Dan Lee
09-11-2008, 08:57 AM
Thánh Vịnh: Tiếng Nói Của Con Người Bất Toàn
Thấy được chỗ đứng của Thánh vịnh trong dòng lịch sử cũng như đời sống của dân Israel, đồng thời khám phá ra con người và thái độ của Đức Yêsu Kitô đối với Thánh vịnh, chắc hẳn chúng ta không những yêu quý Thánh vịnh mà còn muốn thật sự biến Thánh vịnh trở nên như “tập hồi ký” của bản thân,của hội thánh mình.
Thế nhưng, trong việc sử dụng Thánh vịnh, hình như chúng ta đôi khi vẫn cảm thấy Thánh vịnh là tập sách xa lạ, khô khan, khó hiểu, thậm chí còn chứa đựng những tư tửơng thần học xem ra như nghịch với sứ điệp tin mừng. Dầu có thiện chí muốn tìm hiểu và có khát vọng muốn biến Thánh vịnh thành lời ca ngợi, lời kêu cứu, lời giáo huấn của chính mình, nhưng hình như còn có một cái gì ngăn cách giữa ta với tư tưởng, ngôn từ, tâm tình Thánh vịnh.
Vậy làm thế nào để “những ai tham dự vào kinh thần vụ, phải hoà hợp tâm hồn mình với lời kinh mình đọc” như lời dạy của công đồng Vatican II trong hiến chế về phụng vụ thánh (PV 90) ?
Để góp phần vào công vịêc này,chúng ta hãy có cái nhìn của dân Chúa, dựa trên cơ sở giao ước. Từ đó, khi đọc, hát Thánh vịnh, ta “đọc lại” “tập hồi ký” của Dân Chúa, nhờ đó ta sẽ khám phá ra Thánh vịnh là tiếng nói của con người bất toàn, đồng thời là tiếng nói của con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.Thánh vịnh, tiếng nói của con người bất toàn.
Những thế hệ đã ca ngợi, đã cầu nguyện bằng Thánh vịnh, dĩ nhiên là những con ngừơi chưa hoàn hảo. Đó là những con người đang còn khắc khoải tìm kiếm, đang vươn lên … Không những thế, họ còn là những con người đầy dẫy mâu thuẫn trong tâm hồn, luôn tìm kiếm bản thân mình, luôn phải dằng co với cuộc sống, luôn phải đấu tranh cam go để sống còn, để giữ vững niềm tin, để tìm ra lẽ sống.
Thế giới của Thánh vịnh là một thế giới chưa gặp được bình an một cách trọn vẹn, chưa hoàn toàn được giao hoà.
Thế giới của Thánh vịnh như muốn chứng minh rằng công lý đích thực chưa hoàn toàn ngự trị trên mặt đất này, giữa những con người mà ta vẫn tin tưởng, vẫn gọi là anh em.
Thế giới của Thánh vịnh là thế giới trong đó dung mạo Thiên Chúa như ẩn như hiện, và hình như Thiên Chúa thường giấu mặt và im lặng hơi nhiều.
Thế giới của Thánh vịnh phơi bày một thực tại phũ phàng : xã hội còn đầy dẫy những con người tìm cách lợi dụng kẻ khác, những con người châm biếm, phản bội nhau, những con người còn đùa giỡn trên đau khổ, trên niềm hy vọng hay niềm tin của kẻ khác …
Vì thế, Thánh vịnh là tiếng nói của những tâm hồn tôn giáo chưa gạt bỏ hết được mọi mâu thuẫn, bạo lực chứ chưa nói đến tìonh trạng chan hoà tâm tình ca ngợi tinh trong.
Vậy mà, đã có biết bao người, trong số đó có chúng ta là những đồ đệ của sứ điệp tin mừng tân ước, đôi khi cũng đã phải thốt lên :
- Làm sao tôi có thể ca ngợi, cầu nguyện cách trung thực, khi lòng tôi, môi tôi còn phải khẩn khoản cầu xin với một danh Thiên Chúa xa lạ : “Thiên Chúa các đạo binh”, “Thiên Chúa một trang dũng sĩ” ?
- Làm sao tôi có thể khẩn xin Thiên Chúa của Đức Yêsu là Thiên Chúa của tình yêu, phải “trả thù”, “báo óan” cho tôi ?
- Làm sao, trong một xã hội khoa học tân tiến, tôi lại còn phải gọi Thiên Chúa là “Chúa chiên tôi” ?
Qua Thánh vịnh, con người khám phá ra chính mình
Có thể nào, qua kinh nghiệm bản thân, chúng ta gặp được Thiên Chúa, nếu chúng ta chưa bao giờ tìm kiếm Người ?
Có thể nào chúng ta bắt gặp được sự bình an, nếu chúng ta không phải dày gian nan tranh đấu ? có thể nào chúng ta đạt tới hạnh phúc vì được yêu thương, nếu chúng ta không bao giờ phải đau khổ ? có thể nào chúng ta hiểu được sự gần gũi, thân mật, nếu chúng ta chưa bao giờ kinh nghiệm những đau xót vì phải chia ly ? Trên môi miệng, không ai trong chúng ta chấp nhận bạo lực, chấp nhận cảnh con người bóc lột, đàn áp… nhưng thực tại của thời đại hôm nay như thế nào ? xã hội hôm nay đã hoàn toàn hết bạo lực, chèn ép, bóc lột nhau chưa ?
Vì thế, lời nguyện trung thực mà con người dâng lên Thiên Chúa là lời nào, nếu không phải là tiếng nói tâm tình hồn nhiên, chân thật nhất, phản ánh trung thực nhất hiện trạng của xã hội hôm nay ? Đối với Chúa, chúng ta có cần gọt dũa lời nguyện thành một bài diễn văn chải chuốt, hay là chỉ cần nói với Chúa bằng ngôn ngữ cụ thể, chứa đựng những phản ứng của con người bất toàn, với giận dữ, khắc khoải, đau khổ hoặc sung sướng ? trong tâm hồn chúng ta đã chắc không còn một phần đất nhỏ nào dành cho những tâm tình xấu xa là giận giữ, thù hận, oán ghét không ?
Vì vậy, tâm tình của vịnh gia đâu có quá xa lạ với tâm tình trung thực của chúng ta và của xã hội hôm nay ?Qua Thánh vịnh, con người dần dần hiểu được tương quan Giao Ước với Thiên Chúa
Đọc Thánh vịnh, chúng ta biết Thiên Chúa đã nhiều lần ký kết giao ứơc với loài người, đặc biệt là giao ứơc cũ và giao ứơc mới với dân Người.
Chúng ta hãy tự hỏi : để hiểu và sống giao ứơc với Thiên Chúa, Môsê và đoàn dân Do Thái trong cuộc hành trình sa mạc đã có những thái độ nào ? Davit, người tôi trung, người con ngoan của Thiên Chúa, đã hành động ra sao ? các ngôn sứ, chẳng hạn như Yêremia, khi tìm cách đáp lại tiếng Yavê, đã cảm thấy tâm hồn tan nát đến chừng nào ? Từ lời nói ngoan ngoãn : “vâng, con xin theo Ngài” đến tiếng than đầy bất mãn “tại sao ngài lại quyến rũ tôi?” Yeremia đã hiểu Chúa nhiều hơn trong giai đoạn nào ?
Rồi ngay các tông đồ, là những người đã chia sẻ cuộc sống và sứ vụ với Đức Yesu, các ngài đã sống thế nào ? Từ tâm tình nhiệt thành của Phêrô : “lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, vì Thấy mới có lời ban sự sống” đến lời phản bội “không, tôi không biết người ấy bao giờ” - thử hỏi lúc nào Pherô đã thực sự hiểu Thầy mình ?
Bởi thế, từ tâm tình hiền dịu theo Chúa đến thái độ phản kháng khi thấy Người im lặng và có vẻ bất lực, con người chúng ta hình như được dẫn dắt từng bứơc đi vào giao ứơc với Thiên Chúa, để khám phá ra những yêu sách của giao ứơc, những bất trung thừơng xuyên của mình đối diện với lòng nhân nghĩa bao la của Người.Qua Thánh vịnh, con người còn được đi sâu vào tâm tình của một dân được tuyển chọn
Thánh vịnh giúp chúng ta đi sâu vào tâm tình của một dân được Thiên Chúa tuyển chọn riêng. Dân đó đã thành hình trong tư thế là một “dân cưng”, sở hữu riêng của Thiên Chúa (Xh 19,5), từ ngày được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, được Người giáo dục, dẫn dắt từng bứơc như một người mẹ tập cho đứa con thơ chập chững bứơc đi … cho đến ngày vào Đất Hứa, sống niềm tin của mình qua những bứơc thăng trầm vinh nhục, vấp ngã rồi chỗi dậy … (Cf. “Lời trối trong lò lửa” - Tes-tament dans la fournaise).
Qua bao biến cố, Dân ấy dầu lắm bao phen bất trung, vẫn không bao giờ quên được Yavê Thiên Chúa của họ. Họ biết tâm sự với Chúa lúc tràn trề niềm vui hay khi được hạnh phúc. Họ cũng biết giãi bày tâm sự với Chúa lúc tức giận, căm hờn hay trong cơn tuyệt vọng. Họ còn biết xích lại gần Đấng mà họ yêu mến, dầu hình như Người cứ lánh xa, ruồng rẫy họ ! còn gì sâu sắc và trung thực hơn tiếng nói của con người đau khổ sau đây :
“Tôi nhẩm lại những ngày xưa kiaTôi hoài tưởng lại những năm quá vãngLòng với lòng tôi ôn lại thâu đêmTôi ngẫm nghĩ, trí óc tôi cố tìm ra manh mốiPhải chăng Chúa bỏ cho đến muôn muôn đờiVà không còn thương đoái nữa” (Tv 77,6-8).
Qua Thánh vịnh, con người bắt gặp tiếng kêu của người nghèo : “Anawim”
Thánh vịnh còn đưa chúng ta đến gặp gỡ những ngừơi anh chị em nghèo của ta. Tâm tình và lời nói của họ, dẫu là tâm tình và lời nói của cá nhân, cũng đều được nuôi dưỡng múc nguồn từ lịch sử của toàn dân họ. Bởi thế, chỉ có thể sử dụng Thánh vịnh để ca ngợi, cầu nguyện, nếu chúng ta cũng thuộc hạng người nghèo, hạng ngừơi không giữ riêng gì cho bản thân, nhưng có tâm hồn rộng mở ra với Thiên Chúa và mọi người. Chỉ những ai chọn con đừơng đó mới có thể cầu nguyện bằng Thánh vịnh, vì Thánh vịnh chính là lời ca của hạng người nghèo “Anawim”.
Do đó, nếu chúng ta sống ích kỷ, sống sa hoa, sống đóng kín, ta không thể chia sẻ được tâm tình hàm chứa trong các Thánh vịnh. Và khi ấy, nếu chúng ta sử dụng Thánh vịnh, thì Thánh vịnh cũng chỉ dừng lại trên môi miệng, chứ không thâm nhập vào tâm hồn ta được.
Thánh vịnh, tiếng nói của con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.
Môi sinh phát xuất ra Thánh vịnh là dân Chúa, một Dân tin và nhận biết Chúa là lẽ sống của mình.
Khung cảnh tiêu biểu của Dân Chúa là Yerusalem : Yerusalem của Cựu Ứơc cũng như của Tân ước.
Chúng ta cùng đưa mắt, lắng tai, hướng lòng về Yerusalem, chúng ta sẽ thấy được chân lý này : Thánh vịnh quả là tiếng nói của một con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.
Tại Yerusalem, trên ngoạn đồi Sion hôm nay, chúng ta đang thấy gì ? - bên cạnh những con người đang gục mặt vào vách từơng ngày đêm đọc, hát Thánh vịnh bằng ngôn ngữ Hipri, chúng ta còn nghe tiếng hát Thánh vịnh xen lẫn tiếng chuông của biết bao kitô hữu thuộc các hệ phái khác nhau (khoảng 31 hệ phái có mặt tại Yerusalem), thuộc các nghi lễ khác nhau (La tinh, chính thống, thệ phản, Copte..). tất cả những con người ấy đều xứơng lên những bài thơ, bài hát đã được dịch ra trên 2000 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Họ là ai ?
- Là những thầy Rabbi, là những giám mục, linh mục, những mục sư, những tu sĩ, những khách hành hương, những tín hữu từ mọi phương trời quy tụ về Yerusalem. Họ khác nhau về hệ phái, về tôn giáo, khác nhau về màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, tuổi tác, địa vị, lập trường chính trị… nhưng họ đều gặp nhau tại một điểm cốt yếu : tất cả đều ca ngợi Thiên Chúa, cầu nguyện cùng Thiên Chúa bằng một bản văn duy nhất. Bản văn đó có địa vị và sức mạnh nào để có thể trở nên yếu tố hợp nhất, trở nên chất keo liên kết mọi thành phần Dân Chúa thụôc mọi thời đại ?
Vì, trong bản văn đó, con người của mọi thời đại cùng đối diện với những khó khăn, thử thách như nhau;
Vì, cũng trong bản văn đó, con người của mọi thời đại cùng múc được một nguồn hy vọng cứu độ như nhau;
Và hôm nay, khi dùng bản văn đó để ca ngợi, cầu nguyện cùng Thiên Chúa, mọi tín hữu đều làm công việc đó nhân danh toàn thể nhân loại.
Vì thế, chúng ta có thể nói một cách thâm tín rằng :
THÁNH VỊNH quả thực là LỜI NGUYỆN CỦA DÂN CHÚA LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI LỊCH SỬ CON NGƯỜI.
+GM Giuse Võ Đức Minh
Thấy được chỗ đứng của Thánh vịnh trong dòng lịch sử cũng như đời sống của dân Israel, đồng thời khám phá ra con người và thái độ của Đức Yêsu Kitô đối với Thánh vịnh, chắc hẳn chúng ta không những yêu quý Thánh vịnh mà còn muốn thật sự biến Thánh vịnh trở nên như “tập hồi ký” của bản thân,của hội thánh mình.
Thế nhưng, trong việc sử dụng Thánh vịnh, hình như chúng ta đôi khi vẫn cảm thấy Thánh vịnh là tập sách xa lạ, khô khan, khó hiểu, thậm chí còn chứa đựng những tư tửơng thần học xem ra như nghịch với sứ điệp tin mừng. Dầu có thiện chí muốn tìm hiểu và có khát vọng muốn biến Thánh vịnh thành lời ca ngợi, lời kêu cứu, lời giáo huấn của chính mình, nhưng hình như còn có một cái gì ngăn cách giữa ta với tư tưởng, ngôn từ, tâm tình Thánh vịnh.
Vậy làm thế nào để “những ai tham dự vào kinh thần vụ, phải hoà hợp tâm hồn mình với lời kinh mình đọc” như lời dạy của công đồng Vatican II trong hiến chế về phụng vụ thánh (PV 90) ?
Để góp phần vào công vịêc này,chúng ta hãy có cái nhìn của dân Chúa, dựa trên cơ sở giao ước. Từ đó, khi đọc, hát Thánh vịnh, ta “đọc lại” “tập hồi ký” của Dân Chúa, nhờ đó ta sẽ khám phá ra Thánh vịnh là tiếng nói của con người bất toàn, đồng thời là tiếng nói của con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.Thánh vịnh, tiếng nói của con người bất toàn.
Những thế hệ đã ca ngợi, đã cầu nguyện bằng Thánh vịnh, dĩ nhiên là những con ngừơi chưa hoàn hảo. Đó là những con người đang còn khắc khoải tìm kiếm, đang vươn lên … Không những thế, họ còn là những con người đầy dẫy mâu thuẫn trong tâm hồn, luôn tìm kiếm bản thân mình, luôn phải dằng co với cuộc sống, luôn phải đấu tranh cam go để sống còn, để giữ vững niềm tin, để tìm ra lẽ sống.
Thế giới của Thánh vịnh là một thế giới chưa gặp được bình an một cách trọn vẹn, chưa hoàn toàn được giao hoà.
Thế giới của Thánh vịnh như muốn chứng minh rằng công lý đích thực chưa hoàn toàn ngự trị trên mặt đất này, giữa những con người mà ta vẫn tin tưởng, vẫn gọi là anh em.
Thế giới của Thánh vịnh là thế giới trong đó dung mạo Thiên Chúa như ẩn như hiện, và hình như Thiên Chúa thường giấu mặt và im lặng hơi nhiều.
Thế giới của Thánh vịnh phơi bày một thực tại phũ phàng : xã hội còn đầy dẫy những con người tìm cách lợi dụng kẻ khác, những con người châm biếm, phản bội nhau, những con người còn đùa giỡn trên đau khổ, trên niềm hy vọng hay niềm tin của kẻ khác …
Vì thế, Thánh vịnh là tiếng nói của những tâm hồn tôn giáo chưa gạt bỏ hết được mọi mâu thuẫn, bạo lực chứ chưa nói đến tìonh trạng chan hoà tâm tình ca ngợi tinh trong.
Vậy mà, đã có biết bao người, trong số đó có chúng ta là những đồ đệ của sứ điệp tin mừng tân ước, đôi khi cũng đã phải thốt lên :
- Làm sao tôi có thể ca ngợi, cầu nguyện cách trung thực, khi lòng tôi, môi tôi còn phải khẩn khoản cầu xin với một danh Thiên Chúa xa lạ : “Thiên Chúa các đạo binh”, “Thiên Chúa một trang dũng sĩ” ?
- Làm sao tôi có thể khẩn xin Thiên Chúa của Đức Yêsu là Thiên Chúa của tình yêu, phải “trả thù”, “báo óan” cho tôi ?
- Làm sao, trong một xã hội khoa học tân tiến, tôi lại còn phải gọi Thiên Chúa là “Chúa chiên tôi” ?
Qua Thánh vịnh, con người khám phá ra chính mình
Có thể nào, qua kinh nghiệm bản thân, chúng ta gặp được Thiên Chúa, nếu chúng ta chưa bao giờ tìm kiếm Người ?
Có thể nào chúng ta bắt gặp được sự bình an, nếu chúng ta không phải dày gian nan tranh đấu ? có thể nào chúng ta đạt tới hạnh phúc vì được yêu thương, nếu chúng ta không bao giờ phải đau khổ ? có thể nào chúng ta hiểu được sự gần gũi, thân mật, nếu chúng ta chưa bao giờ kinh nghiệm những đau xót vì phải chia ly ? Trên môi miệng, không ai trong chúng ta chấp nhận bạo lực, chấp nhận cảnh con người bóc lột, đàn áp… nhưng thực tại của thời đại hôm nay như thế nào ? xã hội hôm nay đã hoàn toàn hết bạo lực, chèn ép, bóc lột nhau chưa ?
Vì thế, lời nguyện trung thực mà con người dâng lên Thiên Chúa là lời nào, nếu không phải là tiếng nói tâm tình hồn nhiên, chân thật nhất, phản ánh trung thực nhất hiện trạng của xã hội hôm nay ? Đối với Chúa, chúng ta có cần gọt dũa lời nguyện thành một bài diễn văn chải chuốt, hay là chỉ cần nói với Chúa bằng ngôn ngữ cụ thể, chứa đựng những phản ứng của con người bất toàn, với giận dữ, khắc khoải, đau khổ hoặc sung sướng ? trong tâm hồn chúng ta đã chắc không còn một phần đất nhỏ nào dành cho những tâm tình xấu xa là giận giữ, thù hận, oán ghét không ?
Vì vậy, tâm tình của vịnh gia đâu có quá xa lạ với tâm tình trung thực của chúng ta và của xã hội hôm nay ?Qua Thánh vịnh, con người dần dần hiểu được tương quan Giao Ước với Thiên Chúa
Đọc Thánh vịnh, chúng ta biết Thiên Chúa đã nhiều lần ký kết giao ứơc với loài người, đặc biệt là giao ứơc cũ và giao ứơc mới với dân Người.
Chúng ta hãy tự hỏi : để hiểu và sống giao ứơc với Thiên Chúa, Môsê và đoàn dân Do Thái trong cuộc hành trình sa mạc đã có những thái độ nào ? Davit, người tôi trung, người con ngoan của Thiên Chúa, đã hành động ra sao ? các ngôn sứ, chẳng hạn như Yêremia, khi tìm cách đáp lại tiếng Yavê, đã cảm thấy tâm hồn tan nát đến chừng nào ? Từ lời nói ngoan ngoãn : “vâng, con xin theo Ngài” đến tiếng than đầy bất mãn “tại sao ngài lại quyến rũ tôi?” Yeremia đã hiểu Chúa nhiều hơn trong giai đoạn nào ?
Rồi ngay các tông đồ, là những người đã chia sẻ cuộc sống và sứ vụ với Đức Yesu, các ngài đã sống thế nào ? Từ tâm tình nhiệt thành của Phêrô : “lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, vì Thấy mới có lời ban sự sống” đến lời phản bội “không, tôi không biết người ấy bao giờ” - thử hỏi lúc nào Pherô đã thực sự hiểu Thầy mình ?
Bởi thế, từ tâm tình hiền dịu theo Chúa đến thái độ phản kháng khi thấy Người im lặng và có vẻ bất lực, con người chúng ta hình như được dẫn dắt từng bứơc đi vào giao ứơc với Thiên Chúa, để khám phá ra những yêu sách của giao ứơc, những bất trung thừơng xuyên của mình đối diện với lòng nhân nghĩa bao la của Người.Qua Thánh vịnh, con người còn được đi sâu vào tâm tình của một dân được tuyển chọn
Thánh vịnh giúp chúng ta đi sâu vào tâm tình của một dân được Thiên Chúa tuyển chọn riêng. Dân đó đã thành hình trong tư thế là một “dân cưng”, sở hữu riêng của Thiên Chúa (Xh 19,5), từ ngày được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, được Người giáo dục, dẫn dắt từng bứơc như một người mẹ tập cho đứa con thơ chập chững bứơc đi … cho đến ngày vào Đất Hứa, sống niềm tin của mình qua những bứơc thăng trầm vinh nhục, vấp ngã rồi chỗi dậy … (Cf. “Lời trối trong lò lửa” - Tes-tament dans la fournaise).
Qua bao biến cố, Dân ấy dầu lắm bao phen bất trung, vẫn không bao giờ quên được Yavê Thiên Chúa của họ. Họ biết tâm sự với Chúa lúc tràn trề niềm vui hay khi được hạnh phúc. Họ cũng biết giãi bày tâm sự với Chúa lúc tức giận, căm hờn hay trong cơn tuyệt vọng. Họ còn biết xích lại gần Đấng mà họ yêu mến, dầu hình như Người cứ lánh xa, ruồng rẫy họ ! còn gì sâu sắc và trung thực hơn tiếng nói của con người đau khổ sau đây :
“Tôi nhẩm lại những ngày xưa kiaTôi hoài tưởng lại những năm quá vãngLòng với lòng tôi ôn lại thâu đêmTôi ngẫm nghĩ, trí óc tôi cố tìm ra manh mốiPhải chăng Chúa bỏ cho đến muôn muôn đờiVà không còn thương đoái nữa” (Tv 77,6-8).
Qua Thánh vịnh, con người bắt gặp tiếng kêu của người nghèo : “Anawim”
Thánh vịnh còn đưa chúng ta đến gặp gỡ những ngừơi anh chị em nghèo của ta. Tâm tình và lời nói của họ, dẫu là tâm tình và lời nói của cá nhân, cũng đều được nuôi dưỡng múc nguồn từ lịch sử của toàn dân họ. Bởi thế, chỉ có thể sử dụng Thánh vịnh để ca ngợi, cầu nguyện, nếu chúng ta cũng thuộc hạng người nghèo, hạng ngừơi không giữ riêng gì cho bản thân, nhưng có tâm hồn rộng mở ra với Thiên Chúa và mọi người. Chỉ những ai chọn con đừơng đó mới có thể cầu nguyện bằng Thánh vịnh, vì Thánh vịnh chính là lời ca của hạng người nghèo “Anawim”.
Do đó, nếu chúng ta sống ích kỷ, sống sa hoa, sống đóng kín, ta không thể chia sẻ được tâm tình hàm chứa trong các Thánh vịnh. Và khi ấy, nếu chúng ta sử dụng Thánh vịnh, thì Thánh vịnh cũng chỉ dừng lại trên môi miệng, chứ không thâm nhập vào tâm hồn ta được.
Thánh vịnh, tiếng nói của con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.
Môi sinh phát xuất ra Thánh vịnh là dân Chúa, một Dân tin và nhận biết Chúa là lẽ sống của mình.
Khung cảnh tiêu biểu của Dân Chúa là Yerusalem : Yerusalem của Cựu Ứơc cũng như của Tân ước.
Chúng ta cùng đưa mắt, lắng tai, hướng lòng về Yerusalem, chúng ta sẽ thấy được chân lý này : Thánh vịnh quả là tiếng nói của một con người liên kết với dân Chúa thụôc mọi thời đại.
Tại Yerusalem, trên ngoạn đồi Sion hôm nay, chúng ta đang thấy gì ? - bên cạnh những con người đang gục mặt vào vách từơng ngày đêm đọc, hát Thánh vịnh bằng ngôn ngữ Hipri, chúng ta còn nghe tiếng hát Thánh vịnh xen lẫn tiếng chuông của biết bao kitô hữu thuộc các hệ phái khác nhau (khoảng 31 hệ phái có mặt tại Yerusalem), thuộc các nghi lễ khác nhau (La tinh, chính thống, thệ phản, Copte..). tất cả những con người ấy đều xứơng lên những bài thơ, bài hát đã được dịch ra trên 2000 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.
Họ là ai ?
- Là những thầy Rabbi, là những giám mục, linh mục, những mục sư, những tu sĩ, những khách hành hương, những tín hữu từ mọi phương trời quy tụ về Yerusalem. Họ khác nhau về hệ phái, về tôn giáo, khác nhau về màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, tuổi tác, địa vị, lập trường chính trị… nhưng họ đều gặp nhau tại một điểm cốt yếu : tất cả đều ca ngợi Thiên Chúa, cầu nguyện cùng Thiên Chúa bằng một bản văn duy nhất. Bản văn đó có địa vị và sức mạnh nào để có thể trở nên yếu tố hợp nhất, trở nên chất keo liên kết mọi thành phần Dân Chúa thụôc mọi thời đại ?
Vì, trong bản văn đó, con người của mọi thời đại cùng đối diện với những khó khăn, thử thách như nhau;
Vì, cũng trong bản văn đó, con người của mọi thời đại cùng múc được một nguồn hy vọng cứu độ như nhau;
Và hôm nay, khi dùng bản văn đó để ca ngợi, cầu nguyện cùng Thiên Chúa, mọi tín hữu đều làm công việc đó nhân danh toàn thể nhân loại.
Vì thế, chúng ta có thể nói một cách thâm tín rằng :
THÁNH VỊNH quả thực là LỜI NGUYỆN CỦA DÂN CHÚA LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI LỊCH SỬ CON NGƯỜI.
+GM Giuse Võ Đức Minh