu hiệp thông ngõ hầu tạo nên một thân thể, hoàn toàn hiệp nhất và hoàn toàn triển nở làm dấu chỉ hy vọng cho nhân loại”. Như vậy, chúng ta hiểu rằng như ngài đã sống các năm tù đầy của ngài thế nào, thì ngài cũng sống các bệnh tật và chấp nhận cái chết của mình như thế ấy, làm một phần trong sự Hiệp Nhất Thánh Thể.
Con muốn kết thúc các suy niệm của con bằng các ý tưởng dịu dàng sau đây đã được ngài ghi xuống nhân ngày Lễ Mân Côi, mồng 7 tháng Mười, năm 1976, tại nhà tù Phú Khánh, lúc bị biệt giam: “con hạnh phúc ở đây, tại xà lim này, nơi những chiếc nấm trắng mọc trên chiếu ngủ của con, vì có Chúa ở đây với con, vì Chúa muốn con sống ở đây với Chúa. Con đã nói nhiều trong đời con rồi: bây giờ con không nói nữa. Đến lượt Chúa nói với con rồi đấy, lạy Chúa Giêsu; con đang lắng nghe Chúa”. Mỗi lần con đọc những dòng ấy, con không thể không tưởng tượng ra anh con, đang ngồi trong xà lim tối tăm, mặt quay vào khoảng trống toàn diện, nhưng dịu dàng mỉm cười như anh vẫn làm như thế, ngay cả trong những ngày cuối đời, tay nắm chặt và đầy yêu thương chiếc túi áo sơ-mi nơi Chúa Thiên Đàng đang cư ngụ.
Ước chi người cựu tù nhân từng cảm nghiệm được sự hài hòa của Thiên Đàng, tình yêu và sự sống viên mãn nhất trong cảnh khổ sầu của xà lim nhà tù này tiếp tục hướng dẫn chúng ta để chúng ta trở thành như các môn đệ trên đường Emmaus từng kêu lên: “Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con và nuôi dưỡng chúng con bằng Thân Xác Người”. Từ tận đáy lòng con, con xin cám ơn qúy vị và các bạn đã cho phép con được đi trên hành trình Đức Tin này với qúy vị và các bạn.
Vũ Văn An