Sông Xanh
12-20-2008, 08:33 PM
http://farm4.static.flickr.com/3244/2877007930_d4803721d7.jpg?v=0
Red Lotus Flower - Fractalius, photo by Bahman Farzad
KINH
ĐẠI PHẬT ĐẢNH
NHƯ LAI MẬT NHƠN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM
ŚŪRAṂGAMA-SŪTRA
NĂM MƯƠI LOẠI ẤM MA
TUYÊN HÓA THƯỢNG NHÂN Giảng Tại
PHẬT GIÁO GIẢNG ĐƯỜNG San Francisco
California _ USA _ 1968
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ VẠN PHẬT THÁNH THÀNH
Đọc Sắc Ấm @: http://www.dharmasite.net/KinhLangNghiem_NamMuoiAmMa_SacAm.htm
Đọc THỌ ẤM @: http://www.dharmasite.net/KinhLangNghiem_NamMuoiAmMa_ThoAm.htm
Trích ra một phần:
Tự Xưng KHAI NGỘ Là Quyến Thuộc Của MA VƯƠNG
Kinh: "Nhưng không khi nào tự xưng: 'Tôi thật là bậc Bồ-tát, thật là bậc A-la-hán,' tiết lộ mật nhân của Phật, khinh ngôn với kẻ vị-học, chỉ trừ lúc mạng chung có di chúc âm thầm cho biết mà thôi. Thế sao hạng người kia lại mê hoặc chúng sanh mà tạo thành đại-vọng-ngữ như vậy?”
Giảng nghĩa:
"Nhưng không khi nào tự xưng: 'Tôi thật là bậc Bồ-tát." Bất luận là chư Bồ-tát, chư A-la-hán, hay chư Phật--như Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức A-Di-Ðà Phật, Ðức Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, Ðức Bảo Sanh Phật, Ðức Thành Tựu Phật--đích thân đến thế giới này thì từ đầu tới cuối chẳng bao giờ các ngài tự nói rằng: "Tôi đích thật là Bồ-tát. Tất cả quý vị phải tin tôi bởi tôi là một bậc Bồ-tát thực thụ!!" Các ngài cũng không tự xưng: "Tôi thật là bậc A-la-hán. Quý vị có nhận ra tôi không? Quý vị có biết tôi thật ra là ai không? Tôi là một vị A-la-hán thực thụ, quý vị biết chưa?" Kẻ nào dám tự xưng như vậy thì kẻ đó chính là quyến thuộc của Ma-vương!
Giả sử có kẻ ca tụng, gọi quý vị là Bồ-tát, là A-la-hán, thì cho dù có đúng thật là như vậy đi chăng nữa, quý vị cũng không nên nhìn nhận: "Ðúng, tôi là Bồ-tát!" hay "Tôi là La-hán!" Vì sao? Vì quý vị không được phép làm "tiết lộ mật nhân của Phật."
"Khinh ngôn với kẻ vị học." "Khinh ngôn" tức là nói năng một cách khinh xuất, hết sức tùy tiện, bừa bãi. "Ông ấy à, cứ tiết lộ lai lịch của mình một cách tùy tiện như thế sao được? Phải đợi đến lúc chết mới được tiết lộ. Hễ chưa chết thì chưa được nói ra!"
Hễ tiết lộ thì không ở lại; mà ở lại thì không được tiết lộ.
(Tiết tắc bất trú; trú tắc bất tiết.)
Nếu quý vị tiết lộ lai lịch của mình, là một vị Bồ-tát hóa thân chẳng hạn, thì quý vị phải ra đi cho mau, phải chết cho lẹ; còn nếu chưa tiết lộ thì quý vị vẫn có thể lưu lại thêm ít hôm nữa. Vì sao? Bởi nếu quý vị tiết lộ rồi mà không ra đi, thì quý vị sẽ gặp nhiều sự rắc rối lắm.
"Chỉ trừ lúc mạng chung, có di chúc âm thầm cho biết mà thôi." Nếu thật sự là bậc thánh-nhân thì phải tới khi lâm chung mới được phép tiết lộ mình chính thật là ai. Tuy nhiên, cũng không được nói với tất cả mọi người mà chỉ được cho một hoặc hai đệ tử nhập thất thân tín nhất của mình biết mà thôi.
"Thế sao hạng người kia lại mê hoặc chúng sanh mà tạo thành đại-vọng-ngữ như vậy?" Tại sao hạng người ấy lại có thể mê hoặc chúng sanh bằng những lời đại vọng ngữ như thế? Chưa đắc mà nói rằng mình đã đắc, chưa chứng quả vị mà nói là mình đã chứng quả vị--đó đều là đại vọng ngữ.
Giảng đến đây, tôi lại nhớ tới Ấn-Quang Lão Pháp-sư, một bậc cao tăng cận đại của Trung-Hoa. Ngài vốn quê quán tỉnh Thiểm-tây, Trung-Hoa. Sau khi xuất gia, Ngài đi triều bái núi Phổ-đà, đạo tràng của Quán-Thế-Âm Bồ-tát, và lưu lại nhập thất tại đó. "Nhập thất" tức là tự giam mình trong một căn phòng nhỏ, thủy chung không bước chân ra khỏi phòng. Ngài ở trong phòng làm gì? Ngài "duyệt Tạng," tức là xem Ðại-Tạng Kinh. Xem suốt bộ Ðại-Tạng Kinh từ đầu đến cuối thì phải mất một thời gian là ba năm. Ngài xem kinh hằng ngày. Từ sáng đến tối, ngày ngày Ngài đều chuyên chú xem Kinh. Hết ba năm lại thêm ba năm nữa. Rồi qua ba năm lại thêm ba năm nữa. Cứ thế, Ngài xem đi xem lại trọn bộ Ðại-Tạng Kinh có đến bảy, tám lần trong mười tám năm ròng rã; và trong suốt thời gian ấy, Ngài không hề xuống núi.
Sau mười tám năm ấy thì có một nhóm cư sĩ ở Thượng-hải thỉnh Ngài đến hội Cư-sĩ-lâm để giảng Kinh A-Di-Ðà. Ấn-Quang Pháp-sư vốn người tỉnh Thiểm-tây nên nói tiếng trọ trẹ, hơi khó nghe; có lẽ nhiều người nghe mà không hiểu mấy, do đó, chẳng có đông người đến nghe giảng cho lắm.
Bấy giờ, trong số thính chúng có một nữ sinh đang theo học bậc Trung-học ở Thượng-hải. Một đêm nọ cô nữ sinh này nằm mộng, mộng thấy gì? Mộng thấy có người bảo cô nên đến hội Cư-sĩ-lâm nghe Ðại Thế-Chí Bồ-tát giảng Kinh A Di Ðà. Chiêm bao đêm hôm trước thì đến sáng hôm sau cô đọc báo quả nhiên thấy có đăng tin Ấn-Quang Pháp-sư giảng Kinh A-Di-Ðà tại Cư-sĩ-lâm. Cô phân vân tự hỏi: "Thế nhưng, đó là Ấn-Quang Pháp-sư; sao mình lại nghe là Ðại Thế-Chí Bồ-tát?" Thế là cô quyết định đi nghe Ấn-Quang Pháp-sư giảng Kinh.
Nghe giảng xong, đợi mọi người ra về hết rồi, cô nữ sinh mới đến liêu phòng của Ấn-Quang Pháp-sư thỉnh hỏi: "Bạch Thầy, con chiêm bao thấy nói Ðại Thế-Chí Bồ-tát giảng Kinh A-Di-Ðà tại đây, nhưng trong báo lại đăng là Ấn-Quang Lão Pháp-sư. Như vậy phải chăng Thầy chính là Ðại Thế-Chí Bồ-tát?"
Nghe qua, Ấn-Quang Lão Pháp-sư tỏ vẻ rất không hài lòng, nói: "Con không được nói nhăng nói càn. Không nên nói bậy bạ như thế!" Vì thế, cô nữ sinh không dám kể cho ai nghe về giấc mơ của mình nữa. Về sau, cô xin quy y với ngài.
Ba năm sau, Lão Pháp-sư viên tịch. Trong thời gian ba năm ấy, cô nữ sinh nọ chẳng dám hở môi với ai về giấc mộng của mình. Ðợi đến sau khi Lão Pháp-sư viên tịch rồi, cô mới kể lại giấc mơ ấy cho mọi người biết, thì ai nấy đều trách cô: "Sao cô không nói sớm? Phải chi cô nói sớm một chút thì chúng tôi có thể thỉnh Lão Pháp-sư giảng thêm chút Pháp!"
Cô đáp: "Đó là vì Lão Pháp-sư không cho phép tôi nói ra!"
Từ sự kiện này mọi người mới biết được Ấn-Quang Lão Pháp-sư là hóa thân của Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. Sau khi thiêu hóa, ngài để lại rất nhiều xá lợi.
Cho nên, phải đợi đến lúc lâm chung mới được biểu thị đôi chút, song không được nói: "Quý vị biết tôi là ai đây không? Tôi là Ðại Thế-Chí Bồ-tát đấy!" Tuyệt đối không được nói như thế. Có thể biểu thị bằng cách báo mộng, hoặc bảo người khác gợi ý đôi chút, báo trước sơ sơ thôi, chứ không được tự xưng mình là Bồ-tát giáng thế. Nếu nói ra thì nên chết đi, không nên ở lại thế gian này nữa. Do đó, người đời nay công nhiên tự xưng mình là Phật, như thế là hoàn toàn tương phản với Kinh Lăng-Nghiêm. Ðành rằng "tất cả chúng sanh đều là Phật," nhưng phải tu hành thì mới thành Phật được; còn chẳng tu hành thì không chừng là thành súc sanh, ngựa, bò, dê, gà, chó, … hoặc là làm ngạ quỷ, hoặc phải đọa địa ngục.
Không được nói: "Tôi là Phật!" Ông là Phật, vậy tôi là gì ? Tôi chưa là Phật, còn ông là Phật rồi, thật là lạ lùng !
Red Lotus Flower - Fractalius, photo by Bahman Farzad
KINH
ĐẠI PHẬT ĐẢNH
NHƯ LAI MẬT NHƠN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM
ŚŪRAṂGAMA-SŪTRA
NĂM MƯƠI LOẠI ẤM MA
TUYÊN HÓA THƯỢNG NHÂN Giảng Tại
PHẬT GIÁO GIẢNG ĐƯỜNG San Francisco
California _ USA _ 1968
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ VẠN PHẬT THÁNH THÀNH
Đọc Sắc Ấm @: http://www.dharmasite.net/KinhLangNghiem_NamMuoiAmMa_SacAm.htm
Đọc THỌ ẤM @: http://www.dharmasite.net/KinhLangNghiem_NamMuoiAmMa_ThoAm.htm
Trích ra một phần:
Tự Xưng KHAI NGỘ Là Quyến Thuộc Của MA VƯƠNG
Kinh: "Nhưng không khi nào tự xưng: 'Tôi thật là bậc Bồ-tát, thật là bậc A-la-hán,' tiết lộ mật nhân của Phật, khinh ngôn với kẻ vị-học, chỉ trừ lúc mạng chung có di chúc âm thầm cho biết mà thôi. Thế sao hạng người kia lại mê hoặc chúng sanh mà tạo thành đại-vọng-ngữ như vậy?”
Giảng nghĩa:
"Nhưng không khi nào tự xưng: 'Tôi thật là bậc Bồ-tát." Bất luận là chư Bồ-tát, chư A-la-hán, hay chư Phật--như Ðức Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức A-Di-Ðà Phật, Ðức Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, Ðức Bảo Sanh Phật, Ðức Thành Tựu Phật--đích thân đến thế giới này thì từ đầu tới cuối chẳng bao giờ các ngài tự nói rằng: "Tôi đích thật là Bồ-tát. Tất cả quý vị phải tin tôi bởi tôi là một bậc Bồ-tát thực thụ!!" Các ngài cũng không tự xưng: "Tôi thật là bậc A-la-hán. Quý vị có nhận ra tôi không? Quý vị có biết tôi thật ra là ai không? Tôi là một vị A-la-hán thực thụ, quý vị biết chưa?" Kẻ nào dám tự xưng như vậy thì kẻ đó chính là quyến thuộc của Ma-vương!
Giả sử có kẻ ca tụng, gọi quý vị là Bồ-tát, là A-la-hán, thì cho dù có đúng thật là như vậy đi chăng nữa, quý vị cũng không nên nhìn nhận: "Ðúng, tôi là Bồ-tát!" hay "Tôi là La-hán!" Vì sao? Vì quý vị không được phép làm "tiết lộ mật nhân của Phật."
"Khinh ngôn với kẻ vị học." "Khinh ngôn" tức là nói năng một cách khinh xuất, hết sức tùy tiện, bừa bãi. "Ông ấy à, cứ tiết lộ lai lịch của mình một cách tùy tiện như thế sao được? Phải đợi đến lúc chết mới được tiết lộ. Hễ chưa chết thì chưa được nói ra!"
Hễ tiết lộ thì không ở lại; mà ở lại thì không được tiết lộ.
(Tiết tắc bất trú; trú tắc bất tiết.)
Nếu quý vị tiết lộ lai lịch của mình, là một vị Bồ-tát hóa thân chẳng hạn, thì quý vị phải ra đi cho mau, phải chết cho lẹ; còn nếu chưa tiết lộ thì quý vị vẫn có thể lưu lại thêm ít hôm nữa. Vì sao? Bởi nếu quý vị tiết lộ rồi mà không ra đi, thì quý vị sẽ gặp nhiều sự rắc rối lắm.
"Chỉ trừ lúc mạng chung, có di chúc âm thầm cho biết mà thôi." Nếu thật sự là bậc thánh-nhân thì phải tới khi lâm chung mới được phép tiết lộ mình chính thật là ai. Tuy nhiên, cũng không được nói với tất cả mọi người mà chỉ được cho một hoặc hai đệ tử nhập thất thân tín nhất của mình biết mà thôi.
"Thế sao hạng người kia lại mê hoặc chúng sanh mà tạo thành đại-vọng-ngữ như vậy?" Tại sao hạng người ấy lại có thể mê hoặc chúng sanh bằng những lời đại vọng ngữ như thế? Chưa đắc mà nói rằng mình đã đắc, chưa chứng quả vị mà nói là mình đã chứng quả vị--đó đều là đại vọng ngữ.
Giảng đến đây, tôi lại nhớ tới Ấn-Quang Lão Pháp-sư, một bậc cao tăng cận đại của Trung-Hoa. Ngài vốn quê quán tỉnh Thiểm-tây, Trung-Hoa. Sau khi xuất gia, Ngài đi triều bái núi Phổ-đà, đạo tràng của Quán-Thế-Âm Bồ-tát, và lưu lại nhập thất tại đó. "Nhập thất" tức là tự giam mình trong một căn phòng nhỏ, thủy chung không bước chân ra khỏi phòng. Ngài ở trong phòng làm gì? Ngài "duyệt Tạng," tức là xem Ðại-Tạng Kinh. Xem suốt bộ Ðại-Tạng Kinh từ đầu đến cuối thì phải mất một thời gian là ba năm. Ngài xem kinh hằng ngày. Từ sáng đến tối, ngày ngày Ngài đều chuyên chú xem Kinh. Hết ba năm lại thêm ba năm nữa. Rồi qua ba năm lại thêm ba năm nữa. Cứ thế, Ngài xem đi xem lại trọn bộ Ðại-Tạng Kinh có đến bảy, tám lần trong mười tám năm ròng rã; và trong suốt thời gian ấy, Ngài không hề xuống núi.
Sau mười tám năm ấy thì có một nhóm cư sĩ ở Thượng-hải thỉnh Ngài đến hội Cư-sĩ-lâm để giảng Kinh A-Di-Ðà. Ấn-Quang Pháp-sư vốn người tỉnh Thiểm-tây nên nói tiếng trọ trẹ, hơi khó nghe; có lẽ nhiều người nghe mà không hiểu mấy, do đó, chẳng có đông người đến nghe giảng cho lắm.
Bấy giờ, trong số thính chúng có một nữ sinh đang theo học bậc Trung-học ở Thượng-hải. Một đêm nọ cô nữ sinh này nằm mộng, mộng thấy gì? Mộng thấy có người bảo cô nên đến hội Cư-sĩ-lâm nghe Ðại Thế-Chí Bồ-tát giảng Kinh A Di Ðà. Chiêm bao đêm hôm trước thì đến sáng hôm sau cô đọc báo quả nhiên thấy có đăng tin Ấn-Quang Pháp-sư giảng Kinh A-Di-Ðà tại Cư-sĩ-lâm. Cô phân vân tự hỏi: "Thế nhưng, đó là Ấn-Quang Pháp-sư; sao mình lại nghe là Ðại Thế-Chí Bồ-tát?" Thế là cô quyết định đi nghe Ấn-Quang Pháp-sư giảng Kinh.
Nghe giảng xong, đợi mọi người ra về hết rồi, cô nữ sinh mới đến liêu phòng của Ấn-Quang Pháp-sư thỉnh hỏi: "Bạch Thầy, con chiêm bao thấy nói Ðại Thế-Chí Bồ-tát giảng Kinh A-Di-Ðà tại đây, nhưng trong báo lại đăng là Ấn-Quang Lão Pháp-sư. Như vậy phải chăng Thầy chính là Ðại Thế-Chí Bồ-tát?"
Nghe qua, Ấn-Quang Lão Pháp-sư tỏ vẻ rất không hài lòng, nói: "Con không được nói nhăng nói càn. Không nên nói bậy bạ như thế!" Vì thế, cô nữ sinh không dám kể cho ai nghe về giấc mơ của mình nữa. Về sau, cô xin quy y với ngài.
Ba năm sau, Lão Pháp-sư viên tịch. Trong thời gian ba năm ấy, cô nữ sinh nọ chẳng dám hở môi với ai về giấc mộng của mình. Ðợi đến sau khi Lão Pháp-sư viên tịch rồi, cô mới kể lại giấc mơ ấy cho mọi người biết, thì ai nấy đều trách cô: "Sao cô không nói sớm? Phải chi cô nói sớm một chút thì chúng tôi có thể thỉnh Lão Pháp-sư giảng thêm chút Pháp!"
Cô đáp: "Đó là vì Lão Pháp-sư không cho phép tôi nói ra!"
Từ sự kiện này mọi người mới biết được Ấn-Quang Lão Pháp-sư là hóa thân của Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. Sau khi thiêu hóa, ngài để lại rất nhiều xá lợi.
Cho nên, phải đợi đến lúc lâm chung mới được biểu thị đôi chút, song không được nói: "Quý vị biết tôi là ai đây không? Tôi là Ðại Thế-Chí Bồ-tát đấy!" Tuyệt đối không được nói như thế. Có thể biểu thị bằng cách báo mộng, hoặc bảo người khác gợi ý đôi chút, báo trước sơ sơ thôi, chứ không được tự xưng mình là Bồ-tát giáng thế. Nếu nói ra thì nên chết đi, không nên ở lại thế gian này nữa. Do đó, người đời nay công nhiên tự xưng mình là Phật, như thế là hoàn toàn tương phản với Kinh Lăng-Nghiêm. Ðành rằng "tất cả chúng sanh đều là Phật," nhưng phải tu hành thì mới thành Phật được; còn chẳng tu hành thì không chừng là thành súc sanh, ngựa, bò, dê, gà, chó, … hoặc là làm ngạ quỷ, hoặc phải đọa địa ngục.
Không được nói: "Tôi là Phật!" Ông là Phật, vậy tôi là gì ? Tôi chưa là Phật, còn ông là Phật rồi, thật là lạ lùng !