Dan Lee
10-13-2008, 12:03 PM
Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm A
Ðọc Tin Mừng Mt 22,15-21
15 Bấy giờ những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Ðức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. 16 Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê, đến nói với Ðức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?" 18 Nhưng Ðức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19 Ðưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!" Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. 20 Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" 21 Họ đáp: "Của Xêda". Bấy giờ, Người bảo họ: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay nói tới "những người phe Hêrôđê" (c.16). Họ là ai? Tại sao các môn đệ người Pharisêu cùng đi với họ để tìm cách làm cho Ðức Giêsu lỡ lời mà mắc bẫy? Vậy bẫy đó là bẫy nào?
Ðụng chạm tới ngai vàng
Rõ ràng bài Tin Mừng hôm nay liên quan tới vấn đề nộp thuế, tức cũng liên quan tới chính trị. Ðức Giêsu được đặt trước vấn đề nộp thuế không phải cho tiểu vương Hêrôđê nhưng cho ông vua kể như lớn nhất trên thế giới thời đó, là hoàng đế Rôma.
Ðây không phải là lần đầu tiên trong đời, Ðức Giêsu đụng chạm tới vấn đề chính trị. Luca cho ta biết thời ấy hoàng đế Augustô (tức Augustus Caesar cai trị đế quốc Rôma từ năm 27 trước Công Nguyên tới năm 14 sau Công Nguyên) ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ (Lc 2,1). Theo lệnh đó, ông Giuse và bà Maria, đã từ Nadarét miền Galilê, về nguyên quán Bêlem khai tên tuổi. Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Maria sinh con trai đầu lòng, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ (Lc 2,7).
Khi hai ông bà còn ở Bêlem thì một biến cố khác xảy ra đụng chạm tới ngai vàng của Hêrôđê Cả, người gốc xứ Iđumêa, cai trị xứ Hêrôđê (37-4 trước CN) mà lãnh thổ bao gồm cả Bêlem. Số là khi có mấy nhà chiêm tinh từ phương đông tới Giêrusalem và hỏi cho biết "Ðức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Ðông, nên chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2,2). Tin ấy khiến nhà vua bối rối và cả thành Giêrusalem xôn xao (Mt 2,3). Nhà vua đã khéo léo dặn các nhà chiêm tinh rằng "Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người? (Mt 2,8). Và người ta biết nhà vua đã phản ứng dữ tợn như thế nào, khi nghe biết các nhà chiêm tinh đã lặng lẽ đi lối khác mà về xứ sở mình: ông liền sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống (Mt 2,16).
Thực ra, cuộc tàn sát vừa kể chưa thấm vào đâu với những cuộc thanh toán nội bộ bao gồm cả những cuộc sát hại vợ con của chính nhà vua, vì bằng mọi giá, vua muốn bảo vệ ngai vàng của mình.
Năm 47 trước CN, Hêrôđê khi ấy mới 25 tuổi đã dành được chức vị toàn quyền xứ Galilê. Ðến năm 37 trước CN, ông được hoàng đế Rôma phong vương. Thập niên sau đó được ghi dấu bằng những cuộc đổ máu để củng cố ngai vàng, kể cả cuộc đổ máu người vợ yêu dấu nhất của ông là Mariamma I, cùng với hai con trai mà người vợ này đã sinh ra cho ông. Ðó là thời kỳ Hêrôđê sát hại tất cả những người họ hàng nam giới, để cho ngai vàng của ông được an toàn.
Chỉ sau những cuộc thanh trừng đẫm máu ấy, Hêrôđê mới bắt đầu những dự án xây dựng lớn lao, mà lớn nhất là cuộc xây dựng Ðền Thờ Giêrusalem. Công trình này được vua Hêrôđê Cả khởi công năm 19 trước CN, công trình ấy kéo dài mãi tới năm 64 mới hoàn tất. Ðó chính là công trình mà các môn đệ tắc lưỡi ngợi khen khi nói: "thưa Thầy, Thầy xem: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật!" (Mt 13,1). Nhưng chỉ 6 năm sau khi hoàn tất, tức năm 70, Ðền Thờ vĩ đại ấy đã bị quân Rôma dưới quyền chỉ huy của tướng Titô, phá tan tành "không còn tảng đá nào trên tảng đá nào" như Ðức Giêsu đã tiên báo (Mt 24,2).
Số phận riêng của Hêrôđê Cả cũng chẳng hơn gì Ðền Thờ được ông xây dựng. Chỉ năm ngày trước khi qua đời, nhà vua đã ra lệnh hành quyết người con trai chính ông đã chỉ định lên ngôi kế vị ông. Thế rồi trước ngày tận số, Hêrôđê đã ra lệnh cho các nhân vật nổi nang nhất từ khắp nơi trong nước tụ họp lại tại Giêrusalem. Những người này đều được giam vào ngục tối với chỉ thị đã có sẵn của nhà vua, là phải giết họ liền ngay sau khi nhà vua qua đời. Ðó là cách duy nhất, theo suy nghĩ của Hêrôđê, để bảo đảm có đại tang trên toàn quốc!
Nhóm Hêrôđê và Nhóm Pharisêu
Tất cả những điều ghê gớm đó đã xảy ra lâu rồi trước khi Ðức Giêsu xuất hiện công khai rao giảng Tin Mừng. Nhưng người kế vị Hêrôđê Cả là Antipát cai trị xứ Galilê và xứ Pêrêa (năm 4 trước Công Nguyên - năm 39 sau Công Nguyên), chẳng phải là người thân thiện với Ðức Giêsu. Tin Mừng Máccô sớm cho biết nhóm Pharisêu bàn tính với phe Hêrôđê để tìm cách giết Ðức Giêsu sau vụ Người chữa lành một người bại tay nơi hội đường (Mc 3,1-6). Còn Tin Mừng Luca cho thấy có mấy người Pharisêu bắn tiếng cho biết chính Hêrôđê Antipát đang muốn giết Người (x.Lc 13,31). Thử hỏi những người Pharisêu đã bàn bạc với nhóm Hêrôđê như thế nào để gài bẫy Ðức Giêsu trong lời nói (Mt 22,15)?
1. Một vấn đề gây băn khoăn Ðế quốc Rôma bắt đầu đô hộ đất Paléttin từ năm 63 trước Công Nguyên. Dân chúng được phân làm ba loại: những người có quyền công dân Rôma, những người tự do không có quyền công dân Rôma và các nô lệ. Ðức Giêsu thuộc loại thứ hai, một thứ thường dân. Thường dân thì phải nộp thuế thân, là thuế áp dụng cho mọi người như nhau, chỉ trừ người già và trẻ em là được miễn.
Người Do Thái vẫn băn khoăn về thuế này. Các người thuộc phe Hêrôđê hay Xađốc chấp nhận nộp thuế cho hoàng đế Rôma (Xêda). Ðó là cách bảo vệ chỗ đứng của họ dựa vào chính quyền Rôma. Người Pharisêu, ngược lại, chỉ chấp nhận nộp thuế cách miễn cưỡng. Họ coi đó như một hình phạt do Thiên Chúa; cần phải tu thân tích đức để được Thiên Chúa tha thứ. Cuối cùng là những người không chấp nhận chính quyền ngoại đạo trên Ítraen, và chủ trương dùng vũ lực để đánh đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi. Trong Nhóm Mười Hai, có ông Simon thuộc nhóm Quá Khích theo chủ trương này (x. Mt 10,4).
Ðức Giêsu được đặt trước một câu hỏi gây nguy hiểm cho Người: "Có nên nộp thuế cho Xêda chăng?" Nếu Người trả lời rằng "Nên", Người sẽ mất tín nhiệm với dân chúng vì dân chúng không ưa gì chính quyền ngoại đạo Rôma và tin vào quyền tối thượng của Thiên Chúa trên Ítraen, dân riêng của Người. Còn nếu Người trả lời rằng "Không nên", Người sẽ trở thành kẻ khích động dân chúng nổi loạn chống đế quốc Rôma. Ðó sẽ là tội không nhỏ về chính trị mà phe Hêrôđê sẽ không bỏ qua.
2. Cách Ðức Giêsu giải quyết vấn đề Trước hết, Ðức Giêsu tố giác sự giả hình của đối phương (Mt 22,18). Kế đến, Người yêu cầu họ cho Người xem đồng tiền để nộp thuế cho Xêda. Ðó là một đồng tiền bằng bạc, nặng 3,8 gam. Ðồng tiền này đã được lưu hành trong thế giới Rôma từ năm 268 trước Công Nguyên, mãi đến năm 200 sau Công Nguyên vẫn còn được sử dụng. Trên mặt đồng tiền này có hình thân của hoàng đế Tibêriô trị vì từ năm 31 trước Công Nguyên đến năm 14 sau Công Nguyên. Ðức Giêsu cầm đồng tiền trong tay và hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" Khi được trả lời là "của Xêda," Ðức Giêsu liền tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa." (c.21).
Như vậy, Ðức Giêsu đã vượt ra khỏi cái bẫy là có nên nộp thuế cho Xêda hay không bằng cách vạch cho thấy một cách cụ thể là: đồng tiền này có ghi hình và tên hoàng đế Tibêriô nên hãy trả về ông ta. Ðồng thời Ðức Giêsu nêu một nguyên tắc quan trọng và bao quát hơn nhiều, khi Người nói "của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." (c.21).
3. Vấn đề chính yếu là thuộc về ai? Phải nhìn nhận rằng câu nói bất hủ trên đây của Ðức Giêsu không phải là dễ hiển. Mọi sự ở đời này chỉ được ban cho con người sử dụng một thời gian mà thôi; cho nên sau khi hoàng đế Tibêriô tắt thở, ta muốn trả về cho ông ta đồng tiền có mang hình và tên ông ta cũng chẳng được. Vậy chỉ còn cách trả về cho Thiên Chúa những gì Ngài đã dựng nên theo ý Ngài, như một tác giả dày công suy nghĩ và cầu nguyện, đã viết vào năm 1548: "Con người được dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình; và các sự vật khác trên mặt đất được dựng nên cho con người, và để giúp họ trong việc theo đuổi cứu cánh mà vì nó họ được dựng nên. Do đó, con người phải dùng chúng chỉ ở trong mức độ chúng giúp họ đạt tới cứu cánh của họ, và gỡ mình khỏi chúng trong mức độ chúng cản trở họ đạt tới cứu cánh đó" (I-Nhã Loyola, Những bài Linh Thao, số 23).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Biến cố nào trong đời Ðức Giêsu đã đụng chạm tới ngai vàng của một ông vua? Ông vua ấy sau này xây lại Ðền Thờ Giêrusalem vĩ đại như thế nào nhưng được Ðức Giêsu tiên báo sẽ bị phá tan tành như thế nào?
2. Vấn đề nộp thuế cho Xêda gây băn khoăn như thế nào và được Ðức Giêsu giải quyết ra sao?
Linh Mục Augustine, SJ.
Ðọc Tin Mừng Mt 22,15-21
15 Bấy giờ những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Ðức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. 16 Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê, đến nói với Ðức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?" 18 Nhưng Ðức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19 Ðưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!" Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. 20 Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" 21 Họ đáp: "Của Xêda". Bấy giờ, Người bảo họ: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay nói tới "những người phe Hêrôđê" (c.16). Họ là ai? Tại sao các môn đệ người Pharisêu cùng đi với họ để tìm cách làm cho Ðức Giêsu lỡ lời mà mắc bẫy? Vậy bẫy đó là bẫy nào?
Ðụng chạm tới ngai vàng
Rõ ràng bài Tin Mừng hôm nay liên quan tới vấn đề nộp thuế, tức cũng liên quan tới chính trị. Ðức Giêsu được đặt trước vấn đề nộp thuế không phải cho tiểu vương Hêrôđê nhưng cho ông vua kể như lớn nhất trên thế giới thời đó, là hoàng đế Rôma.
Ðây không phải là lần đầu tiên trong đời, Ðức Giêsu đụng chạm tới vấn đề chính trị. Luca cho ta biết thời ấy hoàng đế Augustô (tức Augustus Caesar cai trị đế quốc Rôma từ năm 27 trước Công Nguyên tới năm 14 sau Công Nguyên) ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ (Lc 2,1). Theo lệnh đó, ông Giuse và bà Maria, đã từ Nadarét miền Galilê, về nguyên quán Bêlem khai tên tuổi. Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Maria sinh con trai đầu lòng, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ (Lc 2,7).
Khi hai ông bà còn ở Bêlem thì một biến cố khác xảy ra đụng chạm tới ngai vàng của Hêrôđê Cả, người gốc xứ Iđumêa, cai trị xứ Hêrôđê (37-4 trước CN) mà lãnh thổ bao gồm cả Bêlem. Số là khi có mấy nhà chiêm tinh từ phương đông tới Giêrusalem và hỏi cho biết "Ðức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Ðông, nên chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2,2). Tin ấy khiến nhà vua bối rối và cả thành Giêrusalem xôn xao (Mt 2,3). Nhà vua đã khéo léo dặn các nhà chiêm tinh rằng "Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người? (Mt 2,8). Và người ta biết nhà vua đã phản ứng dữ tợn như thế nào, khi nghe biết các nhà chiêm tinh đã lặng lẽ đi lối khác mà về xứ sở mình: ông liền sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống (Mt 2,16).
Thực ra, cuộc tàn sát vừa kể chưa thấm vào đâu với những cuộc thanh toán nội bộ bao gồm cả những cuộc sát hại vợ con của chính nhà vua, vì bằng mọi giá, vua muốn bảo vệ ngai vàng của mình.
Năm 47 trước CN, Hêrôđê khi ấy mới 25 tuổi đã dành được chức vị toàn quyền xứ Galilê. Ðến năm 37 trước CN, ông được hoàng đế Rôma phong vương. Thập niên sau đó được ghi dấu bằng những cuộc đổ máu để củng cố ngai vàng, kể cả cuộc đổ máu người vợ yêu dấu nhất của ông là Mariamma I, cùng với hai con trai mà người vợ này đã sinh ra cho ông. Ðó là thời kỳ Hêrôđê sát hại tất cả những người họ hàng nam giới, để cho ngai vàng của ông được an toàn.
Chỉ sau những cuộc thanh trừng đẫm máu ấy, Hêrôđê mới bắt đầu những dự án xây dựng lớn lao, mà lớn nhất là cuộc xây dựng Ðền Thờ Giêrusalem. Công trình này được vua Hêrôđê Cả khởi công năm 19 trước CN, công trình ấy kéo dài mãi tới năm 64 mới hoàn tất. Ðó chính là công trình mà các môn đệ tắc lưỡi ngợi khen khi nói: "thưa Thầy, Thầy xem: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật!" (Mt 13,1). Nhưng chỉ 6 năm sau khi hoàn tất, tức năm 70, Ðền Thờ vĩ đại ấy đã bị quân Rôma dưới quyền chỉ huy của tướng Titô, phá tan tành "không còn tảng đá nào trên tảng đá nào" như Ðức Giêsu đã tiên báo (Mt 24,2).
Số phận riêng của Hêrôđê Cả cũng chẳng hơn gì Ðền Thờ được ông xây dựng. Chỉ năm ngày trước khi qua đời, nhà vua đã ra lệnh hành quyết người con trai chính ông đã chỉ định lên ngôi kế vị ông. Thế rồi trước ngày tận số, Hêrôđê đã ra lệnh cho các nhân vật nổi nang nhất từ khắp nơi trong nước tụ họp lại tại Giêrusalem. Những người này đều được giam vào ngục tối với chỉ thị đã có sẵn của nhà vua, là phải giết họ liền ngay sau khi nhà vua qua đời. Ðó là cách duy nhất, theo suy nghĩ của Hêrôđê, để bảo đảm có đại tang trên toàn quốc!
Nhóm Hêrôđê và Nhóm Pharisêu
Tất cả những điều ghê gớm đó đã xảy ra lâu rồi trước khi Ðức Giêsu xuất hiện công khai rao giảng Tin Mừng. Nhưng người kế vị Hêrôđê Cả là Antipát cai trị xứ Galilê và xứ Pêrêa (năm 4 trước Công Nguyên - năm 39 sau Công Nguyên), chẳng phải là người thân thiện với Ðức Giêsu. Tin Mừng Máccô sớm cho biết nhóm Pharisêu bàn tính với phe Hêrôđê để tìm cách giết Ðức Giêsu sau vụ Người chữa lành một người bại tay nơi hội đường (Mc 3,1-6). Còn Tin Mừng Luca cho thấy có mấy người Pharisêu bắn tiếng cho biết chính Hêrôđê Antipát đang muốn giết Người (x.Lc 13,31). Thử hỏi những người Pharisêu đã bàn bạc với nhóm Hêrôđê như thế nào để gài bẫy Ðức Giêsu trong lời nói (Mt 22,15)?
1. Một vấn đề gây băn khoăn Ðế quốc Rôma bắt đầu đô hộ đất Paléttin từ năm 63 trước Công Nguyên. Dân chúng được phân làm ba loại: những người có quyền công dân Rôma, những người tự do không có quyền công dân Rôma và các nô lệ. Ðức Giêsu thuộc loại thứ hai, một thứ thường dân. Thường dân thì phải nộp thuế thân, là thuế áp dụng cho mọi người như nhau, chỉ trừ người già và trẻ em là được miễn.
Người Do Thái vẫn băn khoăn về thuế này. Các người thuộc phe Hêrôđê hay Xađốc chấp nhận nộp thuế cho hoàng đế Rôma (Xêda). Ðó là cách bảo vệ chỗ đứng của họ dựa vào chính quyền Rôma. Người Pharisêu, ngược lại, chỉ chấp nhận nộp thuế cách miễn cưỡng. Họ coi đó như một hình phạt do Thiên Chúa; cần phải tu thân tích đức để được Thiên Chúa tha thứ. Cuối cùng là những người không chấp nhận chính quyền ngoại đạo trên Ítraen, và chủ trương dùng vũ lực để đánh đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi. Trong Nhóm Mười Hai, có ông Simon thuộc nhóm Quá Khích theo chủ trương này (x. Mt 10,4).
Ðức Giêsu được đặt trước một câu hỏi gây nguy hiểm cho Người: "Có nên nộp thuế cho Xêda chăng?" Nếu Người trả lời rằng "Nên", Người sẽ mất tín nhiệm với dân chúng vì dân chúng không ưa gì chính quyền ngoại đạo Rôma và tin vào quyền tối thượng của Thiên Chúa trên Ítraen, dân riêng của Người. Còn nếu Người trả lời rằng "Không nên", Người sẽ trở thành kẻ khích động dân chúng nổi loạn chống đế quốc Rôma. Ðó sẽ là tội không nhỏ về chính trị mà phe Hêrôđê sẽ không bỏ qua.
2. Cách Ðức Giêsu giải quyết vấn đề Trước hết, Ðức Giêsu tố giác sự giả hình của đối phương (Mt 22,18). Kế đến, Người yêu cầu họ cho Người xem đồng tiền để nộp thuế cho Xêda. Ðó là một đồng tiền bằng bạc, nặng 3,8 gam. Ðồng tiền này đã được lưu hành trong thế giới Rôma từ năm 268 trước Công Nguyên, mãi đến năm 200 sau Công Nguyên vẫn còn được sử dụng. Trên mặt đồng tiền này có hình thân của hoàng đế Tibêriô trị vì từ năm 31 trước Công Nguyên đến năm 14 sau Công Nguyên. Ðức Giêsu cầm đồng tiền trong tay và hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" Khi được trả lời là "của Xêda," Ðức Giêsu liền tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa." (c.21).
Như vậy, Ðức Giêsu đã vượt ra khỏi cái bẫy là có nên nộp thuế cho Xêda hay không bằng cách vạch cho thấy một cách cụ thể là: đồng tiền này có ghi hình và tên hoàng đế Tibêriô nên hãy trả về ông ta. Ðồng thời Ðức Giêsu nêu một nguyên tắc quan trọng và bao quát hơn nhiều, khi Người nói "của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." (c.21).
3. Vấn đề chính yếu là thuộc về ai? Phải nhìn nhận rằng câu nói bất hủ trên đây của Ðức Giêsu không phải là dễ hiển. Mọi sự ở đời này chỉ được ban cho con người sử dụng một thời gian mà thôi; cho nên sau khi hoàng đế Tibêriô tắt thở, ta muốn trả về cho ông ta đồng tiền có mang hình và tên ông ta cũng chẳng được. Vậy chỉ còn cách trả về cho Thiên Chúa những gì Ngài đã dựng nên theo ý Ngài, như một tác giả dày công suy nghĩ và cầu nguyện, đã viết vào năm 1548: "Con người được dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình; và các sự vật khác trên mặt đất được dựng nên cho con người, và để giúp họ trong việc theo đuổi cứu cánh mà vì nó họ được dựng nên. Do đó, con người phải dùng chúng chỉ ở trong mức độ chúng giúp họ đạt tới cứu cánh của họ, và gỡ mình khỏi chúng trong mức độ chúng cản trở họ đạt tới cứu cánh đó" (I-Nhã Loyola, Những bài Linh Thao, số 23).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Biến cố nào trong đời Ðức Giêsu đã đụng chạm tới ngai vàng của một ông vua? Ông vua ấy sau này xây lại Ðền Thờ Giêrusalem vĩ đại như thế nào nhưng được Ðức Giêsu tiên báo sẽ bị phá tan tành như thế nào?
2. Vấn đề nộp thuế cho Xêda gây băn khoăn như thế nào và được Ðức Giêsu giải quyết ra sao?
Linh Mục Augustine, SJ.