Dan Lee
12-11-2008, 01:00 PM
Chúa nhật 3 Mùa Vọng B
CÓ MỘT VỊ ĐANG Ở GIỮA CÁC ÔNG MÀ CÁC ÔNG KHÔNG BIẾT !
Is 61, 1-2a.10-11; 1 Thes 5, 16-24; Ga 1, 6-8.19-28
Con người, khi sinh ra, cần phải học nhiều điều để biết cách hành xử trong cuộc sống hằng ngày. Cần thiết nhất con người cần có không phải là bằng này bằng nọ, cấp này cấp kia nhưng điều quan trọng đó chính là nhân bản. Dù cho làm ông này bà nọ, dù học cao hiểu rộng và dù cho có bao nhiêu bằng tiến sĩ đi chăng nữa nhưng không có nhân bản thì vẫn bị người ta coi thường. Một trong những bài học căn bản, nhân bản của con người đó là lòng biết ơn, đó là lòng tri ân. Khi nhận ơn mà không biết ghi ơn, không biết tri ân phải nói là quá tệ. Trong dòng chảy của con người, với lòng biết ơn, ghi ơn và tri ân Thiên Chúa đó chúng ta nhớ lại thái độ, tâm tình của Đức Maria. Sau khi đón nhận niềm vui lớn trong cuộc đời đó là cưu mang Đấng Cứu Thế, Mẹ Maria đã biết ơn, đã tri ân Thiên Chúa và bằng cách cụ thể nhất là Mẹ đã lên đường đến nhà bà chị họ Elisabeth để mà chia sẻ ân huệ mà Thiên Chúa đã thương ban cho Mẹ và khi gặp bà chị họ, Mẹ Maria đã không ngần ngại vang lên lời tán tụng Thiên Chúa. Lời tán tụng ấy chúng ta quá quen thuộc: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời." (Lc 1, 46-55).
Trở lại với những trang Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta cũng gặp đâu đó lời tán dương Thiên Chúa, lời tri ân Thiên Chúa vì biết bao nhiêu ân huệ mà Chúa thương ban cho mình. Hôm nay, qua sách ngôn sứ Isaia chúng ta nghe lời tán dương, lời tri ân ấy: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao ! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”. (Is 61, 10-11)
Vì sao Isaia thốt lên lời ca ngợi như vậy ? Vì lẽ Isaia đã cảm nhận, đã nói với dân về quyền năng, về vinh quang của Đức Chúa – Thiên Chúa của dân chiếu sáng trên dân: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”. (Is 60, 1-3).
Đức Trinh Nữ Maria cũng như Isaia, Mẹ đã cảm nhận cũng như xác tín rằng quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa đã đến và ở lại trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ đã cao rao tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời của Mẹ thôi.
Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ khác họ, Mẹ nhìn, Mẹ đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian một cách khác họ. Những người Do Thái đương thời của Mẹ đón nhận, nhìn nhận Đấng Mêsia - Đấng Cứu Độ trần gian phải đến trong vinh quang hoành tráng, đến một cách uy lực và làm cho cuộc đời của họ vinh quang theo. Khi Đấng Mêsia đến sẽ giải thoát họ khỏi những khổ cực của vật chất, của tiền bạc theo kiểu trần gian. Vì họ quan niệm Đấng Mêsia đến cách thế như thế nên làm sao họ nhận ra được sự hiện diện của Đấng Cứu Độ đến được.
Như trang tin mừng ngắn ngủi mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan công bố đấy. Ông nói rõ rằng ông là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng, để minh chứng về ánh sáng đã đến trong trần gian này. Gioan đã làm chứng về ánh sáng, làm chứng về Đấng Mêsia. Và chúng ta thấy thái độ tranh cãi, nghi ngờ của những người thuộc nhóm Pharisêu. Chúng ta thấy thái độ chất vấn của những người Pharisêu và chúng ta thấy lộ bên dưới lời những chất vấn ấy là lòng cứng tin vào Đấng Cứu Độ trần gian. Không phải khi ấy người ta mới tranh cãi với Gioan nhưng mà ngay từ ngày Chúa Giêsu sinh ra nơi hang đá Belem họ đã ngờ vực, họ đã dò xét rồi.
Hôm nay, Gioan như là sứ giả của Thiên Chúa, dọn đường cho Chúa Giêsu đã công bố sự thật có Người sẽ đến sau ông và Người đến sau ông đấy ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài. Đáng tiếc thay từ ngày Chúa Giêsu cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày Chúa Giêsu công khai sứ vụ của mình vẫn bị người Do Thái không tin và tìm đủ mọi cách để mà sát hại, để mà tố cáo.
Chúng ta cũng thế thôi, nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng đi tìm Đấng Mêsia, tìm Đấng cứu độ trần gian của chúng ta là một Đấng đến trong vinh quang, đến trong quyền lực theo kiểu người đời vậy. Tệ hơn thế nữa đó chính là Thiên Chúa là Chúa, là Chủ của cuộc đời chúng ta vậy mà chúng ta nỡ lòng nào đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt của cuộc đời chúng ta đó là chúng ta không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta như thánh Gioan Tẩy Giả cảnh báo chúng ta: Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết !
Tưởng chừng câu đó là câu mà Gioan nhắc nhở những người Do Thái ngày xưa nhưng nào ngờ Gioan nhắc nhở chính mỗi người chúng ta đây. Chúa ở trong ta, Chúa yêu thương ta, Chúa quan phòng cuộc đời ta mà ta không hay biết đó thôi. Chúng ta không giống Đức Maria, Đức Maria đã nhìn thấy tình thương và sự quan phòng của Chúa trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ chẳng còn bận tâm chuyện gì khác là lắng nghe và thực thi những gì mà Chúa nói với Mẹ. Hình như giữa cuộc đời phát triển nhiều về tiền bạc, về vật chất để rồi chúng ta cứ loay hoay mãi trong tiền bạc, trong vật chất, trong danh vọng và trong dục vọng. Tất cả những thứ làm cho chúng ta không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.
Chúng ta nên nhớ Chúa đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là Chúa vẫn hiện diện nơi những con người nghèo khổ, tất bạt, bất hạnh, bỏ rơi … Chúa vẫn dùng những biến cố mà đôi khi dưới con mắt người đời là khắc nghiệt để tỏ tình yêu thương, sự quan phòng của Chúa. Chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh của một Abraham phải đau lòng để mà sát tế đứa con yêu quý nhất của mình cho Thiên Chúa. Chúng ta còn nhớ hình ảnh của một ông Giob quá đớn đau với những chứng bệnh của thể xác, quá khắc nghiệt của cuộc đời chìm xuống bùn đen của sự chết chóc của con cái cũng như đàn gia súc mà ông đang có. Thế đấy ! Thiên Chúa vẫn thử thách lòng tin của con người để xem con người còn tin Chúa hiện diện trên cuộc đời này hay không ? Và qua cơn thử thách ấy, chúng ta thấy được ân huệ mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của Abraham, của Giob như thế nào ? Lửa thử vàng, gian nan thử sức ! Đó là câu nói mà chúng ta vẫn thường nghe và vẫn thường nói với nhau. Ấy vậy mà đôi khi Chúa mới thử chúng ta một chút thôi thì chúng ta lại ngã lòng và chúng ta hình như không còn tin vào Chúa nữa, chúng ta lại đi tìm đến các thần ngoại bang như dân Do Thái ngày xưa vậy.
Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Thessalônia thật là hay. Ngài bảo giáo đoàn cũng như ngài bảo mỗi người chúng ta là: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. (1 Thes 5, 18.19). Phải nói đây là tâm tình tuyệt vời của Thánh Phaolô: Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Đúng như tâm tình của Đức Maria, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, dù vui dù buồn, dù sướng dù khổ Mẹ luôn luôn vui mừng, Mẹ luôn luôn tạ ơn Chúa và kết hiệp mật thiết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đây là tâm tình, đây là mẫu gương mà mỗi người chúng ta cần học và noi gương Mẹ vì thật ra chúng ta thấy đó. Nhìn lên với cuộc đời này thì chúng ta thấy chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta được Thiên Chúa ban cho quá nhiều ơn lành để rồi tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Ngài cũng không quên xin ơn Chúa để mà Chúa thánh hoá con người chúng ta “Nguyện xin chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. (1 Thes 5, 23.24.).
Ngài dặn dò mỗi người chúng ta là cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và rồi Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta nhờ ơn Chúa xin Chúa giữ gìn chúng ta được vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Chúa đến.
Như Đức Trinh Nữ Maria, như ngôn sứ Isaia cảm nhận được Thiên Chúa Đấng Cứu Độ thương mình thì mình sẽ chỉ biết ca tụng Chúa và tin tưởng Chúa mà thôi.
Hôm nay, như là cơ hội để chúng ta dừng lại, nhìn lại cuộc đời của mình. Nếu không được, chúng ta xin Mẹ ban thêm ơn, giúp sức cho chúng ta để chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã quá yêu thương ta. Từ sự khám phá đó ta sẽ ca tụng Chúa và ta sẽ sống sao cho đẹp lòng Chúa.
Như Đức Trinh Nữ Maria, khi có ơn Chúa thì Mẹ đi chia sẻ, chúng ta có ơn rồi chúng ta có biết chia sẻ như Mẹ hay không ?
Như ngôn sứ Isaia nói ở bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA” (Is 61, 1-2a). Chúng ta được Thần Khí của Đức Chúa ngự trên chúng ta, được Ngài tấn phong chúng ta cũng phải lên đường để loan báo tin mừng Tình yêu cho anh chị em đồng loại như Đức Trinh Nữ Maria đi chia sẻ niềm vui cho bà chị họ trong lúc sinh nở khó khăn.
Nguyện xin Chúa Giêsu đến và ở lại với mỗi người chúng ta và ban ơn cho chúng ta để chúng ta nhận ra tình yêu Chúa trên cuộc đời chúng ta như Mẹ nhận ra tình yêu của Chúa vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm ơn, ban thêm sức cho chúng ta để chúng ta công bố tin mừng Tình yêu của Chúa giữa cuộc đời đầy gian lao khốn khó này.
Anmai, CSsR
CÓ MỘT VỊ ĐANG Ở GIỮA CÁC ÔNG MÀ CÁC ÔNG KHÔNG BIẾT !
Is 61, 1-2a.10-11; 1 Thes 5, 16-24; Ga 1, 6-8.19-28
Con người, khi sinh ra, cần phải học nhiều điều để biết cách hành xử trong cuộc sống hằng ngày. Cần thiết nhất con người cần có không phải là bằng này bằng nọ, cấp này cấp kia nhưng điều quan trọng đó chính là nhân bản. Dù cho làm ông này bà nọ, dù học cao hiểu rộng và dù cho có bao nhiêu bằng tiến sĩ đi chăng nữa nhưng không có nhân bản thì vẫn bị người ta coi thường. Một trong những bài học căn bản, nhân bản của con người đó là lòng biết ơn, đó là lòng tri ân. Khi nhận ơn mà không biết ghi ơn, không biết tri ân phải nói là quá tệ. Trong dòng chảy của con người, với lòng biết ơn, ghi ơn và tri ân Thiên Chúa đó chúng ta nhớ lại thái độ, tâm tình của Đức Maria. Sau khi đón nhận niềm vui lớn trong cuộc đời đó là cưu mang Đấng Cứu Thế, Mẹ Maria đã biết ơn, đã tri ân Thiên Chúa và bằng cách cụ thể nhất là Mẹ đã lên đường đến nhà bà chị họ Elisabeth để mà chia sẻ ân huệ mà Thiên Chúa đã thương ban cho Mẹ và khi gặp bà chị họ, Mẹ Maria đã không ngần ngại vang lên lời tán tụng Thiên Chúa. Lời tán tụng ấy chúng ta quá quen thuộc: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời." (Lc 1, 46-55).
Trở lại với những trang Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta cũng gặp đâu đó lời tán dương Thiên Chúa, lời tri ân Thiên Chúa vì biết bao nhiêu ân huệ mà Chúa thương ban cho mình. Hôm nay, qua sách ngôn sứ Isaia chúng ta nghe lời tán dương, lời tri ân ấy: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ ĐỨC CHÚA, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao ! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”. (Is 61, 10-11)
Vì sao Isaia thốt lên lời ca ngợi như vậy ? Vì lẽ Isaia đã cảm nhận, đã nói với dân về quyền năng, về vinh quang của Đức Chúa – Thiên Chúa của dân chiếu sáng trên dân: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”. (Is 60, 1-3).
Đức Trinh Nữ Maria cũng như Isaia, Mẹ đã cảm nhận cũng như xác tín rằng quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa đã đến và ở lại trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ đã cao rao tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời của Mẹ thôi.
Mẹ không như những người Do Thái đương thời, Mẹ khác họ, Mẹ nhìn, Mẹ đón nhận Đấng Cứu Độ trần gian một cách khác họ. Những người Do Thái đương thời của Mẹ đón nhận, nhìn nhận Đấng Mêsia - Đấng Cứu Độ trần gian phải đến trong vinh quang hoành tráng, đến một cách uy lực và làm cho cuộc đời của họ vinh quang theo. Khi Đấng Mêsia đến sẽ giải thoát họ khỏi những khổ cực của vật chất, của tiền bạc theo kiểu trần gian. Vì họ quan niệm Đấng Mêsia đến cách thế như thế nên làm sao họ nhận ra được sự hiện diện của Đấng Cứu Độ đến được.
Như trang tin mừng ngắn ngủi mà chúng ta vừa nghe Thánh Gioan công bố đấy. Ông nói rõ rằng ông là người được Thiên Chúa sai đến để làm chứng, để minh chứng về ánh sáng đã đến trong trần gian này. Gioan đã làm chứng về ánh sáng, làm chứng về Đấng Mêsia. Và chúng ta thấy thái độ tranh cãi, nghi ngờ của những người thuộc nhóm Pharisêu. Chúng ta thấy thái độ chất vấn của những người Pharisêu và chúng ta thấy lộ bên dưới lời những chất vấn ấy là lòng cứng tin vào Đấng Cứu Độ trần gian. Không phải khi ấy người ta mới tranh cãi với Gioan nhưng mà ngay từ ngày Chúa Giêsu sinh ra nơi hang đá Belem họ đã ngờ vực, họ đã dò xét rồi.
Hôm nay, Gioan như là sứ giả của Thiên Chúa, dọn đường cho Chúa Giêsu đã công bố sự thật có Người sẽ đến sau ông và Người đến sau ông đấy ông không xứng đáng cởi quai dép cho Ngài. Đáng tiếc thay từ ngày Chúa Giêsu cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày Chúa Giêsu công khai sứ vụ của mình vẫn bị người Do Thái không tin và tìm đủ mọi cách để mà sát hại, để mà tố cáo.
Chúng ta cũng thế thôi, nhiều lần nhiều lúc chúng ta cũng đi tìm Đấng Mêsia, tìm Đấng cứu độ trần gian của chúng ta là một Đấng đến trong vinh quang, đến trong quyền lực theo kiểu người đời vậy. Tệ hơn thế nữa đó chính là Thiên Chúa là Chúa, là Chủ của cuộc đời chúng ta vậy mà chúng ta nỡ lòng nào đẩy Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt của cuộc đời chúng ta đó là chúng ta không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta như thánh Gioan Tẩy Giả cảnh báo chúng ta: Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết !
Tưởng chừng câu đó là câu mà Gioan nhắc nhở những người Do Thái ngày xưa nhưng nào ngờ Gioan nhắc nhở chính mỗi người chúng ta đây. Chúa ở trong ta, Chúa yêu thương ta, Chúa quan phòng cuộc đời ta mà ta không hay biết đó thôi. Chúng ta không giống Đức Maria, Đức Maria đã nhìn thấy tình thương và sự quan phòng của Chúa trên cuộc đời của Mẹ nên Mẹ chẳng còn bận tâm chuyện gì khác là lắng nghe và thực thi những gì mà Chúa nói với Mẹ. Hình như giữa cuộc đời phát triển nhiều về tiền bạc, về vật chất để rồi chúng ta cứ loay hoay mãi trong tiền bạc, trong vật chất, trong danh vọng và trong dục vọng. Tất cả những thứ làm cho chúng ta không còn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.
Chúng ta nên nhớ Chúa đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là Chúa vẫn hiện diện nơi những con người nghèo khổ, tất bạt, bất hạnh, bỏ rơi … Chúa vẫn dùng những biến cố mà đôi khi dưới con mắt người đời là khắc nghiệt để tỏ tình yêu thương, sự quan phòng của Chúa. Chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh của một Abraham phải đau lòng để mà sát tế đứa con yêu quý nhất của mình cho Thiên Chúa. Chúng ta còn nhớ hình ảnh của một ông Giob quá đớn đau với những chứng bệnh của thể xác, quá khắc nghiệt của cuộc đời chìm xuống bùn đen của sự chết chóc của con cái cũng như đàn gia súc mà ông đang có. Thế đấy ! Thiên Chúa vẫn thử thách lòng tin của con người để xem con người còn tin Chúa hiện diện trên cuộc đời này hay không ? Và qua cơn thử thách ấy, chúng ta thấy được ân huệ mà Chúa tuôn đổ trên cuộc đời của Abraham, của Giob như thế nào ? Lửa thử vàng, gian nan thử sức ! Đó là câu nói mà chúng ta vẫn thường nghe và vẫn thường nói với nhau. Ấy vậy mà đôi khi Chúa mới thử chúng ta một chút thôi thì chúng ta lại ngã lòng và chúng ta hình như không còn tin vào Chúa nữa, chúng ta lại đi tìm đến các thần ngoại bang như dân Do Thái ngày xưa vậy.
Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi cho giáo đoàn Thessalônia thật là hay. Ngài bảo giáo đoàn cũng như ngài bảo mỗi người chúng ta là: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su. (1 Thes 5, 18.19). Phải nói đây là tâm tình tuyệt vời của Thánh Phaolô: Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Đúng như tâm tình của Đức Maria, trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, dù vui dù buồn, dù sướng dù khổ Mẹ luôn luôn vui mừng, Mẹ luôn luôn tạ ơn Chúa và kết hiệp mật thiết với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đây là tâm tình, đây là mẫu gương mà mỗi người chúng ta cần học và noi gương Mẹ vì thật ra chúng ta thấy đó. Nhìn lên với cuộc đời này thì chúng ta thấy chúng ta không bằng ai nhưng nhìn xuống chúng ta được Thiên Chúa ban cho quá nhiều ơn lành để rồi tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Ngài cũng không quên xin ơn Chúa để mà Chúa thánh hoá con người chúng ta “Nguyện xin chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. (1 Thes 5, 23.24.).
Ngài dặn dò mỗi người chúng ta là cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và rồi Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta nhờ ơn Chúa xin Chúa giữ gìn chúng ta được vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Chúa đến.
Như Đức Trinh Nữ Maria, như ngôn sứ Isaia cảm nhận được Thiên Chúa Đấng Cứu Độ thương mình thì mình sẽ chỉ biết ca tụng Chúa và tin tưởng Chúa mà thôi.
Hôm nay, như là cơ hội để chúng ta dừng lại, nhìn lại cuộc đời của mình. Nếu không được, chúng ta xin Mẹ ban thêm ơn, giúp sức cho chúng ta để chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đã quá yêu thương ta. Từ sự khám phá đó ta sẽ ca tụng Chúa và ta sẽ sống sao cho đẹp lòng Chúa.
Như Đức Trinh Nữ Maria, khi có ơn Chúa thì Mẹ đi chia sẻ, chúng ta có ơn rồi chúng ta có biết chia sẻ như Mẹ hay không ?
Như ngôn sứ Isaia nói ở bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe: “Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA” (Is 61, 1-2a). Chúng ta được Thần Khí của Đức Chúa ngự trên chúng ta, được Ngài tấn phong chúng ta cũng phải lên đường để loan báo tin mừng Tình yêu cho anh chị em đồng loại như Đức Trinh Nữ Maria đi chia sẻ niềm vui cho bà chị họ trong lúc sinh nở khó khăn.
Nguyện xin Chúa Giêsu đến và ở lại với mỗi người chúng ta và ban ơn cho chúng ta để chúng ta nhận ra tình yêu Chúa trên cuộc đời chúng ta như Mẹ nhận ra tình yêu của Chúa vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm ơn, ban thêm sức cho chúng ta để chúng ta công bố tin mừng Tình yêu của Chúa giữa cuộc đời đầy gian lao khốn khó này.
Anmai, CSsR