ttv2007
03-02-2009, 01:13 AM
TUYỂN TẬP VĂN XUÔI.
Của PHAN-VINH.
HỒI-KVNHâ
___
LỜI NÓI ĐẦU
Mùa mưa gió ruộng đồng ngập lụt. Ở nhà rảnh-rỗi thất nghiệp chẵng có việc gì làm, xem sách báo lâu cũng hết chẵng kiếm đâu ra tiền để mua thêm, mở truyền-hình coi ngày nọ qua ngày kia cũng chán, đi nahậu thì bạn-bè trang-lứa hợp gu đã chết gần hết, còn lại một vài người già-yếu bệnh-tật kiêng-cử từ-chối. Con cháu ăn ở vẫn còn đông, ban ngày mỗi đứa một việc đi tẩu-tán chẵng còn ai, nhà cửa trống-vắng.
Tuổi già thấy cô-đơn lạnh-lẽo có khi hơi buồn. Tôi nghĩ một cách, thời-gian rảnh-rổi vắng-vẽ này nên làm một việc gì đó có ý-nghĩa của đời mình để lưu lại cho con cháu đọc, hiểu và thương mình hơn sau khi mình không còn trên thế-gian này nữa. Tôi nghĩ ra ý định ngồi viết hồi-ký, từ trước cho đến bây giờ, tôi chưa hề viết được một bài văn bài thơ nào cả. Đây là do tôi động nảo nhớ ra những sự việc quá khứ và hiện tại của bản-thân, bạo tay viết ra trong khoảng thời-gian sáu mươi lăm năm cuộc đời do bản-thân hành-động và những điều tai nghe mắt thấy của thế-kỹ 20 qua thế-kỹ 21.
Những câu văn ghi lại chất-phát mộc-mạc của tâm hồn nông-dân, hoàn-toàn sự thật để con cháu đọc cho vui, tìm hiểu cuộc đời tôi thời còn trai trẻ sống trong hai cuộc chiến-tranh gian-nan, vất-vả, nguy-hiểm như thế nào ? Khi thất cơ lở vận khốn-đốn cùng-cực như thế nào ? Khi được tự-do làm ăn sinh sống phải nổ lực gắng sức làm sao để vươn lên với mọi người.
Đất nước trên đà phát-triển, con cháu có khi nó cũng giàu có lên, sẳn tiền ăn chơi trác-táng, đọc quyển hồi-ký này tôi tin rằng nó có thể ăn-năn giảm bớt một phần nào. Nếu đứa con có văn-hoá biết hiếu-thảo nó sẽ sống tốt hơn.
Cũng để làm quà tặng bạn-bè thân-mật xem cho đở buồn, nếu người ngoài có ai đó cầm được xem qua nhận xét tôi có viết gì sai trái không hài lòng quí vị, đó là sự trùng-lặp, ngoài khả năng trình-độ hiểu-biết của tác-giả, chỉ vô-tình không cố-ý.
Có câu nào sơ-xuất độc-giả không được hài lòng, tôi xin chân-thành nhận lỗi. Kính mong sự góp ý phê-bình của quí-vị, xin thành-thật cám ơn.
Bùi-Chu, ngày 20 tháng 9 năm 2003.
Tác giả : PHAN-VINH
Ngày 02 tháng 8 năm 2003 khai bút viết quyển Hồi-Ký này.
HỒI KÝ
PHAN-VĂN-VỊNH
CHƯƠNG I : TUỔI ẤU-THƠ & THỜI NIÊN-THIẾU
BÀI 1 : BỐI-CẢNH , THỜI-GIAN, SỰ VIỆC.
Sinh ra và lớn lên ai cũng có quê-hương, dù có đi khắp năm châu bốn bể họ cũng đều nhớ về quê-hương, có quê-hương mới khôn-lớn, nhớ quê-hương mới nên người, tôi tự giới-thiệu về quê-hương đôi nét.
Quê-hương tôi tính theo đường bộ từ Nam ra Bắc, quý-vị khách bộ-hành, du-lịch, hoặc cô bác, anh chị em, bạn-bè, con cháu, có dịp nào đó trên đường đi ngang qua địa-phận Tỉnh Thừa-Thiên. Địa đầu ranh-giới từ đèo Hải-Vân trở ra, nên để ý nhìn xem phong-cảnh hữu tình, núi cao biển xanh cảnh đẹp như một bức tranh sơn thuỷ.
Đi xe lửa qua khỏi đèo Đồng-Nhất đến ga Lăng-Cô, tàu chạy trên đường sắt men theo chân núi đến Hói-Mít bên trái dãy Trường-Sơn, bên phải đầm Lập-An, tàu chui qua khỏi cái hầm ngắn đó là quê tôi.
Nếu quí vị đi xe hơi xuống khỏi đèo Hải-Vân đến cầu Lăng-Cô cở 10 cây số là đỗ dốc hết đèo Phú-Gia, nhìn bên phải có nhà dân-cư dọc theo Quốc lộ 1 A là làng Phú-Gia, qua đoạn 850m bên phải có ngã ba Chân-Mây là con đường xuống hải cảng độ chừng 200m, áp sát đường hướng bắc đó là nhà ông Phan-Tường em ruột của tôi. Cha mẹ tôi ngày xưa còn trẻ đã sinh ra tôi tại đây vào ngày 16 tháng 10 năm 1939, nhằm năm Kỹ-Mão cầm tinh con mèo. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, có họ hàng, bà con, làng xóm quê-ương tôi.
Từ ngã ba Chân-Mây chạy theo quốc lộ 1 A đến Thừa-Lưu xã Lộc-Tiến là xã quê tôi. Xuôi theo đường đến Nước-Ngọt là xã Lộc-Thủy, qua đèo Phước-Tượng đến Cầu-Hai huyện Phú-Lộc, huyện quê tôi. Tiếp nữa Đá-Bạc, Truồi, Nong, Phú-Bài, Hương-Thủy, An-Cựu, thành phố Huế tỉnh Thừa-Thiên là quê hương tôi.
Khi tuổi ấu-thơ và niên-thiếu của tôi nằm trong thời-kỳ thực-dân phong-kiến, phát-xít Nhật đổ bộ cướp nước đè đầu cởi cổ. Kết thúc Đệ nhị thế chiến, Việt-minh lên nắm chính-quyền 1945. Qua 1946 tôi mới lên 8 tuổi, còn nhớ cha cỏng chạy giặc, ban đêm leo lên núi Khe Hang để trốn quân Pháp tái chiếm Việt-Nam. Lúc này tình-hình chính-trị rất rối-ren, toàn dân cả nước phải nỗ-lực đóng-góp tối đa từ tinh-thần lẫn vật-chất để cực-lực chiến-đấu chống quân Pháp. Quê-hương tôi hướng đông giáp biển, hướng tây sát núi Trường-Sơn, làng nằm giữa, có đường quốc lộ 1 A và đường xe lửa áp sát với làng bên trái hướng tây.
Thời chống Pháp trên địa-thế này là vùng xôi đậu, ban ngày của Pháp, ban đêm của V.M. Nhân-dân sinh-sống rất vất-vã, chật-vật, bị uy-hiếp đủ điều. Nhưng vẫn cứ bám đất bám làng để sống, góp phần chiến-đấu anh-dũng, chống quân Pháp suốt 10 năm gian-khổ, đến 1954 mới được đình-chiến, chứ chưa phải hòa-bình độc-lập. Trong khoảng thời-gian nói trên, gia-đình tôi rất khó-khăn, năm sáu tuổi đầu đã biết ra đồng mò cua bắt ốc hái rau, để gia-tăng bữa cơm đạm-bạc hằng ngày, lợi-dụng đi làm công việc nầy để nghịch bùn bơi sông tắm suối cho thỏa-thích. Kỹ-niệm một ngày anh em đi tát cá mò cua còn nhớ mải suốt đời, tôi với anh Doãn con ông bác rũ nhau vào phía trong đường rầy xe lửa ngang cầu 8 thước, be bờ quanh một góc ruộng. Hai anh em hì-hục tát hơn giờ đồng hồ mới cạn nước thì người đã mệt nhoài, đứng hết muốn nổi nên phải ngồi bẹp xuống sình để mò cua bắt cá. Anh Doãn mò mãi-mê thế nào mà một con đỉa trâu to bằng đầu chiếc đủa chui tuột vào hậu-môn của anh, cảm giác nhột-nhạt sờ tay nghe trơn lạnh. Anh kêu tôi : "Ĩa em ơi ! mi xem giúp tau hình như có con đỉa đang chui vào đít". Tôi vội-vàng chạy lại bảo anh chổng mông lên để xem thì thấy nó đã chui vào hết hai phần con, chỉ còn thò bên ngoài cở một phần, nhìn kỷ đúng là một chú đỉa trâu, nhanh-nhẹn thò tay dí hai móng bấm thật chặt cố gắng lắm mới kéo nó ra được. Hai thằng nhìn nhau sợ quá không dám mò nữa đi qua vũng cầu tắm rửa ra về.
Nhớ lại những lời kể chuyện của bà nội, đỉa mà chui vào lổ tai là nó ăn hết óc rồi đẻ đỉa con đầy đầu, chui vào bẹn, vào hậu-môn hút hết máu làm chết người, sợ quá từ nay về sau không dám ngồi bẹp xuống sình mò cua bắt cá nữa.
Năm 1945 anh em tôi được 7 tuổi đời, bác cho anh Doãn đi học trường Dì Phước dạy cạnh nhà thờ Đạo Công-giáo của ông Cố Vị, Cố Phương ngoài Tam-Vị. Từ nhà ra đến trường học độ chừng hai cây số có đi qua một cái cầu leo nguy-hiễm, đi không cẩn-thận là lọt tỏm xuống sông, bác gởi anh Doãn cho chị Xuyến và anh Khuê dắt qua cầu lúc đi cũng như khi về.
Còn tôi đã đến tuổi đi học mà chẵng được đi, vì không người giữ nhà trông em để cha mẹ đi làm công việc đồng-áng, một phần đường sá qua cầu nguy-hiễm, nên cha mẹ tôi chưa cho đi học.
Cách-Mạng mùa thu năm 1945 dành được thắng-lợi, nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa ra đời, mới có phong-trào bài trừ giặc dốt, Bác Hồ kêu-gọi toàn dân phải đi học từ già đến trẻ bắt buộc phải đọc thông viết thạo chữ quốc-ngữ. Ba tôi ngày đi làm lụng tối lại phải tập trung đến trụ-sở tham dự khoá học Bình-dân học-vụ, do Thầy khóa Nhượng dạy. Hồi đầu cha tôi mới học hai mươi bốn chữ cái, ông học được chữ nào về truyền dạy lại cho tôi. Thế là tôi được cha tôi làm thầy khai-trí học vở-lòng đầu-tiên. Tôi học tới học lui hai mươi bốn chữ cái mà u-mê đọc trước quên sau. Cha tôi có một cây roi mây nhỏ xíu bằng chiếc đủa, dài cở một mét rưỡi, đầu roi có chùm rễ xoè ra để ông cầm mà đánh. Một bữa nọ ham đi chơi rong quên hết, chiều ông đi làm về, khảo bài không thuộc, nổi nóng rút roi phết vào lưng lằn ngang lằn dọc đau điếng người. Mẹ thấy tôi bị ăn đòn xót ruột lắm, nhưng chẵng dám cự-nự ông một lời để an-ủi. Bà nghĩ rằng ông cũng thương con nên phải răn-đe đánh-đập cho nó nên người.
Tháng 2 âm-lịch mùa Xuân năm 1946, trong xóm có hai ông bà gia-đình khá giả mời gia-sư dạy học trong nhà cho con cháu của họ, dạy cả chữ quốc-ngữ lẫn chữ Hán. Được cha dẫn đến lớp học, trước xin hai ông bà chủ chấp-thuận, sau gởi tôi cho thầy dạy-dỗ. Đầu tiên thầy đặt tên cho tôi là Phan-Vinh, thầy dạy lễ phép chào kính người trên kẻ dưới, đã là học trò không được nghịch phá, tham-lam, trộm-cắp của bạn-bè, phải đoàn-kết thương yêu chỉ vẽ lẫn nhau, biết thi-đua học tập cho tốt.
Thế là năm nay tôi mới được ngồi lớp học tại trường có thầy giáo dạy, nói là trường chứ một gian chái gạnh ra bên hông nhà trên của hai ông bà chủ, kê mấy bộ bàn ghế thô-sơ, cả lớn bé đều ngồi chung một lớp. Học với Thầy Khóa Nhượng được tám tháng tập viết chữ ghép vần tiếng Việt, xem sách chữ in chưa thông-suốt, thì thầy xin nghỉ dạy về quê-hương gia-đình của thầy ở làng Thổ-Sơn.
Khi thầy còn dạy học tại làng Phú-Gia, tuổi thầy đã cao nên già yếu, ngày thì dạy lớp học trẻ từ sáng đến tối mới được nghỉ. Một lớp học trên dưới khoảng hai mươi trò lớn nhỏ, trình-độ cao thấp khác nhau, thầy soạn bài viết bài cũng vất-vả, tối lại bắt buộc thầy phải đi dạy học bình-dân học-vụ, sức thầy chịu đựng không nổi, nên thầy xin ông bà chủ cho nghỉ về nhà. Không còn thầy dạy sự học của tôi bị gián-đoạn từ đây, ở nhà đi chơi long-nhong. Dạo nầy em gái tôi đã biết bồng em giữ nhà nấu cơm, tôi giao việc cho em tôi làm, chạy rong nghịch phá. Cha tôi thấy vậy, đến gia-đình cùng xóm có một bầy trâu rất đông, năn-nỉ hai ông bà chủ xin chăn rẽ một nái để gầy giống và cày ruộng, đẻ nghé con thì chia ba, chủ hai còn người chăn giữ một. Được ông bà chủ chấp-thuận, làm giấy hợp-đồng dắt trâu nái mẹ về nhà, bắt đầu tôi được làm mục-đồng chăn trâu không còn rảnh-rỗi đi chơi rong lêu-lổng nữa. Làm mục-đồng chăn trâu có nhiều bạn-bè cũng thích-thú. Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, được ngồi lưng trâu, được sờ đuôi trâu. Hằng ngày được ngồi trên lưng trâu di-chuyển một vài cây số là thường. Khi đến bãi chăn thả, bày ra các trò chơi như : đánh đu, đánh đáo, đánh bi, đá cầu, đá bóng, múa gươm múa gậy, chạy ô-ba, xúi nhau vật lộn, nghịch-ngợm đủ thứ v.v... Tôi đi chăn liên tiếp ba năm, trâu mẹ đẻ cho được hai chú nghé đực, một con ba tuổi, một con hai tuổi mập-mạp dễ thương, tôi yêu-mến chúng lắm.
Tháng 9/1950 lính Pháp mở cuộc hành-quân ra xóm Tre, xóm Đình làng Phú-Gia. Không hiểu mấy ông du-kích địa-phương dàn trận đánh thế nào bị thất-thế để chúng vây bắt được một ông, trói tay dắt về đồn Thừa-Lưu theo đường quốc lộ 1 A. Lính Pháp nhìn thấy năm bầy trâu chăn gần đường lộ ngã ba Chân-Mây bây giờ. Một ông quan hai người Pháp chỉ tay vào đàn trâu đang gặm cỏ la om-sòm, ra lệnh cho mấy tên Việt-gian đi theo Pháp lội xuống ruộng dí súng bắt anh em tôi đánh hết trâu về đồn, nó lấy cái cớ trong làng có V.M.
Lùa hết năm bầy trâu lên đồn Thừa-Lưu nhốt hết vào trong hàng rào đồn-luỷ của chúng, đóng chặt cổng trại rồi đuổi anh em tôi đi về. Tôi tiếc nuối buồn rầu, lủi-thủi ra về vừa đi vừa khóc, vì thương hại cho hai con nghé bé-dại yêu-quí của tôi. Hai anh em tôi với Sinh về đến cống Gạo tai nghe phía sau có tiếng xe chạy. Ngoảnh lại nhìn thấy một chiếc xe Dodge chở đầy lính súng-đạn mã-tấu, mấy anh lính người Việt kêu to : Ê, hai thằng tê. Tôi tưởng nó cho quá giang về làng, hai anh em co giò chạy theo cở năm mươi mét xe nó từ từ dừng lại tại cống Gạo ngang xóm Rú là xóm Núi, dắt xuống xe hai người bịt hết con mắt đưa xuống bờ ruộng gần suối để đứng tại đây. Mấy thằng lính người Việt nói hai thằng mầy đứng đó coi tụi tau cho hai thằng V.M. về chầu Diêm-vương. Tụi lính đánh thuê cho Pháp toàn người Việt, cả một tiểu-đội nó nằm sấp xuống đường lộ, ôm súng Mas 36 lên đạn nghe rốp-rốp. Thằng quan Tây ra lệnh bắn, chúng bóp cò súng nổ liên-thanh, đạn bay trúng vào người của hai ông nhảy cẫng lên trời rồi nhào đầu xuống đất dẫy chết. Tụi nó buông súng, xách mã-tấu chạy xuống bờ ruộng chặt đầu. Tôi nghe tiếng mã-tấu chạm xương cổ kêu cốp-cốp. Khi đầu lìa khỏi xác chúng xách lên đường, leo lên chạng ba của cây mù-u lớn trồng bên đường lộ để đầu lên đó, nhét vào miệng mỗi ông một điếu thuốc lá trắng lốp, rồi tụt xuống leo lên xe tài-xế lái chạy về đồn. Bạn Sinh nhìn thấy có run hay không lúc ấy tôi chẵng để ý. Riêng tôi thì mặt mày tái mét run cầm-cập hồn-vía bay hết lên ngọn cây. Thật căm-thù cho cái quân độc-ác, người Việt giết người Việt, tôi ngao-ngán cho đời có chiến-tranh xâm-lược. Anh em lủi-thủi đi về mà thương tiếc tội nghiệp cho hai ông ấy. Đêm hôm đó hể tôi nhắm mắt ngủ là mơ-màng ác mộng trước mắt nhan-nhản cảnh tượng hiện ra khi mình được chứng-kiến sự giết người tàn-bạo của bọn thực-dân Pháp.
Ngày hôm sau có một số cụ già lụ-khụ 65 tuổi trở lên 70, 80 tuổi, mặc quần dài trắng áo dài đen, chân mang guốc, đầu chít khăn đóng, che dù đen đội nón trắng, rủ nhau cuốc bộ lên Đồn Thưà-Lưu xin lại năm bầy trâu. Nghe mấy cụ đi về kể lại tụi Pháp không thèm tiếp, nên chẵng thương-lượng gì được.
Cách năm sáu ngày sau, vì trâu bị nhốt lâu ngày quá đói khát, phần nó sợ giết thịt, nên ban đêm xé rào tẩu-thoát về làng. Mỗi bầy bị giết hai hoặc ba con trâu tơ mập, để tiếp-tế cho lính Pháp ăn khắp cả địa bàn đồn trú trong huyện Phú-Lộc. Bầy trâu của tôi gồm ba con hai chú nghé dễ thương của tôi đã bị chúng giết thịt, chỉ còn lại con trâu mẹ già ốm về được. Tháng giêng năm sau bị một trận dịch nó cũng chết luôn, thế là toi cơm mấy năm chăn-dắt dãi-dầu mưa nắng.
Tháng 2 năm 1951, khủng-hoảng kinh-tế gia-đình vì quân Pháp chẵng cho cày ruộng cấy lúa trong đường quốc lộ 1 qua đường xe lửa giáp chân núi, vì chúng sợ phá đường giao-thông xe tàu. Hết gạo ăn thất nghiệp dói khát khuẩn-bất, cha tôi cũng trốn làng vào Lăng-Cô theo bác tìm việc làm kiếm sống, tiết-kiệm tiền gởi về cho mẹ nuôi anh em tôi. Vào được Lăng-Cô cha tôi nhờ bác kiếm việc, xin với ông Cửu-Sang làm bốc-xếp các đốt gỗ to tướng do trâu bò kéo trên rừng về để tại ga tàu lửa Lăng-Cô. Ba đến bốn chục người mới lập thế kéo lên toa tàu được một đốt súc Chò-chai to tướng nặng trịch, để ông chủ đưa vào Đà-nẵng hoặc ra Huế bán cho các trại mộc đóng đồ gỗ, mới có tiền mang về phát lương cho cu-li.
Còn mẹ tôi ở nhà đi khắp làng tìm hỏi mua tre chặt vác về, cây dài cưa làm bốn, cây ngắn cưa ba, tuỳ theo thước tấc mà cưa cho phù hợp, bó lại đưa lên vai vác đi, đến ga Thừa-Lưu bỏ lên toa tàu, mua vé và cước-phí, rồi chở vào ga Lăng-Cô bán lại cho mấy ông thuyền chài để họ đan dụng cụ đi làm nghề, kiếm tiền lời về đong gạo nuôi con, cứ sáng đi sớm chiều về nhà với con cái. Có bữa mua không có tre thì chặt một cây chuối nặng trịch một chuyến vác. Năm nay có chị Hai con của bác Cả chồng chết sớm không có nhà ở, một tay phải nuôi hai đứa con trai còn bé dại, ở chung trong nhà. Sáng sớm thím cháu vác chuối đi với nhau. Chị Hai khỏe hơn vác cây to, mẹ yếu hơn vác cây bé vừa, phải đi năm cây số mới đến nhà ga xe lửa bán cho thương-lái mua chở vào Lăng-Cô bán lại cho các người nuôi heo. Thời ấy nuôi heo mọi cho ăn toàn rau lang và chuối cây, làm gì có thực phẩm hổn-hợp như bây giờ.
Mẹ và chị bán được tre và chuối thì đong gạo về ăn được trong ngày, mai lại đi làm tiếp, cứ thế mà cứu gia-đình qua khỏi cơn đói khát ngặt-nghèo. Thời-gian cha vào Lăng-Cô làm việc ở nhà nhớ cha quá, xin mẹ cho đi theo vào ga Lăng-Cô thăm cha. Xuống tàu đi đến chỗ cha đang bốc cây, thấy cha lao-động nặng-nhọc vất-vã thương cha quá.
Một hai lần đầu vào thăm cha xong lên tàu về lại với mẹ. Lần sau nữa xin cha ở lại, ở với bác, chiều tối cha đi làm về ăn ngủ với cha. Mấy ngày sau cha đi làm, tôi ở nhà theo anh Doãn sang ga Lăng-Cô bán nước cho lính Pháp đi lại trên xe lửa. Anh Doãn thì khôn-ngoan lanh-lẹ hơn, anh chỉ-vẽ cho mà làm đi săn-nhặt vỏ chai thuỷ-tinh súc rửa cho sạch, hái lá bàng non vò nát nấu đậm đem pha trộn với nước lã cho có màu nâu lợt giống nước chè, đổ vào chai đóng nút kỹ, năm bảy chai bỏ hết vào giỏ cói mang đi rao bán. Chẵng thấy thằng Tây nào chịu mua bằng tiền, nó chỉ trao-đổi mà thôi, nó đổi cho phong bánh Bítqui, bánh kẹo, ổ mì, hộp cá hoặc hộp thịt nhỏ, nhiều ít cũng đổi. Có một vài thằng Tây xấu bụng kêu đưa nước cho nó, nó đỗ đầy binh đông, rồi nó đuổi mình đi chổ khác chẵng cho cái gì, hận quá chửi đ. m. mi, nó chẵng hiểu mình nói gì. Hôm nào lính Pháp đi hành quân đông trên tàu đổi được nhiều thứ. Cái nào còn nguyên vẹn bao bì tốt, đem bán lại cho mấy mụ bán quán lấy tiền, thứ không có bao bì thì để dùng hoặc mang về nhà cho các em.
Tháng 5 năm 1951 đến mùa lúa chín ở quê, mẹ bắt tôi vào Lăng-Cô kêu cha trở về làng thu-hoạch vụ mùa đông-xuân, cha con cùng về với nhau, dạo nầy không vào ở Lăng-Cô nữa. Thỉnh-thoảng cha con vào thăm hai bác và các anh chị một bữa, rồi trở lại sinh sống với xóm làng.
Mùa xuân năm 1952 thầy Khóa Sinh mở lớp dạy học hai thứ chữ Hán Việt, ai muốn học chữ gì tuỳ ý thầy vẫn dạy. Con nhà khá giả xin học cả hai thứ , tiền thầy mua sắm giấy bút phải gấp đôi. Nhà nghèo nên cha chỉ nhờ dạy một thứ chữ Việt mà thôi. Mẹ mua sắm cho đầy đủ giấy bút, may cho một bộ áo quần mới, một cái mủ đan lát thủ công bằng sợi cói, để đội đầu đi học che mưa nắng. Cha dắt đi đoạn đường năm cây số mới đến nhà ông Bân tại xóm Bàu làng Trung-Kiền nơi thầy dạy học gởi cho thầy. Tại xóm Chùa tức là xóm của tôi ở, chỉ có tôi với bạn Khảm được cha mẹ cho đi học mà thôi, các bạn trang lứa vì nhà quá nghèo không có cơm rau để ăn còn nói gì đến việc học hành, chỉ cho đi ở chăn trâu bò cho các nhà giàu kiếm cơm ăn để sống mà thôi.
Dạo nầy tôi với bạn Khảm sáng sớm cơm nước xong, cắp sách đội nón, mang theo một bữa cơm trưa, cuốc bộ bằng hai bàn chân trần năm cây số mới đến trường. Lớp học đến trưa nghỉ ăn cơm, học lại buổi chiều, vì đường xa thầy cho hai anh em được ưu-tiên nghỉ sớm, lại cuốc bộ năm cây số mới về thấu nhà. Cứ ngày qua ngày hai đứa cuốc bộ mỗi ngày mười cây số, mỗi tháng chỉ được nghỉ hai ngày rằm và mồng một âm lịch. Theo học một năm với thầy Sinh biết đọc biết viết, biết làm những bài toán cộng trừ.
Mùa xuân năm 1953 thầy khóa Thúy ở làng Bình-An lên mở lớp dạy học ở làng Thổ Sơn ranh giới sát làng Phú-Gia gần đường đi hơn, nên tôi từ-giả thầy Sinh về học với thầy khóa Thúy. Bạn Khảm cũng theo tôi học thầy mới bỏ thầy cũ, hai anh em tôi học cùng lớp chữ quốc ngữ. Thầy khóa Thúy dạy tốt hơn thầy khóa Sinh, ông nầy dạy giỏi học trò dễ hiểu mau tiến-bộ. Học với ông được năm tháng, đến tháng 6/1953, chợ Thừa-Lưu ban đêm tự nhiên bị hỏa-hoạn thiêu rụi, phải kiến-thiết lại chợ mới. Xã nhờ thầy viết văn tế lễ Khánh-thành chợ, viết bằng chữ Hán. Không biết thầy viết những gì trong tờ văn tế mà bị vi phạm chính-trị, thầy bị bắt đi tù. Thế là anh em tôi phải nghỉ học, vừa tiếc nuối mình bị nghỉ học dỡ-dang, vừa thương thầy không biết thân phận thầy tù-tội nơi đâu mà thăm-viếng.
Văn-chương phú-lục chưa hay,
Không thầy dạy chữ, phải học cày cho xong.
Tôi lại tiếp tục đi chăn trâu cày ruộng. Mùa xuân năm 1954 chiến tranh gần ngày kết-thúc rất ác-liệt. Lính Pháp đốt hết nhà cửa, cưởng bức cả làng phải di-cư lên làng Trung-Kiền khu-vực trảng trống, cho ở tập trung tại đây, chia lô cất lều trú-ngụ. Được cha cho học lại với thầy Sinh ít tháng, thì Pháp bị Việt-Minh đánh bại tại Điện-Biên-Phủ ngày 07.5.1954. Đôi bên được lệnh đình-chiến do hội nghị Giơ-ne-vơ (Thuỵ-Sỉ). Cả làng được cho về lại chốn cũ làng xưa, tôi cũng tạ-từ thầy về làng nghỉ học.
Năm nay tôi vừa được mười sáu tuổi đời, cùng cha dở lều chuyển về làng sinh sống. Tuy hoà-bình nhưng đất nước vẫn còn chia đôi lãnh-thổ. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, miền Nam từ vĩ tuyến 17 cầu Hiền-Lương trở vào. Mỹ đưa cụ Ngô về làm Thủ Tướng miền Nam, cũng mở ra chiến dịch và các chính-sách để ổn-định lòng dân, viện-trợ cho dân nghèo đói, xóa nạn mù chữ v.v...
Thời gian nầy anh Sanh còn trẻ tuổi đẹp trai, con nhà giàu học giỏi. Anh tự nguyện làm việc nghĩa, đứng ra mở lớp dạy học bình-dân ban đêm cho con em mù chữ trong xóm chùa, học tại nhà ông Đê, mệ Đỉu. Ban ngày đi làm ăn, tối tập trung lại anh dạy cho học đến 23giờ mới giải-tán ra về. Trong lớp học được bốn anh em có trình-độ hơi khá ngang nhau, anh tách riêng ra Phan-Vịnh, Trịnh-Quyền, Lê- Diên, Hứa-Khảm dạy riêng chương trình học cao hơn và khuyến- khích thi-đua để học tốt. Trong-thời gian thọ giáo với anh trình-độ văn-hoá của tôi và các bạn cũng được nâng cao lên một ít, dù ít hay nhiều tôi cũng nhớ ơn anh ấy. Cho dù một chữ cũng thầy nửa chữ cũng thầy, nhờ vậy mà khi vào đời đi xa gia-đình cũng có mang theo chút ít văn-hóa tối thiểu để làm hành trang xử lý cho đời mình.
BÀI 2. MÁI NHÀ XƯA LÀNG XÓM CŨ
Từ năm 1955 đến năm 1959 tôi vẫn sinh sống với gia-đình làng xóm tại quê-hương. Khi đã được hồi hương về xóm cũ làng xưa, cha tôi dựng tạm lên một túp lều tranh cỏ che mưa nắng tạm thời để lo bắt tay vào làm kinh-tế ruộng vườn. Sau thời-gian một năm, kinh-tế gia-đình tạm ổn.
Vì cuộc chiến-tranh gần kết thúc nên rất căng thẳng ác-liệt. Pháp cưởng bức làng phãi dở nhà di cư ở tập trung cho chúng dễ kiểm sóat. Làng tranh-đấu không chịu dỡ nhà, chúng nổi nóng ra lệnh cho bọn tay sai phóng hỏa dốt sạch. Nhà tấm lợp tranh cỏ dễ cháy, mái nhà xưa chỉ còn một đống tro tàn. Toàn cả làng cùng chung số phận như nhau. Chỉ còn lại một cái nhà mái ngói có tường gạch của ông bà Sắc-Đ... Ông bà biết thương-lượng xin với Pháp nói là cái nhà thờ của gia-tộc, nên nó tha không đập phá, sau ngày đình-chiến gia-đình ông bà hồi hương về ở tốt lành nguyên vẹn, chỉ có một vài vết đạn nhỏ không đáng kể.
Toàn cả làng ai cũng dựng túp lều ở tạm, làng yêu cầu xã cho phép lên rừng khai-thác gỗ về cất lại nhà ở được chấp-thuận. Trong khi đi khai-thác phải làm đơn Thôn-trưởng chứng thực mang lên Xã phê chuẩn thuận cho, mới được mang theo lương-thực ở lại ăn làm. Nếu ai không xin tự tiện mang lương-thực đi bị Công-an chế-độ cũ xét gặp quy cho tội tiếp tế V.C, bị tù mục xương.
Mỗi đợt đi làm phải xin phép gia chủ gánh theo lương-thực, thợ rừng mang theo rìu, rựa, cưa, đục. Lộ-trình phải chui qua hầm tàu lửa Phú-Gia, thẳng đường rầy vào đến khe Bạch-Xà leo dốc núi đi mải cho đến trại Hang. Đây có một cái hang đá to ở được, mới dừng chân hạ trại ở lại cả tuần lễ đốn hạ cây to cưa xẻ ra thành kèo cột phách gỗ, đục lỗ bịn xỏ dây cột chặt kéo xuống núi vác ra đầm kéo về gần cửa hầm tàu mới vác vai đi về nhà. Đoạn đường đi trên núi dốc và dưới đường đằm ước chừng hơn mười cây số.
Cha tôi thuê mướn thợ rừng đi khai-thác bảy tám lần mới đủ nếp nhà, vì làm nhà rường theo kiểu Huế cổ-điển nên kèo cột nhiều lắm. Cây gỗ đã đủ mướn thợ mộc ông Bộ-Hòa làng Thổ-Sơn làm thợ cả, ông Tỏ học trò phụ, hai ông cặm cụi cưa bào đục đẻo hai tháng trời mới dựng nhà lên được. Cha mẹ cũng chuẩn bị tấm lợp bằng cỏ tranh đánh hom sáu chải-chuốt sạch-sẽ, dây buộc lạt lợp cả năm sáu tháng trước mới đầy đủ. Sườn nhà cây gỗ được thợ mộc bào trơn đóng bén, mái lợp sạch-sẽ gọn-gàng, trông lên cũng mát mắt, vây chung quanh sườn tre tráp tranh lát kín đáo, được tạm ổn cả nhà ở khỏi sợ các cơn mưa bão khắc-nghiệt tại miền Trung.
Lúc này anh Sanh được làng bầu làm Thôn trưởng nên nghỉ dạy học, anh em tôi cũng nghỉ học. Thời-gian nầy ngày tôi đi làm việc nhà, tối phải xuống xóm tre nhà mệ Tình để dạy cho các em nhỏ học bình-dân, những em nhà nghèo không có điều kiện đến trường.
Anh Sanh làm Thôn trưởng chỉnh-đốn tổ-chức lại, phân chia làng ra bốn liên-gia, mỗi liên gia phải bầu một liên-gia trưởng, tổ-chức các đoàn-thể thì có các lão-ông, lão-bà, nông-dân, phụ-nữ, mỗi đoàn-thể phải bầu Ban Chấp-Hành để lãnh-đạo.
Đầu tiên tôi được bầu Chấp-hành Thiếu-niên. Năm 20 tuổi sung vào đoàn-thể thanh-niên, tôi cũng được bầu làm Ban chấp-hành Thanh-niên. Làm chức-vụ nầy thỉnh-thoảng nhận được giấy mời đi họp đại hội tại Xã, phải cuốc bộ năm cây số mới đến địa-điểm họp, thường tôi chọn một chỗ ngồi sau cùng để an toạ. Cán-bộ xã khai-mạc cuộc họp tôi chỉ lắng tai nghe thuyết-trình thao-thao bất tuyệt, nghe hơi êm tai gió bên ngoài thoang-thoảng thổi vào phòng họp hiu-hiu mát-mẻ, tôi đánh một giấc ngũ. Ngũ gật mê-man ngon-lành, không đề-nghị không ý-kiến cho đến khi bế-mạc ra về.
Khi có Lễ Song-Thất hoặc Quốc-khánh 7/7, 26/10... nhiệm-vụ phải xắp chữ dán băng rôn những câu tung-hô và đả-đảo, tôi không tiện viết ra đây đọc kỳ lắm.
Mỗi khi đi dự lễ tôi phải thân-hành vác băng cờ khi đi cũng như khi về, chỉ làm tay sai cho các cấp lãnh-đạo thôn và đoàn-thể. Ăn cơm nhà vác ống loa hàng tổng, chẵng có được một tiếng khen ngợi, quyền-hạn gì cả, thêm mất công bỏ việc của gia-đình. Đôi khi báo với cha ngày mai con bận đi họp, nhìn nét mặt của cha thấy ông không được vui, nhưng chẳng nói gì, tôi hiểu ông chẳng phải nể-nang gì tôi, mà ông chỉ sợ mang vạ vào thân vu cho cái tội phản-đối chế-độ.
CHƯƠNG II. BỔN-PHẬN CÔNG-DÂN
BÀI 3. BỔN PHẬN, GIA-ĐÌNH, XÃ-HỘI
Lúc nầy tuổi đã trưởng-thành phải làm nghĩa-vụ đầu tiên cho làng, vì làng tôi có hương-ước ấn-định : Mỗi người nam trong làng khi tuổi đã trưởng-thành, không sớm thì muộn phải qua một khóa (một nhiệm kỳ) một năm đầu-xâu cho làng (tiếng Bắc là anh mõ) làm tay sai cho làng, để các vị bô-lão và ông Thôn-trưởng sai-khiến khi có việc cần. Mời làng họp, đi quyên tiền tế-tự xuân-kỵ, thu-thường, tống-đạt giấy báo thuế nông-nghiệp, khi làng cúng-tế bưng cỗ đến nhà cho các vị bô-lão bị ốm-đau không đi dự tiệc được, bị sai làm đủ việc v.v...
Làm chức-vụ nầy là một tay sai mà thấy nhàn hơn chức-vụ trên. Được bàn-giao Ban chấp-hành Thanh-niên cho người khác, được miễn đi canh-gác ban đêm giữ an-ninh trật-tự trong làng. Thu xong vụ thuế nông-nghiệp lại được tiền thù-lao, ông Thôn-trưởng trích quỹ thôn cho 10$, tỷ giá tiền bây giờ cỡ 100.000$. Nhưng ông chẳng đưa trực-tiếp cho tôi, mà lại gởi cho cha mang về sung vào quỹ gia-đình để mẹ chi-tiêu việc chợ-búa.
Trong làng có người qua đời tôi cũng đi gánh đám đưa các vị đến nơi an-nghỉ cuối cùng. Chiến-tranh chống Pháp đến lúc ác-liệt, đình chùa bị bom đạn tan-tành, nên phải đóng góp tiền bạc công sức xây-dựng lại. Thành-lập Đoàn Gia-đình Phật-Tử để hương-khói tụng-niệm ngày rằm, mồng một Âm-lịch hằng tháng tôi cũng có tham-gia.
Năm 18 tuổi cha đi nói vợ. Phải làm rể 3 năm mới được cưới, công việc làm rể phải đi cày ruộng, vun luống khoai lang cao ngang thắt lưng cho gia-đình bên vợ, làm một ngày là oải ba sườn. Mang tiếng thanh-niên nhưng sức còn yếu, lao-động không kịp ông già vợ. Nhờ ông có lòng thương con rể nên chẵng trách-móc gì.
Tôi lấy vợ là do cha mẹ quyết-định, vợ chồng tôi chẵng quen biết trước và tìm hiểu gì cả, nhìn nhau như mặt trăng, mặt trời, do cái tội mắc cở, chứ chẳng phải chê-bai gì nhau. Làm rể đã lâu ngày, cha vợ thấy hai đứa chẵng tâm-sự gì với nhau. Tôi nhớ có một hôm ông gọi cả hai chúng tôi đi theo ông ban đêm để thăm chẹp (đó), ông dàn cảnh cho ngồi trên đường quốc-lộ, ông lội xuống ruộng đi mất, cở một tiếng đồng hồ mới quay trở lại, hai đứa tôi cứ ngồi im-lặng chẵng đứa nào nói năng một điều gì. Bây giờ nhớ lại mới buồn cười. Đến năm 1960 nhà cửa làm xong xuôi ổn-định, cha mẹ lo cưới vợ cho tôi, đang hội ý với nhau, tôi rình nghe, hai ông bà bàn-bạc việc sắm-sanh lễ vật. Bà nói theo thông-lệ của phong-tục, phải làm một đôi hoa tai chạm lọng một chỉ vàng y (vàng 24 ca ra) là một số tiền hơi lớn nhưng phải có. Ông nói thời nầy làm bông chạm lọng là xưa chỉ có mấy bà già còn đeo mà thôi, hiện nay tôi thấy con gái toàn đeo hoa tai bèo, mình đi đặt cho thợ họ làm đôi hoa tai bèo hợp thời-trang cho con dâu nó thích. Bà nói : Hơi đâu mà ông đi chiều con dâu, theo tôi nghĩ, bông tai bèo là để đeo đi chơi các lễ thường, còn đây là mình sính lễ cưới xin, nhà mình con cái hiếm-hoi mà nó là con trưởng nam, làm bông tai bèo đi cưới vợ răng được. Bà nói tiếp, ông không nghe người ta nói : Lênh-đênh bèo nổi trên sông, bềnh-bồng trôi dạt biết về nơi mô. Ông chịu thua lý của bà, nhất trí đặt làm đôi hoa tai chạm lọng. Lại bàn qua cặp áo cưới, phong-tục ở Huế áo cưới cô dâu phải mặc hai chiếc áo dài. Bà nói : Mình mới làm nhà cửa vừa xong tiền bạc cũng thút-mút, may cả cặp áo dài mua vải tốt lấy đâu ra tiền, còn phải sắm sửa cổ bàn nữa, ít nhất cũng phải mời bà con họ-hàng, làng-xóm, tính sơ cũng bốn mâm, đãi họ đàn gái đưa dâu hai mâm, con cháu trong nhà nữa, vị chi phải bảy tám mâm chớ phải ít sao, mà đi vay mượn thì cũng phải trả. Cưới rồi bắt con dâu đi làm trả nợ là tội nghiệp cho chúng nó, mà mình cũng mang lấy tiếng tăm. Tôi nghĩ ông bà sui và con dâu họ cũng hiểu cho hoàn-cảnh gia-đình mình. Ông bà nhất trí may cặp áo cưới bằng vải nội-hóa loại xoàng, bàn xong việc bông hoa mua sắm áo quần. Cha đi nhờ thầy xem ngày lành tháng tốt để tổ-chức đám cưới, năm 1960 là cha mẹ cưới vợ cho tôi, rước nàng dâu mới về chung sống với gia-đình, vài tháng sau cô em gái cũng cất bước theo chồng. Vợ chồng tôi đi làm lụng với nhau cũng vất-vã, hết việc đồng-áng lên núi chặt củi đốt than. Trở lại mùa cấy gặt thì làm việc đồng-áng, chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tương-lai mù-mịt, lấy nhau cả một năm mà chưa dám sinh con.
Lúc này lại nhận được lệnh gọi đi quân-dịch, phải đi trình-diện khám tuyển, Bác-sĩ khám chưa đủ sức-khỏe, Hội-dồng tuyển-binh cho hoãn lại năm sau sẽ xét tuyển. Ở nhà được một năm, qua năm sau có lệnh gọi lại, tôi nghĩ lần nầy là phải đi thôi. Đi quân-dịch thời ấy nhà nước chỉ nuôi cơm, chẵng có lương-bổng gì. Tôi lo-lắng nhà thì nghèo mà đi các thứ lính không lương lấy gì ăn tiêu, phần tiết-kiệm được đồng nào gởi về phụ giúp gia-đình. Tôi tính-toán suy-nghĩ chắc phải tìm lính gì có lương bổng đi đăng-ký trước, dù gì mình cũng phải đi làm lính, không sớm thì muộn, chẵng ai cho ở nhà với vợ mãi được đâu. Tôi nhất quyết phải bỏ lại cha mẹ, vợ, em, làng-xóm để ra đi làm bổn phận nam-nhi hồ-thỉ.
đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với vợ (mẹ) biết ngày nào khôn.
(Ca dao)
CHƯƠNG III. NGHĨA-VỤ QUÂN-SỰ
BÀI 4. ĐĂNG-KÝ LÍNH BIỆT-ĐỘNG-QUÂN MIỀN NAM.
Đầu-óc tôi đang suy-nghĩ tìm-kiếm đăng-ký vào binh-chủng nào cho có lương, thì gặp dịp Xã đưa thông-tư về làng phổ-biến nhà nước đang tuyển-mộ lính Biệt-Động-Quân ai muốn đi đến Tiểu-Khu Thừa-Thiên để đăng-ký. Sau khi bế-mạc cuộc họp của thôn, về nhà xin cha mẹ đi đăng-ký lính nầy. Hồi đầu cha bảo đi lính nào phục-vụ gần địa-phương, thỉnh-thoảng về thăm gia-đình vợ con, tau nghe cái lính nầy ở mải trong Sài-gòn xa-xuôi quá chớ nên đi, tôi phải lựa lời lẽ năn-nỉ phải trái mãi, ông bà mới xiêu lòng cho tuỳ ý. Xong chuyện cha mẹ, cũng phải bàn qua với bà xã vài câu cho hợp lệ, tài gì mà bà xã giữ được chân, khi lòng tôi đã quyết.
Trong khi sắp đi xa mẹ tôi sắm một mâm cổ, để cha cúng bái Tổ-Tiên Ông-Bà, cha tôi khấn-nguyện được ơn trên phò-hộ tôi được bình-an mạnh-khỏe, ngày ra đi có ngày trở lại. Cha cũng dặn-dò tôi đủ điều không thể nhớ hết nổi, chỉ nhớ vài câu đại khái, nên làm việc thiện lánh việc ác, khôn-ngoan xão-quyệt quá người ta cũng ghét, dại-dột thiệt-thà quá thiệt cho bản thân, con liệu mà ăn ở đối-nhân xử-thế cho phải đạo là tốt, điều cần nhất giữ-gìn sức-khỏe là quí hơn tiền tài vàng bạc, kể cả ngọc ngà châu báu cũng không sánh bằng sức-khỏe của con người. Câu cuối ông dặn thêm phải biết thương cha nhớ mẹ, thương vợ nhớ đến các em và quê-hương tình làng nghĩa xóm. Chớ nên vui-vẽ quá trớn mà quên hết lời dặn dò của cha và nhiệm-vụ của cấp trên giao phó, quên gia-đình là con lỗi đạo, quên nhiệm-vụ bị khiển-trách phạt tù tội không có cơ-hội tiến thân, tôi cũng hứa xin giữ lời cha mẹ dạy con không khi nào dám quên. Sau khi cúng-bái Tổ-tiên Ông bà xong, cha mẹ dọn đồ cúng xuống bàn, quanh-quẩn cả gia-đình dùng bữa cơm thân-mật, ngày mai xách gói lên đường. Đồng hành có ba anh em Vịnh, Sâm, Sơn đã cùng rủ nhau từ mấy hôm nay, khi ra đến Tiểu-khu Thừa-Thiên (Huế) ba anh em vào xin đăng-ký lính Biệt-Động-Quân. Ngày vào Phòng xét tuyển, Vịnh, Sâm đủ tiêu-chuẩn được thu-nhận, Sơn bị rớt vì quá thấp không đủ chiều cao, thất-vọng lủi-thủi ra về một mình buồn da-diết, hai anh em được trúng tuyển ở lại cũng ngậm-ngùi thương hại cho Sơn.
Trong năm nay có một số đông anh em trong làng đồng trang lứa, họ đã rủ nhau đăng-ký lính Bảo-An đi gần ngót, anh em tôi thấy ở nhà cũng buồn nên rủ nhau đi .
Tôi khám sức-khỏe đã trúng tuyển, hai hôm sau Ban-Tuyển binh thu nhận hồ-sơ khai-sinh vợ, hôn-thú, thẻ căn-cước, để thiết-lập hồ-sơ quân-bạ. Binh 2 Phan-Vịnh số quân 60/202.413 nhập ngũ ngày 07/9/1961 Binh-chủng Biệt-Động-Quân tại Tiểu-khu Thừa-Thiên. Nay tôi đã chính thức là người của quân-đội Chính-phủ miền Nam. Phải ở tập-trung tại Mang-Cá Huế để đợi tuyển-dụng cho đủ số-lượng, thời-gian chờ-đợi tại đây cả hai tháng trời nhà nước phải nuôi ăn, lần đầu tiên tôi được ăn cơm nhà binh tập-thể tại đồn Mang-Cá, ở đây nhà bếp cho ăn cũng tạm được. Mỗi ngày chỉ có hai lần tập họp điểm danh sáng và tối mà thôi, chẵng có làm công việc gì cả, tập họp kiểm-danh buổi sáng xong, rủ nhau kéo ra Phu-Văn-Lâu chơi bơi lội tắm giặt trên sông Hương, trưa về dùng cơm lại đi chơi tiếp. Có một số anh em nhà quê mới lên tỉnh lần đầu tiên còn ngáo-ộp, đi xa cha mẹ cho ít tiền mang theo hộ thân khi cần đến không biết giữ-gìn, bị bọn du-đảng bụi-đời làm cò-mồi dụ-khị đánh tráo bài ba lá, mấy anh có máu mê cờ-bạc moi tiền ra đặt xuống bị chúng tóm hết sạch vấy. Bên phe lính mới thì đông, tụi đánh lận bài tráo chỉ có ba bốn đứa nó ăn hết tiền đã đầy túi vội la lớn có Cảnh-Sát đến bỏ chạy mất tiêu. Phát-hiện gian-lận, biết nó nơi đâu mà tìm, đành chịu thua, bị chúng cho một bài học đau hơn hoạn. Khi chờ-đợi tại đây tôi cũng xin phép cán-bộ tuyển-binh về thăm lại nhà ba bốn lần. Tháng 12/1961 mới đưa đi thụ-huấn, trước khi đưa đi huấn-luyện cán-bộ cho biết ngày giờ lên tàu lửa, để anh em về đông-đủ tập họp mà đi, tôi cũng về thăm nhà lần cuối cho bà xã biết tôi đi chuyến tàu đêm tại ga Huế, sáng 07g30 tàu chạy ngang qua địa-phương, tôi trông xuống bờ ruộng bên lề đường tàu, nhìn thấy bà xã đứng một mình, ngữa mặt nhìn lên tàu, tôi đứng sẳn ngoài cửa đưa bàn tay bai-bai vài cái, tàu đã chạy đến cửa hầm Phú-Gia chui qua mất hút, tôi bùi-ngùi thương vợ muốn ứa nước mắt. Tàu chạy một ngày ròng rã đến 24g00 đêm vào tới ga Nha-Trang thì xuống tàu. Có cán-bộ hướng-dẩn đến đoàn xe quân-vận chờ sẳn ở bên ngoài sân ga, cán-bộ ra lệnh cho anh em leo hết lên xe chở ngược lui Ninh-Hòa rồi rẽ về Dục-Mỹ là đã đến địa-điểm huấn-luyện. Năm ấy Trung-tâm huấn-luyện mới thành-lập, nhà cửa còn lụp-xụp, không đủ cho lính ở phải che thêm lều vải ở tạm, ban ngày trời nắng nóng lắm không chịu nổi. Qua ngày sau lãnh quân-trang quân-dụng đầy ăm ắp một xách maranh (túi đựng quần aó), lãnh vủ-khí mỗi người một khẩu súng Garan Ml, một sợi nịt lớn gọi là xăng-tuya-rông. Thành lâp Đơn-vị để huấn-luyện hai anh em tôi và Sâm chẳng được ở chung với nhau, tôi thuộc ĐĐ3/B Sâm ĐĐ4/B. Huấn-luyện thì ít mà đi làm tạp-dịch thì nhiều, xe GMC cũa Trung-Tâm chở khoá-sinh chúng tôi lên tới đèo Phượng-Hoàng, đường đi lên Banmêthuộc chặt cây cắt tranh chở về Trung-Tâm làm lều trại để ở.
Ăn tết dương-lịch, âm-lịch năm 1962 tại T.T.H.L. anh Sâm nhớ bồ dù về thăm ăn tết ở nhà, còn tôi thì nhát gan không dám làm việc phạm kỹ-luật, ở lại quân-trường ăn tết đầu tiên trong quân-đội, nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ vợ buồn muốn thúi ruột. Tết xong anh Sâm trở lại trình-diện bị phạt, trước tiên cạo đầu trọc-lóc như thầy chùa, nhốt vào chuồng cọp, kẽm gai đan kín, thấp, nhốt vào thì chỉ có ngồi còm lưng, bò bốn chân như con cọp, sau phạt đi nhảy tử-thần khô tại núi Đeo. Dây tử-thần là một sợi dây cáp dăng từ chóp núi xuống chân núi dài cở 150m, khi nhảy móc rõ-rẻ vào dây cáp, người nhảy hai tay cầm chặt hai chiếc vòng sắt gắn liền với rõ-rẻ chỉ co giò lên cho hỏng mặt đất, thế là bánh xe rõ-rẻ đưa người chạy xuống độ dốc của sợi dây, khi chạy xuống gần chạm mặt đất có người cầm cái cờ đỏ phất mạnh một cái là phải buông tay té theo thế nghiêng mình kê bả vai xuống bãi cát nhào-lộn theo trớn bốn năm vòng đúng tư-thế thì an-toàn, té thất thế thì bị thương tật cột sống, gãy cổ, có khi bị vở gan mật gây chết người, nếu không chết cũng bị tàn-phế suốt đời. Qua một thời-gian cho khóa-sinh bị phạt nhảy thử nghiệm, có gây ra chết người nên mới dẹp bỏ môn nầy, chỉ còn huấn-luyện dây tử thần nước mà thôi.
Tháng 2 năm 1962 bắt đầu vào khuôn-khổ huấn-luyện rất căng thẳng. Súng Garan M.1. không có dây mang, luôn-luôn cầm hai tay nghiêng đầu súng về bên trái 45 độ, vai mang ba-lô nặng 20 kg, đầu đội nón sắt hai lớp, chân mang giày Bốt-đơ-sô, khi di-chuyển ra bãi tập năm cây số, phải chạy đều bước hai hàng dọc, khi đi cũng như khi về, không bao giờ cho đi đều bước thong-thả, thời-gian nầy vừa làm tạp-dịch vừa huấn-luyện quân-sự, bị hành-hạ quần-thảo thật gian-khổ, có một số anh em không theo nổi đã đào-ngũ tại quân-trường.
Mấy ông Sĩ-quan huấn-luyện-viên nói thao-trường đỗ mồ hôi, chiến-trường bớt đỗ máu. Nhà bếp của Trung-Tâm nuôi ăn rất tệ hại mất vệ-sinh, cơm thì hai phần cơm một phần lúa, thức ăn canh rau muống già đựng trong sọt cần xé gánh xuống suối chao-đão vài lần đem lên đổ vào chảo nấu với nước lã và muối hột, món ăn mặn cá biển ươn ình kho với nước và muối thấy toàn xương ăn mặn chát. Nhưng đi tập dợt về bụng quá đói cũng dứt một gamen đầy ăm-ắp ngon-lành.
Khóa A và B nầy khai-giảng đầu tiên lúc Trung-tâm mới thành-lập nên rất thiếu-thốn mọi mặt. Trung-tâm phải giữ lại làm tạp-dịch kiến-thiết quân-trường, mọi người đều được lãnh lương hàng tháng, riêng mình tôi chỉ được nuôi cơm giống như đi quân-dịch, tôi tìm hiểu nguyên-nhân, anh thư ký quân-số báo-cáo đào-ngũ nhằm tên của tôi nên bị ngưng lương, tôi làm đơn khiếu-nại chẵng được giải-quyết, cũng ráng cố gắng chịu-đựng qua thời-gian huấn-luyện nầy. Ngày mãn khóa rời quân-trường ra-đơn vị hành-quân, xe quân-vận chở hết vào ga Nha-Trang lên xe lửa vào ga Saigòn, xe chở về Miền Tây tỉnh Long-An trình diện Đại-Đội 32 Hành-Chánh Quản-trị Biệt-Động-Quân, tôi lại làm đơn trình bày lý-do gần một năm tôi chưa có lương, Đại Đội-Trưởng cho tôi được lưu-trú tạm-thời với năm anh em cùng khóa hàng ngày canh-gác cổng ra vào, chờ đợi điều-chĩnh lương-bổng cả một tháng mới được, cho tôi ký lãnh một tháng để thanh-toán tiền cơm tháng khi lưu-trú tại đây. Điện đến Hạ-sĩ-quan Hậu-cứ tại Trại Lê-văn-Trúc Mỹ-Tho lái xe Dodge đến Long-An nhận lãnh sáu anh em tân-binh, về đến căn-cứ hậu-trạm, ra lệnh gởi hết rương xách túi quân-trang cồng-kềnh vào kho Đại-Đội, Hậu-cứ trang-bị súng-đạn xong, vai mang ba-lô tay cầm súng nạp đạn tư-thế sẳn-sàng chiến-đấu lên xe Dodge của Hậu-trạm tài-xế đưa đến bắc Rạch-Miễu đi Kiến-Hòa xuống phà chạy cặp bến xe leo lên đường chạy mãi về tới tỉnh Kiến-Hòa xuống xe, đến tàu thuỷ lên tàu chạy dọc theo sông Hàm-Luông. Trong khi đang di-chuyển trên tàu tôi nhìn thấy quang-cảnh mênh-mông, sông nước hai bên bờ sông nơi nào cũng trùng-trùng điệp-điệp toàn cây dừa nước rậm-rạp, chẳng thấy loại cây gì mọc xen lẫn.
Tàu chạy cả buổi sáng cho đến 15giờ chiều mới cặp bến chợ huyện Thạnh-Phú nơi đồn-trú của đơn-vị hành-quân. Tân binh chúng tôi có sáu anh em được bổ-sung về đây. Thường-vụ Đại-Đội hướng-dẫn trình-diện Đai-Đội-Trưởng, ông dặn-dò anh em chúng tôi đôi lời, rồi ra lệnh Thường-vụ bổ-sung cho các Trung-đội mỗi nơi hai người, tôi được bổ-sung về Trung-đội 1 trinh-diện Trung-đôï-trưởng nhận công-tác. Tôi được phân-công làm khói lửa cho Ban Chỉ-huy Trung-đội gồm có sáu miệng ăn, sáng nhận tiền ra chợ mua thức ăn về trại nấu cơm, dến 10 giờ dọn ra mời ăn bữa trưa, rửa dọn nghỉ-ngơi lo bữa chiều. Bổn cũ soạn lại cứ thế mà làm, khỏi đi hành-quân tuần-tiểu trong khu-vực của huyện, ban đêm phải gác hai giờ. Ở đây được ba tháng thì có lêïnh thuyên-chuyển cả Đại-Đôïi về Liên-Trường Võ- khoa Thủ-Đức. Về đây tôi nhận nhiệm-vụ mới, được bổ sung cho Tiểu đội 1 Hành quân tuần-tiểu ban ngày lẫn đêm, có khi đi phục-kích giữ an-ninh tại ấp Tân-Phong, Đình Phong-Phú, Bân Ông Thàn quanh khu-vực quân-trường để sinh-viên sĩ-quan đi huấn-luyện chiến-thuật ban đêm cũng như ban ngày, ở đây cũng nhàn-rỗi, chẳng có đánh đá đụng trận nào cả, một tháng sau Hạ-sĩ-quan hậu-cứ đến phát lương tôi được lãnh một lần tám tháng lương, thời-gian thụ-huấn chưa lãnh. Trả hết nợ cho bạn-bè, nợ quán của mấy mụ vợ lính bán quán cà-phê sáng ăn uống thiếu ghi sổ, tiền còn lại đi may sắm áo quần sơ mi quần tây, sắm đồ dùng cá-nhân, mua giày dép, mua khăn len, áo ấm để làm quà tặng cho gia-đình. Mua giấy ca-rô bút máy về trại viết đơn gởi Đại-đội-trưởng xin được nghỉ phép thường niên 15 ngày, ông nhận đơn xét thấy sự thật hơn năm chưa được nghỉ phép, ông chấp-thuận cấp phép, ra lệnh thư ký tiền-trạm làm giấy phép trình lên Đại-Tá Chỉ-huy-trưởng Liên-trường ký xong gọi trình-diện đưa cho, cầm được tôi không quên lời cám ơn Trung-uý rồi chào ông trở về phòng nghỉ của binh-sĩ, sung-sướng vô cùng, mừng hơn là trúng số độc-đắc, mang súng-đạn quân-trang gởi vào kho Tiền-trạm, giả-từ tạm biệt bạn-bè, xách túi hành-lý qua ga tàu lửa Thủ-Đức mua vé tàu đi Huế. Về phép lần thứ nhất trong đời đi làm lính, lại mới được truy-lãnh tám tháng lương tha-hồ mua sắm quà cáp về tặng gia-đình cháu-chắt. Năm nay về phép quê-hương vẫn còn an-ninh yên-ổn đi lại thăm-viếng bà con làng xóm khắp nơi chưa có cách-mạng bắt-bớ, đêm vẫn ngủ nhà với gia-đình được. Dẫn bà xã đi Huế ra chợ Đông-Ba mua sắm quần áo vải đẹp, đổi lại đôi hoa tai cho bà xã hài lòng. Chung sống với gia-đình 10 ngày qua mau quá, sắp hết phép, mẹ cũng sắm một mâm cỗ cho cha cúng ông bà tổ-tiên phù-hộ cho con và dâu ra đi được bình-an mạnh-khỏe, dùng bữa cơm gia-đình nghỉ-ngơi trò-chuyện. Sáng ngày mai dắt vợ lên đường từ-giả tất cả, trở về Đơn-vị trình-diện. Năm nay cha mẹ vẫn còn khỏe, ông 52 tuổi, bà 48 tuổi, nên tôi cũng yên lòng mà đi. Vợ chồng vào đến nơi trình-diện trả giấy phép đúng hạn, báo cho Đại-đội-trưởng có mang theo vợ. Ông ra lệnh cho Thường-vụ sắp xếp nơi ăn chốn ở tại Khu gia-binh Liên-trường. Ở đây vợ tôi chỉ đi chợ nấu cơm hai đứa ăn với nhau, những ngày tôi được đổi ca nghỉ ở nhà, còn khi đi công-tác bên ngoài thì bới cơm vào camen ba ngăn đậy nắp ràng dây thun kỹ, gởi cho xe GMC đưa cơm hàng ngày của quân-trường ngày hai lần trưa và chiều.
Thời-gian cứ trôi đi trôi đi sự việc cứ diển-biến như thường lệ, vợ chồng tôi sống với nhau được sáu tháng, thì bụng bầu vợ đã thấy bự, tôi khuyên bà xã nên về quê sinh nở để nhờ Bà ngoại lo cho một đứa con đầu lòng. Vợ đồng ý về quê, tôi đưa qua ga Thủ-Đức mua vé ra tàu về quê.
Tôi trở lui về đơn-vị công việc cũng như thường ngày, dạo nầy ăn cơm tháng vợ lính nấu, đến tháng lãnh lương trả tiền. Vào ngày 01.11.1963 Dương-Văn-Minh lật đổ Ngô-Đình-Diệm, tình-hình chính-trị lúc nầy rất rối-ren, Quân Giải-Phóng Miền Nam cũng lớn mạnh lên, Đại-Đội được lệnh rời khỏi Liên-trường Thủ-Đức, di-chuyển về Trung-Lương Mỹ-Tho để thành-lập Tiểu-Đoàn 52 Biệt-Động-Quân. Đưa đi huấn-luyện bổ túc tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Động-Quân Trung-Hòa Củ-Chi Hậu-Nghĩa. Thời-gian huấn-luyện tại đây cũng đụng nhiều trận với quân Giải-phóng, ác-liệt nhất trận Hố-Bò bị chết Cố vấn Mỹ, nhiều lính Biệt-Động-Quân chết và bị thương, bản thân tôi được bình-yên vô-sự. Sau ngày mãn khóa học cả Tiểu-Đoàn di-chuyển về tại Mỹ-Tho.
Tiền trạm đóng tại chùa Ông, về đến đây Tiểu-Đoàn nhận lệnh hành quân liên-tục. Hành-quân Tiểu-khu Long-An vừa về đến trại, nhận lệnh hành-quân Định-Tường vừa chấm dứt lại nhận lệnh hành quân Tiểu-khu Kiến-Hòa, cứ xây quanh như chong-chóng, không có được một ngày nghỉ. Đi hành-quân băng sông lội rạch áo quần giày vớ lúc nào cũng dính đầy bùn lấm ẩm-ướt thật là gian-khổ không thể tưởng-tượng. Khi bình-thường còn nản chí, khi đụng trận lại càng bi-đát hơn. Bạn-bè người bỏ mạng sa-trường kẻ thương-tích tàn-phế, có đôi khi lội suốt từ sáng đến chiều tối bị đụng trận không được một hột cơm vào bụng đói muốn rã ruột. Cứ ngày đi đêm dừng nghỉ, hết xứ nầy đến nơi khác, cây cối rậm-rạp, sông-rạch chằng-chịt, tôi cứ mang một túi xách cứu thương và khẩu súng Carbin lủi-thủi đi theo đoàn quân tham-dự các cuộc hành-quân liên-tục không trốn tránh một ngày nào.
Sau Tiểu-đoàn dời Tiền-trạm về đóng tại Long-An, Đơn-vị cũng đi hành-quân hai ba tháng mới về tiền-trạm nghỉ được một hôm lại chuẩn-bị đi tiếp. Cũng có một số binh-sĩ không chịu-đựng được gian-nan nguy-hiễm bỏ đào-ngũ về đăng-ký lính khác. Sáu anh em tân-binh khóa của tôi được bổ-sung về đơn-vị 1962 người chết kẻ bị thương có một anh đào-ngũ, chỉ còn lại một mình tôi là mạnh-khỏe đang-phục vụ Đại-đội 4/52 Biệt-Động-Quân.
BÀI 5. MỘT TRẬN ĐÁNH NHỚ ĐỜI
Tôi tham-dự một trận đánh nhớ đời tại Lương-Hòa Thượng, thuộc huyện Đức-Hòa, Long-An. Vào O700H không nhớ ngày, nằm trong thời-gian tháng 12 năm 1964, Tiểu-đoàn được Giang-Đoàn 22 đưa hết binh-sĩ của đơn-vị qua bên kia sông Vàm-Cỏ Đông, Tiểu-Đoàn-Trưởng ra lệnh cho tất cả bốn Đại đội, mỗi Đại-đội một cánh quân di-chuyển trong rẩy mía đường, song song theo con sông Vàm-Cỏ-Đông về hướng tây huyện Đức-Hòa. Như mọi ngày tôi cũng mang một túi xách cứu thương đựng đầy những gói băng-bó cá-nhân để cấp-cứu cho thương binh khi lâm trận, tay cầm khẩu súng Carbin lên đạn sẳn, đi theo Ban chỉ-huy Trung-Đội 1 Đại-Đội 4, đơn-vị di-chuyển được một cây số thì nghe có tiếng súng AK trong các đám mía đường bắn ra, tôi trông thấy binh-sĩ của Đại-đội 1 đã có hai người bị thương y-tá đang băng-bó, tiến xa một quảng nữa, thì nghe anh mang máy truyền-tin PRC 25 của Trung-đội báo lại cho Trung- đội-trưởng, lệnh của Đại-bàng cho biết cánh quân Đại-đội 1 đang đụng-độ rất nặng, đã có số binh-sĩ bị thương và tử trận. Đơn-vị chúng tôi đi cánh quân sát bờ sông, nhìn thấy trực thăng đáp xuống tản thương, Trung-đội-trưởng ra lệnh binh-sĩ đề cao cảnh-giác, sẳn-sàng chiến-đấu, tôi vừa đi theo ban chỉ-huy Trung-đội nhìn kỹ phía trước bên trái bên phải từ sáng đến gần trưa chẵng thấy một bóng dáng VC nào mà nổ súng cho phí đạn. Khi cánh quân cùng Ban Chỉ-huy của Trung-đội tôi tiến đến sát con rạch nằm chận ngang phía trước mặt. Tai tôi nghe một phát súng bên kia rạch bắn qua rất gần, trúng phải đầu anh lính mang máy truyền-tin Trung-đội vở sọ ngã nhào chết liền tại chỗ, tôi thấy đã chết nên không băng-bó, ông Trung-đội-trưởng, cấp-bậc Chuẩn-uý mới về đơn-vị mang khẩu súng Colt 45 đầu đội mủ nâu đi ngóc-ngách bị một phát súng, đạn xuyên qua trước trán hơi sâu, té ngữa máu ra đầm-đìa, tôi chạy lại bên ông ngồi xuống xé băng để bó vết thương cho ông ấy, tai tôi nghe bỏm một cái sát mé rạch gần chỗ tôi đang ngồi, nổ ầm lên một tiếng điếc cả tai bùn nước khói bắn lên tung-toé phủ cả một vùng, tôi tưởng là đã chết theo các bạn rồi, khi hoàn hồn nghe đầu gối hơi đau nhói, biết mình mới bị thương chưa chết vẫn còn đi cà-nhót được, tôi đi lùi về phía sau gặp được TS1 Hớn tôi cho anh hay, anh lính truyền tin đã chết, Trung-đội-trưởng có lẽ cũng chết vì đã bị thương thủng trán quá nặng. TS1 Hớn là Trung-đội-phó từ lâu sống chung trong ban Chỉ-huy Trung-đội bạn chơi thân với nhau, ông ấy choàng vai tôi dìu lui phía sau cả hai trăm mét thì thấy một số binh-sĩ bị thương và tử trận được cứu ra khỏi làn đạn giao-chiến, nằm ngồi la-liệt chờ trực-thăng cứu thương đến di-tản, tôi ngồi xuống đây với anh em tự tay băng bó rịt lại vết thương cho kỹ, cở năm phút nghe có tiếng trực-thăng đến bốc hết số binh-sĩ bị thương và tử trận rồi cất cánh bay lên ra khỏi trận-địa, từ đây tôi mới hú hồn thở phào một cái nhẹ nhỏm, biết chắc mình đã được bạn bè cứu mạng.
Về đến Tổng-Y-Viện-Cộng-Hòa Saigòn, đầu gối của tôi bị sưng to nhức nhối không thể đi lại được nữa y-tá đưa vào phòng mỗ, Bác-sĩ gây mê mổ lấy mãnh đạn trên đầu gối ra để nằm trong phòng lạnh một đêm, ngày sau đưa ra ngoài điều-trị được ba ngày thì bó bột từ bắp đùi cho đến bàn chân, thế là cái chân phải của tôi to-tướng, trắng-lốp, nặng-trịch, ngay-chò, chẵng duỗi ra co vào được nữa, bệnh-viện cho ký nhận một cặp tó để chống nạnh di-chuyển khi cần, nằm tại đây được năm ngày sau có một số anh em bạn lính cùng đơn-vị chơi thân với nhau, họ được may-mắn sống sót mạnh-khỏe bình-an, rủ nhau sáu anh em đến thăm tôi tại bệnh-viện, họ kể chuyện lại cho tôi nghe, trực-thăng tải thương chuyến của mầy là cuối cùng.
Sau nầy VC xung-phong đánh tan-tành cả Tiểu-đoàn, Bộ-Chỉ-huy Tiểu-đoàn chết sạch, đứt liên-lạc, các Đại-đội bị thương và chết hết phân nữa, ai bị thương nhẹ chạy được may ra còn sống, ai bị thương nặng đi không được là chết hết, Trung-đội-trưởng, Tiểu-đoàn-trưởng đã bỏ xác tại trận.
Sau khi đứt liên-lạc với Tiểu-Đòan tan-rã hàng-ngũ chạy tán-loạn. Tụi tau chạy lui ra xuống bờ sông nhờ Giang-Thuyền cũa Tiểu-Khu Long-An cứu mạng bốc hết anh em còn sống sót đổ hết qua bên kia sông mới còn có ngày hôm nay đến thăm mày. Tôi nghe các bạn kể xong câu chuyện, hú hồn hú vía nói với các bạn, mạng cũa tau còn hên chưa tới số, nếu bị thương trễ năm mười phút sau là đã bỏ mạng sa-trường rồi, còn đâu nữa mà các bạn tới thăm. Mấy anh em chuyện-trò qua lại gần một giờ đồng hồ, các bạn chúc tôi điều trị chóng bình-phục rồi từ-giả ra về, anh em cho hay số còn lại đang an-dưỡng tại Quân-đoàn III Biên-Hòa chờ bổ-sung quân-số.
Tôi nằm Bệnh-viện Bác-sĩ cho uống thuốc viên 10 ngày thì cho xuất Viện về điều-trị tại gia 29 ngày tái khám. Về nhà xa quá trong khi người còn thương tích, về nhà sợ cha mẹ vợ con buồn. Hồi ấy Hậu-trạm Tiểu-doàn vẫn còn ở Long-An, tôi được nhận giấy xuất viện về thẳng Hậu-trạm trình-diện nghỉ-ngơi tại đây cho đến ngày tái khám nhập viện lại, Bác-sĩ cho cắt bột vết thương cũng lành, nhưng chân vẫn còn ngay-chò, chưa co vào duỗi ra được, Bác-sĩ cho nghỉ tiếp 29 ngày nữa để tập thể-dục cho cái chân trở lại bình-thường mới đi làm việc. Tôi nhận được giấy xuất viện lần thứ hai cũng được nghỉ dài ngày, mừng quá về lại đơn-vị xin đổi giấy phép nghỉ tại gia. Lúc nầy mặc áo quần thường dân đi xe khách về Huế, lần nầy về làng ấp chiến-lược đã bị phá huỷ tan-tành, ban ngày thì của quốc-gia, ban đêm của Cách-mạng, chỉ viếng về nhà ban ngày một vài tiếng đồng hồ thăm cha mẹ vợ và các em rồi vào Lăng-Cô ở lại nhà bác cho đến ngày hết phép từ-giả ra đi. Vào đến Long-An đi vô doanh trại thấy trống rỗng chẵng còn ai, hỏi ra mới biết Tiền-trạm và gia-đình binh-sĩ đã di-chuyển hết về Biên-Hòa.
BÀI 6. PHỤC-VỤ HẬU-CỨ & TIỀN-CỨ
HẠ-SĨ-QUAN, QUẢN-TRỊ QUÂN-SỐ & TIẾP-LIỆU
Hết phép dưõng bịnh tại gia, trở vào đơn-vị, thì đã di-chuyển hết về Biên-Hòa, thời ấy tôi chẵng biết Biên-Hòa ở nơi đâu cả, chỉ nhớ lại mang-máng trong đầu óc sáu tỉnh Miền Đông Nam-Bộ, có lẽ giáp ranh giới gần Saigòn. Suy nghĩ một lát nếu đi Saigòn Biên-Hòa thì xa lắm, phần nữa xa lạ chưa rành đường sá biết đâu mà tìm. Tôi quyết-định trở lại Mỹ-Tho trình-diện hậu-cứ Hạ-sĩ-quan Quân-số và Tiếp-liệu Đại-đội ở bên cạnh Đại-đội 32 Hành-chánh quản-trị Tiếp-liệu Biệt-Động-Quân. Thời-gian ấy TSI Trân giữ chức-vụ nầy, ông ấy bảo tôi ở đây làm việc, khi nào có chuyến liên-lạc tau sẽ gởi mầy ra trình-diện Đơn-vị, ông ấy bày việc cho mà làm, ông mở kho chỉ vào một đống súng-ống ngoài chiến-trận đưa về đủ loại bùn bám rỉ-rét, chưa lau chùi vào dầu mỡ để bảo-trì quân-dụng, ông bảo tôi làm việc nầy. Tôi nghĩ ăn lương thì phải làm việc, mà làm việc nầy chẵng phải nặng nhọc gì, tôi ước-ao được làm việc nầy vĩnh-viễn thì cũng chẵng cực-khổ gì, còn nhàn hơn một ngàn lần theo Đơn-vị đi hành-quân. Tôi cặm-cụi tháo ra từng loại súng chùi-rữa sạch-sẽ, vô dầu mỡ sắp-xếp lại ngăn-nắp theo vị-trí đâu vào đấy, ông ấy thấy tôi làm việc nhiệt-tình rất hài lòng, tôi làm hai ngày thì hoàn tất đâu vào đấy, ông lại giao cho việc khác, ông hỏi tôi mầy biết viết chữ không ? Tôi trả lời dạ thưa TS em viết được, ông đưa cho một tờ giấy mẩu Q.T.I và một bản danh-sách Đơn-vị, ông bảo viết hết danh-sách từ trên xuống dưới vào đây để làm phiếu gởi xin cấp quân-trang (áo quần). Tuổi còn trẻ mắt sáng tay viết chữ còn mềm-mại sắc-sảo, ngồi vào bàn viết nghiêm-túc, nấn-nót nét chữ rõ-ràng ngay-thẳng đẹp-đẽ, ông nhận-xét nét chữ của tôi viết và sự làm việc nhiệt-tình tận-tuỵ, ông rất mến giữ lại phục-vụ hậu-cứ với ông hai tháng tại Mỹ-Tho. Ban ngày ông giao công việc cho làm, đêm nghỉ tự-do, tôi mướn phòng trọ bên ngoài, ban đêm đi chơi tôi thấy trong thành-phố có lớp dạy đánh máy chữ, tôi xin đăng-ký học một khoá hai tháng, phải trả tiền trước hai phần mới thu-nhận vào học, tôi chấp-nhận đóng tiền để học, tôi học một tháng mười lăm ngày, đã sử-dụng máy thành-thạo, thao-tác đánh máy mười ngón tay, cách-thức trình-bày văn-bản phải cân-đối theo khổ giấy. Đêm đi học đánh máy chữ hết giờ về nghỉ nhà trọ bên ngoài, ngày vào hậu-cứ làm việc như thường-lệ, hôm nay là ngày báo-cáo quân-số định-kỳ bằng danh-sách, anh lính thư-ký vắng mặt. Xếp hỏi tôi lâu nay đi học đánh máy chữ đã đánh được chưa ? Tôi trả lời : dạ thưa em cũng đánh tạm được nhưng còn chậm, ông nói thì cứ thư-thả mà làm cho đàng-hoàng là được. Ông đưa cho một tờ mẫu với quyển sổ kiểm-danh, bắt lót ba tờ giấy đánh thành ba bản. Tôi thư-thả đánh cẩn-thận, trình-bày cân-đối đẹp-đẽ, làm hoàn-chỉnh trình lên cho ông xem ký tên đóng dấu để gởi đi, xếp rất hài-lòng và khen-ngợi. Ông giữ tôi lại giúp việc hậu-cứ được hai tháng thì có lệnh của Đơn-vị-trưởng bảo ông phải gởi số binh-sĩ xuất viện hết thời-gian nghỉ dưỡng bệnh ra hành-quân. Vì cấp số của mỗi Đại-Đội làm việc hậu-cứ chỉ được ba người : một hạ-sĩ-quan, hai binh-sĩ, chức-vụ HSQ/QSTL thư-ký đánh máy chữ, tài-xế, thêm tôi là thặng dư, anh thư-ký đang làm việc quan-liêu, ỷ lại, ham đi chơi, bỏ việc làm, thiếu trách-nhiệm, vô kỹ-luật. Nên ông không dùng nửa, ông ra lệnh cho tôi trang-bị súng-đạn như tất cả các anh em khác hết hạn nghỉ bệnh phải ra hành-quân. Ông giữ tôi lại làm việc hậu-cứ. Viết thư cho Đơn-vị-trưởng trình-bày lý-do thay đổi nhân-viên văn-phòng hậu-cứ, cũng được Đơn-vị-trưởng chấp-thuận. Từ đây tôi được chính -thức cơ-hữu của văn-phòng Quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4/52/BĐQ.
Bà xã và con gái đang ở với cha mẹ tôi tại quê nhà, có bà chị dâu vợ ông anh họ rủ nhau vào Nam tìm chồng, bà chị vào Thủ-Đức gặp chồng, còn bà xã tôi thì bơ-vơ, đường-sá xa-lạ đất rộng bao-la, chẵng biết chồng đang hành-quân nơi đâu mà tìm, ở tạm với anh chị mấy ngày sau, ông anh cũng lanh-lẹ đi tìm hỏi tới Biên-Hòa, Đơn-vị cho biết tôi đang làm việc tại hậu-cứ Định-Tường Mỹ-Tho, ông xin địa-chỉ đi đánh điện-tín về hậu-cứ, Xếp tôi nhận được nói cho tôi biết, ông bảo viết Sự-vụ-lệnh ông ký cho mà đi rước vợ con về (cột lý do công tác : Liên-lạc đơn-vị hành-quân Thủ-Đức) Tôi cầm Sự-vụ-lệnh mặc áo quần dân-sự đón xe ca đi Saigòn, sang xe về Thủ-Đức gặp vợ con rước về Mỹ-Tho mướn nhà trọ ở với nhau, từ nay gia-đình có 3 người mới sum-họp, vợ chồng ở tại đây được năm tháng. Đầu năm 1965 Đại-đội 32/ Hành-chánh/Tiếp-liệu được lệnh giải-thể, sáp-nhập Đại-đội 31/HCTL/BĐQ Thủ-Đức. Hậu-cứ Tiểu-đoàn và các Đại-đội cũng di-chuyển về Thủ-Đức, vợ con cũng đưa về đây mướn nhà trọ ở.
Ông TSI Trân được thăng cấp Thượng-sĩ Tiểu-đoàn-trưởng bổ-nhiệm chức-vụ khác Quyền Sỉ-quan Hoả-thực của Tiểu-đoàn, TS Soa thư-ký tiền trạm Đạ-đội thay thế Hạ-sỉ-quan quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4. Tôi vẫn tiếp-tục làm thư-ký Đại-đội, đợt nầy tôi cũng được thăng Hạ-sĩ vừa được hai tháng thì thay đổi Đai-đội-trưởng mới về thay-thế Đại-đội-trưởng cũ đi nơi khác. Ông nầy đưa đệ-tử vào làm thư-ký Văn phòng Đại-đội thay tôi ra ngoài Đơn-vị hanh-quân làm thư-ký quân số tiền-trạm, đơn-vị đang đồn-trú tại Quân-đoàn III Biên-Hòa. Công-tác của tôi hàng ngày vào buổi sáng Đơn-vị tập họp xong báo-cáo quân-số lên Tiểu-đoàn, hàng tuần lãnh lương-thực, thực-phẩm phân -phối cho Đại-đội, mỗi tháng nhận hàng Quân-tiếp-vụ phân-phối cho binh-sĩ đơn-vị ghi chép rành mạch để trừ vào dịp lính lĩnh lương hàng tháng hoàn tiền lại cho cửa hàng. Công-tác nầy tôi làm tốt chẵng có gì khó lòng. Cuối năm 1965 Tiểu-đoàn đã được bổ-sung đầy-đủ quân-số đưa đi huấn-luyện bổ-túc lần thứ hai tại Trung-tâm Huấn-luyện Biệt-động-quân Trung-Hòa Củ-Chi, Hậu-Nghĩa. Tôi cũng đi theo Tiểu-đoàn, dạo nầy đến đây nhìn thấy pháo-binh của Mỹ và xe Thiết-giáp đóng chung quanh Trung-Tâm rất đông. Trung-tâm cũng bị VC pháo-kích liên-miên, phía Mỹ cũng phản pháo bằng đại-bác hạng nặng 175 ly cài trên xe thiết-giáp bắn liên-tục 24/24 vào hướng mật khu cách-mạng Hố-Bò và địa-đạo Củ-Chi. Kỳ này quân giải-phóng lớn mạnh lấn-chiếm bao-vây thu hẹp tầm hoạt-động của Trung-Tâm, nên Tiểu-Đoàn chỉ học chiến-thuật quanh-quẩn gần hai bên hàng rào, không dám hành-quân ra xa bên ngoài như lần trước. Khi mãn-khóa học nầy Trung-Tâm cũng có huấn-luyện cho tân binh một thời-gian gần một năm. Được giải thể cuối năm 1967.
Tiểu-Đoàn được đưa về Long-Khánh, căn-cứ tiền-trạm đóng trên chóp đồi Tân-Phong Xuân-Lộc, hoạt động ba tỉnh Long-Khánh Bà-Rịa, Bình-Tuy. Tôi ở làm việc với Tiền-Trạm Tiểu-Đoàn được thăng Hạ sĩ I. Đến mùa xuân 1968, Tiểu-Đoàn được điều về giữ Saigòn đi hành-quân ven đô. Ban Quân-số Tiếp-Liệu Tiền-trạm Tiểu-đoàn đóng dưới móng cầu Saigòn tôi cũng theo tiền-trạm làm việc tại đây.
Tháng 12/1967 Đại-Đội 31 Hành-chánh Tiếp-Liệu/Biệt-Động-Quân dời căn-cứ Thủ-Đức về căn-cứ Long-Bình, Mỹ rút bàn giao lại tại Thanh-Hóa Hố-Nai, thuộc khu-vực trại gà bây giờ, để thành-lập Liên-Đoàn 3 Biệt-Động-Quân. Hậu-cứ Liên-Đoàn và 3 Tiểu-Đoàn trực thuộc đóng tại đây.
Thời-gian đơn-vị hành-quân chung-quanh Saigòn tôi làm đơn xin theo học khoá quản-trị tiếp-liệu, được cấp trên chấp-thuận. Bộ Chỉ-Huy 3 Tiếp-Vận căn-cứ tại trại Lê-Văn-Duyệt Saigòn gọi tôi trình-diện khai-giảng khóa học nầy, khóa-sinh theo học đủ các quân-binh-chủng 120 người học ba tháng thì mãn-khóa, tôi được tốt-nghiệp xếp hạng 45/118 bị đánh rớt hai anh không đủ điểm trung-bình. Mãn khóa học nhận Sự-Vụ-Lệnh trở về đơn-vị cũ.
Qua năm 1969 được đủ điều-kiện thăng cấp bậc Trung-sĩ cũng làm nhiệm-vụ Hạ-sĩ-Quan tiền-trạm. Năm 1970 Tiểu-Đoàn được lệnh đi huấn-luyện bổ-túc lần thứ 3, lúc nầy Trung-Tâm huấn luyện Trung-Hòa đã giải thể, Cách-mạng chiếm. Tiểu-Đoàn phải chuyển ra Trung- Tâm Dục-Mỹ Nha-Trang để huấn-luyện. Toàn-thể Tiền-trạm Hậu-cứ đều phải đi huấn-luyện hết.
Khi gần ngày mãn khóa có một anh lính gìa nhậu rượu đế say khước nằm ngũ giữa trời không căng bông-sô che sương đêm khuya lạnh cóng anh ta thả hồn theo gió, chết cứng-ngắc chẵng có ai biết, sáng ra khi anh em thức dậy đi làm vệ-sinh cá-nhân để chuẩn-bị tập-họp mới phát-hiện. Tiểu-đoàn cấp Sự-vụ-lệnh cho tôi và một Tiểu-Đội chở xác anh lính chết vào nhà xác quân-khu Nha-Trang để tẩm-liệm xin máy bay đưa về Saigòn. Khi chưa tẫm-liệm đang để trong nhà xác, Tiểu-Đội đi theo có nhiệm-vụ quân-phục chĩnh-tề cầm súng đứng canh giữ xác chết, khi được tẩm-liệm bỏ vào quan-tài hai lớp phía trong có bọc kẽm hàn kỹ đóng nắp thật chặt, xong xe đưa quan-tài ra phi-trường, thì Tiểu-Đội đi theo canh-gác trở về lại Quân-Trường Dục-Mỹ.
Lúc nầy tôi ngồi trong phòng trực phi-trường của Không-Quân Nha-Trang chờ-đợi máy bay đến chở quan-tài, ba anh lính Không-Quân trực sân bay bỏ ra bộ bài binh xập-xám ăn tiền, rủ tôi chơi một tay, tôi cũng vui-vẻ nhận lời ngồi vào bàn, cầm bộ bài xáo-trộn đều-đặng rồi để xuống một anh thò tay vào cân, một anh cầm bài lên chia mỗi người một con, ai lớn được làm cái ván đầu, phần tôi lật lên con ách tôi được làm cái, cầm hết bài lên trộn đều để xuống cho các anh ấy cân, tôi nhập bài lại chia xong, bắt bài lên binh, bài lớn dễ binh nên tôi binh nhanh bỏ xuống, còn ba anh bài xấu nên binh lâu, chờ cho các anh bỏ xuống hết, bắt đầu tôi xét từ trái qua phải, thấy bài cả ba anh đều thua, tôi gom tiền hết, đặt tiền lại, tới phiên anh kế tôi làm cái, chia bài xong bắt lên tôi thấy mậu binh bỏ xuống ngồi nhìn các anh binh xong chung tiền cho tôi trúng lần hai, thừa thắng lấy gậy ông đập lưng ông, tôi đặt hết tiền đã ăn được, nếu có thua thì tiền của các anh mình trả lại, thế mà bài cứ đỏ ăn liền năm sáu ván, ba anh ấy thua sạch tay. Thì gặp dịp máy bay vừa đến, tôi xin phép nghỉ ra phi-trường lên máy bay, ba anh không-quân nhìn theo tôi mà lòng thất-vọng, tôi nghe một anh thốt lên rằng : ba đứa mình bị cọp vồ, vì huy-hiệu Biệt-Động-Quân có may đầu cọp bên cánh tay trái. Tôi lên máy bay cất cánh ngồi nhớ lại thấy cũng diệu-kỳ, bình thường tôi cũng có binh xập-xám nho-nhỏ cỏn-con chơi giải-trí, nhưng ít khi được ăn ai, vì binh chậm thấp không biết gian-lận, nên ăn thì ít thua thì nhiều.
Hôm nay đi chuyến công-tác áp-tải quan-tài về quê của người bạn tử-sĩ sao mà hên quá, vớ được một số tiền bài xập-xám tại Nha-Trang về nhà tha-hồ uống bia với các bạn. Tôi nghĩ vong-hồn của anh lính nầy linh-thiêng phù-hộ cho tôi được bình-an hoàn-thành nhiệm-vụ và được phát tài. Máy bay về hạ cánh tại phi-trường Tân-Sơn-Nhất thì đã có xe GMC đợi sẳn, đưa quan-tài lên chở thẳng về gia-đình của anh ấy, mặc dầu thân-nhân của họ đã qua đời, cũng hỏi qua nguyên-nhân cái chết, tôi kể sự thật gia-đình cám ơn rối-rít. Tôi thay mặt Đơn-vị và anh em bạn-bè nói đôi lời phân-ưu với thân-nhân tử-sĩ, trao số tiền Đơn-vị quyên-góp phúng-điếu, báo cho tang-gia biết mai-táng xong-xuôi đến hậu-cứ tôi hướng-dẩn nạp hồ-sơ lãnh tiền tử. Tôi từ-tạ lên xe về hậu-cứ Hố-Nai với gia-đình. Cách tuần lễ sau Tiểu-Đoàn cũng mãn khóa về đến. Ông Tiểu-Đoàn-Trưởng nầy mới nhậm chức trước ngày Tiểu-Đoàn đi thụ-huấn bổ-túc, ông cũng-cố hệ-thống tổ-chức của Tiểu-Đoàn, sắp-xếp lại các ban-ngành, bổ-nhiệm cán bộ lãnh-đạo chỉ-huy, cán-bộ chuyên-môn làm việc hậu-cứ theo khả-năng thích-hợp đúng ngành-nghề, thay-thế những người không có chuyên-môn đưa ra hành-quân. Tôi cấp-bậc TS I có bằng chuyên-môn Tiếp-Liệu, được bổ-nhiệm chức-vụ Hạ-Sĩ-Quan Quân-số Tiếp-Liệu Đại-Đội 4/52/BĐQ, thay-thế TSI Soa giữ chức-vụ khác, tôi nhận chức-vụ nầy đầu năm 1970. Tiểu-Đoàn được lệnh hành-quân sang Campuchia, xáp trận liên-tục, bị tổn-thất nhân-mạng, quân-trang quân-dụng, văn-phòng hậu-cứ phải làm hồ-sơ báo cáo tổn-thất để xin bồi-hoàn bổ-sung cho đơn-vị. Lúc nầy hậu-cứ cũng làm việc rất căng, làm không kịp thời kịp lệnh bị Sĩ-quan chỉ-huy hậu-cứ chửi, ngoài tiền-tuyến cần những món quân-dụng gọi điện về chưa có gởi ra kịp cũng chửi. Nhưng được làm việc tại hậu-cứ, khỏi phải đi hành-quân gian-khổ, thỉnh-thoảng máy bay trực-trăng đưa đi tiếp-tế quân trang quân-dụng phát lương-bổng cho binh-sĩ một vài hôm là đưa về hậu-cứ làm việc.
Cuối năm 1971 Liên-đoàn rút khỏi Campuchia về đóng tại Binh-Long An-Lộc. Năm 1972, năm gọi là mùa hè đỏ lửa, lâm một trận lớn san bằng bình-địa tỉnh Binh-Long An-Lộc thành một đống gạch vụn. Hậu cứ không tiếp-tế không liên-lạc, thời-gian hơn hai tháng, chỉ có máy bay C.130 của Mỹ chở lương-thực đạn-dược tiếp-tế bằng cách thả dù, dù rơi đúng vị-trí thì quân bạn lấy dùng, dù bay lạc hướng ra ngoài thì chịu thua, ai xài cũng được. Trận nầy trung-gian mà nói đôi bên bạn địch đều tổn-thất nặng-nề. Phía Giải-phóng chỉ chiếm thêm một ít từ Lộc-Ninh trở về An-Lộc. Khu-vực thành-phố Bình-Long An-Lộc Liên-đoàn 3/BĐQ còn tử-thủ được. Sau thời-gian mới chịu bỏ di-tản về huyện Chơn-Thành, Bến-Cát, Bình-Dương.
Đầu năm 1973 tôi bị đưa đi học khóa tu-nghiệp Hạ-Sĩ-Quan tại Trung Tâm huấn-luyện Quang-Trung, khóa nầy chẵng có thăng quan tiến chức gì cả, thêm tốn công tốn tiền, bỏ một vợ và năm đứa con sống trong trại gia-binh nheo-nhóc, vợ một mình chăm con không kỹ để chết một thằng con trai vừa tròn một tuổi, tôi đang thụ-huấn tại trung-tâm, được tin báo, nóng ruột trốn trại đi về Hố-Nai lo chôn-cất con xong-xuôi trở lại trình-diện, bị ban an-ninh của Trung-Tâm gọi lên điều-tra xét hỏi, tôi cũng trình-bày hoàn-cảnh sự thật, các xếp cứ bắt-bẽ bảo sao không làm đơn xin phép, tôi trả lời thẳng-thắng, nếu tôi làm đơn lên Thiếu-Tướng Chỉ-Huy-Trưởng ký được giấy phép chắc con tôi đã thối vửa ra nước. Nếu các xếp không tin lời khai của tôi cứ điện về đơn-vị của tôi mà hỏi thì rõ hư thật. Sau khi các xếp xác-hận đúng cũng khoan-hồng cho tôi không phải bị phạt, tôi tiếp-tục tham-dự khóa học cho đến ngày mãn khóa trả về đơn-vị cũ, tôi cũng được phục hồi lại chức-vụ hiện-hành.
Đầu năm 1975 Liên-đoàn thất-thủ căn-cứ Chơn-Thành, Bến-Cát, ban đêm cho lệnh di-tản về Lai-Khê Bình-Dương, binh-sĩ bị xáp trận với quân Giải-phóng bỏ xác rải-rác trong rừng, số bị thương cũng chẵng được cứu-chữa, tản-thương, một số bị quân Giải-phóng bắt làm tù-binh gần muốn hết, còn lại một ít may-mắn sống sót chạy về hậu-cứ mình trần thân trụi, trình-diện hậu-cứ cái xác không hồn.
Đơn-vị xin bổ-sung thêm một số lao-công đào binh mới ân-xá, một số quân-dịch mới ra trường, cả cũ lẫn mới tập họp cả liên-đoàn quân số chưa được một Tiểu-đoàn, lệnh cấp trên cho thay đổi toàn bộ phận chỉ-huy Liên-đoàn. Liên-đoàn-trưởng mới về nhậm-chức ra lệnh cho hậu-cứ trang-bị lại quân-trang quân-dụng vủ-khí cá-nhân tập-thể đầy-đủ. Tập họp đưa đến sân bay Biên-Hòa. Máy bay C130 chở ra đổ hết xuống Phan-Rang để làm lá chắn được một ngày thì bị tan-rã. Thấy Đại-uý sĩ-quan Ban 3 của Tiểu-đoàn 52/BĐQ và một số binh sĩ cũng chạy về mình không trình-diện hậu-cứ, thế là toàn bộ phận lính chiến-đấu của Liên-đoàn 3/BĐQ đã bị quân Giải-phóng xóa tên lần cuối cùng tại Phan-Rang.
Hậu-cứ Liên-đoàn và ba Tiểu-đoàn trực-thuộc vẫn còn làm việc như cũ, ai làm việc gì cứ làm việc ấy, lúc nầy rất khuẩn-bất bi-thãm. Nhân viên hậu-cứ chúng tôi phải làm việc 24/24 giờ, quân Giải-phóng sắp đến bên lưng. Ông Trung-uý Mẫn Chỉ-huy hậu-cứ phát điên lên ngày nào cũng nhậu say tuý-luý, chửi anh em làm việc hậu-cứ như tát nước vào mặt, ông hối thúc phải làm nhanh các hồ-sơ khai-báo tổn-thất gởi đi, để xin bồi-hoàn kịp thời, quân-số, quân-trang, quân-dụng, lương-thực, hướng-dẫn làm hồ-sơ cho thân-nhân binh-sĩ chết mất tích lãnh tiền càng sớm càng tốt. Ví có ba đầu sáu tay cũng chẵng tài nào làm kịp. Một phần vợ con gia-đình của lính tử-trận, mất tích đến hậu-cứ khóc-lóc om-sòm, đòi lãnh tiền tử. Thân-nhân tử-sĩ họ cũng nghĩ rằng : quân giải-phóng đến chiếm căn-cứ thì còn đâu mà lãnh, nên họ khóc-lóc la-lối, có đôi người nóng-nảy chửi-bới tôi cũng phải cắn răng mà chịu đựng. Đến giờ nghỉ đi ăn cơm đạp xe về trại gia-binh nhìn thấy bà xã bụng thì bự gần ngày sinh, bốn đứa con dại khờ, ba đứa mạnh khỏe, một đứa bé nhất ốm nặng, chỉ mua thuốc viên về tán ra cho uống, bà xã một mình không thể nào đưa con đi bệnh-viện được, đưa đi thì bỏ nhà bỏ ba đứa con lại không ai nấu cơm nước cho tôi về ăn để đi làm. Đến giờ nghỉ về ăn cơm nhìn con càng ngày càng ốm nặng ra, người nó teo lại như con tép, cặp mắt lờ-đờ. Thở thom-thóp không ra hơi, tôi thương con quá muốn trào nước mắt. Tôi suy-nghĩ một lát quyêt-định, việc nhà cần phải lo trước, việc nước lo sau, bằng mọi giá phải cứu con của mình đã, cứ mãi-mê lo công-vụ rủi con chết như thằng em nó nửa thì ân-hận suốt đời. Tôi trở vào hậu-cứ gọi anh lính thư-ký ra ngoài phòng làm việc căn-dặn kỹ-lưỡng, chỉ-vẻ công việc ở nhà nên làm công việc gì trước sau, giao hết bộ chìa khoá kho-tàng cho anh ấy giữ, tôi chẵng cần-thiết gì nữa. Dặn lại chỉ-huy hậu-cứ có hỏi đến tôi, anh cứ nói thật con tôi gần chết nên trốn ở nhà đem con đi bệnh-viện. Tôi chẵng cần phải xin phép thêm rắc-rối, nếu xin lão già ấy chẵng cho mà còn chửi nữa thêm nhục. Đào-nhiệm trốn về nhà ẵm con đi chửa bệnh tại Bệnh-viện Tiểu-khu Biên-Hòa, đến tới bệnh-viện lúc 14g00 ngày 25/4/1975, được Bác-sĩ khám tiếp nước biển cho uống thuốc con tôi hơi tĩnh lại, 14 giờ ngày 28/4/1975 quân giải-phóng đã tiến đến Trà-Cổ Tân-Bắc, thuộc xã Bắc-Sơn bây giờ. Quân đoàn III và bệnh-viện cũng được lệnh di-tản. Tôi ẳm con leo lên xe Hồng-thập-tự chạy đến Saigòn thì trời đã tối, xuống xe tại bệnh-viện Trần-ngọc-Minh, bệnh-viện nầy chỉ tiếp nhận thương-binh, không nhận gia-đình vợ con binh-sĩ. Tôi mướn xe xích-lô máy chở cha con qua bệnh-viện Nhi-Đồng 2 xin cho con được nhập viện, được nằm tại đây đến 28, 29/4/75, rạng ngày 30/4/1975 tôi ngồi trên lầu 2 của bệnh-viện nhìn xuống ngã sáu Saigòn thấy đủ các lính quân-binh-chủng của chế-độ cũ, áo giáp nón sắt súng đạn đầy-đủ, súng to súng nhỏ có cả đại-bác pháo-binh 105 ly, xe pháo đầy ngã sáu, trong khoãng thời-gian cở 9 hoặc 10 giờ sáng 30/4/1975 nghe radio trên đài phát-thanh Sài-gòn ông Dương-Văn-Minh kêu-gọi anh em binh-lính chế-độ Sài-gòn ngưng bắn bàn-giao súng-đạn căn-cứ đồn-trại lại cho quân Giải-phóng. Một lát sau tôi nhìn xuống thấy súng-đạn xe-pháo nằm la-liệt hai bên lề đường, chẵng còn thấy một ông lính của chế-độ cũ nữa. Chế-độ Saigòn cũ sập-đỗ hoàn-toàn chấm-dứt từ đây.
Quân Cách-mạng thắng-lợi thống-nhất đất-nước hai miền Nam Bắc.
Cuộc đời binh-nghiệp của tôi cũng được chấm dứt từ đây. Trả hết món nợ tang-bồng của thời trai trẻ.
Trót sinh ra phải có chi-chi, Chẵng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
(Nguyễn-Công-Trứ)
Trong thời-gian 14 năm làm lính chế-độ Saigòn tôi đã bỏ ra 5.040 ngày, tỷ giá theo đô-la 50.400 USD chẵng mua được danh-vọng hay một tí tài-sản vật-chất gì cả, chỉ mua được cái nhục to-tướng, góp công chế-độ cũ gây ra bao nhiêu phiền-hà cho đất nước. Chẵng có công, mà chỉ là mang lấy tội, kéo dài một cuộc chiến vô nghĩa, huynh-đệ tương-tàn. Mạng sống ngàn cân treo sợi tóc. Biết giữ lấy đạo làm người của Đức Khổng-Phu-Tử, ghi nhớ làm theo lời dặn dò của cha trước khi xa gia-đình, nhờ có đức của cha mẹ, Ông bà Tổ-tiên, Phật Trời phù-hộ được còn sống sót đến ngày hôm nay.
Nhớ lại những ngày còn đi đánh trận bị thương rất nặng, nhờ anh em bạn-bè cứu mạng nếu chậm một chút xíu nữa là đã bỏ mạng sa-trường, bây giờ nghĩ lại mà rợn tóc gáy.
CHƯƠNG IV. SINH-HOẠT - CUỘC SỐNG CŨA BẢN THÂN VÀ GIA- ĐÌNH SAU NGÀY GIẢI-PHÓNG.
BÀI 7. NGƯỜI DÂN CHƯA ĐƯỢC THỪA NHẬN
Trước giờ phút đánh dấu bước ngoặt của lịch-sử, chấm dứt thời kỳ đen tối, chuyển sang thời kỳ vinh quang sán-lạn của đất nước được độc lập.
Hai cha con của tôi còn ở trên lầu 2 bệnh-viện Nhi-đồng, con tôi nhờ ơn Bác-sĩ cả hai nơi chữa trị nay đã được phục-hồi sức khỏe. Trong giờ phút giao-thời nầy, các Bác-sĩ và y-tá làm việc trong bệnh-viện cho các em nhi-đồng đang điều-trị và thân-nhân thăm nuôi ra khỏi bệnh-viện đóng chặt cửa khóa lại để bảo vệ cơ-sở vật-chất, phòng kẻ xấu thừa cơ-hội vào cướp-bóc phá-tán.
Tôi hiểu rõ lời Bác-sĩ và ý-thức liền ẳm bé Phú con tôi ra khỏi bệnh-viện, cuốc bộ về nhà ông anh vợ tại Hòa-Hưng ở bên cạnh Bộ-chỉ-huy Biệt-Động-Quân chế-độ cũ. Thời-gian nầy khoảng 11giờ ngày 30/4/1975, tôi rất lo lắng cho vợ đang mang bầu gần ngày sinh, ba đứa con còn bé nhỏ ngay-thơ không hiểu bây giờ còn ở nơi đâu? Mẹ con có được bình-an hay khônh? Súng ngoài đường thì vẫn nổ dòn như pháo tết ngày xưa. Sau khi tìm hiểu tiếng súng, không phãi đánh nhau, mà các dứa trẻ con thành-phố tinh-nghịch nhặt súng M.16 cũa lính chế-độ củ vứt bỏ bừa-bãi la-liệt hai bên lề đường cũa thành-phố bắn chỉ thiên cho thoả-thích. Sợ quá tôi chẵng ra khỏi nhà đi tìm vợ con. Một lát sau thì vợ con cũng đến đầy-đủ với hai anh bạn lính cùng đơn-vị họ đã bị thương xuất viện về nghỉ dưõng bệnh tại trại gia-binh, dắt dìu giúp đở gia-đình tôi cùng chạy loạn, tìm đến nơi đến chốn bình-yên vô-sự. Trước ngày giải-phóng vợ tôi đã biết địa chỉ nhà của ông anh. Giờ đây hai vợ chồng bốn đứa con đã được sum-họp, mừng-mừng tủi-tủi cứ ngồi yên trong nhà nhìn ra ngoài đường trông thấy một số ngưỡi xấu bụng, tham-lam chạy đi hôi của từng đoàn ngoài phố. Súng trẻ con cứ bắn nghịch họ cứ đi thản-nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Thấy họ mang về hàng quân-tiếp-vụ quân-đội Sài-gòn. Nào là gạo, đường, sữa, rượu bia, thuốc lá, nước ngọt, lẫn cả của cải thường dân họ sợ chết bỏ nhà trốn đi nước ngoài, tôi vô cùng chán nản chẵng ham muốn gì cả. Tôi nghĩ bụng đi làm lính 14 năm đã vào sinh ra tử mà không chết, chỉ có bị thương, đừng nên có lòng tham-lam đi theo họ làm việc phi-nghĩa, phi-pháp xui-xẽo bị tụi trẻ con bắn nghịch lạc đạn chết bỏ vợ con thì lãng xẹt. Ông anh cũng bảo bây giờ ngoài đường phố tình hình chưa ổn-định, o dượng cứ tạm ở lại đây một vài ngày chờ yên tiếng súng rồi hãy về, bây giờ mà về gấp là nguy-hiễm, cũng chưa có xe nào dám chạy về Hố-Nai đâu. Tôi nghe lời anh chị ở lại ba hôm tình-hình đã yên-ổn, vợ chồng dắt dìu con cái đón xe về Hố-Nai. Về đến nơi thấy anh chị em bạn lính ở cùng doanh trại họ đã trở về gần đầy đủ, vào căn nhà thấy cạy cửa đập khóa tanh-bành, rinh hết đồ-đạc trong nhà rỗng tuyênh từ trước ra sau vơ-vét sạch-sẽ, chẵng còn cái gì đáng giá một xu.
Gia-tài sản-nghiệp của tôi lúc nầy chỉ còn được mụ vợ bốn đứa con thơ dại. Anh chị em cùng ở chung trong trại ai có bà con gia-đình ở gần, họ cũng mướn xe chở đồ-đạc về quê sinh sống, dần-dần họ từ giả đi gần muốn hết. Chỉ còn lại gia-đình của tôi và Hai Cưu quê hương quá xa tại Đà-Nẳng và Huế chẵng đủ tiền bao nổi chuyến xe để về quê, nên còn nấn-ná ở tại đây.
Vợ chồng bàn bạc khi sinh nở xong tìm cách về làng sinh sống cùng cha mẹ và quê-hương. Cứ ở lì tại trại được 10 ngày thì quân giải-phóng đến tiếp-thu khu-vực quân-sự đuổi ra khỏi trại, tôi dắt dìu vợ con ra đến gia-đinh bác Hạp xin trú-ngụ tạm ít hôm để che mưa nắng cho vợ con tạm thời rồi sẽ lo liệu. Hồi đó gia-đình của bác có một căn nhà tranh vách đất lụp-xụp kê được hai chiếc giường để cho vợ lính mướn ở, bây giờ đang bỏ trống, Bác cho ở nhờ chẵng phải thuê mướn gì. Hai Cưu thấy tôi còn ở đây cũng mướn của bác Cương anh bác Hạp mấy mét vuông đất để che tạm một cái lều nhỏ xíu kê được chiếc giường để ở tạm rồi đi kiếm việc làm ăn, quen biết ông Chuẩn xin được đất mới dỡ lều ra Tây-Lạc. Thời-gian gia-đình tôi tá-túc tại căn lều Bác Hạp để đợi vợ sinh xong về quê chẵng biết có việc gì mà đi làm, thất-nghiệp ngồi nhà ăn không cả một tháng, gia-đình lớn nhỏ có sáu người mà kéo dài không làm gì có thu-nhập, ngồi không mà ăn thì sông cũng cạn núi cũng mòn, cả nhà sắp chết đói đến nơi. Khi vợ đến ngày sinh bé Phúc đưa đến trạm xá Bùi-Chu nhờ cô Huê giúp đở chẵng phải tốn kém, vợ sinh phải ở nhà nuôi đẻ giặt giũ, vì lúc ấy con còn bé chưa nhờ được. Sau một tháng nữa vợ tròn con vuông được khỏe-mạnh cứng cáp, giao cho bà xã ở nhà coi con nấu nướng mà ăn, tôi theo Hai Cưu đi tìm việc làm, cuốc cỏ tranh cho bà Quan một ngày được 500$ bạc của chế độ cũ, mua được ký gạo đủ cho một mình ăn, nhưng vẫn đi làm với nhau vô lẻ ngồi nhà hoài, đi vào sâu trong rẩy trong đồng ruộng mới thấy công ăn việc làm của bà con, anh em đổi ý về quê, rủ nhau đến Trưởng-ấp xin đăng-ký tạm trú. Vợ chồng cũng bàn lại bỏ ý định về quê. Bây giờ mà mình mang một bầy con lóc-nhóc về chỉ báo đời cha mẹ đôi bên, bây giờ thì cha mẹ đã già yếu kinh-tế khó-khăn, có một điều nữa xấu hổ với bạn bè làng xóm. Tôi mang sổ gia-đình và giấy căn-cước của hai vợ chồng đến Văn-phòng Ap Bùi-Chu nộp hết cho ấp xin được đăng-ký nhập cư thường-trú, ông Thận làm Phó ấp trực tại Văn-phòng nhận hồ-sơ cho được tạm trú để đi lao-động nuôi con, được yên chí nhận nơi nầy làm-quê hương thứ hai để sinh sống. Vợ mới sinh còn yếu chưa đi làm được ở nhà chăm bầy con dại năm đứa. Tôi phải đi tìm việc làm thuê cuốc mướn để kiếm tí tiền mua gạo sống qua ngày, ngày nào tìm không có việc thì bé Quang với tôi hai cha con đi mót củ mì trong Long-Bình Cầu-Cháy để đem về ăn độn, ngày nào cũng phải đi lao-động không việc nầy thì kiếm việc khác làm để có lương-thực nuôi con. Thời ấy người ta thường nói lao-đôïng là vinh-quang, bây giờ tôi suy nghĩ kỹ mới thấy câu văn hay và đúng lý.
BÀI 8. TỪ NGÀY ĐƯỢC NHẬP HỘ KHẨU,
ĐƯỢC HỌC CẢI-TẠO TẠI ĐỊA-PHƯƠNG.
Tôi làm lính 14 năm mới bò lên cấp bậc Trung sĩ I chức-vụ Hạ-Sĩ- Quan Quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4/52 Biệt-Động-Quân, nên cách mạng cũng khoan-hồng gọi tập-trung cải-tạo tại địa-phương, vì ấp Bùi-chu đông nguỵ-quân nguỵ-quyền, mà cán-bộ quản-giáo chỉ có hai ông Trung-uý bộ-đội, nên phải chia ra làm ba bốn ca, cải-tạo từng đợt ca một cải-tạo một tuần, cho về đi lao-động làm ăn, đến ca hai, rồi đến ca ba luân-lưu tuần-tự cho đến hết chương-trình thì cho nghỉ. Sau thời-gian cải-tạo có quyết-định được phục-hồi quyền công-dân. Hôm nay tôi mới được chính-thức làm phó thường dân Nam bộ.
Thất nghiệp vô tài bất tướng chẵng có nghề-nghiệp chuyên-môn gì, chỉ biết đi làm thợ đụng, đụng việc gì cũng làm, có tiền công là được. Có thời-gian đi bốc-xếp gỗ cho bộ-đội, sáng bới một lon gô cơm ra đường lộ chờ đợi xe, có ngày đợi hoài không thấy, mất toi cơm một ngày về không, có bữa chỉ vào đến rừng, cưa máy bị hư-hỏng không làm được lại về không mất công chẵng được gì. Thấy công việc làm rừng nầy khó ăn tiền, nghỉ đi nghề rừng, về tìm việc nghề nông làm mướn tuy ít tiền công hơn nhưng dễ kiếm việc thường hơn.
Đồ nghề nông cụ của tôi chỉ vỏn vẹn có hai chiếc, một cái mã tấu, một cái xẻng cá-nhân của Mỹ, tôi lấy trong kho khi còn làm lính, để vợ chẻ củi và dọn cỏ chung quanh nhà trại gia binh. Khi đi chặt mướn mía đường thì mang theo mã tấu, xẽng gấp tháo bỏ cán ngắn thay thế cái cán dài để cuốc đất mướn, mỗi ngày công chỉ được 500$ tiền chế độ cũ, mua được một ký gạo, có đôi lúc mua không có gạo, thì mua bo-bo về nấu ăn cũng ngon lành. Chiếc mã-tấu dùng đi chặt cây làm nhà ở và phá rừng làm rẫy. Đã quyết-định chọn ấp Bùi-chu làm quê-hương thứ hai thì phải kiếm miếng đất cất cái lều nho nhỏ để gia-đình trú-ngụ che mưa che nắng không lẽ ở nhờ ở đậu mải như thế nầy coi sao được. Lúc nầy anh em cựu lính rủ nhau đi làm mướn, gặp anh Vầy hỏi thăm khu-vực của anh ở có còn chổ nào chỉ cho tôi cất cái lều ở với cho vui, anh trả lời cứ vào nhà tôi chỉ cho mà làm, hai ngày sau đi vào anh dắt đến chỉ cho, anh bảo miếng đất nầy của thằng Hoa nó xí nhưng không ở bỏ đi nơi khác rồi, anh cứ ra đây làm mà ở với anh em cho vui, tôi cũng thích rồi, nhưng sang hỏi ông Út Một cho chắc ăn. Vì ông là người ở đây trước ngày chưa giải-phóng, để tránh sự rắc-rối về sau. Sang nhà ông Út Một ông cũng bảo đất hoang-vu vô chủ cứ ra làm mà ở, thằng nào nói gì có tôi, mới vững bụng, vác cuốc ra đắp một cái nền xí để đó. Có đất rồi phải lo vật liệu, xách mã-tấu vào rừng Cầu-Ba chặt cây.
Năm ấy rừng thiên-nhiên còn bao-la tha-hồ mà chặt, vào rừng cứ thấy cây thẳng vừa ý là đốn hạ rồi vác dồn lại một đống róc sạch vỏ, về ấp mướn xe bò vào chở. Hồi đầu nhờ Bác Tỳ bác nói rừng cấm khai-thác, để tôi hỏi ông Hai Hà cho phép mới dám chở, tôi nghĩ mình đã đi chặt trộm mà ông bảo hỏi Hai Hà Chủ-tịch xã lúc bấy giờ. Tôi sợ năn nỉ với ông, Bác không giúp em được thì em đi nhờ người khác Bác đừng báo Xã họ bắt tội nghiệp em. Em chỉ lén chặt một ít đủ che túp lều để gia-đình che mưa nắng, em hứa không làm việc phi pháp, ông lặng yên, tôi tạ từ ông về, đi mướn xe bò ông Bảy-Ép, ông nhận lời ngay, đánh xe vào bốc chở về, khỏi trình báo ai cả, ông chở về đường đi tự-nhiên chẵng thấy ai hỏi han gì, đến nơi đỗ xuống tôi trả tiền công song-phẵng và cám ơn Bác Bảy, ông đánh xe về. Đã có cây đầy đủ, tôi vào dốc đồng ruộng chặt tre chẻ hom vác về, vợ đi vào Phú-Sơn cắt tranh phơi khô mang về xếp đống, ngày nào không có việc làm ở nhà soạn tranh ra đánh thành tấm lợp bằng hom sáu, chuẩn bị đầy đủ vật-liệu, một mình tự cưa ngàm đục lổ sàm vài để sẳn, đi nhờ hai ông bạn Bác Vấn và Hai Cưu đến phụ giúp, ba anh em vừa dựng vừa lợp mái làm một ngày là xong, ngày sau một mình đóng bổ vách tấp tranh vào cho kín đáo. Nay đã có cái lều tranh kê được hai chiếc giường, chái thêm một khúc phía sau để nấu cơm.
Tạm thời đã có nơi trú-ngụ che mưa nắng, tôi từ-giả ông bà Hạp dọn về cái lều mới làm để ở. Tôi thưa với ông bà rằng : Dạ em kính thưa hai bác, thời buổi chiến-tranh ly-loạn, em buộc phải đi lính-tráng vào đến đây, nay bị lở đường giữa chốn xa xuôi không có người thân thuộc, chẵng biết nương-tựa vào đâu, may mắn gặp gia-đình bác mở rộng lòng thương, cho gia-đình em được tá-túc trong căn lều của hai bác đợi cho vợ sinh nở cứng-cáp tìm đường về quê, ở đây vợ em đã sinh nở mạnh khỏe mẹ tròn con vuông, thời-gian thấm-thoát đã bốn tháng trôi qua, vợ chồng em quyết-định không về quê nữa, em đã xin ấp cư-trú tại đây làm ăn nuôi con. Bấy lâu vợ chồng em đã lo liệu che được một túp lều tranh phía ngoài sân bóng đá kế nhà ông Út Một, xin hai bác cho em dọn về ngoài ấy để trú-ngụ, vợ chồng em trả lại căn lều cho hai bác. Dạ thưa hai bác ! một đêm nằm hơn năm ở, dù gì em cũng ở nhờ nhà hai bác hơn bốn tháng nay ơn nghĩa nầy quá lớn biết bao giờ em đền đáp được. Em cầu xin ơn trên ban phước lành cho toàn thể gia-đình bác. Bác Hạp gái cũng nói lại : Không có gì đâu, biết giúp nhau lúc hoạn-nạn mới là phải, rồi bác cũng chúc lại vợ chồng con cái vào trong ấy ở được mạnh khỏe, làm ăn mau khấm-khá. Tôi cám ơn bác rồi dọn nhà vào đây ở kể từ tháng 8 năm 1975 cho đến ngày hôm nay.
BÀI 9 : AN CƯ LẬP NGHIỆP
Được chính-quyền địa-phương chấp nhận cho cư ngụ, kiếm được miếng đất dựng lên cái lều tạm che mưa nắng cho gia đình trú-ẩn. Lúc nầy rất bi đát kinh tế gia đình đã cạn kiệt có ngày không gạo nấu, con cái phải ăn củ mì bo bo mà sống. Tôi ngày nào cũng đi làm mướn xạc cỏ lúa rẩy cho ông Chuẩn hai tháng, xong việc cỏ đi cuốc ruộng cho ông Chánh-Tôn, cuốc rẩy nhặt cỏ tranh cho bà Quang con gái bác Khương, đắp bờ phát cỏ ruộng cho cụ cố Phác, ai bảo làm gì cũng làm, miển trả công mỗi ngày tương đương một ký gạo là được, để nuôi bầy con sống qua ngày. ăn thì đều mà đi làm chẵng đều, có đôi lúc hết việc không ai mướn thất nghiệp ở nhà cũng phải ăn.
Khoảng trong tháng 9/1975, lúc nầy kẹt quá, gạo hết tiền chẳng làm gì có, con đói phải mang số nữ-trang của bà xã, tiết-kiệm sắm một chút để phòng cơ, còn 8 chỉ vàng 24 cara, một sợi dây chuyền có quả tim 5 chỉ, 3 cái nhẫn mỗi cái một chĩ. Vợ giữ kỷ trong người khi chạy loạn nên vẫn còn. Vợ chồng bàn với nhau mang đi bán, hỏi hết các nhà có tiền chẵng ai thèm mua tôi mang một cái khâu một chỉ ra bà Giáo-Luyện nhờ bà mua giúp cho, trả bao nhiêu cũng được miễn có tiền về đong gạo cho con ăn là cám ơn. Đây là nơi thân chủ quen biết đã từng mua bán với bà trước ngày chưa giải phóng, tôi nghĩ bà chỉ sợ mình khốn-đốn quá, có khi đem vàng dổm để lường-gạt, nên bà không dám mua. Bí quá không biết làm sao, bà xã rỉ tai thổ lộ sự thật nhờ bác Hạp bán giúp cho, nhà em đã mang đi hỏi bán mà chẳng ai mua. Bác nhận lời giúp đỡ mang tận Saigòn mới bán hết được, đem tiền về đưa cho vợ chồng tôi, mừng quá cám ơn bác, có tiền đi đong gạo gia-đình ăn, gạo lúc nầy đắt lắm, bán 8 chỉ vàng mà tính ra cả trước sau đong cả tạ gạo là sạch tiền. Có gạo ăn cứu nguy cơn đói. Tôi tự suy nghĩ để kinh nghiệm. Vàng bạc ngọc ngà châu báu chẳng quí bằng hạt gạo của trời. Khi bụng đói cồn cào không thể ăn vàng ăn bạc vào bụng mà sống được
Sau đó một thời-gian có tình trạng vượt biên sang Mỹ, vàng lên giá vùn-vụt nhiều người đi tìm mua, lúc này còn mà bán một chỉ có thể mua được hơn tạ gạo, 8 chỉ tính ra gạo cở 10 tạ, tôi đã bán sạch sẽ từ lâu, tôi cũng chẳng có tiếc nuối làm gì. Tôi tự nghĩ một miếng khi đói bằng gói khi no, may mắn có người giúp bán được để cứu đói là tốt rồi. Thế là của Tây trả lại cho Tàu, sạch trơn sạch trụi của cải vàng bạc tích-luỷ cả 14 năm làm lính nguỵ, hôm nay đã tiêu tán sạch sẽ theo cát bụi của thời gian.
Hết năm 1975 qua năm 1976 ăn Tết Ất-Mão âm lịch xong, tháng giêng nhìn thấy bà con trong ấp rủ nhau đi phá rừng làm rẩy, cũng vác mã tấu đi theo vào cầu ba phát đưòng ranh khoanh vùng một mẫu rừng xí để đó, về đi làm mướn kiếm gạo nuôi con, ngày nào không có việc đi làm mướn, thì bới cơm nước xách mã-tấu vào phát rừng, cứ vừa đi làm mướn vừa phá rừng, một mình cũng phát xong 5 sào, còn 5 sào để qua năm sau phá tiếp.
Tháng 12 năm 1975 cụ cố Phác cho mướn 2 sào ruộng cấy lúa thần-nông giống 732, cày cấy xong bỏ đó đi phát dọn rẩy, lâu lâu ghé thăm đắp nước vào, chẳng vải phân, không xịt thuốc, chỉ có làm vài ngày cỏ mà thôi, thời tiết tốt không sâu bọ phá, qua tháng 3 năm 1976 thu-hoạch được 20 bao lúa tính ra cả tấn, mừng quá còn hơn trúng số độc-đắc, chở về phơi khô khén vây cót đổ vào dự-trữ để ăn đi phá rẩy dọn rẩy, khỏi lo chạy gạo hàng ngày, nên bây giờ tôi vẫn nhớ ơn ông cố cho đến muôn đời.
Từ đây tôi chỉ đi làm việc nhà hết đi làm mướn. Chỉ có bà xã đến mùa bà con trong ấp cấy lúa nước, đi cấy mướn, lúc mới giải phóng ít có người biết cấy, đi cấy là nghề-nghiệp của bà xã, đến vụ cấy bà con mướn đi làm liên-tục. Mùa cấy năm 1980 mang bầu thằng con trai út, tên nó là thằng Đức bây giờ, đến ngày gần sinh tôi bảo ở nhà, đi cấy nửa coi chừng đẻ giữa ruộng, tôi đi làm ở lại trong rẩy, bà xã ở nhà ông Thiệp vào kêu đi cấy, nể nang cũng ra đi vào làm được nửa buổi, chuyển bụng đẻ ngay giữa bờ ruộng như vịt. Gặp chú Hùng Rô có xe bò làm kế bên, bỏ mẹ con lên chở về trạm xá cô Huê, đồn ra trên làng dưới xóm ai ai cũng biết, tin vào rẩy tôi chạy về gấp, vào trạm xá bà xã vẫn tĩnh-táo sức-khỏe mẹ tròn con vuông, tôi hú hồn hú vía hết hồi-hộp. Nghỉ lại có lẽ Trời Phật ở trên cao nhìn thấu, phù hộ cho mới được như vậy. Ngày sau đem về nhà giao cho con gái lớn chăm mẹ, cha con vào rẩy làm tiếp, cứ theo bà con học hỏi mà làm cho đúng mùa vụ, thấy bà con trồng trỉa giống gì cứ theo mà làm, có làm là có thu-hoạch mới có lương-thực mà ăn, hết thứ nầy thu-hoạch thứ khác
Nhưng cũng vất-vả vô cùng, làm việc bằng hai cánh tay chẳng có năng-xuất, phải làm hết sức lực may ra đủ ăn. Đi làm phải lội bộ 10 cây số đường rừng mới đến nơi, qua sông Lạnh còn đi vào tới Đồi-đất phá rẫy, cha con che trại ở làm tại chỗ, có khi hai tuần lễ hoặc cả tháng mới về thăm nhà một lần.
Mang lương thực về nhà nuôi con phải đi ban đêm tránh trạm kiểm soát, nếu xui bị bắt là không xin lại được. Sản-xuất cầm chừng vừa đủ ăn, không thể mang đi thành phố bán đổi để bà con tiêu-thụ được, kinh-tế gia-đình xã-hội thời bao cấp khó phát-triển, đời sống của nông-dân càng vất-vả hơn.
Nam 1977 qua phá rẩy bên kia sông Thao thuộc ranh giới huyện Vĩnh-cửu rừng nguyên-sinh còn nhiều, cây to nhỏ còn rậm-rạp, cây chò-chai, cây dầu cả hai người ôm vẫn còn nhiều, ông Hải ròn mướn thợ cưa vào xẻ về làm nhà ở, xẻ được ít nhiều có chở về bớt một vài xe bò, số còn lại có lẽ kẻ nào xấu bụng báo cáo du-kích Vĩnh-cửu sang tịch-thu bắt dân vác về Đồng-lu một số, gỗ còn lại chất đống nổi lửa đốt cháy sạch sẽ, xui cho hai anh đẩy xe thồ đi chặt cây rừng, bị đốt cháy xe còn phải bị bắt vác một chuyến cây về đến Đồng-Lu mới thả cho về. Lúc nầy tôi cũng vào đây để lựa chặt một nếp nhà, cứ kiếm cây khế, cây dấp cứ cây nào thẳng thử rựa thấy cứng vừa ý là hạ, dứt đúng thước tấc róc mặt đẻo vỏ, tính đủ làm, vác hết qua sông.
Buổi chiều du-kích sang bắt cây ông Hải, hai anh em tôi đang chuyển cây qua sông. Tôi biết trước nên trốn thoát khỏi bị bắt vác cây. Người em chuyển dùm cây với tôi là vợ của cậu Quý, ở ngoài quê vào Saigòn thăm chồng là sinh-viên Đại-học bách-khoa lúc mới giải phóng, mợ về thăm ở lại nhà tôi, nhờ mợ đi vác giúp. Hai anh em chuyển cả ngày mới qua hết bên kia sông, đi mướn xe bò chở hết về nhà chất lại, vào rừng chặt tre chẽ rui, mè, hom tranh, lạt buộc vác về mấy chuyến đầy đủ. Vợ chồng vào dốc đồng ruộng cắt tranh, năm ấy tranh mọc quá nhiều, tha hồ mà cắt, chải chuốt đàng hoàng sạch sẽ, phơi khô bó chặt lại từng bó, dồn lại một đống kêu xe bò ông Trầm-Ninh Tây-lạc vào chở, chất hết lên một chuyến quá nhiều, không nặng nhưng nó cồng-kềnh, tranh khô trơn, đường ổ gà xe bò kéo đi bị lắc-lư tuột đỗ mấy lần, phần trời tối đói bụng khát nước, hai anh em sắp xếp lại mệt muốn đứt hơi, nhờ ông Ninh hồi ấy rất khỏe, chịu khó làm nhiệt tình, xếp lại xong ràng-rịt kỷ-lưỡng cũng đưa được xe tranh về đến nơi. Tôi mừng quá cám ơn, uống nươc xong bỏ tranh xuống trả tiền xe cho ông về cũng hơi muộn. Làm sàng chất hết lên đậy lại che mưa nắng kỹ-lưỡng.
Đầu tháng 10/1980 về quê thăm cha mẹ anh em. Về xe lửa bước xuống ga Thừa-Lưu xách gói rảo bộ về làng, đi đến một quảng đường cở cây số, gặp một toán trẻ em đi lên xã học tiểu-học. Tôi hỏi các em ở thôn nào đi học xa rứa ? các em trả lời ở thôn Phú-Gia, các em có biết ông Đính không ? các em trả lời có biết, ông đã chết chôn hôm qua rồi. Một cú xốc bất ngờ đầu óc choáng váng bước hết muốn nổi vừa đi vừa khóc, bụng bảo dạ phải chi mình về sớm được vài ngày cha con nhìn mặt nhau lần cuối, đi đến nhà nhìn thấy bàn thờ bát nhang bài-vị, đứng khóc than một lát cho vơi bớt nổi lòng, tôi tự trách mình là người con trưởng bất hiếu, sống xa quê hương cũng vì tương-lai của con-cái, khi cha qua đời chẳng lấp được một lát đất, thật là vô dụng, cầm nén hương ra mộ thấy đống đất mới, thắp ba cây nhang xá nấm mộ ba xá khóc một lát rồi ra về nhà với mẹ. Bà con đến thăm họ cũng góp lời an-ủi. Ở lại với mẹ đến ngày 9/9 âm lịch là ngày chạp mã lúc ấy, bây giờ dời lui ngày 9/8 âm-lịch, chạp mả cúng bái xong. Rủ mẹ vào Nam sống với con cháu, bà chịu đi theo vào đến nơi nhìn thấy hoàn-cảnh nhà cửa của con cháu ở như cái ổ chuột chẵng giống ai, bà rưng-rưng nước mắt, mẹ ở được hơn tuần lễ thì vợ chồng đi thu-hoạch lúa rẩy, nhờ rẩy mới nên lúa tốt cũng trúng mùa, thu-hoạch 5 sào được 25 bao 50, chở về chuyến xe bò đầy, mẹ thấy cũng mừng, vợ chồng phải đi làm liên-tục, bà ở nhà với cháu bỏ tranh ra đánh hom sáu cả hai tuần lễ mới hết đống tranh, tôi sắp lại đếm được 400 tấm, mỗi tấm dài 1m20, tấm lợp đã đủ.
Công việc hơi vản, tháng 10 trời hết mưa, nhờ ông Khiêm một tay với tôi dỡ đống cây ra làm thợ mộc cưa ngàm đục lổ ráp 4 vài kèo làm nhà ba gian dài 6m ngang 4m làm mộc xong, buổi sáng sớm nhờ ít anh em trong xóm đến phụ dựng lên bỏ đòn dông chống chỏi vững vàng, anh em về nhà ăn cơm đi lao-động. Một mình tôi cắm cúi đóng hết đòn tay, làm hai mái rui tre đóng đinh buộc dây cưa tề bằng phẳng ngắm mấy hàng cột sửa lại cho thẳng nện cứng. Đóng bổ vách cột sườn vào để vắt vách đất.
Dở đống tranh ra tề đầu bằng phẵng chải sạch sẽ sắp có hàng lối tưới nước lên, cho tấm tranh nở cứng khi lợp đưa lên mái nhà khỏi tuột ra.
Tôi chuẩn bị sườn nhà sườn vách tiêm-tất, đi cậy nhờ anh em bạn-bè cũ và anh em trong khu-vực có ông Hải, ông Yến, ông Một ông Khiêm tập trung lại giúp cho, người lợp mái kẻ vắt vách ai biết việc gì làm việc ấy, làm một ngày là xong, buổi trưa nghỉ dùng cơm làm lại buổi chiều là hoàn tất, rửa tay chân bồi-dưỡng một chầu nhậu xã-giao, vui-vẻ, anh em không tính công cán gì, chỉ giúp đở nhau mà thôi, tôi cũng có lời cám ơn tất cả. Hôm nay có cái nhà tranh vách đất chắc-chắn cao-ráo rộng-rãi hơn, cái ở cũng tạm ổn, chỉ còn lo cái ăn.
Bắt tay vào làm kinh-tế vô sông Lạnh xẻ núi lấp suối làm ruộng lúa nước ngắn ngày, ngăn đập sông Lạnh làm thuỷ-lợi, đứng ra hô-hào bà con cùng làm. Sửa sang lều trại chắc-chắn, cha con ở làm có khi hai ba tuần khi một tháng mới về thăm mẹ, thăm nhà một lần, vợ sớm đi bộ vào làm một buổi chiều đường xa lo về sớm với con, tôi có về thì nghỉ tại nhà qua đêm sáng mai cũng đi ngay. Bà ở nhà với cháu bé, con dâu đi làm liên-tục, ít khi được ở nhà mẹ con chuyện-trò, thấy vắng-vẻ phần nữa xa lạ bà buồn quá nhớ quê, nhớ hai đứa con còn ở ngoài xứ bà đòi về, tôi giữ lại không cho, cầm chân bà được sáu tháng, có dượng Sinh con rễ của bà vào thăm, bà quyết một đòi về với dượng Sinh, tôi cũng phải chịu để mẹ về quê sống với hai em được bảy năm, rồi bà cũng đi theo ông. Kể từ năm 1987 tôi mất hết cả cha lẫn mẹ, cha thọ 70 tuổi, mẹ thọ 72 tuổi.
Kể từ khi miền Nam được giải phóng, hơn 10 năm sau nhà nước có chính-sách đổi mới, bỏ việc ngăn sông cấm chợ cho đi lại buôn-bán tự-do, ra lệnh dẹp bỏ các trạm kiểm-soát không cần thiết, nông dân tự-do sản-xuất làm ra của cải muốn bán cho ai cũng được, không thu mua ép giá, cho chở lương-thực đi lại tự-do, nông-dân mới vui-vẻ ham làm, tôi chăm lo sản-xuất dồi-dào lương-thực, gia-đình sử-dụng không hết, đem bán lấy tiền tích-luỹ dần-dần, mới có vốn mua trâu cày bừa ruộng, mua góp vật-liệu để chuẩn bị xây nhà. Lúc nầy vật liệu xây dựng vẫn còn khan-hiếm, hai thứ xi-măng và sắt, có tiền mà tìm mua cũng khó. Gạch có là của hợp-tác-xã Tây-lạc do ông Minh quản-lý bán cho, gỗ xuống trại cưa nhà ông Hạnh mua của ông Chiến-Khàn, ngói mua Tân-Vạn nhờ xe kéo ông Hoang-râu chở, sắt mua gom sắt phế-liệu Long-Bình, xi-măng mua lại xi-măng bồn của mấy mụ buôn mánh, về đổ vào thùng phuy bịt kín miệng để dồn chừng nào đủ vật-liệu thì mướn thợ làm. Tôi mua sắm các thứ vật liệu trước sau một thời-gian 4 năm mới đầy-đủ. Năm 1989 mướn thợ mộc thợ xây khởi công làm. Nhờ hai ông Quang thợ cả, một mộc, một xây, thợ phụ có ông Thành, ông Hưng, ông Thạch lãnh khoán làm cho.
Theo truyền-thống của xứ Huế sống cái nhà thác cái mồ, ăn ở nhà cửa xập-xệ bạn-bè khinh-bĩ, làng xóm cười chê. Nên tôi quyết chí phải xây cái nhà tương-đối để ở. Lúc nầy con trai trưởng và con gái thứ nó cũng đã lớn đi lao-động tốt, siêng-năng ngoan-ngoãn, biết tiết-kiệm, động-viên phải giúp mỗi người một tay, mới làm nổi cái nhà nầy. Để cả gia-đinh trú-ngụ cho đến hôm nay. Tính từ ngày làm thời gian đã 15 năm trôi qua, vẫn chưa được hoàn-chĩnh theo ý muốn, còn nhiều việc phải tu-bổ, nhưng vì già yếu, thiếu kinh-tế đành chịu thua.
BÀI 10. TUỔI TÁC CON CHÁU SẢN NGHIỆP HIỆN HỮU
Tính đến ngày 16/10/2003 tôi tròn 65 tuổi, vợ 64 tuổi, con tổng số 8 người, 4 nam, 4 nữ, đã lập gia-đình 2 trai, 2 gái, còn chung sống với cha mẹ 2 trai, 2 gái chưa có gia-đình.
Con gái đầu lòng 41 tuổi, con gái út 21 tuổi, cháu nội ngoại tổng cộng 11 đứa
Đất ruộng nằm bên sông Lạnh ấp 6 xã Tân-An, huyện Vĩnh-Cửu và tại đồng Tân-Bắc thuộc xã Bình-Minh do tay tôi khai-khẩn, vẫn còn giữ nguyên để cho con cháu làm ăn sinh sống, những đứa nối nghiệp cha, còn các đứa khác, nếu có thất-cơ lở-vận cũng có đất để làm mà sống.
Gia-đình thường trú số 213 thôn Nam-Hòa, ấp Bùi-Chu, xã Bắc-Sơn, huyện Thống-Nhất, tỉnh Đồng-Nai.
Nhà cửa cũng có để che mưa nắng tạm ổn tuổi gìa, trông lên thấy chẳng bằng ai, vẫn còn khó-khăn thua kém bạn bè trang lứa, nhưng nhìn xuống cũng có người khó-khăn hơn mình. Tôi tự an-ủi cho cuộc sống của mình khi đã đến tuổi gìa yếu, gần đất xa trời để bớt lo nghĩ bon-chen, tinh-thần được thoải-mái hơn.
Tôi xin cám ơn, xin đa tạ Trời Phật, Tổ Tiên Ông Bà phù hộ mạnh khỏe cả gia-đình chúng tôi. Cám ơn Bác, cám ơn Đảng đem lại độc lập tự-do cho đất nước. Riêng gia-đình tôi cũng được cơm no áo ấm, con cái học hành tương-đối, có nghề-nghiệp làm ăn để sống. Nói chung toàn thể nhân-dân được nhiều nhà hạnh-phúc, xã-hội văn-minh.
Tôi mong rằng : các thế-hệ hậu sinh phải ăn ở cho có đạo-đức, noi gương các bậc tiền-bối học hỏi không ngừng, để nâng cao trình-độ kiến-thức. Biết cần, kiệm, liêm. chính mới tiến thân làm nên sự-nghiệp cho bản-thân, gia-đình và xã-hội.
Biết trung, hiếu, lễ, nghĩa, trí, tín, không nên đua-đòi bắt chước kẻ xấu tham-lam, gây tội ác, ăn chơi truỵ-lạc, làm mất đạo-đức văn-hóa con người, đối với bản-thân và gia-đình của xã-hội, đất nước Việt-Nam.
Trãi qua đoạn đường đời mà tôi đã đi, trong một thời-kỳ chiến-tranh ly-loạn, gặp biết bao nhiêu sự nhục-nhã gian-nan, nguy-hiễm đủ điều thử-thách quật ngã cuộc đời. Nếu không có tinh-thần nhẫn-nại, dũng-cảm, hy-sinh bền chí gượng dậy làm lại cuộc đời cho bản-thân, gia-đình để đóng góp với xã-hội và đất nước. Làm sao mà có ngày hôm nay đang được sống vui, sống khỏe, hạnh-phúc với vợ con.
Tôi nghĩ trên đời có ai biết được chữ ngờ, đời tôi đã sắp qua, đời con cháu tiếp nối, nên nhớ rằng :
-Lúc thắng chớ kiêu, khi bại chớ nản, thua keo nầy bày keo khác, sông có khúc, người có lúc, cuộc đời được thua vinh nhục là thường tình. Sau cơn mưa trời lại sáng, do đầu óc của mình biết tuỳ cơ mà ứng xử. Là người quân-tử, không nên tham-lam, gian-trá, xu thời, nịnh bợ, bè phái ăn hiếp kẻ yếu, cao ngạo, hoặc cố chấp, phải hiểu biết thông-cảm mở rộng lòng thương nhân-loại, đừng nên tự-ty mặc-cảm là có hại cho tinh-thần, gây thất bại mọi mặt.
Dù có cực-khổ đến ngần nào cứ ung-dung vui-vẽ thoải mái, cố gắng siêng-năng lao-động, học-tập, ăn ở đối nhân xử thế cho phải đạo. . . là sống bất cứ nơi nào cũng tốt.
Trời nào phụ kẻ có nhân
Ngời mà có đức muôn phần vinh hoa.
(ca dao)
HẾT
Tác giả : PHAN VINH
Viết bản thảo hoàn tất, Bùi-Chu, ngày 23/9/2003
Nhằm ngày : 27 tháng 8 năm Quí Mùi
PHỤ TRANG
Việc làm và tinh-thần văn-hóa có ý nghĩa của đời tôi :
1. Năm 1996, về quê nhật tu gia-phả sao lại thỉnh vào để thờ phụng tại tự-đường gia-đình Đồng-Nai.
2. . Năm 2000, về quê chứng-kiến động-viên tinh-thần
các cháu xây lăng mộ Tổ-Tiên.
3. Năm 2001, về quê xây lăng-mộ ấm-cúng cho Ong-Bà Ngoại và cha mẹ ruột.
4. Năm 2003, biên-soạn gia-phả chữ Việt.
5. Năm 2003, viết xong quyển Hồi-Ký PHAN-VĂN-VỊNH.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
1
Chương I : Tuổi ấu thơ và niên thiếu.
Bài 1 : Bối cảnh, thời gian, sự việc 2
Bài 2 : Mái nhà xưa làng xóm cũ. 11
Chương II : Bổn phận công dân.
Bài 3 : Bản-thân gia-đình xã-hội 14
Chương III : Nghĩa-vụ quân-sự
Bài 4 : Đăng-ký lính Biệt-Động-Quân Miền Nam 17
Bài 5 : Một trận đánh nhớ đời 24
Bài 6 : Phục-vụ Hậu-cứ, Tiền-trạm,
Quản-trị quân-số và Tiếp-liệu. 27
Chương IV : Sinh-hoạt và cuộc sống sau ngày giải-phóng
Bài 7 : Người dân chưa được thừa-nhận 36
Bài 8 : Từ ngày được nhập hộ- khẩu,
Cải-tạo nguỵ-quân tại điạ-phương 39
Bài 9 : An-cư lập-nghiệp 42
Bài 10 : Tuổi-tác con cháu sản-nghiệp hiện hữu năm
2003. 48.
Phụ trang 50.
-(Mời quý vị độc-giã xem tiếp những tác-phẩm truyện ngắn, bút ký, nghị luận cũa tác-giả sáng-tác sau quyễn Hồi-Ký).
___
ÔNG BA-CANG Ở LÀNG PHÚ-MỸ.
của Phan-Vinh
1.-Thời Thực-dân Phong-kiến ở làng Phú-Mỹ có một gia-đình địa-chủ ông bố hay chữ Hán thuộc hạng thông-thái nhất trong làng thời còn trẻ làm Lý-Trưởng, hét ra lửa dân làng ai-ai thấy ông cũng khiếp vía. Khi tuổi cao làm chức-sắc đứng hàng tiên-chỉ. Sinh ba người con, hai gái một trai, phong-tục thời xưa trọng nam khinh nữ, hai chị em gái không cho đi học chữ, cho học thêu-thùa may vá, công việc đồng-áng, nội-trợ, đến khi khôn lớn trưởng-thành gã lấy chồng hết. Cang là một cậu ấm đẹp trai, được bố mẹ nuông-chiều như trứng, nhưng đầu-óc quá khờ-khạo, thích rong chơi, lười-biếng không chịu học hành.
2.-Khi tuổi còn thơ, bố mẹ mướn thày dạy chữ Hán cho cậu tại nhà sáu năm trời, cậu học trước quên sau, chữ trả cho thày, mất công tốn cũa chẵng được tích sự gì. Sau thời Đông-du phục-quốc của cụ Phan-Sào-Nam chữ Quốc-ngữ có chiều-hướng thịnh-hành hơn, bố mẹ cậu lại cho cậu đến trường học chữ Quốc-ngữ, cậu đi học liên-tục hơn mươi năm mà thi lấy mảnh bằng yếu-lược cũng chẵng đậu, gia-đình sợ mất mặt với làng xóm, ông bố phải chạy-chọt lo-lót mới thi đỗ được cái bằng yếu-lược, cậu học-hành thì dở, cái tài ve gái thì đứng số một, độ này tuổi cậu dã trưởng-thành, học thua chúng kém bạn, nên mắc cở không chịu đi học nữa, ở nhà đòi bố mẹ cưới vợ, cũng dược nuông-chiều cưới cho câu một cô vợ con nhà có ăn học đẹp gái thông-minh tương xứng thông-gia đôi bên gia-đình cùng môn-đăng hộ-đối. Vợ chồng cậu vẫn chung sống với cha mẹ, tính-tình thật-thà theo phong-tục làng quê, còn vợ cậu thì khôn-ngoan lanh-lẹ biết đảm-đang giao-tiếp, Một ngày nọ chị Kiểng vợ cậu nghe bạn-bè kể lại rằng:
-Con nhà giàu có ăn học, đi ra làng xã hội hè đình đám, chỉ biết ăn no rồi ra về thua kém một người nông-dân chất-phác không được học-hành, thật là không biết xấu-hổ. Nếu cứ để suốt đời như vậy thì cũng được thôi, có câu tục ngữ người xưa nói rằng :
Nói ít lỗi ít, nói nhiều lỗi nhiều, không nói gì thì không có lỗi.
Ông già cũa anh dạo này cũng yếu hay bệnh-tật đau-ốm làm biếng đi lại, không thích giao-dịch hội-hè đình-đám nữa, nên anh phải thay thế.
Nhưng ở đời biển lặng cũng có ngày nổi sóng, chị vợ khuyên chồng:
-Chữ nghĩa thì anh đã được cha mẹ cho ăn học ít nhiều, anh cần phãi học ăn, học nói, học gói, học mở cho kịp chúng bạn, để nở mặt mày với gia-đình vợ con, làng xã. Anh chồng hứa với vợ:
-Năm nay lể hội đình làng anh sẽ trổ tài ăn nói cho em hài lòng.
Đến ngày hội làng tế-tự Thần-linh xong, khi đến lượt được phép ngồi vào bàn tiệc, bạn-bè ngồi chung bàn họ ăn nói có văn-hoá lễ-độ thật vui-vẻ. Riêng mình anh từ đầu đến gần cuối tiệc, chỉ biết chăm-chú ăn uống, chẳng nghĩ ra được câu chuyện gì để giúp vui cùng bạn-bè, nhớ lại lời khuyên cũa vợ anh cảm thấy xấu-hổ, lặng-lẽ bước ra ngoài cửa suy-nghỉ kiếm dề tài để phát ngôn.
Anh nhìn quanh khuôn-viên đình làng hồi lâu, trông thấy một bụi tre “trúc” to tướng, anh chợt nghĩ ra câu nói động trời và chết người như sau :
-Anh trở lại bàn tiệc, làm bạo nói lớn xin làng cho tôi có ý-kiến. Làng cho phép, anh nói:
-Tôi nhận thấy bụi tre của làng này to quá, nếu đốn xuống gông cả làng cũng vẫn còn thừa.
Anh vừa dứt lời, cả làng la lên cái anh nầy nói chuyện xui-xẻo, làng ta có tội gì mà anh đòi đốn tre gông cả làng chứ?
Các vị bô-lão ra lệnh cho trai-tráng bắt trói lại đánh một trăm hèo cảnh-cáo, phạt vạ một mâm trầu rượu và năm đồng bạc. Nếu không nộp phạt nhanh-chóng, sẽ dẫn độ lên cai tổng bỏ tù. Anh nhắn tin về nhà vợ anh lo đủ lể-vật đem đến nộp phạt, rồi xin lỗi làng mới cho lãnh chồng về.
Đến nhà vợ la chồng:
-Anh thật là ngớ-ngẩn, hết chi chuyện nói mà anh đi nói cái câu động trời như vậy, chị ta la to:
-Chồng ơi là chồng, ngu ơi là ngu. Anh ta nói lại:
-Cũng tại em đó thôi.
Ông bố đang uống rượu nhà trên, nghe hai vợ chồng cãi nhau , đi xuống hỏi cho ra lẽ, nghe con dâu kể lại, ông tức-bực chửi môt trận, rồi ứng khẩu thành thơ dạy anh tám câu thơ lục bát:
-Biết thì ăn nói đàng-hoàng
Không thì dựa cột đình làng mà nghe
Chớ nên nhìn thấy bụi tre
Nghĩ ra câu chuyện đốn tre gông làng
Vợ con cha mẹ bàng-hoàng
Xùm-xì to nhỏ xóm làng cười-chê
Im-lặng ăn uống ra về
Bày trò ăn nói kẻ chê người cười.
Từ đây về sau anh ta bị mất thể-diện và uy-tín với bà con xóm làng.
oOo
Thời-gian lặng-lẽ trôi qua đến năm 1945-1946 tình-thế thay-đổi , kinh-tế xuống cấp cửa-nhà sa-sút, cha mẹ anh đã già yếu đến lúc suy-sụp anh chẵng có cái nghề-nghiệp gì, con cái nhà nông mà không biết cầm cày cầm cuốc thì làm sao mà sống được. Ở nhà ăn bám cha mẹ vợ con, ra xã-hội ăn bám bạn-bè, anh đánh hơi nghe tiếng bà con, bạn-bè làng xóm, có ai đụng dao đụng thớt làm thịt cầy hoặc thịt trâu già mất sức kéo, mò đến xía vào làm một bụng. Lúc túng quẩn anh trổ tài chôm-chỉa sống qua ngày. Có khi xui-xẻo bị bà con phác-giác bắt quả tang, nhận thấy hoàn-cảnh của anh quá khốn-đốn nên cũng thông-cảm tha cho. Vợ con thì đau-ốm liên-tục, không có tiền thang-thuốc, vợ phải lìa đời khi tuổi còn đang trẻ, mới sinh ba mặt con, sau ngày vợ anh mất, bố mẹ anh hết người nương-tựa, buồn-rầu đau-ốm rồi cũng qua đời hết, bỏ lại một mình anh gà trống nuôi ba đứa con dại, hai đứa bé đói-khát bịnh-tật cũng theo mẹ về âm-phủ, còn lại được đứa con gái đầu lòng sống với anh.
oOo
Sau ngày đình-chiến năm 1954 được yên-ổn dân-chúng hồi-cư về làng làm ăn phục-hồi kinh-tế. Con gái anh cũng lớn lên nhờ được. Dạo này tuổi của anh cũng gần năm mươi. Ông đi theo mụ Hồng góa chồng, mụ nầy rất khỏe-mạnh siêng-năng, rước về ăn ở với nhau, thế là vợ và con gái đi làm nuôi ông, ông là con người lười-biếng có hạng, tuổi trẻ sống nhờ cha mẹ, khi lớn tuổi sống nhờ vợ con.” Câu tục ngữ dân-gian thường nói :
-Khi làm chẳng thấy lão đâu,
khi ăn thì lão đứng đầu tiên-khai.
Ông sống vô tích sự, làm ô-uế xã-hội.
Sau tết Mậu-Thân năm 1968, chiến-tranh leo thang ác-liệt, con gái ông đã có chồng, cô thoát-ly theo chồng vào mật-khu chống Mỹ bị bom đạn hy-sinh cả chồng lẫn vợ.
Mụ Hồng vợ chắp-nối của ông dạo nầy già-yếu bệnh-hoạn, cửa nhà cũng tan-nát vì chiến-tranh, không làm ăn gì được, chồng thi chiêu, buồn-rầu đau-ốm cũng qua đời. Bỏ lại cho ông hai người con khôn lớn nhờ được, năm 1975 miền nam được giải-phóng, thống-nhất đất-nước. Người con trai lấy vợ ra riêng, còn lại cô con gái lỡ thời ở với ông. Hồi-cư về làng che một cái chòi tranh cha con trú-ngụ.
Những ngày mới giải-phóng, kinh-tế nói chung rất khó-khăn. Ruộng đất của ông già để lại xung vào làm ăn tập-đoàn, tập-thể. Ông Ba Cang lúc này đã già-yếu, một mình cô con gái đi làm nghề nông ăn công tính điểm làm sao nuôi đủ hai khẩu, cái khó khăn trước mắt, con gái ông còn đèo-bồng, không chồng mà chửa, rồi sinh con, ôm con dại.
Thì thử hỏi lấy gì mà sống. Bà con làng xóm trông thấy gia-đình ông thật là thê-thảm, lúc này cha con ông sống nhờ vào cứu-trợ của bà con đoàn-thể bữa khoai lang, bữa cháo sắn sống qua ngày.
oOo
Thời gian mười năm, tính từ ngày giải-phóng, đất nước được đổi mới dân làng ăn nên làm ra, già trẻ gia-đình nào cũng sửa-sang nhà-cửa, kẻ có tiền nhiều xây-dựng khang-trang, người còn khó-khăn họ cũng sửa-chữa tương đối, quê-hương miền Trung thường mưa bão khắc-nghiệt quý-vị độc-giả cũng thường nghe. Cha con ông chỉ ở túp lều xiêu vẹo dột nát đến mùa mưa bão trông thật là thảm-thương. Thuộc vào diện xóa dói giảm nghèo ăn bữa hôm, thiếu bữa mai, công đâu, tiền đâu mà có vật-liệu sửa lại nhà cửa.
Khi có chính-sách nhà nước Xã-Hội Chủ-Nghĩa tặng nhà tình-thương đợt đầu tiên cho hộ xóa đói giảm nghèo không có khả năng làm nhà.
Xã cấp cho ông mấy chục tấm tôn và một số xi-măng, ông đi nhờ anh em bà con đúc cho ông một nếp cột xi-măng cốt sắt, ông cũng đi nhờ anh em lối xóm xúm lại dựng giúp ông cái nhà mới, cột xi măng kèo đòn tay bằng gỗ, trên lợp tôn, vây chung quanh vách bằng tranh lá kín-đáo được hơn vài chục mét vuông, cha con ông có một cái nhà ở khỏi bị mưa dột, tạm ổn cho cha con, ông cháu sống qua ngày.
Năm 2003, đất nước trên đà phát-triển nhà nước mở-mang đường-xá giao-thông, dùng máy-móc hiện-đại, ông Ba-Cang năm nay dã quá già, mắt mờ tai điếc nhưng bản chất còn hiếu-kỳ, thấy chiếc xe hủ-lô đang làm đường quốc-lộ 1A đậu nghỉ giải-lao tài-xế vẫn ngồi trên xe uống nước, ông bước vào bánh xe sau để sờ-mó, anh tài-xế chẳng nhìn thấy, de xe lui đằng đường, đằng nhằm ông dẹp lép như chiếc bánh tráng, thế là kết-liễu cuộc đời ông Ba-Cang.
Ông sống thượng thọ 82 tuổi.
Tai nạn này công-bằng mà nói, bác tài-xế xe hủ-lô chẵng có lỗi, mà lỗi là do người sờ xe gây ra.
Nhưng vì lòng nhân-dạo, thương ông cụ già chết thê-thảm không toàn thây.
Chủ thầu cũng thương-lượng với gia-đình nạn-nhân giúp-đỡ một cỗ quan-tài, một số ngân-khoản, để hiếu-chủ lo ma-chay tống-táng.
oOo
-Hay dở, đúng sai, tốt hoặc xấu. Ông cũng là một vị Lão-Thành trong làng, nghĩa-tử là nghĩa-tận, làng cũng mang chiêng, trống đến gia-đình hiếu-chủ dể treo lệnh, các cụ Phụ-lão phãi chia phiên nhau trực để đánh lệnh “đánh chiêng trống”, khi có khách hành-hương đến phúng-điếu, hoặc nghi-thức cúng-bái đám ma do hiếu-chủ yêu-cầu.
-Xóm-giềng, Làng, Xã, Mặt-Trận, Đoàn-thể địa-phương cũng đến thăm-viếng phúng-điếu.
-Ngày đưa đám, nhiêm-vụ cũa Đoàn-thể Nông-Dân, Thanh-Niên vác đòn Rồng đến kết lại thành một dàng khiêng, chọn lựa một số khoẽ mạnh gánh-vác được, lập thành một Đội Âm-Công, cử một ông đứng tuổi có năng-khiếu làm Cai-Dang “Đội-Trưởng”, để chỉ-huy toàn đội vào sân bái quan, đánh cặp sanh ra lệnh toàn đội chạy Cửu-Long, Tứ-Trụ xong, rẻ trái phãi hai hàng dọc, rồi ra hiệu lệnh tiến vào nhà nhắc quan-tài ra để lên dàng khiêng, theo lệnh cũa Cai-Dang đánh sanh cã Đội từ-từ nâng dàng khiêng lên vai rồi đi ra đồng đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng, mới hoàn thành nhiệm-vụ của làng-xóm phục-vụ cho người quá-cố.
-Sau khi hạ huuyệt xong, cã Đội tháo bộ tuồng-đòn ra vác về để tại đình làng, rồi ai về nhà nấy, không đuợc ăn-uống nhậu-mhẹc tại nhà héo.
-Đó là phong-tục tập-quán ngày xưa và luật-lệ thời nay cũa làng Phú-Mỹ.
Ông là con trai độc nhất được sinh ra trong gia-đinh địa-chủ giàu-có, cường-hào, thời thực-dân phong-kiến, được cha mẹ nuông-chiều, muốn gì dược nấy, thuở còn bé chẳng chịu học-hành, rong chơi lêu-lỏng, đến tuổi mới lớn, thì đam mê mèo chuột, gái trai, biết yêu đương quá sớm, bị chi-phối đầu-óc làm sao mà tiếp thu chữ-nghĩa được nữa.
Cuộc đời ông được sung-sướng nhất từ lúc mẹ ông sinh ra, cho đến ngày được cha mẹ cưới vợ cho ông, thời-gian này khoảng 18 hay là 19 năm mà thôi.
Đén lúc hết thời hưng-thịnh của ông bố. Từ đó về sau, Ông ta toàn gặp những điều bất-hạnh .
oOo
3.-Con người khi có tiếng khóc chào dời còn tệ hơn con vật, loài vật khi được sinh ra đã có tất cả môi-trường để sống.
Ví dụ : Con cá có nước đầy vi-khuẩn, con chim có rừng đầy côn-trùng sâu-bọ, con trâu con bò thì có đồng cỏ để ăn v.v.
Con người chào đời chẳng có cái gì ? Chỉ hai bàn tay trắng mà thôi.
Khi còn thơ-ấu nhờ cha mẹ nuôi dưỡng cho ăn, cho bú, lên ba, lên bốn tuổi dạy-dỗ, đưa vào trường lớp cho học-hành, ước mong sau này con của mình được thành-dạt. Vào đời có chút vốn-liếng làm ăn, khôn-ngoan biết ăn ở, đối-nhân xử-thế, làm người cho ra người.
Có bằng cấp văn-hóa, nghề-nghiệp cao-cấp, thì làm sao mà nghèo đói nổi. Từ ngàn xưa cho đến nay, những người quyền cao chức trọng, giàu-sang phú-quý lâu bền, lưu-truyền nhiều thế-hệ cho con cháu, nhờ chịu khó học-tập lao-động rèn-luyện thân-thể trau-dồi đạo-đức, có kiến-thức văn-hóa cao-siêu và uy-tín với gia-đình xã-hội mới được như vây.
Thế-hệ bây giờ đang sống trong thế-kỷ 21, đất nước được hòa-bình, độc-lập, thống-nhất 31 năm nay, đang trên đà phát triển mọi mặt, để hội nhập vào thương-mại thế-giới, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã-hội văn-minh.
Con người ước muốn giàu-sang danh-vọng, được vui tươi, sống hạnh-phúc.
Thế-hệ trẻ bây giờ nên cố gắng chăm-chỉ học-hành đỗ-đạt thành tài, sau này mới mong sung-sướng được. Ở trên đời nầy mọi cái đều phải trả giá bằng mồ hôi nước mắt, nếu cần phải hy-sinh xương-máu, mới có giá-trị tồn-tại lâu-bền.
Nếu ai đó vô ý thức, quen lối sống ăn bám gia-đình xã-hội, làm những việc bất-lương bất-chính, phải mau-mau hối cải, làm lại cuộc đời cũng không muộn, con người đủ sức-khỏe có thể sống tới trăm năm.
Sống đời thừa vô tích sự, một thứ cặn-bã gánh nặng cho gia-đình, xã-hội, như Ba-Cang, khi sống cũng như lúc chết, thì chẳng nên sống làm gì cho đến thượng thọ.
Người ta sinh một lần rồi chết cũng một lần. Có câu tục ngữ nói rằng :
-Hổ chết dể da, người ta chết để tiếng”. Những kẻ dốt-nát tiểu-nhân, sống hành-động bất chính, khi chết rồi còn để lại tiếng xấu xa.
Người có chí học-hành cao-siêu, khôn-ngoan đúng mực, sống cứu nhân độ-thế, khi đến thời-kỳ cõi Tiên ghi tên vào sổ, được thăng Thiên, hoặc tiêu-diêu nơi miền Cực-Lạc, hay là về với Ông Bà, đều được ân đền lập lăng miếu để thờ, rạng danh cho gia-tộc, tiếng thơm lưu truyền đến nghìn năm muôn thuở.
Thế hệ con cháu sau này nên lấy đó làm gương.
HẾT
(Viết xong bản thảo ngày 05 tháng 11 năm 2006.)
(Viết về quê-hương)
TRUYỆN KỂ CON RỒNG
của Phan-Vinh
___
Phần I.-
TÌM LONG ĐIỂM HUYỆT NGÀY XƯA
Truyền thuyết dân gian thời xa xưa.
Những ngày tôi còn thơ-ấu mùa hè nghỉ học ở nhà đi làm mục-đồng chăn trâu cùng với một cụ già lão Lai trong làng, ông cụ là người có học Hán Nôm, thuột vào hạng trí-thức văn-hoá thời ấy.
Ông cụ thấy tôi là học trò được thầy đồ dạy-dỗ lễ phép, nên ông rất thương mến, những ngày cho trâu ra đồng chăn thã hai ông cháu tôi vẫn quanh quẩn bên nhau, tôi rất thích ông cụ kể chuyện đời xưa, những chuyện văn-học lịch-sử địa-lý của Tàu của Ta, truyện Tàu thì có các nhân vật anh hùng như: Việt-Vương Câu-Tiễn, Kinh-Kha, Nhiếp-Chánh, Trương-Lương, Lưu-Bang, Hàn-Tín, rồi đến Lưu-Bị, Quan-Công v.v…
Nhưng hồi ấy tôi mê nhất là truyện Tây-Du-Ký. Còn truyện Ta thì Lạc-Long-Quân, qua sáu đời vua Hùng, rồi tới Thánh Gióng dẹp giặc Ân, tới Trưng-Trắc, Trưng-Nhị, tới các vị vua chúa đời xưa Đinh-Bộ-Lĩnh , Lê-Lợi, Quang-Trung .v.v…
Ngày nào tôi cũng năn-nỉ ông cụ kể chuyện cho tôi nghe, từ chuyện Tàu đến chuyện Ta, tôi càng nghe ông kể càng thích thú.
Những chuyện Việt-Nam tôi thích nhất là Đinh-Bộ-Lĩnh, nhỏ cũng đi chăn trâu như ông cháu tôi , bẻ bông lau làm cờ tập trận, sau lớn lên chiêu-mộ binh-sĩ đánh trận dẹp được mười hai sứ quân, thống-nhất đất nước, xưng Vua là Đinh-Tiên-Hoàng-Đế. Tôi nghe ông cụ kể dứt câu, tôi thích quá, ước gì ông cháu mình làm được như ông Đinh-Bộ-Lĩnh ngày xưa ông hỉ:
-Ông nói lại không được mô cháu ơi. Ông ấy là con của trời sai xuống trần-gian mới được như rứa. Ông cụ nói tiếp:
-Ông cũng có nghe mấy cụ già đời ông cố ông cha kể lại cho ông nghe như thế nầy…, để ông kể lại cho cháu nghe. Tôi thích quá xúi:
-Ông kể tiếp cho cháu nghe đi ông. Ông lại kể: ngày xưa các ông thầy Địa-lý thường hay đi tìm long điểm huyệt, nếu chôn hài cốt của cha mẹ nằm trúng hàm con rồng thì được phát làm vua hay làm quan to trong triều-đình, nếu không được làm vua quan cũng được giàu-sang suốt đời sung-sướng, ông nói tiếp:
-Ngày xưa có mấy ông thầy địa-lý ở bên Tàu hay sang nước mình tìm long điểm huỵêt. Ở ngòai Bắc có mấy con sông lớn lắm, không biết là sông Hồng-Hà hay Thái-Bình gì đó? Ông Đinh-Bộ-Lĩnh thã trâu chăn trên bờ sông đến trưa trời nắng nóng, trâu của ông xuống sông để đằm cho mát, ông cũng lội xuống sông tắm rửa bơi lặn, gặp một con rồng khổng lồ dang nằm dưới giòng sông, làm bạn với ông rất là dể thương, nên thường ngày trời nóng, trâu xuống sông đằm ông cũng xuống tắm lặn xuống cỡi con rồng chơi cã tiếng đồng hồ mới lên bờ cỡi trâu về nhà. Hàng ngày có một ông thầy địa-lý người Tàu biết dưới gìòng sông nầy có một con rồng đang nằm dưới đáy sông, ông ấy ngày nào cũng đến ngồi trên bờ sông theo-dõi tình-hình thấy cậu mục-đồng bơi lặn xuống sông cã tiếng đồng hồ mới lên, ông ta nghi-kỵ chắc có chuỵện bí-ẩn gì đây, nên ngày nào ông ấy cũng lân-la dò-xét.
Một ngày nọ ông tìm cách làm quen với cậu bé chăn trâu này, ông mang quà bánh đến tặng rồi chuyện-trò dò hỏi. Hôm nào ông ấy cũng đến thật sớm ngồi trên bờ sông rình chờ cậu bé tắm xong bước lên bờ thì ông ta mò đến tặng quà và hỏi thăm cậu bé. Câu bé cũng vui-vẻ nói chuyện , ông ấy hỏi cậu bé hôm nào cháu cũng lặn xuống sông làm gì mà lâu đến thế ?
-Nói thật cho bác nghe rồi bác cho cháu thêm tiền nữa đấy. Cậu bé kể:
-Cháu lặn xuống chơi với bạn cháu vui ơi là vui, bạn cháu là một con rắn khổng-lồ rất hiền-hòa vui-vẻ, nhanh-nhẹn bửa nào cháu cũng giỡn với nó, cháu cỡi lên lưng rồi sờ mó râu ria mồm miệng nó hiền khô bác ạ. Ông thày địa-lý bão:
-Vậy thì cháu tã hình-dáng con rắn ấy cho bác nghe xem nào ? Cậu bé cũng tã thật:
-Đầu nó to có nhiều sừng, lại có hai sợi râu dài, hai con mắt nó lồi, miệng rộng, mình dài có vẩy, đuôi có nhiều vi, bốn chân có móng vuốt đại khái là như vậy đó bác ạ. Ông ta chẵng còn nghi ngờ gì nữa đích thật là có con rồng nằm dưới giòng sông nầy rồi. Ông ta đi về nhà suy-nghĩ tìm cách làm sao đưa được hài-cốt của ông bố đến nằm trên hàm con rồng, để ông và con cháu sau này phát-đạt làm vua quan giàu có, ông ta cũng hiểu rằng: Để được hài cốt trên hàm thì được làm vua, trên lưng thì được làm quan, hay giàu-có, nếu ai đó không hiểu xui mà trúng nhằm cái đuôi thì tán gia bại sãn. Nếu con rồng này mà nó nằm dưới lòng đất thì quá dễ đối với ông, chỉ về mang hài-cốt đến đào đất lên để xuống ngay cái hàm là hay biết mấy. Ngặt vì một nổi nó nằm giữa giòng sông thì thật là khó nghĩ cách thực-hiện ý đồ, dưới nước thì làm sao mà để hài cốt lên hàm được, nếu có để lên được nó sẽ trôi đi mất. Đêm về ông không ngủ đựơc, cứ nằm suy nghĩ mãi, cuối cùng ông cũng tìm được một cách:
-Chỉ có cho vào mồm để nó ngoạm càng tốt, nếu nuốt vào bụng thì cũng hay.
Ông ta quay trở lại giòng sông tìm cậu bé mục-đồng để thương-lượng dụ-dỗ.
Khi ông đến găp lại cậu bé trước hết ông ta tặng quà bánh, hai bác cháu tâm-sự với nhau một lát rồi ông ấy hỏi cậu bé cháu chơi với bạn vui như thế mà có khi nào nó há mồm cho cháu thò tay vào được không ?
Cậu bé trã lời với ông, tưởng gì chớ cái đó thì dễ ợt, cháu còn đút cho nó ăn quà bánh của bác cho và ăn cơm của cháu nữa cơ. Ông vừa nghe cậu bé nói dứt câu, trong bụng ông ta vô cùng phân-khởi, ông ấy nói với cậu bé, bác có một gói quà để tặng cho bạn cháu, không hiểu bạn cậu có chịu nhận của bác không ? Cậu bé nói lại:
-Nếu bạn ấy không nhận cháu sẽ tìm cách thuyết-phục chắc bạn ấy sẽ nhận ngay. Ông ấy nói:
-Nhưng khốn nỗi nhận của bác bạn ấy phãi tiêu-dùng, bằng cách ngoạm vào miệng càng tốt, nếu nuốt vào bụng cũng được, chứ nhận rồi bỏ đi thì không nên. Cậu bé nói:
-Đương nhiên nhận thì phãi dùng chứ. Nếu được như lời cháu nói thì bác trọng thưởng cháu rất hậu.
Cậu bé hỏi lại:
-Nếu cháu làm được như ý định của bác, bác tặng cháu món gì nào ? nói thật ra đi cho cháu biết mới đuợc. Ông ấy trã lời:
-Bác sẽ tặng cháu một ngàn lạng vàng được chưa ?
Cậu bé nói: -Nếu đúng như lời hứa cháu sẽ giúp bác, bác thật là người giàu-có và tốt bụng.
Cậu bé suy-nghĩ bâng quơ một lát, rồi thưa lại với ông rằng:
-Bác cháu mình nói chuyện với nhau như vậy, nhưng bác thư-thã cho cháu một vài hôm để cháu còn thuyết-phục bạn cháu đã, bạn cháu có chịu hay không sẽ trã lời với bác một ngày gần đây. Ông ấy dặn dò với cậu bé một lần nữa:
-Cháu ráng cố-gắng giúp bác, bác thương cháu lắm. Rồi hai bác cháu chia tay, ông ấy ra về rất phấn-khởi, ông tự cho mình là thông-minh, nghĩ ra được một kế thật hay, trong lòng ông rất tràn đầy hy-vọng, ý nghĩ của ông tiền nhiều thì làm việc gì mà không được.
Hai hôm sau ông ấy trở lại tìm cậu bé hỏi ?
-Việc bác nhờ cháu giúp đã đi đến đâu rồi. Cậu bé trã lời:
-Cháu đã thuyết-phục bạn cháu rât vui-vẻ và chấp nhận . “Chuyện giữa con rồng và cậu bé Đinh-Bộ-Lĩnh chỉ có trời mới biết”.
Cậu bé mục đồng bão ông ấy bác cứ về mang gói quà của bác đến đây cháu sẽ giao cho bạn cháu tiêu dùng được chưa? Nhưng đầu óc ông ấy vẫn còn đa nghi chưa tin lắm, nếu nhận rồi bỏ đi thì mất tong. Cậu bé thông minh hiểu ý, nói với ông ấy rằng: bác mang gói quà đến bác cháu mình cùng lặn xuống sông chứng kiến cháu trao cho bạn cháu ngoạm rồi bác cháu mình mới bơi lên nhé.
Nghe cậu mục-đồng nói như vậy là chắc ăn rồi, trở về đào mã cha hốt hài cốt gói gắm kỹ-lưỡng mang đến, bác cháu lặn xuống đưa cho con rồng ngoạm vào miệng rồi trở lên bờ sông trao đủ một ngàn lạng vàng cho cậu bé còn cám ơn rối-rít, ông ấy ra về trong lòng phơi-phới tràn đầy hy-vong sự-nghiệp cũa ông và con cháu sau này sẽ phát-đạt rạng ngời. Sau này ai đươc con rồng ngoạm hài cốt làm vua mới biết, cứ xem tiếp sẽ rõ.
Sau khi Đinh-Bộ-Lĩnh nhận số vàng lặng-lẻ mang về chôn cất kín đáo, ngày sau cũng cho trâu ra bờ sông chăn thã như mọi bữa, đến trưa nắng, trâu xuống sông đằm, ông cũng lặn xuống chơi với bạn, con Rồng chỉ gói quà cho ông mở ra xem thấy toàn là sọ xương người, ông đâm ra suy-nghỉ việc nầy quan-trọng lắm nên ông Tàu này mới thưởng cho mình số vàng nhiều như vậy.
Con Rồng ra giấu cho Đinh-Bộ-Lĩnh hiểu ý về bốc hài-cốt của thân-nhân mang đến rồng sẽ ngoạm ngay. Rồi từ đó bắt đầu phát-đạt, khi còn đi chăn trâu bẻ bông lau làm cờ tập trận với các bạn mục-đồng, khi ông khôn-lớn đem số vàng của ông Tàu thưởng ra chiêu binh mãi mã đi đánh trận tiêu-diệt được mươi hai sứ quân, thống-nhất đất nước. Tự xưng danh hiệu lên ngôi Đinh-Tiên-Hoàng Đế.
Sau khi đất nước được thống nhát, Đinh-Tiên-Hoàng thường hay mở tiệc chiêu-đãi quan quân, vì nhậu quá say kể lại cặn kẻ đời tư của ông cho một vị quan cận thần nghe hết.
Người đời xưa dạy rằng:
“Thiên cơ bất khã lộ” Tam dịch: Việc trời không nên thổ-lộ cho ai biết. Bởi vậy ông không làm vua lâu dài được.
Chuyện xưa đến đây là chấm dứt.
___
Phần II.
TÌM LONG ĐIỂM HUYỆT NGÀY NAY
Dãy núi Trường-Sơn nằm dọc theo đất nước Việt-Nam từ
Nam ra Băc.
Có một đoạn nằm chính giửa dãy núi ở miền Trung trên những các địa danh sau đây là địa đầu ranh giới của Thừa-Thiên Huế, Quãng-Nam Đà-Nẵng.
Tính từ phía Nam đi ra Bắc: đèo Hãi-Vân, Lăng-Cô, Lập-An, Phú-Gia, Thổ-Sơn, Trung-kiền, Thuỷ-Tụ, Nước-Ngọt, Phước-Tượng, Cầu-hai, Đá-Bạc.
Đoạn núi nầy là một phong-cãnh hửu tình, thượng sơn, hạ thuỷ, chạy dài trên đỉnh đèo Hãi-Vân ra đến chóp núi Bạch-Mã chỗ thì nhô lên, nơi thì lõm xuống như hình một con rồng lượn thành chín khúc, là cửu đĩnh nằm trên vùng này do Tạo-hoá xây dựng lên một địa-thế kỳ-quan từ ngàn xưa cho đến bấy giờ, không thế hiểu được bao nhiêu thế-kỷ mà nói.
Đoạn núi này đi dọc theo đường quốc lộ 1A nhìn lên cho kỷ, thì bất cứ con mắt thường ai-ai cũng nhìn thấy và công nhận như vậy.
Vì đất nước chúng ta từ xưa cho đến nay ít khi có hoà-bình độc-lập lâu dài.
Một ngàn năm đô-hộ giặc Tàu, một trăm năm nô-lệ giặc Tây, ba mươi năm giặc Pháp, Mỹ và nội chiến, đến khi đất nước được hoàn toàn giãi-phóng độc-lập thống-nhất, nhưng còn một thời-gian mười năm bao cấp.
Một con rồng khổng-lồ vẩn nằm sâu dưới lòng đất của dãi Trường-Sơn im-lìm bất động. Đến năm 1996 ông Bí-Thư Nguyễn-văn-Linh của Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam ra chính-sách đổi mới mở cửa giao-lưu và buôn-bán với thế-giới, con rồng này mới bắt đầu chuyễn mình cựa-quậy.
Các ông thày địa-lý Tàu, Ta thời văn-minh hiện-đại dò tìm bằng vệ-tinh, ra-đa, máy rà điện-tử, vi-tinh, các ông đã thừa hiểu. Nhưng không nắm bắt được thời-cơ thuận-lợi các ông ấy chẵng làm ăn gì được. Năm 2000 nhà nước ta mới cho Nhật-Bãn nhận thầu, khoan thủng núi Hãi-Vân để xe-cộ lưu-thông khỏi leo đèo nguy-hiểm. Năm 2006 đường hầm xe-cộ đã lưu-thông qua lại an-toàn tốt đẹp . Tôi từ Đồng-Nai về thăm quê nhà làng Phú-Gia, đi vào Lăng-Cô thăm bà Dung là bác đâu của tôi, năm nay bà đã gần một trăm tuổi vẩn còn khoẻ-mạnh và các anh chị con của bác tôi những người còn sinh-sống tại đây. Vì tình-nghĩa của người xưa, khi bác và ba tôi còn sống kết bạn rất thân với ông cụ tên Trần-văn-Thọ ở đây, nên ông xem tôi cũng như con cháu trong nhà ông vậy. Năm nào tôi có về thăm bác cũng phãi ghé nhà ông ấy để thăm. Ông cụ nầy năm nay đã chín mươi tuổi, có con cháu Việt-kiều Mỹ, Nhật, sức-khoẻ cụ vẩn còn tốt, da-dẻ hồng-hào, tinh-thần minh-mẫn, thấy tôi đến thăm ông rất vui-vẽ niềm-nở tiếp đón. Tôi lể-phép hỏi thăm sức-khoẻ ông và các con cháu ông, ông cũng vui-vẽ cho biết. Ong hỏi lại sức-khoẻ toàn gia-đinh tôi, tôi cũng cám ơn ông và trã lời gia-đình con-cái của cháu vẩn mạnh-khoẻ bình-thường.
Ông quay qua nói chuyện đất nước phát-triển. Ông hỏi tôi mi đi lâu rồi, nay trở về thấy Lăng-Cô thế nao? Tôi trã lời thật hiện đại ông ạ, đường xá thì rộng rãi, nhà cửa thì thật đẹp. Ông cụ nói tiếp địa danh bây giờ cũng đổi mới là Thị Trấn Lăng-Cô chứ không phãi xã Lôc-Hãi nữa đâu. Tôi cứ dạ-dạ ngồi im để nghe, ông nói tiếp nhờ chính-sách đổi mới của ông Nguyễn-Văn-Linh mới có ngày hôm nay mi hiểu chưa ? Tôi cũng dạ-dạ thưa ông cháu hiểu. Ông nói à bác quên, khách đến nhà không trà cũng rượu chứ, ông đứng dạy mỡ tủ lấy ra một chai rượu ngoại mỡ nắp rót vào hai ly thuỷ-tinh, ông bão cháu uống đi, rượu này ngoại chính hiệu, con tao nó gởi từ bên Mỹ về đó, tao nghe nó nói một chai tới mấy trăm dô-la lận. Tôi cũng dạ-dạ rồi nói ;
-Cháu cũng biết uống rượu nhưng chỉ có uống rượu đế mà thôi ông ạ. Ông bão mi cầm ly lên bác cháu mình uống một cái để cháu thưởng-thức mùi vị nghe chưa. Tôi cũng thủ lễ dạ-dạ chấp với ông một hớp, để ly xuống.
Ông nói tiếp:
-Mi ở trong nớ có nghe việc kỹ-sư nhà thầu khoán hầm Hãi-Vân có một chuyện bí-ẩn mi có biết không ?
Tôi trã lời:
-Dạ thưa ông cháu hàng ngày lo đi làm ăn ít có thời giờ xem đài báo nên chẳng rỏ chuyện chi, chỉ có biết việc khoan hầm mà thôi. Ông nói chuyện này bí-mật có ai dám đưa lên đài báo đâu mà biết.
Tôi nói:
-Ông có biết được chuyện gì hay ông kể cho cháu nghe với! Ông cụ có rượu ngà-ngà rồi ông cao hứng kể cho tôi nghe hết đầu duôi câu chuyện không còn dấu diếm điều gì.
Ông lại kể tiếp:
-Tao có thằng cháu tên nó là Thông con của bác Thái anh tao, nó đi ra nước ngoài trước ngày giãi-phóng miền Nam, hắn sang du học bên Nhật-Bãn khi giãi-phóng hắn ở bên nớ luôn, hắn học giỏi lắm, tao nghe nó nói nó có bằng kỹ-sư hay tiến-Sĩ gì đó ở bên Nhật-Bãn lận. Hắn về Lăng-Cô thuê khách-sạn ở để đi làm hầm Hãi-Vân với nhà thầu. Khi hầm gần hoàn-chỉnh, hắn đến nhà thăm tao lần chót để cáo từ về Nhật. Vì tao là chú ruột của nó, nó coi tao cũng như cha nó, nên nó mới kể cho tao nghe chuyện bí-mật này. Hắn dặn tao không được kể lại cho ai nghe cã, tao biết mi thật-thà tao coi mi như con cháu trong nhà mới kể cho mi nghe chơi, mi đừng kẻ lại cho ai biết nghe chưa. Tôi dạ-dạ cháu không dám đâu.
Ông kể tiếp:
-Có một ông thày địa-lý người Việt-Nam họ Nguyễn, nhưng cháu tao chẳng nói tên cho tao biết. Ông ta tìm đến chỗ khách-sạn cháu tao ở để thương-lượng nói thật với cháu tao, ở giửa đường khoan hầm có Long mạch, khi máy khoan đến đụng nhằm râu Rồng sẽ nổi giận phun nước, khi nào thấy nước Rồng phun ra thì cho ông ta để hài-cốt thân-nhân vào đó , Rồng sẽ ngậm miệng nước hết chãy. Nếu được như nguyện-vọng của ông ta, ông ấy sẽ tặng số tiền rât lớn, đôi bên đều có lợi.
Thăng cháu tao nó dè-dặc không dám nhận lời. Sợ ông ta đưa chất nổ chậm đến để vào thì nguy-hiểm ở tù như chơi. Ông thầy địa-lý tìm cách năn-nỉ và thuyết-phục đủ điều, cháu tao mới nhận lời. Nhưng ra điều-kiện phãi cho mở ra khám xét, dem máy rà soát đúng sự thật chẳng có gì nguy-hiểm mới chấp-nhận . Ông thầy địa-lý bằng lòng. Sau khi thực hiện công việc của ông thầy địa-lý suông-sẽ, ông ấy phãi chi trã cho kỹ-sư một tài-khoãn rất lớn. Việc này bí-mật hợp-đồng với nhau không thổ-lộ cho một ai biết cã.
Ông ấy về hốt hài-cốt của thân-nhân đến làm thủ-tục khám-xét xong gói lại kỹ-lưỡng bỏ vào cái tráp bằng kim-khí sơn màu đen rất đẹp khóa lại rồi giao chìa khoá cho kỷ-sư giử làm tin, còn ông ấy giử cái tráp.
Đến ngày khoan đến Long mạch chổ con Rồng nằm đụng vào râu nó, y như lời thày địa-lý dự đoán nó phun nước xối-xã rất khó thực-hiện việc khoan hầm. Kỷ-sư điện-thoại bão thầy địa-lý cãi trang thành ông công-nhân xách tráp đi theo kỷ-sư vào đến chỗ Rồng nằm.
Ông thầy địa-lý chỉ điễm cho máy móc đât lên để tráp xuống ngay hàm rồng tự nhiên nước tắt ngay, rồi lấp lại là xong việc. Hẹn tối về lại khách-sạn đôi bên thanh-toán sòng-phẳng với nhau rất tốt đẹp và bao nhậu một chầu vui-vẽ.
Nên hầm nầy rất dể làm, bàn giao, nhiệm thu đúng thời gian hợp đồng, với nhà nước. Chất lượng rất đạt yêu cầu ngang tâm cỡ Quốc-Tế.
Ông chủ thầu nầy lời to. Tao được biết chắc-chắn, ông ta gọi lại những công-nhân hợp-đông có thời hạn làm hầm với ông chi trã thêm mổi người năm triệu “5.000.000.VNĐ “. Ông cụ cứ thao-thao kể cho tôi nghe mê-mệt hơn một giờ đồng hồ mới dứt lời. Tôi nói với ông:
-Cháu xin cám ơn bác kể cho cháu nghe được câu chuyện quá hấp dẩn , đến đây tôi xin cáo từ ông cụ ra về, trong lòng phơi-phới. Mừng thầm mình được ông cụ tặng món quà tinh-thần khá hay.
Sau khi về đến Đông-Nai tôi vẫn e-dè suy nghĩ mãi không dám thổ-lộ với ai. Sau một thời-gian dài, tôi nghe tin ông cụ đã quy Phật. Nhận thấy câu chuyện hấp-dẩn như thế này mà không viết thì quá uổng phí. Tôi suy nghỉ mãi, việc nầy không phãi ai-ai có tiền nhiều mà làm được đâu. Chắc là cũng có Trời, Phật giúp cho ông thày Địa-lý nầy mới làm được .
Nên tôi quyết-định viết truyện này. Thời xưa ông bà ta đã rút kinh-nghiệm làm việc gì đại sự phãi nắm bắt thời-cơ, có đầy đủ ba yếu-tố như:
Thiên-thời, địa-lợi và nhân-hòa, việc mới thành công tốt đẹp cho cã đôi bên như vậy.
___
Phần III.-
CON RỒNG VIỆT-NAM ĐANG HỒI-LỰC VÀ KHỞI-SỰ
Nói lại chuyện con rồng nó nằm dọc theo dãy núi Trường-Sơn, cái đầu tại đèo Hãi-Vân, đuôi ra tới núi Bạch-Mã, không biết bao nhiêu thế kỷ vẫn nằm im-lặng như tờ.
Dân-cư sống trong địa-bàn rồng nằm thật nghèo-nàn vât-vã, đến cuối thế-kỷ 20 lại chịu đựng hai cuộc chiến-tranh Pháp, Mỹ điêu-tàn tán gia bại sãn, dến hôm nay cũng chưa được hồi-phục phát-triển bằng các nơi khác.
Nhưng chúng ta nên tin rằng:
-Con rồng hôm nay đã ngoạm được thang thuốc bổ vào hàm, nó sẽ sung sức chổi dạy biến-hoá cất cánh bay lên. Trong tương-lai hãi cãng nước sâu Chân-Mây của địa-phận Huyện Phú-Lộc, tàu thuỷ hạng nặng của thế-giới cập bến tấp-nập, cơ-sở bến-bãi và các xí-nghiẹp nước ngoài đầu-tư xây-dựng lên theo bãn đồ quy-hoạch của tỉnh Thừa-Thiên, thì dân-chúng sống trên địa-bàn nầy dược đổi đời.
Công-nghiệp hoá hiện-dại hoá. Có công ăn việc làm thu-nhập cao. Con em lớp tuổi trẻ hiện nay đang bỏ xứ đi nơi khác kiếm việc sinh sống sẽ quay trở về lại quê-hương sống đoàn-tụ với gia-đình làm ăn giàu có, phát-triển tốt đẹp xóm làng văn-minh, mới xứng đáng với cái địa-danh do tổ-tiên đặt cho từ bao thế-kỷ nay, là Làng Phú-Gia, Xã Lộc-Tiến, Huyện Phú-Lộc, Tỉnh Thừa-Thiên.
Đây là nói riêng cho tỉnh Thừa-Thiên quê-hương tôi.
Nói chung tương-lai nước Cộng-Hoà Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam nay đã được hội-nhập thương-mại thế-giới, sẽ văn-minh hơn, giàu-mạnh hơn, tốt-đẹp hơn. Sánh vai ngang hàng với các cường quốc năm châu, bốn bể.
Chúng ta cứ đặt niềm tin nền kinh-tế sẽ là chắc-chắn như vậy.
Còn các vị lèo-lái con Rồng của Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam tương-lai cũng sẽ là những người thông-minh sáng-suốt, học rộng tài cao, văn võ song-toàn, đạo-đức chân-chính, là ai chưa rõ được, mong rằng quý vị độc giã hãy đợi đấy…
(Đây là chuyện kể, không phải lịch sử).
HÊT
-Viết về quê hương.
“Viết xong bãn thão ngày 14-02-2007”
TÌNH-YÊU HÔN-NHÂN VÀ CUỘC SỐNG THỜI CHIẾN-TRANH HOÀ-BÌNH
Của Phan-Vinh
___
Chương 1.- SỰ SINH TỒN CỦA LOÀI NGƯỜI DO TẠO HOÁ XẾP ĐẶT
CHIẾN TRANH GÂY CHẾT CHÓC LÀM THIẾU HỤT NAM GIỚI.
Sự sinh-tồn của loài người bất cứ trong thời điểm nào cũng do luật Tạo-Hoá sắp đặt, Nam Nữ đều sít-soát số lượng ngang nhau. Theo tài-liệu thống kê dân số trên toàn Thế-Giới nói chung và các nước Đông-Nam Châu-Á nói riêng. Tôi tìm hiểu qua sách báo, phái Nam và phái Nữ cũng có chênh-lệch một số ít nhưng không đáng kể. Nếu nước nào được hoà-bình lâu dài, tình-hình kinh-tế phát-triển mạnh phồn-thịnh giàu có, thì nước ấy Nam nhiều hơn Nữ.
Cuối thế-kỷ 20 thật tàn-khốc bi-thãm vì chiến-tranh, gây tổn-hất Nam giới quá lớn, tràn đầy nước mắt và khăn sô cho những thiếu-phụ ngây-thơ, trẻ tuổi và trung niên đã có gia-đình con-cái.
Thiếu-phụ ngây-thơ là những em gái và học-sinh tuổi vừa đôi tám, là lớp tuổi mộng-mơ mới biết yêu-đương, còn e-thẹn chưa dám hôn nhau, chỉ một vài lời hứa-hẹn đầu môi chót lưỡi, viết lên trang giấy trắng quyển nhật-ký vài câu làm kỷ-niệm mà thôi.
Năm ấy Dũng thi vào Đại-Học không đậu, phãi nhận lệnh gọi lên đường tòng quân nhập ngũ, chàng và nàng tạm biệt nhau những lời ước-nguyện thề non hẹn biển gắn bó sắt son, chàng lên đường thi hành nghĩa-vụ quân-sự, nàng trở về khép kín khuê-phòng, lo học hành, một lòng chờ đợi.
Một chiều nọ Lệ-Thu đi học mới về, được tin như sét đánh bên tai . Dũng đã tử trận tại chiến-trường Campuchia, quan-tài anh ấy mới đưa về đến nhà.
Đột ngột quá, ai ngờ ngày tạm biệt đã trở thành vĩnh-biệt. Nghẹn ngào ứa lệ, biết ăn làm sao, nói làm sao, thật là khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt.
Vì lòng cãm-xúc vô hạn của mối tình đầu tan vỡ do chiến-tranh. Cô ấy làm bạo đến thăm Dũng nhìn thấy trên Quan-Tài có gắn quyết-định truy thăng cấp-bậc Thiếu-Uý và truy tặng huy-chương Anh-Dũng Bội-Tinh với Nhành-Dương-Liễu, đặt-biệt trên quan-tài có trãi lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Trong gia-đình nhìn thấy Thu đến thăm cũng ân-cần tiếp-xúc, mời vào nhà ngồi uống nước nói chuyện. Thu thú thật với bố mẹ Dũng, là nàng đang yêu Dũng và Dũng cũng yêu nàng, hẹn ước với nhau ngày Dũng được về nghỉ phép, trình với bố mẹ hai bên cưới nhau nên vợ thành chồng. Bấy giờ tình đã mất thì còn cái nghĩa, cô ấy xin để tang cho Dũng, trong lúc này chẳng có ông bố bà mẹ nào mà không chấp-thuận cã, đây là một sự an-ủi cho người vĩnh-biệt cõi trần-gian.
Phát tang cho cô ấy bịt lên đầu, bất chấp phong-tục nghi-lể ngày xưa, Lệ-Thu đốt nhan bái lạy Quang-Dũng sau đó tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Trên đường về Lệ-Thu mang một mối tình thầm-lặng cô-đơn với nổi buồn da-diết và tuyệt-vọng. Bên ngoài là đám tang, bên trong tâm-hồn của Thu tưởng-tượng như là dám cưới anh ấy với mình, vì đã được bố mẹ anh ấy chấp-thuận là con dâu, một đám cưới trần-gian âm-phủ thật là chưa thấy sách vở nào đề-cập đến. Những tình huống trên đây Lệ-Thu được sắp-xếp vào hàng Thiếu-Phụ Ngây-Thơ. Còn những Thiéu-Phụ đã cưới nhau trước ngày tòng-quân nhập-ngũ hoặc đã có mái ấm gia-¬đình con-cái, thì còn gì là Ngây-Thơ nữa, và được hợp lệ lãnh tiền tử tiêu-xài nuôi con.
Số nầy thời chiến-tranh đem tàu mà chở cũng không hết. Công bằng mà nói, cuộc chiến ác-liệt cuối thế kỷ 20 phái Nam hy-sinh ngoài mặt trận quá nhiều. Vì phái nam là bị bắt-buộc, lệnh tổng-động-viên, không được trốn tránh, nếu anh nào trốn tránh, bị ghép tội hèn nhát, chống lại pháp-luật, bắt đi tù-tội, hoặc cắt hộ-khẩu, không cung cấp lương-thực, thì thử hỏi làm sao mà sống được, rốt cuộc cũng đưa vào hàng ngũ Quân-Đội nói chung cã hai miền.
Thời chiến-tranh Nam thiếu Nữ thừa.
Lý-do: -Tại con người gây ra cho con người, nên bị mất cân bằng giữa phái nam và nữ. Nhưng cũng có một số Anh-hùng gan-dạ yêu nước hoặc nâng cái tôi của mình lên trên mọi người, có cơ-hội mạo-hiễm thi-thố tài năng, may rủi có hai đường : Một xanh cỏ,”1” hai đỏ ngực.”2” Có một ít tốt số, may-mắn, sống lâu đuợc lên lão làng, cũng được phân-công đề-cử làm ông nọ, bà kia, vì thiếu cán-bộ, một số thiếu học chỉ biết ký mà thôi . Thành phần nầy làm cán-bộ chỉ-huy quân-đội thì nguy hiểm cho sinh mạng binh-sỹ, cán-bộ hành-chánh sự-nghiệp thì thiệt-hại tài-sãn nhà nước, gây phiền-hà cho nhân-dân. Bi cấp dưới lừa gạt sập bẩy mất chức, có khi bị tù tội rồi cũng phãi bồi thường thiệt hại tài-sãn cho nhà nước.
Nói về chiến-trận thì vô kể, lớp nầy ngã xuống có lớp khác xung lên, tuân lệnh thượng cấp, được thua là do người lãnh-đạo chỉ-huy và có chính-nghĩa hay phi chính-nghĩa. Những người đã hy-sinh đồng bào thương tiếc Tổ-Quốc ghi công là Quân-Đội Nhân-Dân. Còn mấy ông lính chế-độ cũ cũng hy-sinh quá thể, chết rồi còn bị xỉ-nhục.
Chết được lên Thiên-đàng hay xuống Địa-ngục, về cỏi Vĩnh-hằng, Tây-Phương-Phật, hoặc về theo Ông-bà, chẳng có ai hiểu được. Cái chết là sự sung-sướng nhẹ-nhàng, chẳng có thiết gì trên trần-gian nầy nữa. Những người chết non, chết trẻ thường gây hậu-quã cho những người còn sống trên trần-gian mới là nạn-nhân đau-khổ như :
Ông bà mất cháu buồn-rầu sinh bệnh mau chết, cha mẹ mất con trai trẻ, không ai phụng-dưỡng tuổi gìa, tre khóc măng, vợ trẻ mất chồng thương tiếc người yêu chung-thuỷ, con mất cha thiếu người nuôi dạy, em gái mất mối tình đầu yêu-dấu thương-đau. Thời còn chiến-tranh, Thượng đế cũng u-sầu thương-xót nên bàu trời Việt-Nam thường kéo mây đen xám-xịt, nhưng ít khi nổi cơn thịnh-nộ phong-ba .
Chương II.- NAM NỮ THỜI CHIẾN, NHIỆM-VU, VIỆC LÀM, ƯU THẾ.
Thời chiến-tranh đàn ông con trai rất có giá-trị, kiếm vợ cũng dễ, kiếm thêm vợ hai cũng chẳng khó gì, đó là luật sinh-tồn và nhu-cầu tình-yêu nam nữ của con người, những chuyện này tôi được chứng kiến rất nhiều, thành thật mà nói:
-Thời trai trẻ tôi có thi-hành nghĩa-vụ quân-sự tham-gia lính chế-độ cũ theo đơn-vị hành-quân vào vùng sâu, vùng xa nơi lãnh-địa của quân Giãi-Phóng kiểm-soát năm 1963-1964. Nơi nào dân cư ở thưa thớt chỉ đi ngang qua, nơi nào dân cư đông-đúc, được lệnh thượng cấp cho dừng quân hạ trại, thời ấy gọi là chiến-dịch Bình-Định Nông-Thôn để dành dân lấn đất. Có nơi ở lại vài tuần, có nơi một tháng, có chỗ đóng quân đôi ba tháng. Sự thật mà nói dân chúng họ sợ súng đạn không dám chống-đối, xui-xẻo có thằng khỉ gió nào đó nổi nóng bóp cò, thì tôm chết thiệt mẹ bán tôm, hắn dán cho cái made in VC”3” thì thử hỏi thưa ai kiện ai bấy giờ. Nên dân chúng họ tử-tế bên ngoài, chứ chẳng thích gì ba ông lính Ngụy,”4” có đôi khi thấy họ vui vẻ tôi gợi ý hỏi thử:
-Thưa bác. Ở đây sao cháu chẳng thấy có người đàn ông con trai nào cả vậy bác? Biết họ trả lời làm sao không ? Tôi xin nói lại câu trả lời để quý vị độc-giã rõ: Họ trả lời với tôi rằng:
-Con họ, chồng họ, ra ngoài thành đi lính Sư-Đoàn 7 hoặc Sư-Đoàn 5 Bộ-Binh hoặc các dơn-vị khác mà họ biết vv… Của chế độ miền Nam.
Nhưng sự thật là họ thoát-ly vào mật-khu để làm quân Giãi-Phóng, đó là nhiệm-vụ của nam giới trong vùng Giãi-Phóng. Còn phái nữ thì lại là khác, ai thích thì xung-phong làm quân Giãi-Phóng, ai không muốn, thì ở nhà làm ăn, để đóng-góp hậu-phương với tuyền-tuyến.
Các ông lính Biệt-Động-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà thời ấy thật hào hoa có biệt tài quyến-rũ các cô gái trẻ đẹp hương đồng cỏ nội ở vùng Giải-Phóng theo họ, tôi chẳng hiểu mấy cô gái nhẹ dạ nầy bỏ nhà bỏ quê-hương ra thành-thị theo chính-phủ Quốc-gia hay là đi theo tiếng gọi của tình yêu con tim Nam Nữ, thử hỏi ai mà biết được?
Đơn-vị cấp Tiểu-Đoàn Biệt-Động-Quân của chế-độ Sài-Gòn dừng quân trong vùng Giãi-Phóng ngắn hạn thì hai ba cô, nếu dài hạn đôi ba tháng thì số lượng tăng lên năm bãy cô gái trẻ, bỏ nhà, bỏ cha mẹ, quê-hương, vùng Giãi-phóng, xách gói ra thị-thành tìm địa-chỉ theo các anh lính hào-hoa tốt mã đẹp trai của chế-độ cũ, khi mà đơn-vị rút quân di-chuyễn đi nơi khác. Có một số tình-yêu chân-chính làm đám cưới nhà binh đơn-giãn, rồi đưa nhau đến cơ-quan chính-quyền địa-phương xin đăng-ký kết hôn để chung sống với nhau hợp lệ hợp pháp, có một số chấp nhận làm vợ bé của các ông Trung-Sĩ trẻ, Thượng-sĩ già, có một vài cô hồng nhan phận bạc bị mấy anh lính tốt mã đẹp trai, đóng vai Sở- Khanh vùi hoa dập liễu tan-nát cuộc đời rồi đuổi đi hay đem bán vào các động Tiên-Nữ trần-gian ở thị-thành. Các cô gái xấu số này mang mối hận tình nhức-nhối như một mũi tên đâm nát con tim. Thời chiến người phụ-nữ gánh chịu nhiều thương đau bi-thãm của số phận hy-sinh thua thiệt cuộc đời lam-lũ bất-hạnh.
Chương III.- NỮ, NAM THỜI BINH, ƯU-THẾ, GIÁ-TRI.
Thời hoà-bình độc-lập thống-nhất hơn ba mươi năm, số lượng Nam Nữ đã cân bằng, tính ra cho kỷ hiện nay có khi nam đã nhiều hơn nữ. Những cặp vợ chồng trẻ nhà nước khuyến-khích sinh đẻ có kế-hoạch, để hạn-chế bùng nổ dân số Thế-giới. Dân số hiện nay của nước ta tám mươi triệu dân cã Nam lẫn Nữ. Theo luật bù trừ của Tạo-Hóa, phái Nam thời chiến chết quá nhiều, bị thiếu hụt làm thiệt thòi cho phái Nữ, để bù-lấp khoãng trống, thời hoà-bình thì con trai được sinh ra nhiều hơn.
Các nước hoà-bình lâu dài văn-minh nhất thế-giới cũng rất thiếu đàn-bà như:
-Mỹ, Đại-Hàn, Dài-Loan. Trung-Quốc vv… Viẹt-Nam đã được hoà bình độc-lập thống-nhất hơn ba mươi năm nay thì dân số phái Nam đã vượt trội hơn phái Nữ. Hiện nay đã được gia-nhập thương-mại thế-giới, được tự-do thoãi-mái kể cã tình yêu và hôn-nhân, đừng có vi phạm pháp-luật, tiền nhiều là xong ngay thủ-tục hành-chánh lấy chồng nước ngoài, Việt-Kiều để xuất cảnh. Bấy giờ có một số cô gái được voi đòi tiên, rất thích chồng ngoại Quốc, nếu lấy được chồng Mỹ càng tốt. Trước đây thì ghét, nay lại thương. Còn muốn chồng Việt thì ăn bận sang-trọng, trang-điểm nhan-sắc một chút, các anh chàng thanh-niên nhà ta tranh nhau theo đuổi, các cô tha-hồ mà tuyển lựa người yêu lý-tưởng. Thời bình được Thượng-Đế bù trừ, ưu đãi cho phái Nữ kể cã xin việc làm vào các xí-nghiệp cũng dể dàng hơn Nam giới, khỏi cần bằng cấp văn-hoá chuyên-môn. Cho nên có câu tục ngữ nói cũng phãi lắm : “Trai thời loạn. Gái thời bình”. Gái thời bình rất quý, thời bình là thời hưng-thịnh của các bà, các cô, và các em gái trẻ. Nhà nước đang khuyến-khích các đôi vợ chồng trẻ sinh đẻ có kế-hoạch từ một đến hai đứa con mà thôi, đôi vợ chồng anh chị nào đó may-mắn, sinh được hai cháu gái càng tốt. Thời nay xin miển bàn chuyện sinh con trai nối dòng nối dỏi là xưa rồi. Có một số gia-đình nhiều con trai thiếu dạy-dỗ, đi đua xe, cướp giựt, quậy phá, nhậu nhẹt, đánh lộn, bị thương tật, vi phạm pháp-luật bị tù tội thêm rắc-rối cuộc đời.
Thời hoà bình là thời hưng-thịnh của phái Nữ.
Chương IV.- KINH-NGHIỆM CUỘC ĐỜI CON NGƯỜI, CÓ VĂN-HOÁ HAY THIẾU VĂN-HOÁ ĐẠO-ĐỨC.
Xin tóm tắc vài dòng để độc-giả tuổi trẻ rút kinh-nghiệm, tương-lai đời sống các bạn được tốt đẹp hơn. Đừng nên si bì và nói liều những câu tục ngữ của người xưa như : “Trời sinh Người sinh lộc”. “Trời sinh Voi sinh cỏ”. Xưa là khác mà nay lại là khác, môi sinh môi trường biến-đổi theo thời-gian, bây giờ thời mở cửa hội nhập giao thương và công-nghiệp hoá hiện-đại hoá, tấc đất giá thị-trường tôi dự đoán tương-lai có thể lên đến hai ba tấc vàng, thời đất hẹp người đông, đất quý như vậy thì còn đâu để mọc cỏ cho voi ăn, lộc đâu còn cho người hái mà sống. Thật là người đông của hiếm, đàn ông con trai bây giờ dốt-nát quậy-phá, xin vào làm lính cũng khó, không có tiền-bạc, không có nghề-nghiệp, rất khó xin việc làm, đừng nói gì kiếm vợ. Thời bình là thời hưng-thịnh của phái Nữ.
Cuộc chiến thãm-khốc ác-liệt gây ra cãnh chết-chóc dau thương một số lớn. Khi nhìn lên màn ãnh hoặc hồi-ức lại , vẫn còn ám-ãnh rùng-rợn sự tàn-sát bom đạn bắn giết giữa con người và con người quá tàn-nhẫn, không thể tưởng-tượng nổi. Bây giờ chúng ta nên cùng nhau đoàn-kết, bão-vệ cho đất nước được hòa-bình trừơng-cữu. Những chiến-cuộc vừa qua không phãi để huỷ-diệt, mà để cho đất nước được hoà-bình độc-lập, thống-nhất. Chúng ta cùng nhau xây dựng lại cuộc sống mới tốt-đẹp, văn-minh hơn, hiện-đại hơn. Những chuyện hơn, thua, được, mất, đúng, sai đó là do thời thế. Bấy giờ nên xoá bỏ hận-thù những chuyện dĩ-vãng, cho nó dồn về quá-khứ.
Các bạn tuổi trẻ thuộc thế-hệ con cháu, nên đứng thẳng để nhìn về phía trước và nhìn xa thấy rộng hơn. Nước ta đang trên đà phát-triển mạnh đủ mọi mặt Sĩ, Nông, Công, Thương vv… thời công-nghệ thông-tin hiện-đại.
Muốn theo kịp các nước cường quốc giàu mạnh trên Thế-Giới. Lớp tuổi trẻ phãi cố gắng lao-động học-tập trau-dồi đạo-đức. Thành-đạt văn-hoá nghề-nghiệp chuyên-môn cao cấp, đó là những bạn có điều kiện kinh-tế. Còn nhửng bạn khó khăn, phãi theo pháp-luật hiện hành, nên cố gắng học hết chương trình Trung-Học Phổ-Thông Cơ-Sở có bằng nầy, mới xin học ngành nghề vào làm xí-nghiệp được. Các bạn có bằng cấp, có nghề-nghiệp chuyên-môn, bằng nào cũng có người mê, bằng nào chẳng có người thuê đi làm, thì kiếm việc làm ở đâu mà chẳng được. Trước nhất là cuộc sống của các bạn, sau là giúp ích cho xã-hội và đất nước. Khi đã ổn-định công ăn việc làm có thu-nhập hàng tháng, lúc nầy muốn tìm người yêu rất dễ-dàng, tìm đâu mà không có, rất là thoãi mái vậy. /.
1-Tử trận.
2-Nhiều huy-chương.
3-Việt-Cộng.
4-Lính Sài-Gòn chế độ cũ.
HẾT
Viết xong bản thảo ngày 11-4-2007.
TÌNH-NGHĨA BẠN-BÈ.
___
BẠN-BÈ VÀ CUỘC SỐNG.
Con người và vạn-vật đã được sinh ra và lớn lên trên trái đất, đều phải có bạn-bè, nếu không có bạn thì không bao giờ được tồn-tại nòi giống v.v. Từ hai tới ba người trở lên, anh em ruột thịt hoặc người dưng nước lã, chơi với nhau mến nhau đều là bạn-bè của ta cả.
Tình bạn là một trong những tình-cảm:
Bạn bè trang lứa chơi với nhau.
Bạn học, bạn nhà binh vv… và vv…
Đặc biệt là bạn trăm năm. (Vợ chồng).
Dù ở bất cứ nơi nào, hoàn-cảnh nào, lứa tuổi nào, đều không thể sống mà không có bạn-bè, không có tình bạn người phải sống lẽ-loi đơn-độc, vắng bóng bạn-bè không thể xem là người sống sung-sướng được.
BẠN-BÈ TUỔI MẪU-GIÁO ĐẾN HỌC HẾT CHƯƠNG TRÌNH CẤP I- II.và III.
Tuổi thơ-ấu lên ba lên bốn là tuổi ăn thật, nói thật. Có câu tục ngữ người xưa để lại:
”Ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ.” Tuổi này rất hồn-nhiên và chưa biết dối-trá. Các em bé cũng cần có bạn, hai tới ba em chơi với nhau mới vui-vẻ. Nếu không có bạn cô-đơn buồn tẻ bé khóc-lóc kiếm bố mẹ quấy rầy. Nên bố mẹ cháu hay gởi cho Dì Xơ (Soeur) học lớp mầm, chồi, lá để tập làm quen với bạn-bè. Khi các bé lên sáu tuổi đưa vào tiểu-học thì các cháu đã quen với bạn-bè rồi, nên dễ hòa-đồng với tập-thể, thi đua học tập mới tiến-bộ được. Các cháu lên mười một tuổi được vào Trung-Học Phổ-Thông Cơ-Sở tuổi này còn để dạy bảo, chơi với bạn-bè còn hồn-nhiên vui-vẻ. Các cháu lên mười lăm tuổi học hết chương trình PTCS. Chuyển lên học lớp mười Phổ-Thông-Trung-Học, tuổi này bạn-bè rất đông, ở trong trường học và ngoài đời cũng lắm bạn-bè.
Tuổi này là tuổi dạy-thì, tuổi mới lớn , các Cô các Cậu tự cho mình đã khôn lớn rồi. Tính-tình hơi bướng-bỉnh khó bảo, tập hút thuốc, uống rượu và tìm hiểu đủ mọi thứ trên đời vv…và vv…
Tuổi nầy gồm có hai thành phần sau đây:
Một là: càng lớn càng khôn, có ý-thức ngoan-ngoãn thi đua học tập với bạn-bè trau dồi văn-hóa đạo-đức, đạt thành-tích các kỳ thi vượt cấp được điểm cao có hạng nhất, nhì, ba, trong lớp, tối thiểu cũng được lên lớp, số học-sinh nầy rất đáng khen-thưởng để biểu-dương và khuyến-khích tinh-thần học-tập của các em.
Hai là: càng lớn càng dồn u-mê, ham ăn chơi lêu-lổng, học-hành thì lười-biếng thua chúng kém bạn, thậm chí thi không đủ điểm còn bị ở lại lớp, đâm ra chán-nản, trong trường thì trách-nhiệm của thầy cô giáo, về nhà thì các bậc phụ-huynh không theo-dỏi tính-tình tâm sinh lý học trò, con cái uốn-nắn lúc ban đầu, để muộn-màng hư thân trắc nết phá bĩnh rất khó trị”Số nầy là ngựa bất kham “.Nếu cha mẹ lo công việc làm ăn đua-bơi theo đường danh-lợi, không dám bỏ chút thì giờ kiểm-soát dạy-bảo, lầm tưởng con mình còn nhỏ và ngoan như ngày nào còn học ở cấp II, sẵn tiền bạc cho tiêu-xài phung-phí, đây là nói về các cô cậu con ông cháu cha, con nhà doanh-nghiêp tỷ-phú. Có một số con nhà nghèo cha mẹ lam-lũ kiếm tiền nuôi ăn học để được nên người tài-giỏi, khi vào đời đở vất-vã.Có câu tục ngữ: “Con hơn cha nhà có phúc”.
Không có ý-thức hoàn-cãnh của mình, cũng đua-đòi đi theo bạn-bè xấu. Thành phần này nếu cha mẹ không hiểu tâm-lý dạy-bảo cứng nhắc có thể tự-ái bỏ nhà đi bụi đời với bạn-bè du-đãng, hành-động các việc tày trời vv…và vv… làm mất đạo-đức văn-hóa, mang tai tiếng liên-lụy đến thanh-danh của bố mẹ, khi phát hiện thì đã muộn-màng.”Trăm dâu đổ đầu tằm “.Chính người làm cha mẹ là nạn-nhân bị lãnh đủ. Có những câu tục ngữ nói rằng:
“Mũi dại lái chịu đòn, con dại cái phải mang”.
“Con khôn cha mẹ đặng nhờ,
Con ngu cha mẹ nhuốc-nhơ cuộc đời.”
Ca dao
.BẠN-BÈ KHI TUỔI ĐẢ CHĨNH-CHẠC VÀO ĐỜI.
Tuổi trưởng-thành chĩnh-chạc có ít vốn-liếng, kinh-nghiệm, kiến-thức học-hành phải là độ tuổi hăm bảy trở lên. Tuổi nầy vào đời làm việc cũng cần có nhiều bạn-bè đủ mọi mặt, để giao-dịch với nhau công ăn việc làm mới phát-triển lên được.
Nếu nông-dân chuyên về làm ruộng thì bạn diền, trồng-trọt, chăn-nuôi thì bạn nhà nông. Các nhà kinh-doanh buôn-bán cũng đều có bạn, buôn có bạn, bán có phường, các nhà thông-thái văn–học, khoa-hoc các ngành nghề kỷ-thuât, công-nghệ hiện-đại cũng phải có bạn để học-hỏi hơp-tác với nhau. Có câu tục ngữ nói rằng :
“Học thày không tầy học bạn”. Để trao-đổi kiến-thức cho nhau, mới nâng cao trình-độ khoa-học lên tầm cỡ Quốc-Tế. Những bạn-bè tốt có kiến-thức chỉ-vẽ cho nhau học-hỏi biết qúy-mến bạn-bè, có tinh-thần yêu nước mới làm cho dân giàu nước mạnh. Đó là những bạn thông-minh đạo-đức, chúng ta nên tôn-trọng học-hỏi và noi gương.
Kinh-nghiệm của người xưa dạy rằng:
Nên làm tớ người khôn, chớ ham làm thầy thằng dại.
Làm tớ người khôn mình học thêm được cái hay cái đẹp, cái khôn cái khéo.
Làm thày thằng dại chẵng được cái gì? Lâu ngày chày tháng, có khi bị lây-nhiễm thói hư tật xấu, mình phãi mang tai tiếng vơi làng-xóm láng-giềng. Làm ân thường hay mắc oán, có khi bị lừa, bị phãn nửa là khác.
Thời còn trẻ tôi có nghe mệ Nậy ở làng Phú-Gia hát ru cháu rằng: à… ơi ……
“Rồng vàng tắm nước ao tù, người khôn bạn với người ngu bực mình,”
Có một số bạn-bè khi mới quen nhau đối-xử với nhau rất thân rất tốt, qua một thời-gian thì thay-đổi tính-tình, có đôi người lợi-dụng lòng tốt của bạn-bè mưu-cầu lợi-ích riêng tư cho mình. Nếu không được bạn-bè thỏa-mãn theo nguyện-vọng thì tự-ái nói xấu bạn-bè rồi chia tay, số này gồm cả bạn-bè khác giới và bạn tình yêu nam nữ trong lúc đầu đang thăm-dò tìm hiểu.
Một số bạn-bè đồng giới tính, thoái-hóa biến chất tham-lam tranh quyền cố vị, nếu ta phát-hiện nên lựa lời lẽ khuyên can đôi ba lần không nghe, vẫn tánh nào tật ấy thì nên tìm cách xa-lánh càng sớm càng tốt, đừng có tiếp-tục thân-thiện có khi bị phản-bội, làm mất thanh-danh và nguy-hiểm cho tính-mạng của mình nữa là khác, những sự bội-phản của cấp dưới cũng như bạn-bè rất đáng sợ, chúng ta cần đề cao cảnh-giác phòng-ngừa tối đa.
Mất bạn này chúng ta nên tìm bạn khác, để giao-hảo và hợp-tác làm việc cũng như chơi với nhau, một mình đơn-lẻ thì thật là cô-đơn buồn tẻ..
Chúng ta không thể vì lẽ này lẽ nọ mà không chơi với bạn-bè, mình xoè bàn tay ra cũng có ngón ngắn ngón dài, ở trên đời làm sao biết ai tốt ai xấu, cứ làm bạn chơi vơi nhau thời-gian sẻ trả lời.
“Đi lâu mới biết đường dài,
Ở lâu mới biết lòng người có nhân.”
ca dao
Bất cứ lúc nào, thời nào, làm việc gì, chúng ta cũng cần phải có bạn, nếu ai đó không có bạn cộng-tác, sống đơn-côi độc mã thì chẳng vui-vẻ làm ăn phát-triển gì được. Có câu tục-ngữ nói rằng:
“ giàu bởi bạn sang bởi vơ.ï”
Nói cho cùng, thậm-chí uống rượu cũng cần có bạn, nhất có mồi nhắm, nhì lắm bạn hiền hợp gu, uống mới ngon miệng vui-vẻ, chuyện-trò giao-hão mới hứng-thú.
Chim có đàn cùng hót, tiếng hót mới hay, ngựa có bạn cùng đua nước đua mới mạnh , huống chi chúng ta là con người mà chẳng có bạn sao được. Những bậc hiền-giả ngày xưa họ nói rằng:
Hàng ngày mình làm vui lòng được mọi người, một ngày tìm được một người bạn thì cuộc đời chúng ta rất có ý-nghĩa. Trên thế-gian này không có việc gì dể cả, nếu chúng ta chịu đoàn-kêt học-hỏi rút kinh-nghiệm, thì bât cứ sống nơi nào cũng tốt, làm việc gì cũng được thành-công và kết-quả mĩ-mãn.
.BẠN TRI-ÂM TRI-KỶ và BẠN-BÈ CÁO LẢO VỀ HƯU..
-Bạn tri-âm, tri-kỷ : Các bậc hiền tài ngày xưa họ rất khôn-ngoan, biết chọn bạn mà chơi với nhau rất chung-thủy như : Trần-Phồn với Từ-Trí, Bá-Nha, Chung-Tử-Kỳ, Dương-Tiêu-Sơ, Từ-Tử-Dử, Dưong-Khuê và Nguyễn-Khuyến v.v…
Tôi xin trích dẩn một ít kỷ-niệm của các bậc hiền tài trên đây dể quý vị đôc-giả tìm hiểu thêm : Trân-Phồn đời hậu Hán, có người bạn rất thân là Từ-Trí. Phồn dành cho bạn một giưòng để bạn ngồi, khi bạn về thì treo giường lên không cho người khác ngồi.
Bá-Nha có một cây đàn, chỉ dàn cho Chung-Tử-Kỳ nghe mà thôi. Khi Chung-Tử-Kỳ mất, Bá-Nha đặp đàn vứt đi, nếu để lại mà đàn thì không có ai nghe và hiểu được.
Dương-Tiêu-Sơ bị Nghiêm-Tung bắt bỏ tù, các quan sợ hải không ai dám vào thăm, chỉ có Từ-Tử-Dử hàng ngày đến thăm còn tiếp-tế cơm rượu. Tiêu-Sơ khuyên Từ-Tử-Dử rằng:
-Bạn chớ nên vì tôi mà liên-lụy đến thân. Ông Tử-Dử trả lời thẳng- thẳng rằng :
-Đạo bằng-hửu chỉ quý trong lúc này, nếu có liên-lụy, tôi cần-thiết gì quan-chức đâu mà bạn phải bận tâm.
Nguyễn-Khuyến khi đi thi Cử-Nhân, Tiến-Sỉ kết bạn với Dương-Khuê, cả hai đổ-đạt ra làm quan cũng chơi với nhau, khi cáo lảo về hưu cũng thăm-viếng nhau, làm thơ trao-đổi cho nhau để nâng cao trình-độ văn-học nghệ-thuât, nên thơ của các ông rất nổi tiếng.
Lúc Dương-Khuê mất ông Nguyễn-Khuyến làm một bài thơ để phúng-điếu khóc Dương-Khuê và kể lại những kỷ-niệm cuộc đời của hai ông rất hay, rất là bi-thảm.
Những chuyện kể tóm-tắt của bạn-bè tri-âm tri-kỷ trên đây, chỉ có các vị cao-siêu này mới làm được. Thời nay tôi nghĩ làm được như các ông ấy thật là hiếm có. Dù làm được hay không, chúng ta cũng nên lấy đó làm gương để soi đời.
BẠN-BÈ KHI CAO TUỔI GIÀ YẾU.
Khi tuổi già sức yếu, thời-gian cũng thay-đổi, bạn-bè nhiều người chia tay đi làm ăn xa, có một số qua đời, thậm chí các cặp vợ chồng có khi bà còn sống, ông đã qua đời, có đôi người ông còn sống bà đã mất, con cái lớn khôn có gia-đình xin ra ở riêng, một số đủ lông đủ cánh bay cao bay xa đi làm ăn, con gái lấy chồng sinh-sống nơi khác, bỏ lại cha mẹ gìa yếu cô-đơn.
Mặt dầu tuổi cao chúng ta cũng phãi có bạn để chuyện-trò chia xẻ khi vui khi buồn, nếu ở thành-phố các vị nên gia-nhập câu-lạc-bộ người cao tuổi, để tập thể-thao thể-dục mổi buổi sáng có huấn-luyện-viên hướng-dẫn, còn ở thôn-quê vùng sâu vùng xa nên rủ nhau đi bộ cho vui, hoặc tựu-tập một địa điễm nào đó thuận tiện tập thể-dục cũng dược, để giử-gìn sức-khỏe.
Cũng nên giao-lưu văn-hóa với nhau nâng cao kiến-thức để dạy con dạy cháu của mình, viết một quyễn hồi-ký cuộc đời ai mà không có một vài kỹ-niệm đáng ghi nhớ, hồi-ký cũng dể viết, mình lật lại những trang nhật-ký thời dĩ-vãng và động não nhớ lại những gi mình đã thấy, mình đã làm gép lại nhiều từ thành câu, nhiều câu thành đoạn, nhiều đoạn thành bài. Nếu ai có năng-khiếu làm một bài thơ, viết một bài văn xuôi nghị-luận về Việt-Nam đất nước con người, thiếu gì đề tài để viết, đừng có phê-phán bình-luận khuyết-điểm của Tôn-Giáo, Chinh-Trị thì thôi.
Tuổi già lẩm-cẩm , sức-khỏe thì yếu như ngọn lá vàng trước gió, như sợi chỉ treo cái chuông, không biết rơi-rụng lúc nào. Nên có một ít di-chúc văn-hóa lưu lại cho con cháu học hỏi noi gương và làm kỉ-niệm. Nên sống từ-bi làm công tác từ-thiện càng tốt. Trên thế-gian này chẵng có gì tồn-tại, mình sinh ra từ cát bụi kết cuộc cũng trở về với cát bụi. Tôi nghỉ rằng: ”Hổ chết để da, người ta chết để tiếng”. Chỉ có Khoa-Học, Đạo-Đức, Kỹ-Thuật, Văn-Học, Nghệ-Thuật, do con người phát-minh và sáng-tác lưu-truyền theo thời-gian lâu dài mà thôi. Các nhà văn, nhà thơ họ mất đã lâu vẫn còn lưu danh hậu-thế.
Bạn-bè nên lui tới thăm-viếng nhau, nếu ở xa thư-từ thăm hỏi, nghe tin bạn-bè đau-yếu nên tìm đến thăm-viếng an-ủi mới quý, ai có khả năng có thể gíúp-đỡ bằng vật-chất càng tốt. Tha-thứ cho nhau những việc bất-đồng nếu có, nên quý-mến yêu-thương nhau. Nghe tin bạn mình qua đời nên đến thăm-viếng phúng-điếu và chia buồn với tang-quyến, ở xa thi thư-từ đăng báo phân ưu.
Khi trẻ chúng ta chơi với nhau thân-mật, lúc già-nua tìm cách xa-lánh, là những ngườì thiếu tình-nghĩa bạn-bè, thuộc vào hạng vong ân bội ngãi nửa là khác.
Chúng ta nên tha-thứ và quý-mến nhau như ngày đầu quen nhau mới là bạn tốt, mới là chung-thuỷ.
Nói tóm lại bạn-bè và đời sống làm việc ở thời điểm nào ta cũng cần có bạn, có tinh-thần đoàn-kết với bạn-bè, đoàn-thể mới làm nên việc lớn được.
Tình bạn chơi với nhau, hoặc cộng-tác, hợp-tác, đã hiểu lòng nhau cùng chung lý-tưởng và chí-huớng, có một số bạn-bè thề-thốt nguy-nan, sống chết có nhau, dù nam hay nữ, bằng-hữu hay bạn đời vẩn tôn-trọng quý-mến chung-thủy tương-đối như nhau, trên đường đời xui-xẻo gặp chuyện bế-tắc không thể khăc-phục biến-hóa được. Đường cùng phải nhãy vào lửa đạn mà chết hy-sinh theo bạn-bè như ông Táo bà Táo cũng cam lòng, đừng tham sanh úy tử bỏ bạn-bè một mình gánh chịu thì không nên. Gương chung-thủy của ông bà Táo đến nay thiên-hạ vẫn tôn thờ.
Đừng bội-bạc bạn-bè, khi nghèo-khó bần-cùng có nhau, lúc gặp thời được giàu-sang phú-quý, danh-vọng cao-sang thì xa-lánh, phãn-bội bạn-bè. Trên thế-gian này có một số người vô đạo-đức, giàu đổi bạn, sang đổi vợ, chúng ta nhìn thấy bị hơi nhiều trong thời-đại ngày nay.
Những bạn-bè này sớm muộn cũng bị nguyền-rủa, thiên-hạ chê cười, có khi đi đến tán gia bại sản theo luật nhân-quả của Phật-Giáo.
Bạn xấu hay tốt chúng ta có biết đối nhân xử thế hay không? Một sống một chêt, tình bạn mới biết; Một nghèo một giàu, mới rỏ lòng nhau; Một hèn một sang, tình bạn rỏ ràng. Nếu bạn-bè có vấn-đề bất-đồng chớ nên nóng-nẩy thì dễ xa nhau, mình ẫn-nhẫn hạ mình xuống một tí và nhìn lại mình đúng hay sai trước đã, mới phê-phán bạn mình sau, đừng nên cãi bướn hoặc ỷ mạnh hiếp yếu dành phần thắng về mình, để cho bạn-bè phải ấm-ức đau khổ, không những bất nhân mà lại còn bất nghĩa nửa là khác. Nếu có máu anh-hùng đi đánh quân địch để cứu nhân độ thế mới giỏi, thắng bạn-bè được lợi gì? Thêm chạm lòng tự-ái mất hết tình bằng-hữu.
Đã chấp nhận bạn-bè phải yêu-mến tôn-trọng lẫn nhau, giao-hão nên giử lễ lựa lời, dẹp cái tôi của minh di một chút thì có thể sống vui-vẻ với bạn-bè lâu-bền, cuộc đời thấy thanh-thản, hạnh-phúc có ý nghĩa hơn, lại được bạn-bè và mọi người yêu-quý, mến-thương./.
HẾT
Viết xong bản thảo ngay 10-6-2007.
Tác giả PHAN-VINH.
BÀI ĐIẾU VĂN
--o0o-
Mấy hôm nay mịt-mù mây mưa thãm-đạm! Đó là dấu hiệu báo tin Trời, Phật sẻ rước linh-hôn anh vè cỏi Vĩnh-Hằng.
Tôi xin nói với anh một đôi lời trước giờ phút vĩnh-biệt.
Anh Sáu ơi!
Không hiểu vì ngẩu-nhiên hay là duyên-kiếp. Theo tôi nghỉ có thể là nhờ nhân-duyên .
Cách đây 44 năm, chúng ta gặp nhau kết tình huynh-đệ trong cuộc đời lính chiến.
Cuộc chiến-tranh hai miền Nam Bắc cuối thế kỷ 20 thật là ác-liệt, mạng sống con người như ngàn cân treo sợi tóc và ngọn đèn trước gió, không biết rơi rụng, đỏ tắt lúc nào.
Biết bao bà con bạn-bè cũa chúng ta cã hai bên, họ đã lìa đời vì làn bom mủi đạn khi tuổi còn non-trẻ.
Nhở ơn phúc-đức cũa ông bà anh em ta để lại và cũng nhờ ơn Phật, Trời phù-hộ, anh em mình che-chắn cho nhau mà sống sót đến ngày hôm nay. Sau ngày giải-phóng miền Nam, cuộc sống cũa anh em mình thật là khó-khăn bi-thãm, rả ngủ ra hai bàn tay trắng, một đàn con lúc-nhúc dại-khờ.
Chúng ta chia tay nhau mổi người một ngã.
Tôi ở Bùi-Chu anh lên Bàu-Cá, chọn quê-hương thứ hai để làm lại cuộc đời và tìm cuộc sống cho có ý nghĩa hơn. Đi vào rừng sâu khai khẩn tăng-gia sản-xuất cũng-cố kinh-tế gia-đình nuôi đàn con khôn lớn, cùng nhau đóng góp xây dựng xã-hội đất-nước.
Thời-gian thấm-thoát đã 30 năm trôi qua, con cái trưởng-thành, những đứa có gia-đình ăn ở riêng ổn-định, số ít còn lại đã học-hành thành-đạt, có công ăn việc làm tự-lập được. Cháu nội ngoai đã đày đàn dày đống.
Ngày anh qua đời , con cháu nội ngoại, bà con xa gần, bạn-bè thân hữu đến đông-đủ đẻ thăm-viếng và dự tang lẻ.
Đó là vinh-dự nhất trên dời, không phãi mọi người ai cũng được như vậy.
Hôm nay anh ra đi với tuổi thọ 71 là mãn nguyện lắm rồi, có câu văn cũa người xưa để lại:”Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Người sống đựoc 70 tuổi trên đời rất hiếm.
Tôi Hai-Vịnh bạn cũa anh mà cũng là tình-nghĩa thông-gia, vô cùng xúc-động, ngâm-ngùi thương tiếc, trong giờ phút vĩnh-biệt này. Tôi nghẹn-ngào chẵng nói nên lời.
Lấy bút viết điếu-văn kính chúc hương hồn anh được tiêu-diêu nơi miền Cực-lạc. Anh sống khôn thác thiêng, phù-hộ cho đàn con cháu nội ngoại sống bình-an, khỏe-mạnh hạnh-phúc.
Vong-linh anh luôn-luôn nhớ đến tôi, tôi cũng nhớ thương anh cho đến ngày chúng ta cùng nhau gặp lại ở bên kia Thế-giới.
Kính cáo.
Bùi-Chu, ngày 13 tháng 8 năm 2005
Tác giả Phan-Vinh.
“Bài văn phúng điếu ông Thông-gia Sáu-Mực tại Bàu-Cá”
MỘT MỐI TÌNH CHUNG-THUỶ CÓ TÍNH CÁCH LỊCH-SỬ CỦA CÔ HOÀN THỜI CHỐNG PHÁP, CHỐNG MỸ.
___
CHƯƠNG I.- GIA-ĐÌNH VÀ CUỘC SỐNG CŨA CÔ HOÀN THỜI THƠ ẤU.
-Cô Hoàn là con gái út, được sinh ra và lớn lên trong một gia-đình địa-chủ giàu có tại làng Phú-Mỹ , Tổng An-Cư, Huyện Phú-Lộc, Thừa-Thiên Huế.
Thời Thực-Dân Phong-Kiến. Ông Trịnh-văn-Bình bố của cô Hoàn cũng có làm Xã-Trưởng, ông là người trí-thức có học chữ Hán, Nôm nên ông sống rất hiền-từ có đạo-đức văn-hoá, biết đối nhân xử thế, nên trong làng ai-ai cũng kính-nể, vợ ông là bà Ngô-thị-Uyển người làng Phú-Bình, thời còn trẻ cũng rất đẹp gái, khi càng về tuổi già bà rụng răng móm-xọm, tính-tình thay đổi như là một mụ phù-thủy, chằng-lửa, hay chửi-rủa dân làng, hà-hiếp đánh-đập tôi-tớ, ai cũng ghét.
Bà sinh cho ông được bốn ngưòi con, hai trai, hai gái. Ông anh đầu kêu tên theo thứ tự anh Hai-Hành, cô gái thứ tên cô Ba-Đệ, cậu trai thứ tên Tư-Loàng. Hai người con trai và cô gái út cho đi học chữ, còn cô Ba-Đệ chỉ cho học may-vá thêu-thùa, nội-trợ và thay mẹ trông coi công việc đồng-áng.
Thời-gian tiến-triển hai ông anh Hai và Tư lớn lên ông bà lập gia-đinh cho hai ông, rồi cho ăn ở riêng chia đất ruộng cho phần ai tự lo nấy.
Trong gia-đình còn lại hai ông bà, hai người con gái, tôi-tớ ba bốn người, đó là ngày thường. Còn đến lúc thời-vụ mùa-màng thì người đến làm mướn ăn ở rất đông. Thời Phong-kiến là thời hưng-thịnh của các gia-đinh Địa-Chủ. Ông anh Hai của cô Hoàn dạo này được Hội-Đồng làng bàu làm Xã-Trưởng, tuổi trẻ sung sức, có quyền-thế, ông làm việc làng nước rất hăng-hái, hét ra lửa, dân làng từ già đến trẻ ai ai thấy ông cũng sợ, có lần làng tu sửa lại Đình, có một người dân làng tên là anh Chung bận việc gia-đình đến trễ, ông thộp cổ đè đầu xuống đánh mười roi, mất mặt xấu hổ đâm ra tự-ái. “ Chết vinh hơn sống nhục” anh ta đi thắt vòng vào cổ tử-vận, pháp-luật thời ấy thật nghiêm-khắc thưa kiện đến quan trên thì lấy mạng đền mạng. Sẳn tiền lo lót ông cũng bình chung như vại, vẫn là Xã-Trưởng. Thời Thực-Dân Phong-Kiến là thời hưng-thịnh Quan-lại và Địa-Chủ giàu có. Thời này đồng tiền là sức mạnh vô hạn.
CHƯƠNG II.- TÌNH YÊU, NHIỆM-VỤ, CUÔC SỐNG, CỦA CÔ HOÀN và GIA-ĐÌNH XẨY RA TRONG CUỘC BIẾN-CỐ 1945.
Dạo nầy cô Hoàn mới mười lăm tuổi, cái tuổi dậy-thì của con gái, mười lăm trăng tròn, mười sáu tròn trăng, con người cô rất dẹp gái, hình dáng vừa-vặn, da thịt trăng nõn, mặt trái soan, mủi dọc dừa, thật dễ nhìn, một học-sinh và hoa-khôi của làng Phú-Mỹ. Năm nay cô Hoàn vẫn còn di học, cô có bạn trai cùng chung lớp, chung trường, tên anh ấy là Nguyễn-anh-Dũng rất đẹp trai con nhà giàu học giỏi, trai tài, gái sắc thật xứng đôi vừa lứa, mối tình đầu của cô Hoàn và Dũng thật là thơ-mộng.
Cuộc đệ II Thế Chiến xảy ra, Nhật đầu hàng vì bom nguyên-tử của Mỹ. Bị Quân-Đội Đồng-Minh tước-đoạt vũ-khí, đuổi về nước. Tháng 8-1945, Bác Hồ đứng ra kêu gọi toàn dân làm cuộc Cách-Mạng Mùa Thu, lật đổ chế-độ phong-kiến bù-nhìn Bảo-Dại, Thành lập nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà, do Bác lãnh-đạo, đọc tuyên-ngôn độc-lập trước quảng-trường Ba-Đình Hà-Nội.
Bác-Hồ cũng kêu gọi toàn dân đoàn-kết.
- Bác-Hồ nói:
Hôm qua họ là kẻ thù của chúng ta, nhưng hôm nay họ biết ăn-năn hối-cải, chúng ta cũng coi họ như là bạn-bè, để cùng nhau góp công góp của xây-dựng lại đất nước được giàu mạnh tốt đẹp hơn.
Ông Hai-Hành mới ngày hôm qua là Xã-Trưởng của chế-độ Thực-Dân Phong-Kiến, nắm bắt thời-cơ ông tự nhiên cải lại chức-vụ là Chủ-Tịch làng Phú-Mỹ lúc giao-thời. Tôi nghe ba tôi nói chuyện với mẹ tôi, những người có học thức giàu có thời nào nó cũng làm cha thiên hạ. Vì giòng họ Trịnh của ông có quyền thế từ xưa cho đến nay. Nên dân làng chẳng ai dám đớ đụng đến, thời-thế cũng phải đổi thay.
Mùa Xuân năm 1946 Quân Pháp sang tái chiếm Việt-Nam. Ông sợ quân Pháp bắt giết, đêm ngày phải lẩn trốn. Vì trước kia làm Xã-Trưởng hà-hiếp dân làng, mặc dàu hôm nay ông là Chủ-Tịch của Việt-Minh, dân làng họ vẫn còn thù-hận riêng về cá-nhân ông hành-động hồi còn làm Xã-Trưởng của chế-độ cũ, bị Việt-gian điềm chỉ Pháp bắt ông ra nhốt tại lao Thừa-Phủ, lúc này bố mẹ ông cũng già yếu kinh-tế của gia-đình suy-sụp, không kiếm đủ tiền chuộc về, nên bị Pháp thủ-tiêu bỏ mất xác.
Cô Đệ con gái thứ, dạo này tuổi đã ngoài tứ tuần, mình mẩy mập mạp, mặt mày xấu-xí, mà ỷ thế con nhà danh-giá kén lựa, nên không ai thèm rước, vẫn ở với cha mẹ. Ông Loàng lúc này cũng sợ liên-can, nên cũng bỏ nhà bỏ cha mẹ gìa trốn theo Việt-Minh.
Cô út Hoàn được bố mẹ nuông chiều, dạo này tuổi của cô cũng vừa đôi chín vẫn còn đi học, cô Hoàn căm thù giặc Pháp tái chiếm đất nước còn bắt giết anh hai của cô, nên cô rủ anh Dũng người tình nghỉ học, cùng thoát-ly theo Việt-Minh để đánh Pháp, Cô Hoàn làm cán-bộ Phụ-Nữ Xã. Anh Dũng đi làm Sĩ-Quan Bộ-Đội Cụ-Hồ. Tạm đình-chỉ việc hôn-nhân, để cùng nhau chống Pháp.
Trong tình huống dầu sôi lửa bỏng của đất nước hiện nay, nhiệm-vụ của Thanh-Niên hiện tại, coi nợ nước trước tình nhà.
Anh Dũng là Bộ-Đội Chính-Quy Vệ-Quốc-Đoàn thời ấy, anh là một Cán-Bộ Sĩ-Quan ưu-tú, tinh-thần gan dạ, cầm quân đánh đâu thắng đó, rất xứng đáng với cái tên mà bố mẹ đặt cho anh hồi anh còn bé, cô Hoàn cũng lấy làm hãnh-diện và tự-hào cho mình có người yêu lý-tưởng.
Sau này anh cũng cầm quân tham-dự trận đánh lớn tại Thanh-Hương, Lam-Bồ, trận nầy quân Pháp mở cuộc hành-quân càn-quét cấp Sư-Đoàn Bộ-Binh đầy-đủ các Binh-Chủng, có Tàu-Bò, Tàu-Thủy, Pháo-Binh, Máy-Bay yểm-trợ. Trận này giặc Pháp cũng bị quân ta giáng một đòn chí-tử, bỏ xác tại trận hàng trăm tên.
Quân ta cũng có anh-dũng hy-sinh một số ít, Trong đó có Đồng-Chí Sĩ-Quan Nguyễn-anh-Dũng là người chồng chưa cưới của cô Hoàn. Được bạn-bè cho hay tin là Dũng đã hy-sinh trong trận đánh vừa qua, cô vô cùng cảm-xúc buồn-rầu thất-vọng mấy tháng trời, cô căm thù giặc Pháp giết anh mình rồi nay lại giết người yêu, nhờ có anh Nguyễn-Văn-Thanh là bạn đồng-chí. Làm việc cùng một tổ, vỗ về an-ủi cô mới khuây-khoả tiếp tục công-tác. Tình-cảm của cô Hoàn và anh Thanh mới chớm nở từ đó. Ban đêm cô cũng có lén về thăm cha mẹ cô và cũng báo tin cho cha mẹ Dũng biết là Dũng đã hy-sinh.
Từ ngày anh Dũng hy-sinh, thời-gian trôi qua gần một năm Thanh mới dám ngỏ lời cầu hôn với Hoàn, Hoàn nhận thấy Thanh cũng là người thông-minh, trí-thức không thua gì Dũng, Cũng điển trai con nhà danh-giá trung-lưu ở làng Phú-Bình, miền duyên-hải gần với mật-khu của cô hoạt-đông. Cô xin để suy-nghĩ ít hôm mới trả lời:
-Là cô đã nhất-trí và đồng-ý. Anh Thanh mừng quá như là mình đã vớ được một nàng Tiên-Nữ giáng trần, không bỏ lỡ cơ hội, sợ cô ta thay đổi ý-kiến thì hỏng mất, khẩn-cấp trình xin Uỷ-Ban Kháng-Chiến, được cấp Uỷ cho phép, anh tổ-chức lễ tuyên-hôn trong mật-khu. Mời quý vị Đại-Diện cấp Ủy tham-dự đọc lời tuyên-hôn xong, bữa tiệc chỉ có bánh in và nước trà mà thôi. Thời kháng chiến chống Pháp có câu ca : “A ly họ lờ … ngày xưa đám cưới heo gà… A ly họ lơ … ngày nay đám cưới nước trà bánh in… Hò lơ… Hó lơ … Lắng tai nghe, tiếng ai hò lơ … hò lờ ……
Thế là hoàn-thành thủ-tục kết hôn của đôi trai tài gái sắc thời kháng chiến chống Pháp. Từ nay hai người được phép ăn ở chung sống với nhau trong mật-khu kháng-chiến.
Cha mẹ cô Hoàn lúc này già-yếu bệnh-hoạn, con thứ hai bị Pháp giết, con trai thứ tư, con gái út bỏ đi kháng-chiến, ông bà ở với cô gái thứ ba bị ế chồng, nên tánh nết hay cáu-gắt, không coi cha mẹ già ra gì, hai ông bà cô-đơn buồn-rầu sinh bệnh rồi cũng qua đời hết. Gia-đình còn lại một mình cô Ba-Đệ lỡ thời tuổi gần ngũ tuần, có người mai-mối cho một ông già đau bao-tử chi có ăn cơm nếp, ở trong Đà-Nẵng ra rước đi. Đến 1953 chiến-tranh gần kết-thúc càng ác-liệt cái nhà xây tường gạch lợp ngói Tây của bố cô Hoàn cũng bị Pháp đập tan-nát, thế là gia-đình V.M bị tán gia bại sản từ đây.
Cô Hoàn và Thanh chung sống hoạt-động cho Việt-Minh trong mật-khu cũng sinh được hai Công-Chúa kháu-khỉnh rất giống bố mẹ. Sau khi quân Pháp bị thất-thủ trận Điện-Biên-Phủ. Buộc phải ký Hiệp-Định Giơ-ne-vơ tại Thuỵ-Sĩ ngày 07-5-1954. Được đình-chiến tại Đông-Dương.
Sau ngày đình-chiến 1954 theo hiệp-định, lệnh phải tập-kết, cán-bộ và Quân-Đội Việt-Minh từ miền Nam ra tới vĩ-tuyến 17 phải rút hết ra Bắc, toàn miền Bắc vào đến vĩ-tuyến 17 cầu Hiền-Lương, Quân-Đội viễn-chinh Pháp phải rút hết vào Nam, giao lại miền Bắc cho Việt-Minh, Bác-Hồ lãnh đạo.
Anh Thanh phãi từ-giã cha mẹ, vợ con, anh em lên đường tập-kết ra Bắc, trước giờ phút chia tay tạm biệt, hai vợ chồng Thanh và Hoàn thề Non hẹn Biển những lời sắt-son vàng đá với nhau.
“Cùng nhau thề thốt nặng lời
Dẩu mòn bia đá chớ phôi tấc lòng”.
Nguyễn-Du
Nếu sau này có chuyện bất trắc, không sum-họp cũng vẫn ở chờ đợi cho đến chết thì thôi, không ai được tự tiện phụ nhau đi theo người khác, là mang tội bội-phản với Trời, Phật và thất tín với nhau. Thanh và Hoàn cả hai đều có ăn học, gia-đình có văn-hoá truyền-thống, họ tin nhau, nên khi xa nhau họ dám thề thốt nặng lời như vậy.
CHƯƠNG III.- SAU NGÀY CHIA TAY THANH LÊN ĐƯỜNG TẬP-KẾT RA BẮC CÔ HOÀN VỀ LÀM DÂU SỐNG VỚI BỐ MẸ CHỒNG.
Sau khi Thanh đi rồi Hoàn đem hai đứa con mình về sống với bố mẹ chồng, thủ tiết nuôi con. Lúc nầy bố mẹ chồng còn mạnh-khoẻ, từ làng Phú-Bình dời nhà về làng Trung-Kiền gần chợ Thừa-Lưu, Xã Lộc-Tụ. Ở đây gần chợ búa, mới thuận-tiện việc buôn-bán làm ăn, ông già chồng làm Thầy Lang buôn-bán thuốc Bắc, mẹ chồng trông nom hai cháu và lo việc bếp-núc, Cô Hoàn và hai em gái hàng ngày chạy chợ gia-đình sống qua ngày, kiếm tiền nuôi hai con ăn học. Chờ đến tháng 7.1956 nhà nước tổ-chức tổng-tuyển-cử thống-nhất hai miền Nam Bắc với nhau thì anh Thanh sẽ về sum-họp vợ chồng.
Ai ngờ Mỹ đưa cụ Ngô về làm Thủ-Tướng miền Nam, lật-đổ chế-độ Vua bù-nhìn Bảo-Đại, đình-chỉ tổng-tuyển-cử, bởi vậy mới có cuộc chiến phân chia lãnh-thổ lâu dài. Anh Thanh phải sống một mình tại miền Bắc suốt hai mươi năm. Hai cô em gái của anh Thanh trưởng-thành cũng đi lấy chồng hết.
Lúc này cô Hoàn tuy đã có hai mặt con nhưng còn trẻ, vẫn đẹp gái như ngày nào, biết bao anh chàng trai trẻ muốn xin cưới cô làm vợ, nhưng cô khéo-léo chối-từ, cô nhất quyết một lòng ở vậy nuôi con và chờ đợi chồng về.
Như bài ca hòn-vọng-phu 1 của Lê-Thương.
“Bao nhiêu năm bồng con dứng đợi chồng về…
Bao nhiêu năm thời gian không phai lời thề…
Người đi ngoài vạn lý quan-san…
Người mong chồng vẫn sống (1) nuôi con……”
Gia đình bố mẹ chồng và cô vẫn làm ăn buôn-bán sống cũng được.
Bất thần ngày 1-11-1963 Dương-Văn-Minh lật-đổ Ngô-Đình-Diệm, Vì lý-do : gia-đình trị và đàn-áp Phật-Giáo. Cái gọi là Quốc-Sách Ấp Chiến-Lược của ông Cố-Vấn Chính-Trị Ngô-Đình-Nhu cũng bị nhân-dân phá tan-tành. Lúc nầy tình-hình an-ninh bất ổn, Mỹ ồ-ạt đổ quân sang miền Nam Việt-Nam. Tình-hình chính-trị quá rối-ren. Quân giải-Phóng cũng lớn mạnh lên, ban đêm kéo về đánh trụ-sở Xã Lộc-Tụ, Nghĩa-Quân canh-gác Xã người chết, kẻ bị thương, nhà cô Hoàn bị đạn pháo-binh hư-hại nặng, ông bà già chồng của cô Hoàn thấy tình-thế khiếp-sợ, phần thì nhớ con trai đi tập-kết không về, buồn-rầu ốm-đau cũng qua đời cả ông lẫn bà cùng trong một năm.
Sau ngày chôn cất cha mẹ chồng xong năm tháng sau mẹ con Cô Hoàn từ bỏ quê, dắt-díu nhau vào thành-phố Đà-Nẵng ở với bà Đệ chị ruột, cô xa-lánh mấy ông cán-bộ địa-phương của thời Tổng-Thống Nguyễn-văn-Thiệu, họ biết chồng cô là VC làm khó dễ. Nên cô phải bỏ quê tìm nơi an phận, để buôn-bán tảo-tần nuôi dạy hai con, kiếm trường cho con nhập học, Hiếu và Hạnh con gái của cô rất ngoan-ngoãn thông-minh, học-hành tiến-bộ thật xứng-đáng công lao của cô chăm-sóc nuôi-nấng từ lâu.
Có câu:
“Con nhà tông không giông lông cũng giống cánh”.
Hai cô càng lớn càng đẹp gái, lộng-lẫy như hai nàng Công- Chúa, học-hành thành-đạt nên người, dạo này hai nàng đã đến tuổi trưởng-thành. Cô Hoàn nuôi dạy con rất chuẩn-mực, tánh-tình rất đằm-thắm nết-na, đầy-đủ các đức-tính như: Tam-tòng, tứ-đức, công, dung, ngôn, hạnh. Các quan lớn chế-độ cũ đến ngắm-nghé, muốn hỏi làm vợ, nhưng cô nhất quyết không gả, vì cô đã kinh-nghiệm, thời chiến-tranh lấy chồng quan hay đi đánh trận bỏ con mình phòng không gối chiếc, có khi tử trận con mình bị goá-bụa. Cô phân-tách hơn thiệt cho hai con cô hiểu. Có quyền cao chức trọng, giàu có cũng chẳng màng.
Kiếm dân thường có kiến-thúc, hoặc là bác-sĩ kỹ-sư kết duyên.
Hạng người này thời chiến-tranh hiếm-hoi lắm, thanh-niên trí-thức ai cho làm thường dân thời này.
Xét suy cho kỹ cô Hoàn chẳng có thích gì ba ông quan chế-độ Sài-Gòn đâu, mà không gả cho mấy ông này thì con mình ở goá hay sao? Vi gia-đinh bên chồng và bản-thân cô là Đạo Phât-Giáo. Hay cho con đi tu làm Ni-Cô có thể không ? . Cô tự hỏi tấm lòng của cô, rồi cô tự trả lời:
-Việc tu-hành là do lòng tự-nguyện, không nên, không thể ép-buộc con như vậy được, để cho con-cái có quyền tự-do. Hai con mình tuổi đang non trẻ, có tội tình gì mà phải đầy-đọa chúng như vậy, thì tội nghiệp cho chúng nó. Suốt cuộc đời minh đã trung-thành với Đảng và Tổ-Quốc, hy-sinh cho chồng, cho con, mà quan-trọng nhất là tương-lai của hai con mình. Bất đắc dĩ cô mới cho hai con tuỳ ý kén chồng. Hai cô có học-thức cũng khôn-ngoan hiểu ý mẹ, hai cô chọn chồng Quan Văn có học-thức chuyên-môn làm việc trong các Bộ - Ngành quan-trọng của chế-độ Sài-Gòn. Lần hồi theo thời-gian cũng được thăng quan tiến chức, lên cấp-bậc Trung-Tá, Đại-Tá, làm việc trong Bộ Quốc-Phòng và Bộ Ngoại-giao, có một ông rể của cô Hoàn đi theo phái-đoàn Mỹ Việt chế-độ Sài-Gòn hội nghị tại Ba-Ri năm 1971-1973.
Nên các ông biết trước tình-hinh của miền Nam sau nầy.
Hai ông cột chèo bàn với nhau, tìm cách đưa ba mẹ con sang định-cư bên Mỹ trước ngày giải-phóng một năm.
Đến ngày 30-4-1975 hai chàng cũng đồng hành theo Mỹ sang sum-họp mẹ con. Qua Mỹ hai ông rể cũng tiếp-tục làm việc ngành ngoại-giao với Mỹ. Sau ngày giải-phóng miền Nam mẹ con cô Hoàn sống đoàn-tụ hạnh-phúc trên đất Mỹ.
CHƯƠNG IV.-CUỘC SỐNG CỦA ÔNG THANH SAU NGÀY GIẢI-PHÓNG ÔNG TÌM VỀ QUÊ-HƯƠNG KIẾM VỢ CON.
Ngày giải-phóng, thống-nhất đất nước anh Thanh trở về quê-hương tìm lại nhà xưa chốn cũ thì thấy cảnh tiêu-điều hoang-vắng không còn ai, anh hỏi những người ở chung quanh lạ hoắc, họ chẵng biết anh là ông mô, mà anh cũng chẳng biết họ là ai nữa, vì anh hỏi mấy người trẻ tuổi họ làm sao biết được. Anh suy-nghĩ một lát anh nhớ lại cái câu: “ra ngoài hỏi già về nhà hỏi trẻ”, anh mới hỏi tiếp:
-Ở đây có ông bà già nào sáu bảy mươi tuổi còn sống không ? Anh A trả lời:
-Chú cứ tới đằng kia hỏi nhà ông Lưu chồng bà Em ông ấy già lắm rồi, anh đi đến hỏi thì ông nầy có biết, ông ấy nói:
-Sau ngày đình-chiến 1954 ông bà Khoá đã dời nhà lên chợ Trung-Kiền ở để buôn-bán, nay thì ông bà đã qua đời hết rồi, tôi nghe người ta nói sau khi ông bà mất, O Hoàn lo chôn cất ông bà xong xuôi, cách măm sáu tháng sau ba mẹ con dắt nhau vào Đà-Nẳng ở, tôi chỉ biết đến đây mà thôi, vì tôi già rồi chẵng đi đâu xa mà rỏ hết được, anh nên lên trên làng Phú-Mỹ mà hỏi thì chắc có người họ biết rỏ hơn.
Anh Thanh cám ơn rồi cáo từ ông già ra đi lên làng Phú-Mỹ hỏi ra thì người thân còn quá nhiều, anh chị em ruột cô Hoàn không còn ai, chứ con cháu của cô già có. trẻ có, cả họ Trịnh ai mà chẵng biết o Hoàn, anh xưng với họ, anh là chồng chính-thức của o Hoàn đi tập-kết ra Bắc năm 1954 đến nay mới được về. Bà con họ cho anh hay tiếp, thế thì hỏng việc rồi, từ ngày dượng đi cho đến nay o Hoàn không thèm lấy chồng vẫn ở một mình nuôi con chờ dượng về, sao dượng chẳng về, o tưởng dượng đã chết hoặc đã lấy vợ khác bỏ o rồi, nên ba mẹ con o đã qua Mỹ trước ngày giải phóng hơn một năm nay rồi. Anh Thanh được tin này chính-xác một trăm phần trăm, anh buồn-rầu thất-vọng. Anh nhớ lại thời còn trẻ vợ chồng cùng chung chí-hướng đánh Pháp thắng-lợi. Nhưng rồi phải chia tay vợ con tập kết ra Bắc tiếp-tục chống Mỹ hai mươi năm gian-khổ vào sanh ra tử, nhờ Phật độ-trì sống sót. Nay về quê nhà gặp lại vợ con để sum-họp ca khúc khải-hoàn mừng ngày chiến-thắng, đất nước được hoà-bình thống-nhất độc-lập tự-do. Nếu như vợ con còn ở tại VN thì mình được sống hạnh-phúc, và lấy làm hãnh-diện với quê-hương làng nứơc biết bao.
Ông Thanh về quê-hương đã lâu mà chẳng thấy chính-phủ Cách-Mạng Lâm-Thời bổ-nhiệm một chức-vụ gi xứng-đáng, chỉ có đi làm các việc tạp-nhạp mà thôi. Vì công lao của anh quá lớn, mười năm chống Pháp, hai mươi năm chống Mỹ, đóng góp cho đất nước hết hai phần đời người, tuổi-tác của ông đã trên ngũ tuần, mà chỉ có hai bàn tay trắng, ông suy-nghỉ: “mình đi đánh đuổi Mỹ, mà vợ mình quên lời thề thốt ngày xưa, đem con mình đi theo Mỹ phản-bội lại minh, phản-bội cả Tổ-Quốc, mặt mũi nào mà nhìn bà con bạn-bè làng nước, chẳng còn con đường nào nữa mà thấy được mặt mủi vợ con”. Ông đâm ra chán-nản nhìn lại cuộc đời ông dến đường cùng, chẳng thấy gì là sáng-sủa nữa, lúc nầy ông vô cùng tuyệt-vọng con người ông dở điên dở tỉnh, sức-khoẻ của ông lúc này thấy hơi tiều-tuỵ xuống cấp.
Chương V.-CÔ HOÀN Ở BÊN MỸ ĐƯỢC TIN ÔNG THANH CÒN SỐNG VỀ TẠI QUÊ-NHÀ ĐI TÌM CÔ, NÊN CÔ BAY VỀ.
Cô Hoàn bên Mỹ nhận được tin chồng mình còn sống đang đi tìm mình tại quê nhà, cô đi Thẩm-mỹ-viện sửa lại sắc đẹp cho cô trẻ lại như con gái, mặc dầu năm nay tuổi của cô đã ngoài bốn mươi. Cô ra lệnh cho hai ông con rể lo thủ-tục giấy tờ và vé máy-bay để cô bay về Việt-Nam thăm “chồng” Bố. Cô cũng bão với hai con gái của cô, chị em con phãi đi mua vãi-vóc loại tốt nhất với quà-cáp quý giá, để mẹ mang về tặng Bố “cha” và bà con họ-hàng. Trước khi cô Hoàn về VN, rể và con lo cho cô thủ-tục giấy tờ về nước thăm thân-nhân, vé máy bay, đô-la, vàng, hành-lý quà tặng đầy-đủ. Hiếu và Hạnh còn dặn-dò mẹ phãi khéo-léo thuyết-phục Bố bằng lòng qua Mỹ, để các con lo thủ-tục bão-lãnh sang đoàn-tụ gia-đình.
Cô Hoàn cũng hứa với các con, mẹ sẽ đem hết tài-năng khôn-ngoan của mẹ để dụ-dổ Bố các con cho bằng được. Mẹ con dặn-dò nhau kỹ-lưỡng, con, rể gởi lời về thăm Bố và bà con họ-hàng, kính chúc sức-khoẻ.
Ngày cô lên đường, con, rể, cháu ngoại đưa ra tận phi-trường để cô lên máy-bay về quê-hương.
(Tinh-thần lẩn thể-xác của ông Thanh dạo này bị tiều-tụy, cũng như bụi cỏ héo tàn vì xáp cơn nắng Hạ khắc-nghiệt của phong-thổ và khí-hậu miên Trung, cái nơi mà cha mẹ đã sinh ra ông tại đó, sắp sửa được dịp mây, gặp cơn mưa Dông đúng lúc, thật là tươi mát cuộc đời của lão).
Năm 1977 trong thời-gian mới giải-phóng, tình-hình chính-trị chưa được ổn-định, thời còn quan-liêu bao-cấp, thời ngăn sông cấm chợ, nội bất xuất, ngoại bất nhập, thế mà cô Hoàn từ Huê-Kỳ bay về Việt-Nam một cách dễ-dàng như đi chợ. Để thăm chồng, thăm bà con làng xóm. Vì không có thời-gian cô đi khắp nơi thăm hết bà con làng xã , bà con ai biết tin cô về tới thăm thì dược cô tặng 500$ tiền VN hồi đó, quy ra tiền bấy giờ là 50.000$ VN, nên bà con đồn-đãi ra trên làng dưới xóm họ rồng-rồng kéo nhau đến tấp-nập thăm cô, bất cứ bà con hay người dưng nước lã, cô cũng tặng tiền như nhau, nên bà con làng xóm ai cũng mến cô. Cô có hai thằng cháu cũng lớn tuổi sấp-xỉ bằng cô, là con của ông anh ruột hai Hành, ông nầy bị Pháp giết bỏ mất xác, cậu anh tên Chánh gia-đình đóng 5.000$ Đông-Dương cho VM đưa ra Bắc học để sau này báo thù nhà, trả nợ nước. Khi giãi-phóng trở về dược Cách-Mạng phân-công vào làm cán-bộ Xã Lộc-Hãi được cấp nhà đất tại địa-phương nơi làm việc, thì o cho tiền ít, còn cậu em tên Trực đi theo lính Ngụy khi giải-phóng trở về làng làm phó thường dân, ruộng đất cha ông để lại bị đưa vào tập-thể, gia-đinh cậu quá nghèo khổ, thất cơ lở vận, ở cái nhà xập-xệ dột nát, chỉ ăn khoai mì, bo-bo khoai lang mà sống, nhìn thấy thật bi-thảm, thì cô cho nhièu tiền hơn và cung-cấp tiền xây cho cậu một nhà to lợp ngói để gia-đinh cậu ở và thờ-phụng tổ-tiên Ông Bà. Ông em đi sai đường lối đáng lẽ cô phạt, mà cô lại ưu-tiên hơn, thế mới tréo cẳng ngỗng.
Thời-gian cô và ông Thanh ở lại nhà cháu, tại làng Phú-Mỹ ông Thanh thấy cô cho tiền bà con nhiều quá, ông tiếc của sốt ruột bảo với cô nên di-tản địa-điểm cư-trú.
Sau mấy ngày thăm-viếng bà con cháu chắt thỏa-mãn, cô dắt ông Thanh bay vào Sài-Gòn thuê khách-sạn lưu-trú, chung sống với nhau, để có không-gian, thời-gian yên-tĩnh, cô thuyết-phục dụ-dỗ chồng cô bỏ Đảng theo mẹ con cô để sang Huê-Kỳ sum-họp gia-đình.
Khi đến Sài-Gòn cô thuê phòng khách-sạn hạng nhất, nghỉ ngơi cho thoải-mái, ngày hôm sau cô mới bắt đầu câu chuyện.
-Hồi đầu cô dỗ ngon dỗ ngọt đi theo cô để sang Mỹ, ông chẵng thèm mghe.
Ông Thanh nói:
-Thời mình còn thanh-niên, trốn chui, trốn nhủi, chịu đói, chịu rét, vào sinh, ra tử, nằm gai, nếm mật, trường-kỳ kháng-chiến, mười năm gian-khổ đánh đuổi được quân Pháp. Đình chiến em ở nhà nuôi con phụng-dưỡng cha mẹ, anh còn tập-kết ra Bắc tiếp tục nhiệm-vụ hai mươi năm chống Mỹ, hôm nay mình đã thắng Mỹ.
-Đất nước được hoà-bình, độc-lập thống-nhất, em biết không? Anh đã góp công sức hết hai phần đời người, trung-thành với Đảng mới được ngày hôm nay, em xúi-dục anh bỏ Đảng theo mẹ con em là bỏ thế nào được. Ông nói tiếp, tôi không thể bỏ Đảng đi theo Mỹ được, cô đừng nằm mơ, cô biết không? Hành-động như vậy là phản-bội lại nhân-dân, phãn-bội Tổ-Quốc, tội nầy trời không dung, đất không tha, ai đời đi đánh Mỹ rồi lại theo Mỹ răng được, không thể.
Cô Hoàn cứ ung-dung tự-tại lắng tai nghe ông nói cho hả dạ không cãi lại một lời nào cả, sẳn đà ông moi hết những gì ấm-ức trong lòng từ lâu, ông xổ ra hết muốn toẹt cả móng heo. Ông còn trách mắng cô Hoàn những câu thậm tệ, ông bão cô quên hết lời thề hẹn, trong ngày chia tay tạm biệt ra Bắc tập-kết. Ông bảo cô Hoàn là con người một dạ hai lòng, gió chiều nào cờ bay theo chiều nấy, dắt con của ông đi theo Mỹ là phản-bội lại ông và Tổ-Quốc.
-Cô Hoàn rất vui, cứ tươi như hoa, chẳng nói, chẳng rằng, cô đưa tay lên ngực của ông vuốt-vuốt ba cái, rồi lại thơm vào má của ông hai cái, để cho ông xuống cơn nóng dận, cô xem lại đồng hồ đã điểm Oh40, cô bảo:
-Những gì anh nói ra em đã nghe hết và hiểu rõ, thôi khuya lắm rồi mình đi nghỉ đi anh, còn chuyện gì tối mai tiếp-tục.
Qua ngày mai cô cũng ngọt-ngào khuyên-nhủ anh nên suy-nghĩ cho thật kỹ, em sẽ lo cho sang Mỹ vợ chồng cha con sống đoàn-tụ với nhau.
-Đầu óc, bụng ruột, đến cử chỉ-của ông Thanh càng cứng nhắc hơn, ông tưởng cô Hoàn đuối lý nên chẵng phản-đối lời nào. Ông lầm to.
Ông Thanh nói tiếp:
-Đối với Tổ-Quốc thì em đã có lỗi rõ-ràng, còn về tình sâu nghĩa nặng phu-thê, thì anh cũng thông-cảm cho hoàn-cảnh và thời-thế mà tha-thứ, anh cũng cám ơn em trong khi vắng anh, em một lòng chung-thủy ở một mình nuôi con mà không đi lấy chồng khác.
-Nếu hiện nay mà em vẫn còn yêu anh như ngày nào, thì em hãy bay về Mỹ bàn lại với hai con và hai cái thằng rể, rồi thu-xếp về lại VN ở với anh là hợp tình hợp lý nhất, để chúng ta hưởng-thụ hạnh-phúc tuổi già. Con cái lỡ sang bên ấy rồi cứ để tụi nó sống, em cứ coi như anh chẳng có con-cái gì cả. Em cứ làm theo ý anh là vợ chồng ta trọn tình, trọn nghĩa, mà riêng anh cũng tránh được cái tiếng tăm phản-bội bỏ Đảng, bỏ Tổ-Quôc.
Cũng đáng khen cho cô Hoàn chịu ẩn-nhẫn cứ im-lặng để cho ông nói, cô cứ lắng tai nghe để cho ông trút hết cái bầu tâm-sự uất-ức bị dồn-nén từ lâu, nay mới có dịp, có người để thổ-lộ cho sạch-sẽ, không còn gì để nói nữa.
Bây giờ cô Hoàn mới hỏi ông:
-Anh còn gì để nói nữa không ?
Ông Thanh trả lời:
-Không, những gì cần nói anh đã nói với em hết rồi.
Cô Hoàn:
-Khuya lắm rồi anh ! minh đi nghỉ đã, ngày mai thư-thả em sẽ đáp lễ theo ý-kiến và nguyện-vọng của anh.
Sáng nay vợ chồng vệ-sinh ăn điểm-tâm xong, cô điện-thoại mướn một chiếc xe con rất đẹp để đưa ông Thanh đi xem quang-cảnh thành-phố Sài-Gòn, cô bảo tài xế nơi nào có lầu-đài đẹp, phong-cảnh đẹp anh đưa vợ chồng tôi đến đấy để xem, rồi cô bảo tài xế chạy chậm-chậm khắp Sài-Gòn Chợ-Lớn cho Ông Thanh xem cho đã đời choá mắt, đến giờ ăn cô bảo tài xế, nhà hàng ăn uống nào sang nhất, ngon nhất, có tiếng-tăm, anh đưa vợ chồng tôi đến đó để dùng bữa. Bác Tài cũng tinh mắt biết vợ chồng cô là Việt-Kiều nên Bác chìu hết cỡ. Sau khi ăn uống ở tại nhà hàng xong, Bác tài đưa vợ chồng cô về trả lại chỗ khách-sạn cô mướn để ở mấy hôm nay, cô trả công cho Bác Tài bằng tiền đôla sòng-phẳng.
Hai vợ chồng nghỉ-ngơi, chiều lại cơm nước xong xuôi như mọi ngày trước.
Hai hôm liền cô Hoàn nhường cho ông Thanh trút cạn bầu tâm-sự, cô không xen vào lời nào cả.
Cô Hoàn rất khôn, cô đề-nghị trước khi đối-đáp những lời ông Thanh phê-bình chỉ-trích cô liên-tiếp hai hôm vừa rồi.
Cô Hoàn nói:
-Hai hôm vừa rồi là em nhường-nhịn để anh trút bàu tâm-sự cho nhẹ-nhõm tâm-hồn của anh, hôm nay là hôm thứ ba, anh không có gì nói nửa thì anh nhường lại thời-gian để em đáp-từ lại những câu chuyện mà anh đã nói với em hai hôm nay nhé !
Ông Thanh:
-Có gì em cứ nói, anh sẵn-sàng nghe đây.
Cô Hoàn Hỏi ông Thanh:
-Hôm qua mình đi dạo quanh thành-phố, anh thấy thế nào ? Ông Thanh trả lời:
-Cũng đẹp, cũng nhộn-nhịp xe-cộ, lầu-đài cũng đồ-sộ, đâu có thua gì Hà-Nội. Nhà hàng ăn uống cũng sang-trọng và ngon miệng.
Cô Hoàn nói:
-Bây giờ buôn-bán, nhà hàng, khách-sạn, vui chơi giải-trí chưa được năm phần trăm hồi còn chiến-tranh, hồi còn Mỹ đóng quân tại đây, vui chơi, buôn-bán, xe-cộ nhộn-nhịp gấp trăm lần, đây là Thủ-Đô của chế-độ Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu. Em cũng có ở đây một thời gian với con nên em biết rỏ. Bây giờ thành-phố buồn quá không vui nhộn tấp-nập như trước ngày còn chế-độ cũ. Ông thanh ngơ-ngáo chẳng hiểu gì cả.
Ông hỏi lại:
-Tại sao hoà-bình độc-lập mà lại buồn ?
Cô Hoàn:
-Tại vì nhà nước ngăn sông cấm chợ và Mỹ cấm vận Việt-Nam.
Cô Hoàn nói:
-Thôi tạm ngừng mấy chuyện vớ-vẫn này đi.
-Bấy gìơ anh hãy lắng tai nghe em nói đây.
-Anh phê-bình, chỉ-trích em có sáu điễm và đề-nghị một điều sau cùng.
-Em ghi-nhận vào trong lòng em đầy-đủ.
-Em xin giải-đáp từng điểm một, để anh dễ hiểu :
Thứ I.- (1 điểm). Quên lời thề :
-Ngày anh lên đường tập-kết ra Bắc, em đem con về ở làm dâu bố mẹ anh, một lòng chờ chồng nuôi con, phụng-sự cha mẹ anh khi tuổi cao sức yếu, khi qua đời. Em lo ma chay tống-táng mồ yên mả đẹp, tìm nơi yên-ổn buôn-bán tần-tảo sống một mình nuôi con, không đi lấy chồng khác. Chờ đợi anh cho đến bây giờ.
Mà anh bảo em quên lời thề là quên chỗ nào được.
Thứ II.- (2 đ.). 1.-Một dạ hai lòng. 2.- Gió chiều nào phất cờ chiều nấy:
-Anh thử nghĩ, em không chồng một tay ôm hai đứa con dại, khi quê-hương mất an-ninh, bom đạn nhà tan cửa nát, mẹ con em không thể sống được, tìm nơi yên-ổn buôn-bán tảo-tần nuôi con khôn lớn cho ăn học thành-đạt, dạy-dỗ nên người, lo gả chồng đàng-hoàng. Thời chiến-tranh em hai bàn tay trắng mà làm được như vậy thì quá sức tưởng-tượng.
-Thời-gian vắng anh trên hai mươi năm em chăm lo nuôi con không tham-gia việc gì trong chính-quyền chế-độ cũ, anh có tin hay không tuỳ ý, đến nỗi con anh trưởng-thành rồi mà em chẳng muốn gả cho những người làm việc cho chế-độ Sài-Gòn và Mỹ.
Anh ơi: việc đời đúng hay sai làm sao chúng ta hiểu nổi, đúng với hôm nay nhưng ngày mai sai bét, sai hôm nay mà ngày mai kia thì đúng, mà lại càng quá đúng cũng nên. Thời-gian thay đổi mãi, hợp rồi tan, tan rồi lại hợp, tình-thế rồi đây cũng phải đổi thay, không có gì bình-thường lâu dài được. Anh nên nghĩ kỹ mà xem. Em đã suy-nghĩ muốn bể cả đầu-óc, em mới cho phép hai con tuỳ ý kén chồng. Hiện nay hai con gái của mình đã có gia-thất. Chồng của con mình cũng có địa-vị trong xã-hội giàu-có sung-sướng, hạnh-phúc là tốt rồi, đấng làm cha mẹ nuôi con chi ước-ao như vậy là đủ rồi, chẵng còn gì hơn nửa, dù ở đâu cũng được, đất lành chim đậu. Còn anh nói em theo Mỹ, Không bao giờ. Em chỉ theo con.
Thì làm sao mà một dạ hai lòng, gió chiều nào cờ phất chiều ấy được.
Thứ III.- (3 đ.). 1.- Anh bảo em phản-bội anh. 2.-Phản-bội Tổ-Quốc. 3.-Dắt con anh đi Mỹ.
-Em vẫn giữ trọn lời thề cho đến ngày hôm nay, đêm ngày em thường nguyện-cầu cho anh được sức-khoẻ để hoàn-thanh nhiệm-vụ, em thường ước-mơ có ngày vợ chồng gặp nhau. Hôm nay ước-mơ của em đã thành hiện-thực. Em ở bên Mỹ dù xa xôi vạn dặm, được tin anh còn sức-khoẻ về làng tìm em. Em mừng quá bay về liền để thăm anh.
Em chẵng làm điều gì có tánh cách chống lại dường lối của Đảng của Cách-Mạng và Nhà-Nước, lo làm ăn nuôi con, không tham-gia cộng tác với chế-độ cũ và Mỹ.
Con của anh qua Mỹ sinh sống, là vì phận con gái giữ đạo Tam-Tòng.
Có câu ca dao, tục ngữ:
Lấy chồng thì phải theo chồng,
Ơn cha để đó nghĩa chồng phải theo.
Lấy chồng thì phải theo chồng,
Chồng vô hang rắn hang rồng cũng vô.
(Lấy gà theo gà. lấy chó theo chó).
-Anh xa vợ con hơn hai mươi năm không có tin-tức, mẹ con em chẳng biết ngày nào đất nước được giải-phóng, không biết anh còn hay mất, lúc nào anh về lại với mẹ con em, mà ở VN chờ đợi anh về. Anh không về thì em già yếu rồi sống với ai, nên em phải theo con, chứ anh bảo em theo Mỹ, ai cho em theo mà theo.
Em chẳng phản-bội ai cả, em cũng chẳng dắt con anh theo Mỹ.
Thứ IV.- 1.- Điều yêu-cầu. -Ông Thanh yêu cầu cô Hoàn về VN sống, để hưởng-thụ hạnh-phúc tuổi già.
Cô Hoàn phân-tích cho ông Thanh hiểu. Để ông đi theo cô:
-Vợ chồng mình tuổi-tác đã nhiều rồi, tính đến năm nay tuổi anh trên năm muơi, em cũng gần xấp-xỉ, đã tuột xuống cái dốc bên kia rồi, đâu có còn non-trẻ gì nữa, tuổi này mình nên lo hậu-sự thì tốt hơn anh ơi !
Có câu tục ngữ:
-Trẻ cậy cha, già cậy con. Vợ chồng mình đã già rồi, đi theo con để nhờ con. Tại sao đầu-óc của anh lại cứng nhắc như vậy, cái gì anh cũng dành phần thắng về anh cả. Việc gì anh cũng bắt em theo anh. Tại sao anh không theo mẹ con em một chuyến thử xem.
Anh không theo mẹ con em anh ở VN anh được cái gì nào ?
Anh trả lời cho em nghe đi!
Ông Thanh bí quá trả lời cụt lủn, chỉ được Bằng Khen, Lời Khen.
Rằng: Anh tham-gia Cách-Mạng đánh thắng Pháp, rồi thắng Mỹ, thật là Anh-Hùng, Anh-Dũng đó sao.
-Cô Hoàn nói: Thắng thì cũng đã thắng rồi, khen thì cũng được toàn dân khen, trên đài báo và cả Thế-Giới khen quá thể rồi sao, anh còn đòi gì nữa.
-Em hỏi anh? Bằng-Khen, Người Khen, anh thữ nghĩ có được đồng tiền bát gạo nào để mình sống qua ngày khi tuổi cao sức yếu không lao-động được nửa. Vì em là đàn bà con gái đảm-đang nội trợ phãi tính kỷ.
-Em hiểu quá, không bao giờ có chuyện đó.
Lý-do : Vợ con anh đã theo Mỹ.
Anh ơi! Có câu tục ngữ: em nói để anh nghe cho vui nhé.
-Ông Thanh: anh đang nghe đây mà, không những nghe, mà còn nghe rỏ, em cứ tiếp tục.
-Cô Hoàn: làm cho người khen ho-hen hết nổi,
Làm cho họ chê ngũ-nghê sung-sướng.
-Hai vợ chồng phì cười xé tan bàu không-khí.
Cô Hoàn xem đồng hồ rồi nói:
-Khuya rồi anh ơi ! Mình đi nghĩ đã, ngày mai tiếp tục.
Đêm nay nữa là qua đêm thứ tư. Vợ chồng cô cũng tại khách sạn Sài-Gòn.
Cô Hoàn hỏi ông Thanh:
-Miền Nam giải-phóng gần trọn hai năm, anh hồi hương về quê mình. Cách-Mạng có cho anh làm chức-vụ gì lớn không ?
Ông Thanh trả lời:
Chẳng có làm chức gì cả.
Cô Hoàn hỏi vì sao không làm gi ?
Ông Thanh nói:
-Vì mẹ con em theo Mỹ thì ai cho làm.
-Cô Hoàn: Em hiểu rồi anh đừng có bịa-đặt, vì anh già rồi chỉ còn lại cái xác phàm chẵng làm gì được, họ cho anh về vườn là phải.
Anh nên nghe theo em đi, đừng có cứng nhắc mà suốt đời phải khổ, tựa hồ như con rùa cứ khư-khư giử lấy cái mai, thì làm sao mà tiến bộ nổi, như con ếch nằm mãi đáy giếng thì làm gì biết được biển rộng, sông dài.
Em cũng hiểu rõ những câu văn kích-động tuổi trẻ, thời anh và em còn thanh-niên.
“Nợ nước trước tình nhà”, câu này dành cho tuổi thanh-niên mới lớn còn hăng-say bầu nhiệt-huyết.
-Còn anh và em đã đóng góp công sức hết hai phần đời người, đã trả xong nợ nước rồi. Thì cũng phải có tình nhà một chút chứ . Dù sao mình cũng là một con người như mọi người khác, có phải là Thần-Thánh gì đâu. Anh đã bỏ cha già mẹ yếu, vợ dại con thơ, tình làng, nghĩa xóm đi làm Cách-Mạng ba mươi năm.
Cũng may sao em vướng bận hai đứa con của mình, ở nhà nuôi con, phụng-dưỡng cha mẹ già thay anh. Không thì chữ Hiếu ai lo cho anh. Nếu không có em, thì anh được chữ Trung mất chữ Hiếu, anh là con người có kiến-thức, đạo làm trai Trung, Hiếu vẹn toàn, nếu không có em giúp một tay, thì bản-thân của anh công thì ít tội lại nhiều. Vợ chồng mình Trung, Hiếu đều toàn vẹn.
Tuổi già rồi đừng nên mơ-mộng hão-huyền, anh nên thủ phận giữ-gìn sức-khoẻ, tìm nơi có thuốc-men tốt để điều-trị cái bệnh già của anh đi càng sớm càng tốt, để sống với vợ con, ít năm nửa của quãng đời còn lại, tu nhân tích đức để cho con gái được nhờ đức cha, việc nước non, nay đã ổn-định, nhường lại cho thế-hệ con cháu họ lo.
Những lời của em nói, anh nghe có phải không anh ?
Ông Thanh:
-Phải phải, còn gì em cứ tiếp-tục, anh đang nghe.
Cô Hoàn:
-Đất nước mình bị chiến-tranh lâu-dài, mới được giải-phóng, kinh-tế còn khó-khăn, chế-độ quan-liêu bao-cấp, ngăn sông cấm chợ, lại bị Mỹ cấm vận. Đồng-Bào đói-khổ. Em nhìn thấy mà chính anh cũng chứng-kiến. Bà con của mình trong làng Phú-Mỹ, quần áo thi mặc bằng vải bao đựng cát làm công-sự chiến-đấu của Mỹ, còn thức ăn thì khoai lang, khoai mì và bo-bo, không bằng thực-phẩm cho súc-vật ăn, em nhìn thấy họ ăn, mà đứt cả đoạn ruột. Anh còn bão em về nước sống với anh, để hưởng-thụ hạnh-phúc tuổi già, em buồn cười thật, em mà về VN lúc này thì chết đói với anh cho có đôi, chứ hạnh-phúc cái nổi gi?
-Anh nên suy-nghĩ lại thật kỹ một lần cuối nữa đi, đồng ý đi theo mẹ con em, để em còn lo thủ-tục bảo-lãnh. Đừng chần-chừ rồi mai này không kịp hối.
-Nếu anh không chịu theo em theo con thì anh cứ ở đây với Đảng mà phục-vụ Tổ-Quốc.
-Em cũng đóng-góp sức-lực mười năm chống Pháp, còn anh ba mươi năm chống Pháp rồi lại chống Mỹ, mà chưa đủ hay sao?
-Anh nên nhường lại trách-nhiệm phục-vụ Tổ-Quốc cho thế-hệ con cháu không thì nó bị thất-nghiệp mất.
-Bộ anh tưởng VN bây giờ không còn người nào tài-giỏi như anh nữa hay sao ? Anh có muốn phục-vụ cũng chẳng ai cho. Họ cho anh nghỉ dưỡng già mà thôi.
-Anh không biết lo cái thân già đa bệnh, thương đến vợ nhớ đến con. -Đi lo những chuyện “bao đồng chí đìa, những chuyện voi chết không hòm, có Mợ thì chợ vẫn đông, không Mợ thì chợ vẫn đông như thường”. Đã già khụ-rụ rồi mà chẵng lo bản-hân, chẳng lo cho con vợ. Thật là ngớ-ngẩn và vô lý. Em khuyên anh một lần cuối cùng này nữa, anh nên trả lời gấp, để em còn thu-xểp trở về Mỹ, giấy phép về VN đã gần hết hạn rồi. Anh mà không nghe em dạo này em về Mỹ ở luôn, không bao giờ về lại VN, em đã mang tiếng phản-bội, thì phản-bội luôn, đi theo Mỹ thì đi luôn.
Ông Thanh:
-Em nói cũng phải lắm, nhưng muộn quá mình nên nghỉ-ngơi cho có sức-khoẻ, để có thời gian anh suy nghỉ đã, sáng mai anh trả lời sớm.
Sáng mai vợ chồng thức dậy, vệ-sinh, thể-dục, rồi ăn điểm-tâm thoải-mái.
Ông Thanh: -Đêm nay anh không ngủ được, nằm suy đi nghỉ lại đắng-đo kỷ-lưởng.
-Em hoàn toàn đúng. Anh sai rồi, những lời anh nói oan-ức với em cho anh xin lỗi. Em có tha-thứ cho anh không ?
Cô Hoàn : -chẳng có chi mà tha với thứ, vợ chồng mà anh !
Ông Thanh:
-Anh nhất trí và đông-ý theo mẹ con em, chứ em đừng có bắt anh theo Mỹ nghe chưa. Ông Thanh tiếu cho vui.
-Cô Hoàn: Ô kê năm bờ oan, ít nhất cũng phải như vậy mới khôn mới ngoan.
Hai vợ chồng cười với nhau vui vẻ, xé tan bàu không khí.
Ông Thanh:
-Em của anh quá khôn-khéo. “Có câu Kiều:
-Việc đời tri quá thì nên,
khôn-ngoan đúng mực nói năng phải lời”.
-Từ đây anh chịu thua em rồi, anh xin dong cã hai tay đầu hàng vô điều-kiện.
CHƯƠNG VI :-KẾT THÚC:
ÔNG NGUYỄN-VĂN-THANH ĐƯỢC HAI ÔNG CON RỂ BÃO-LÃNH SANG HOA-KỲ SỐNG ĐOÀN-TỤ GIA-ĐÌNH.
Thế là cô Hoàn sắp sửa tạm biệt ông Thanh, cô còn để lại một số tiền lớn, bảo với ông hãy mua thuốc-men mà dùng, đừng có hà-tiện, mua thức ăn, để ăn-uống bồi-dưỡng cơ-thể và nên giử-gìn sức-khoẻ, nếu anh xài hết tiền thì em bảo với tụi nó gởi tiếp tiền Đôla về cho anh xài thoải-mái. Cô sắp-đặt công chuyện xong xuôi, dặn-dò kỹ-lưởng, cô đọc cho Ông Thanh nghe bốn câu thơ thất ngôn, lục bát như sau:
- Anh ơi !
Quả đất tròn còn ngày gặp lại,
Bầu trời tuy rộng có gì xa.
Em đi, anh ở quê nhà
Chớ ăn rau muống với cà dầm tương.
Hai người cười vui-vẻ.
Ông Thanh đưa tiển cô Hoàn ra Phi-Trường Tân-Sơn-Nhất để về lại Mỹ.
-Cô Hoàn bái-bai ông Thanh. Rồi lên Phi-Cơ bay về Mỹ.
Đến nhà cô bảo ngay hai ông rể:
-Anh Long và Hùng, hai anh lo liệu thủ-tục gấp-gấp, bão-lãnh ông Nguyễn-văn-Thanh bố vợ sang Mỹ để đoàn-tụ và sum-họp gia-đình, vợ chồng, cha con.
Một thời-gian ngắn, là ông Thanh được hai chàng rể bão-lãnh sang Mỹ một cách dể dàng.
Trên trần-gian này thế-lực và đồng đô-la của Mỹ là số một.
Hôm nay ông Thanh đã sang tới bên Mỹ.
Cha con xa cách nhau trên hai mươi năm , là vi cuộc chiến-tranh phân chia Nam, Bắc, nay đất nước VN được độc-lập. Gia-đình ông Thanh mới được đoàn-tụ, vợ chồng, cha con ôm hôn nhau, mừng-mừng, tủi-tủi, thật là sung-sướng và hạnh-phúc tại Hoa-Kỳ.
Này chồng, này vợ, này con
Này hai chàng rể, này là cháu ngoan
Gia-đình sum-họp đàng-hoàng
Ông Thanh cởi bỏ lầm-than cuộc đời
Từ đây sung-sướng thảnh-thơi
Tiền đô đầy đủ cuộc đời nở hoa
Mới là hưởng-thụ tuổi già
Con hiếu rể thảo, ông bà sống vui.
Đại gia-đình được sum-họp, đoàn-tụ giàu có sung-sướng vui-tươi và hạnh-phúc tại nước Mỹ.
-Cô hoàn là một Phật-Tử ăn ở với cha-mẹ có hiếu đạo, đối với chồng con làm tròn bổn phận người mẹ người vợ chung thuỷ vẹn toàn, trung thành với Tổ-Quốc mới được kết quả phúc-báo. Gia đình cô mới có hạnh-phúc như vậy.
Mối Tình Chung-Thuỷ của cô Hoàn và ông Thanh cũng được trẻ lại rất nhiều.
“Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười răm xưa”.
Nguyễn-du
(1) Xin lổi Lê-Thương tôi có cải lời bản nhạc để hợp với câu chuyện.
HẾT.
Tác giả : PHAN-VINH.
Viết về quê hương.
Viết xong bản thảo. Ngày 22-8-2007.
NÊN TÌM HIÊU ĐỂ BIẾT CÁCH GIỬ-GÌN TÔ-ĐIỂM CUỘC SỐNG HÔN NHÂN VÀ GIA-ĐÌNH ĐƯỢC TRĂM NĂM HẠNH-PHÚC CHUNG-THUỶ VẸN -TOÀN.
Chương I.- TÌNH YÊU HÔN-NHÂN CẦN PHẢI CÓ HẠNH-PHÚC.
Trong cuộc sống tình yêu hôn-nhân gia-đình cần phải có hạnh-phúc, nếu gặp phải cuộc sống bất-hạnh, thì không thể tiến tới gia-đình có đạo-đức văn-hóa được.
Hạnh-phúc là một nhu-cầu cần-thiêt cho tất cả mọi người trên toàn thế-giới, nhưng nó cũng là một nỗi “bât-hạnh”của con người khi không tìm được hạnh-phúc, hay đánh mất hạnh-phúc của chính mình.
Chính vì thế mà nhiều quan-niệm bi-quan đã cho rằng : “ Làm gì có hạnh-phúc hôn-nhân trên cõi trần-gian này ! Đời chi là một cuộc sống đọa-đầy bể khổ trầm-luân mà thôi ! Nếu có tìm được, nó cũng như cái bóng mờ khi ẩn khi hiện, như một ảo-ảnh, mà suốt đời có kẻ chạy theo nó, nhưng không bao giờ với tới, bắt được nó !”.
Nói như vậy hạnh-phúc chỉ là khát-vọng và mơ-tưởng hão-huyền của con người hay sao?
Thế mà trong các cuộc lễ thành-hôn chúng ta thường nghe các vị khách quý, bà con cô bác, bạn-bè thân-hữu đều ai-ai cũng chúc mừng cô Dâu chú Rể trăm năm hạnh-phúc, chứng tỏ như vậy, thì cuộc sống đời thường hôn-nhân của chúng ta vẫn phải có hạnh-phúc chứ.
Anh chị em nào đã nắm bắt được tình-yêu hạnh-phúc rồi thì nên cẩn-thận gìn giử thật kỹ, vì hạnh-phúc khó tìm, nhưng dể bị mất lúc nào mà chúng ta không ngờ đươc, vì sự thờ-ơ, sau khi vợ chồng đã có con cái, chúng ta lo chạy theo tiền-tài, danh-vọng, lơ-là không quan-tâm đến nó.
Người ta ai cũng nghĩ rằng: những kẻ thành công trên đường đời, “công thành danh toại” thì cũng thành công trên lãnh vực gia-đinh, nghĩa là họ đạt được hạnh-phúc trong hôn-nhân do điều-kiện đầy-đủ về tiền-bạc, uy-quyền, tín-nhiệm…
Nhưng cuộc đời không phải là hoàn toàn như vậy, một túp lều tranh hai trái tim vàng vẫn có hạnh-phúc như ai.
Lịch-sử đã chứng minh cho thấy rằng: đại đa số những vĩ-nhân, danh-nhân của thế-giới và VN lại phãi gánh chịu bất-hạnh đau thương trong cuộc đời hôn-nhân.
“Anh hùng đa hoạn-nạn, gái má hồng là số truân-chuyên, hoặc:
Càng cao danh-vọng, càng dày gian-lao”, kể cả gian-lao trong đời vợ chồng.
Nam giới. Như Lưu-Bị trong truyện Tam-Quốc-Chí của Trung-Quốc, hiền triết Socrate, như Tổng-thống Abraham lincoln của Mỹ, như vị tướng tài Napoléon, như dại văn-hào Victor Huygo của Pháp v.v…
Nữ giới.- Nàng Kiều gia-đình trung-lưu, tài, sắc vẹn toàn ở Bắc-Kinh Trung-Hoa. Hai vị nữ tướng Trưng-Trắc, Trưng-Nhị, hai nữ thi-sỹ bà Huyện Thanh-Quan, Hồ-Xuân-Hương, V.N v.v… đều là những kẻ bất-hạnh trên đường tình duyên, vợ chồng.
Còn ở lãnh vực thường dân, thì ôi thôi ! Biết bao cuộc ly-dị, tự-tử, bao nhiêu cuộc đời phải chết âm-thầm, sống dần-mòn như điên, như dại trong dau-khổ vì thất-vọng tình duyên, bất-hạnh gia-đình và gây đau-khổ bao người chung quanh.
Vậy phãi định bản-chất hôn-nhân hạnh-phúc như thế nào mới phải ?
Hôn-nhân có hạnh-phúc hay bất-hạnh chúng ta cùng nhau phân-tích hai điểm sau này :
Trên thế-gian này, bât cứ việc gì đều có hai mặt, hai chiều hướng khác nhau, phải, trái, thuận và nghịch.
Điểm thứ I .- Mặt phải & thuận: Hạnh-phúc của những cặp tình nhân trai gái mới yêu. Của những đôi hôn-nhân mới. Của những gia-đinh khá-giả sống đây đủ vật-chât lẫn tinh-thần và những gia-đình sum-họp nhiều thế-hệ vv…
- Vây thì hạnh-phúc hôn-nhân gia-đình là những gì ?
-Đó là hạnh-phúc tình yêu của những kẻ đang yêu nhau tha-thiết, sắp sửa bước vào hôn-nhân.
Hạnh-phúc của những cặp vợ chồng trẻ vừa mới cưới nhau, được sống bên nhau như đôi Uyên-Ương theo sự ước-muốn của tinh yêu, đó là sự sung-sướng tuyệt vời của họ. Một số giàu có dắt nhau đi du-lịch hưởng tuần trăng mật âu-yếm nhau những nơi thăng cảnh thiên-nhiên thật là thơ mộng.
-Hạnh-phúc của đôi hôn-nhân gặp thời-cơ thuận-tiện, gặt-hái được nhiều thành-công trên đường đời, như tiền-tài, danh-vọng, sự-nghiệp, uy-tín. v.v… Hoặc sinh được những đứa con khoẻ đẹp, mũm-mĩm dể yêu, khi con cái được thành danh, thành nhân, làm vẻ-vang cho gia-đình dòng-tộc. Khi tuổi về già được vui-vầy bên đàn con cháu thành-đạt. Vợ chồng hoà-thuận, cùng chia ngọt, xẻ bùi với nhau trong suốt cuộc đời chồng vợ, có tình, có nghĩa, có thuỷ, có chung vv…
Đây là những cái thuộc về hạnh-phúc của hôn-nhân gia-đình vậy.
Những ưu điểm trên đây thuộc về măt phải, thuận buồm xuôi gió theo thời-thế, tình-cảnh. Một phần do truyền-thống đạo-đức của Tổ-tiên, ông bà, cha mẹ để đức lại cho con cháu, một phần từ khi còn thơ-ấu cho đến trưởng thành, do bản thân chúng ta biết sống, biết yêu đời, học-hành thành-đạt và lao-động không ngừng, sống biêt độ lượng, tri túc, từ-bi hỷ-xả mới có phúc-báo mà được kết-quả tốt đẹp hạnh-phúc như vậy.
Chương II.- TẠI SAO CHÚNG TA BỊ BẤT-HẠNH TRONG CUỘC SỐNG HÔN-NHÂN VỢ CHỒNG.
Bề trái & nghịch cảnh:
Để đối lại những niềm hạnh-phúc trên, thì hôn-nhân cũng có rất nhiều bất-hạnh phải kể đến: để kiếm được một chút hạnh-phúc bé nhỏ, thì họ cũng trải qua nhiều đau-khổ gian-lao của chuỗi ngày họ sống như một gánh nặng đè lên vai và mắt xích gắn chặt họ vào kiếp sống khổ-đau, đa số là phái nữ hy-sinh chịu-đựng bền-bỉ nhiều hơn phái nam.
Điễm thứ II.- Tại sao chúng ta bị bât-hạnh. Vậy bất hạnh là những gi?
Nêu lên một vài khuyết-điễm gây ra sự bất-hạnh trong hôn-nhân để bạn đọc thấy rõ:
a.- Hôn-nhân tuổi trẻ: bị gán-ép để xứng thông-gia, môn đăng, hộ đối, do tập quán cổ-hủ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, hôn-nhân có tính-cách tảo hôn, mua bán, đổi chác, hôn-nhân bồng-bột, yêu cuồng, sống vội, cả-nể dở-dang, hôn-nhân không tìm hiểu tính-tình nhau kỹ-lưỡng. Cưới trừ nợ, cưới đại, cưới liền tay, để thành đũa có đôi chung sống làm ăn. Cưới để chú Rể phải ra đi xa gia đình học-hành, công tác, nghỉa-vụ do cha mẹ bắt-buộc cưới. Một phần do cặp vợ chồng dốt-nát hoặc chưa kinh-nghiệm, mà không chịu học hỏi cách sống vợ chồng, hoặc không có đạo-đức văn-hoá truyền-thống, do bản ngã gây ra những điều ti-tiện, không có tình yêu hôn-nhân. Một mặt trái-ngang, do tác-đông hoàn-cảnh mẹ chồng nàng dâu và miệng thế bên ngòai gây ra vv…
b.- Hôn-nhân tuổi trung-niên : Thời tuổi trẻ, thời chiến-tranh, do chúng ta sống hành-động bất thiện, vô đạo-đức, nên ác giả, ác báo. Đó là những việc gây ra các cuộc hôn-nhân bất-hạnh. Những cặp vợ chồng ngày hôm qua vợ chồng con cái sống bên nhau hủ-hỉ rất hạnh-phúc. Bất ngờ chiến tranh nổi lên, ngưòi chồng bị gọi đi làm nghĩa vụ quân-sự phải xa gia-đinh, rồi bị tử trận, có đôi vợ chồng bị bệnh vô-sinh. Thời thế thay đổi, có kẻ bị thất cơ lỡ vận mất hết quyền lợi, tán gia bại sản, có khi bị tù đây, có kẻ bi tai-nạn , thiên-tai bất ngờ, bệnh tật nan-y vô phương cứu chữa, tiền mất tật mang, làm ăn bị thua lổ nợ nần, không có khả-năng chi trả, một trong hai vợ chồng bị mắc phải căn bệnh tệ nạn xã-hội, có người con cái hư-hỏng quậy phá, đi theo kẻ xấu đánh lộn, cướp-giựt v.v.. Bị bắt đi tù tội, cha mẹ phải mang tai tiếng .
Những tác động trên đây do bên ngoài ập vào, vì ngày trước chính mình gây nhiều chuyện vô đạo đức. Nay đường đời gặp chông gai đau-khổ, nguy-hiểm, sự việc đó có người theo đạo Nho-Giáo, hay thờ cúng ông bà tổ-tiên, họ cho là bị Trời phạt, có người theo đạo Công-giáo cho là sự thử-thách của Chúa, ngươi theo đạo Phật tin luật nhân quả, cho là do mình gieo nhân xấu từ trước, nên hưởng quả xấu, đó là lẻ đương-nhiên. Phải nhận lãnh gánh chịu đau-khổ, đoạ-đầy.
-Vậy thì cả vợ lẫn chồng phải ăn-năn, hối-cải, tu nhân tich đức, nguyện-cầu các Đấng Thiêng-Liêng phù-hộ độ-trì mau qua khỏi cơn sóng-gió cuộc đời. Cùng nhau chia-xẻ đau-khổ đắng-cay, cố gắng chịu đựng. Theo gìòng chảy của thời-gian việc gì rồi nó cũng trôi qua, sau cơn mưa trời lại sáng. Không nên bi-quan, tuyệt-vọng, đổ thừa đổ lổi cho ai cả.
c.-Sự việc nói chung cả ba hạng tuổi, do vợ chồng cố ý gây ra :
Cuộc sống đời thường ai-ai cũng phải phát-triển kinh-tế gia-đinh, lo kiếm tiền để xây-dựng mái-ấm và cuộc sống tương lai, phần lo nuôi dạy con cái ăn học, công việc bề bộn, một mặt bên ngoài xã-hội, bên trong nặng gánh gia-đình, nhiều lúc quá vất-vả mệt-nhọc, cáu-gắt lơ-là tình-yêu vợ chồng kể cả Nam & Nử. Cuôc sống trong thời kinh-tế thị-trường hội-nhập, có những người vì công việc làm ăn mánh-mung, có người được đảm-nhiệm chức-vụ vừa hoặc lớn trong công-ty xí-nghiêp, phải xã-giao, giao-tiếp, đôi khi vui-vẻ với bạn-bè quá chén bị oác cần câu. Thời tự do bình-đẳng, Nam Nữ bình-quyền, đàn bà con gái cũng đươc vui-thú, giải-trí, ăn nhậu ngang nhau, có số ngươi theo bạn-bè xấu rủ nhau mèo chuột để thưởmg-thức của lạ, khi về đến nhà bật ra ngủ khò, không còn nhớ gì đến vợ hay chồng, con cái ra sao, có người tức-tối những chuyện bên ngoài chưa giải-quyết được đang ấm-ức, khi về đến nhà gây gỗ với nhau. Tình huống này phái Nam gây ra nhiều hơn phái Nử. Bởi vậy mới có chuyện xich-mích giữa vợ chồng bị thành-kiến vói nhau, rất nhiều bạn coi cái tôi của minh quá trọng, hay tự-ái, có những đôi vợ chồng không tin tưởng nhau, muốn dành quyền quản-lý tài-chánh, làm chủ gia-đinh, không đúng cương-vị, không nhường nhịn nhau, nghi-kỵ viển-vông, ganh tương bóng-gió, chẳng có bằng chứng, có một số đã lớn tuổi đến thời-kỳ mãn kinh hết sinh đẻ, không hiểu được khoa-học, Y-khoa, sinh-lý về giới-tính Nam Nử, vì ái dục làm mất lòng, hết tin-tưởng nhau v.v… Những việc thường xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày là do lòng dục vọng của con người gây ra.
Nên hay xung-khắc, gia-đình không được đầm-ấm, thuận-hoà.
-Tôi nêu lên một ít vấn-đề đại khái hay xẩy ra thường ngày, chứ nói hêt nỗi niềm thì thật là thiên hình, vạn trạng, không giấy bút nào tả hết được.
Những điều trên, là mặt trái, nghịch cảnh xấu-xa của cuộc sống hôn-nhân do bên ngoài koặc chồng vợ gây ra. Nên đời sống của những cặp vợ chồng đánh mất Hạnh-Phúc.
Các bạn thận trọng dè-dặt khăc-phục, cả vợ lẫn chồng cùng nhau xây dựng cuộc sống mới, gia-đình văn-hoá cho phù hợp với thời-đại văn-minh của thế kỷ 21, không thì dể tan-vở hôn-nhân hạnh-phúc gia-đinh do các khuyết điểm của hoàn-cảnh trái ngang nêu trên.
-Chương III.- NHỮNG ĐIỀU-KIỆN ĐỂ CHÚNG TA GIỬ-GÌN ĐƯỢC TÌNH YÊU HÔN-NHÂN BỀN LÂU TRĂM NĂM HẠNH-PHÚC.
a.-Nói đến bốn chữ Trăm Năm Hanh-Phúc chung-thuỷ vẹn-toàn, thì mọi người trên thế gian này ai mà không thích, không muốn, thich, muốn mà rất khó thực-hiện, khó gìn-giử được hạnh-phúc toàn-vẹn từ sơ đến chung, có người được đầu mất đuôi, có người được đuôi mất đầu, chỉ có một thiểu số sống vợ chồng có may-mắn, văn-hoá đạo-đức, họ giữ được hạnh-phúc vẹn-toàn thuỷ-chung như nhất, nhưng hiếm lắm, dù sao có còn hơn không.
Có câu:
Yêu nhau từ thuở trăng tròn
Bây giờ trăng khuyết vẫn còn yêu nhau.
Bí-quyết tốt nhất là: đặt tình yêu vợ chồng con cái lên trên hết, nên tha thứ những việc sai-trái nhỏ-nhặt hàng ngày chúng ta bị vấp phải, vì cuộc sống và sinh hoạt gia-đinh, xã-hội.
Để bảo-vệ tình yêu hôn-nhân hạnh-phúc gia-đình, có xẩy ra việc gì bất đồng nên bàn-luận mổ-xẻ ai sai ai đúng, để kịp sửa-chữa bổ-túc cho nhau, rút ưu khuyết điễm cùng sống hoà-thuận, đó là bí-quyết tuyệt chiêu, tuyệt vời để các bạn bão-vệ hạnh-phúc cho mình.
Cũng có câu:
Thuận vợ thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn.
b.- Phần để bạn đọc rút kinh-nghiệm. Nói lại hai chữ Hạnh-Phúc.
”Nó rất khó kiếm, mà cũng dể mất, nên các người thất-vọng bi-quan, cho là như một cái bóng, mờ-mờ ảo-ảo, khi ẩn khi hiện, yêu là đau khổ. Suy ra cho cùng, cũng đúng một phần theo ý-nghĩ của họ và những người đã xuất gia tu-hành thì đúng. Chứ với cuộc sống đời thường của con người hiểu biết yêu đời, không hẳn hoàn toàn là như vậy”.
Hạnh-phúc mua giá cao cũng không ai bán, bán cũng chẵng ai mua, xin cũng không ai cho, cho cũng không ai dám nhận. Vì nó đâu phải vật-chất mà mua bán, trao tay. Đôi tình-nhân hoặc vợ chồng tự xây-dựng và tô-điểm lấy mới có. Chỉ có người trong cuộc là ngươi yêu lý-tưởng và vợ chồng chính-thức mới cho nhau tình-yêu Hạnh-Phúc được.
Trên cõi đời này chẳng có việc gì khó, ăn thua vào tâm-hồn và ý-chí của mình có tự tin hay không.
Các bạn sống phải có đạo-đức văn-hoá, cố gắng lao-động học-tập, không ngừng, để nâng cao trình-độ hiểu biết, nên noi gương ngươi tốt, việc tốt, như các cha bác thời chiến-tranh họ thoát ly đi làm Cách-Mạng có ngươi vợ chồng sống xa nhau năm năm, mười năm, có người mười lăm đến hai mươi năm, khi đất nước độc-lập thống-nhất mới được sum-họp gia-đình. Cao tuổi về hưu, họ còn tham-gia làm việc xã-hội từ-thiện, ông bà vẫn sống mẫu-mực, thuận-hoà hạnh-phúc những ngày cuối đời bên đàn con cháu. Chúng ta nên đọc sách, xem đài báo của các nhà văn tâm-lý xã-hội học, nâng cao kiến-thức, để biết sống hoà-đồng bình-dẳng chồng vợ, ăn nói cư-xử với nhau phải giử lễ lựa lời, phải biết tôn trọng lẫn nhau. Đàn bà con gái không nên chanh chua hỗn láo, đàn ông con trai không nên cục-cằn, vũ-phu, gây bạo-lực gia-đinh trong khi nóng giận.
Có câu:“- Vội giận mât khôn, no mất ngon”. Chúng ta nên bình tĩnh, chuyện đâu vẫn còn đấy, hạ hồi phân giải mới êm đẹp, nói năng với nhau cũng nên lựa lời lựa lẽ.
Cũng có câu: “Lời nói không mât tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
c.- Nên tha thứ cho nhau những chuyện lỡ-lầm nếu có và cũng phải ăn-năn hối cải việc lỗi lầm của mình, nên mạnh dạng xin lổi nhau chuyện sai trái do mình gây ra, nên dẹp bớt cái tôi của mình, biết ẩn-nhẩn và khiêm-nhường, thương-yêu quý-mến lẩn nhau, trẻ làm sao, khi cao tuổi cũng như vậy, đời sống có an-cư mới lạc-nghiệp, thuận-hoà êm đẹp, để làm gương cho hậu thế.
Có câu: “ Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa cho đời khỏi khê” .
Có khi ngược lại càng tốt, đừng nên lửa cháy thêm dầu thi hỏng việc, để chờ sự việc nguội lạnh, mới đem ra bàn-luận thì vợ chồng dể thông cãm nhau hơn.
Các bạn lưu ý nên thực-hiện những điều tốt đẹp, nó rất cần-thiết cho đời sống vợ chồng, noi gương các bậc tiền-bối và thực-hành những đoạn văn nêu lên đời sống văn-hoá, đạo-đức trên đây. Thì cuộc sống gia-đình các bạn được thuận-hoà, đầm-ấm, vui-vẻ, tự nhiên Hạnh-Phúc đưa đến cho bạn ngay lập tức, bạn có trong tầm tay rất dể-dàng, khỏi cần chạy theo với vọng gì cả.
d.- Thêm một vài giòng sau đây để nhắc nhở các bạn chưa có tình yêu, hôn-nhân.
Mong rằng các bạn trẻ mới bắt đầu bước vào đường tinh yêu trai gái, nên rút kinh-nghiệm sự việc của những người đi trước, tìm hiểu thật kỷ-lưởng tính-ý của nhau, khi hiểu đó là người yêu lý tưởng rồi. Phải trình với cha mẹ đôi bên được chấp thuận. Cha mẹ bên đàng trai phải đến gia-đinh dàng gái thưa chuyện với người lớn của đôi trẻ chúng mình, được nhất-tri, đông-ý. Mới đi đăng-ký kết hôn rồi tiến hành hôn lể, các bạn nên viết một bản nội-quy hợp-đồng để chung sống với nhau cho đến suốt đời.
Có câu:
Trăm năm bạc đầu duyên tơ-tóc
Nghĩa tình chồng vợ suốt cuộc đời.
Mới mong ngăn-ngừa được sự gẫy gánh nửa đường, tan-vỡ hạnh-phúc. Vì thời kinh-tế thị-trường, hội nhập thương-mại thế-giới, cạnh tranh hàng-hoá đủ thứ, kể cả vợ chồng, trong thế-kỷ này Rắn Rồng lẫn lộn, có người tốt, kẻ xấu, được mới nới cũ, giàu đổi bạn, sang đổi vợ chồng, do si mê, tình dục gây ra cuộc sống xáo-trộn gia-đinh, bất ổn trong dòng-tộc và xã-hội, mất văn-hoá đạo-đức truyền-thống Á-Đông. Làm buồn lòng cha mẹ đôi bên, họ hàng cô bác anh chị em nội ngoại, gây ảnh hưởng không tốt cho thế-hệ con-cái về sau.
Thế kỷ 21 này tôi thấy bị hơi nhiều đôi vợ chồng đưa đơn ra toà xin ly-dị.
Mong tất cả các bạn chung sống thận trọng phòng-ngừa việc xấu, tránh xẩy ra đổ vỡ gây hậu-quả không tốt về sau. Gia-đinh là một tế-bào của xã-hội, gia-đình biết sống lành-mạnh, yên-vui, hạnh-phúc, xã-hội mới văn-minh, đất nước mới phát-triển giàu mạnh lên ngang hàng với các cường quốc trên thế-giới.
HẾT
Tác-giả Phan-Vinh.
Viết cho thế-hệ Con-cái, Dâu, Rể. Cháu, Chắt. Khuyên bảo sống đẹp đời, tốt đạo phấn-đấu tiến tới gia-đinh Văn Hoá.
Viêt xong bản thảo ngày 09-12-2007.
NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT VỀ ĐẠO-ĐỨC LÃNH-ĐẠO.
___
Của Phan-Vinh.
-Vài nét về sinh hoạt và đời sống của tác giả.
Chương I.- ĐỜI NGƯỜI QUÁ NGẮN NGỦI.
a.- Nhìn lại quá khứ.
Nhìn lại quá khứ thấy cuộc đời con người quá ngắn ngủi, mới ngày nào đây tôi còn ở tại quê-hương làng Phú-Gia là một hướng-đạo sinh Phật-Tử thuộc khuôn-hội Phật-Giáo Thừa-Lưu. (HUẾ).
Vì cuộc nội chiến chia đôi lãnh thổ hai miền Nam, Bắc nổi lên, nên ăn ở đâu âu đó, tôi phải ra đi làm nghĩa-vụ quân-sự, xa quê hương năm 1961 đưa vào miền Nam, đi và ở phiêu bạt khắp nơi. Ngày 30-4-1975 miền Nam được cách-mạng giải-phóng bị rã ngũ, trở lại với một nông dân chất-phác theo nghề củ cha ông. Tôi mới chọn ấp Bùi-Chu, xã Hố-Nai 4, huyện Thống-Nhất, tỉnh Đồng-Nai là quê-hương thứ hai để lập nghiệp làm lại cuộc đời. Đi vào Sông-lạnh khai-khẩn phá rừng, lấp suối, thành rẩy, ruộng tăng-gia sản-xuất lương thực sinh sống nuôi con. Dành một phần sức người, sức của đóng góp để xây dựng xã-hội đất nước. Tôi xa quê nhà đã 47 năm, tuổi đời năm nay hơn 70.
Nhìn lại thời gian trôi nhanh quá, như nước chảy qua cầu như vó câu qua cửa sổ, tựa hồ như một giấc Nam-Kha khi tỉnh dậy nồi kê chưa chín.
Chương II.- SỰ BIẾN CHUYỂN CỦA ĐỜI NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG.
a.- Sự thay đổi biến chuyển của thời gian.
Mỗi năm tuổi tác chồng chất lên đầu, trẻ thơ thì khôn lớn, người cao tuổi gầy còm, bệnh tật rồi chết, theo luật đào thải của tạo hoá. Mới đón giao thừa năm Mậu-Tý (2008) tôi vừa cúng giao thừa vừa khai bút thư xuân, nay đã xuân qua hạ đến, màu đỏ thắm hoa phượng-vĩ đua nhau nở rộ, thời tiết nóng bức, học-sinh đã nghỉ hè, tạm biệt bạn-bè, trường lớp thầy cô, có nhiều em cảm thấy lòng buồn man-mác. Nên lũ ve sầu đang than thở tình yêu. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, rồi năm lại qua năm. Hè đi, thu tàn, đông rụi, xuân sang, biến chuyển theo bánh xe tiến-hoá của thời-gian bởi luật tuần hoàn của vũ-trụ.
Có câu:
Xuân khứ xuân lai xuân bất tận
Xuân đi xuân lại mãi còn xuân
Ca dao
Đây là xuân của thời gian theo năm tháng. Chứ tuổi xuân của đời người chỉ có một.
Thơ rằng:
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Xuân-Diệu
Thời gian cứ tuần tự thoi đưa trôi nhanh như chớp mắt.
b.-Thân thể con người cũng biến chuyển theo năm tháng.
Nay thân-thể của tôi đã già khụ-rụ, con người do duyên hợp tứ Đại mà có, là đất, nước, gió, lửa đó là phần trong cơ thể. Còn bên ngoài chúng ta sống vay mượn tạm bợ của tứ Đại như: cơm, nước, bánh mì, động “gió”, hơi ấm ”lửa”. Mượn trả song suốt thì sức khoẻ, nếu có một thứ không trả ra được thì phải đưa đi nhà thương cấp cứu.
Thân thể nầy nhờ cát bụi mà có tạm bợ, cuối cùng cũng trở về với cát bụi. Không thể tồn tại lâu bền được.
Tài giỏi như vị tướng Napoléon của nứơc Pháp ngày xưa bảo người nhà khi nào ông chết đưa đám ma, đục hai lổ quan tài để thò hai bàn tay trắng của ông ra ngoài cho thế gian nhìn thấy ông chẳng có mang theo của cải gì cả.
Có câu:
Người đời muôn việc của chung
Sanh không rồi lại tay không ra về
Ca dao
Tôi trở lại suy nghỉ cuộc đời mình đến đây ví như: ngọn hoa đăng le-lói, trôi bềnh-bồng trên sông nước Đồng-Nai, bị cơn gió mùa thu thổi tới, sắp trôi về bể cả mênh mông, rồi tắt lịm và tan biến trong đêm đông lạnh lẽo.
Mổi người đều trải qua một đời, thịnh, suy, thành, bại, vui buồn được mất, nhưng học hỏi được gì ở trên đời đó là chuyện khác.
Có câu :
“Thông minh nhất nam tử
Yếu vi thiên hạ kỳ
Trót sanh ra phải có chi chi
Chẵng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu”
Nguyễn công Trứ
Không thành Danh cũng phải thành Nhân.
Đến giờ phút cuối của cuộc đời không có chút gì lưu niệm cho đời thì thật là quá tủi hổ.
Có câu thơ:
Đời người như thể phù du
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng
Nguyễn-Du
c.- Tôi sáng tác một ít tác phẩm văn & thơ cho con, cháu, và độc-giả trong số bạn bè để làm kỷ-niệm.
-Sinh ra thất thời, thất học sống trong hai cuộc chiến tranh Pháp, Mỹ bị đi làm lính ngụy phiêu bạt khắp miền Nam. Hoà bình lập lại mới có thời gian ổn định để cuốc đất lật cỏ làm ăn nuôi bày con tám đứa đã khôn lớn, nay cháu chắt đầy đàn, nhà nghèo không có của cải hồi môn.
-Nên tôi viết tác-phẩm những lời tâm huyết này là phơi bày hết tâm can, não tuỷ, của bản thân hơn bảy chục tuổi, sống học hỏi kinh nghiệm được bao nhiêu đem hết khả năng viết lên những lời lẽ của một nông dân chất phác, mộc mạc mà hiện thật và giàu lòng nhân ái, để thay thế di chúc. Hay, dở, đúng, sai, văn không tả hết lời, lời không thể tả hết ý được, nhưng cũng nói lên tinh thần đạo đức con người, để lưu lại làm của hồi môn tinh thần văn hoá cho hậu thế.
-Quý vị độc giả muốn hiểu sao cứ việc, tuỳ tâm, tuỳ tánh của mổi người có cảm nhận khác nhau, hợp ý thì cho là đúng, hay, nếu không hợp cho là sai, dở, tác giả cũng xin cám ơn vui lòng chấp nhận.
Già yếu việc nặng không làm nổi, bị cái nghiệp lôi cuốn mà phải khổ, không thể ăn không ngồi rổi để chờ chết, thân trâu kéo cày trả nợ, kiếp con tằm nên nhã kén buông tơ, hết khả năng làm ra vật chât, thì cũng có chút tinh thần văn hoá đạo đức để phục vụ cho đời giải trí và tìm hiểu, câu nào, đoạn nào quý vị biết trước rồi thì thôi, có chỗ nào chưa hay biết bao giờ nên lấy đó rút kinh-nghiệm để tô-điểm thêm kiến thức cho đời mình. Kẻo mai mốt tôi già yếu trở về với cát bụi “chết” không còn lại gì? chẵng mang theo cái gì được.
Trước khi hạ bút tôi đã dự đoán rằng:
-Nói thật mất lòng, nói ngang làng ghét. Nhưng sự thật lúc nào cũng tốt, cũng thật.
Có câu: Sự thật thắng gian dối
Đạo-đức thắng tội ác
Tình thương thắng oán thù.
Nên tôi cứ bạo tay viết những gì có thật, nghe hiểu, nhìn thấy rất đáng quan tâm cho đời, hiện tại và tương lai.
Có câu:
Chở đạo bao nhiêu thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Đồ-Chiểu
Một số lớn độc giả có kiến thức, vài ông bạn già tri-âm tri-kỉ đang học hỏi trao đổi văn hoá với nhau, họ đọc hiểu và chấp nhận, có câu nào, từ nào sai họ góp ý đúng, tôi cám ơn xin chữa lại. Có vài đứa tiểu-nhân hoặc ranh con, ăn chưa no, lo chưa tới, đang mê ăn, mê ngủ, mê chơi cũng như cái thằng út nhóc con nhà tôi thường bị tôi trách mắng dạy bảo:
-Phải sống đàng hoàng lao động siêng năng, nâng cao tay nghề, quý thời-gian, biết tiết-kiệm tiền-bạc, trước hết lo cho bản thân, gia đình, giúp ích cho xã-hội, chứ làm ít ăn nhậu nhiều, nhậu say sáng ngày hay ngũ nướng là người u mê.
Có câu:
Ngủ ngày quen mắt
Nhậu vặt quen mồm
Tục ngữ
Lãng phí thời gian, hao tiền tốn của không đúng chỗ, đúng lúc, là con người hư hỏng xấu xa, thiên hạ chê cười.
Một số bạn đọc trung niên hoặc có tuổi tác, đang làm cán-bộ nhà nước hay các xí nghiệp công và tư, có lòng tham-lam gian-xảo bất chính, vì có tật hay giật mình, họ có thể cho rằng:
-Ông già lẩm-cẩm viết văn nho-nhe xưa-xắc, ngang như cua, người chế độ cũ mà đi viết văn ca ngợi Bác Hồ, không thèm đọc hết, lấy cái chí để hiểu cái ý, đến nơi đến chốn, đem lòng đố-kị, tự-ái, thù ghét để chê trách. Tôi cho rằng:
-Họ chỉ thấy đâu nói đó chẳng nhìn xa hiểu rộng sự lẽ trên đời.
Tôi nghỉ rằng:
-Bất cứ việc gì cũng có tương đối của nó.
Có câu:
Mặc ai nói xỏ nói xiên
Lòng em cũng vững như kiềng ba chân.
Ca dao
d.- Tôi tự tin và ước mong.
Tôi cứ tự tin và hy vọng về tương lai đến đời cháu, chắt cũng như thế hệ mai sau có đủ kiến thức, họ đọc tuyển tập văn xuôi sẽ hiểu được ý và thương mến tôi nhiều hơn. Thì lúc này đã hoá ra người thiên cổ. Nhưng linh hồn vẫn an vui hạnh-phúc nơi cảnh-giới Phật Đà.
Vì tôi đã để lại một ít tài sản văn-học nghệ-thuật tuy không được lưu loát, nhưng có giá-trị về tinh-thần đạo đức cho hậu thế với ý nghĩa là:
Những bài viết trung thực đạo đức, tôi nguyện cầu, van xin, ước mong tất cã toàn đân V.N sống trong nước cũng như ở hải ngoại đem lòng từ-bi xoá bỏ thành kiến dĩ vãng xưa và nay. Để đoàn kết chung sức tu tạo lại những gì có văn hoá bị chiến tranh tàn phá, xây dựng kiến thiết những gì mới mẽ tốt đẹp hơn cho đất nước. Khuyến-khích thế hệ tiếp nối phải sống trong sáng, tu tập, học hành đạo-lý, văn hoá, khoa học và kỹ thuật thành đạt, để ra phục vụ đất nước áp dụng theo thời văn-minh hiện đại, nâng cao hiệu quả sản-xuất và luôn luôn đổi mới, để nâng cao dân sinh, dân trí đưa đất nước đi lên ngang hàng với các nước văn minh giàu mạnh trên thế-giới. Để đời sống dân chúng được tân tiến giảm sự nghèo nàn, lạc hậu từ tinh-thần lẫn vật chất.
Hìện nay nước ta đã được hội nhập WTO. Uỷ-viên không thường trực L.H.Q.
Một phái đoàn cán bộ lãnh đạo cao cấp Việt-Nam có P.T.T bộ trưởng ngoại giao Phạm-gia-Khiêm và các doanh nhân tháp tùng, do Thủ-Tướng Nguyễn-Tấn-Dũng làm trường đoàn đã sang Hoa-Kỳ thăm xã-giao để ký kết hợp đồng thương-mãi và nhiều đối tác quan trọng khác, như môi sinh môi trường v.v. vào ngày 23.6.2008. Nhận thấy như vậy là đất nước ta tương lai có thuận-lợi phát triển mạnh về mọi mặt.
e.- Lòng lo lắng và nôn nóng của các vị lãnh đạo đứng đầu nhà nước.
Hiện nay mấy ông lãnh đạo hàng đầu nhà nước đang nôn nóng đất nước chóng phát triển đồng bộ, để theo kịp đà tiến-triển với năm châu.
Ra văn-thư, chỉ-thị, nghị-quyết và hô hào bằng miệng muốn rát cả cổ họng, lúc nào cũng bảo thuộc hạ làm việc theo khoa học, công-nghệ thông tin, cải-cách hành-chánh về mọi mặt một dấu một cửa, để tiết kiệm tiền bạc, thời gian, nâng cao hiệu quả, bớt gây phiền hà cho nhân dân lui tới chầu-chực.
Nhưng các vị lãnh đạo cấp dưới cứ lãng phí thời-gian, kéo dài công việc, giải-đãi như rùa bò, thậm chí đôi ba bộ ngành còn khuyết-điểm trì trệ, vũ như cẩn.
Nhận thấy Bộ Giáo-Dục, Bộ Y-Tế, Bộ Tài-Nguyên Môi-Trường, Bộ Giao-Thông Vận-Tải và nhiều ban ngành khác v.v. làm việc còn nhiều bất cập, chuyên môn nghề nghiệp chưa thành thạo, bị trì trệ, thiếu tài đức, là vì tâm chưa trong sáng, còn lắm tiêu cực, không tích-cực. Thực thi chưa đạt yêu cầu dự-án ấn định theo mực-độ, chỉ-tiêu của nhà nước giao phó, làm hao tốn ngân sách không đạt tiêu chuẩn, đất nước chậm phát triển, gây phiền hà bức xúc cho nhân dân.
Trên đài báo và các kỳ họp cấp cao của Quốc-Hội, Chính-Phủ. Các vị lãnh-đạo báo-cáo thuyết trình cũng công nhận vẫn còn nhiều khiếm-khuyết.
Nếu Bộ Ngành nào có vi phạm khuyết-điểm thì phải biết dũng khí nhận lỗi của mình, nhanh chóng sửa đổi tân tiến là tốt, đáng khích lệ để làm gương.
f.- Nên nhìn ra thế-giới bên ngoài. Khuyến-khích cán-bộ và tuổi trẻ có kiến-thức thi đua làm việc tốt, người tốt, phấn-đấu để kết nạp đảng.
-Chúng ta nhìn ra thế-gíới bên ngoài , các nước cường quốc văn minh nhất, làm việc rất khoa học, họ ít tham lam, đố kỵ gây sự đối đầu thù hận. Tự do tôn giáo, đảng phái chính trị, ngôn luận, báo-chí như Nga, Mỹ, Nhật và các nước giàu mạnh khác. v.v. Họ còn đa nguyên, đa đảng, vẫn sống hoà-bình giàu có, văn minh nhất nhì thế giới. Mức sống của dân chúng thu nhập lên rất cao.
-Nước Việt-Nam chúng ta chỉ có một đảng, mà ngày mới giải-phóng, ai có đạo thì không cho kết nạp đảng để phục vụ Tổ-Quốc. Nếu như vậy thì những người có chất xám và lòng yêu nước mà có đạo Công-Giáo chẵng làm được việc gì để đóng góp cho đất nước hay sao?
Vì tôi nhận thấy trong địa phương ấp Bùi-Chu, Bắc-Sơn, Trảng-Bom, ĐN. Phần nhiều là người theo đạo Công-Giáo hết 99% chỉ có một phần đạo thờ cúng Tổ-Tiên và Phật-Giáo. Vì thời tự do, nên tôi không ép buộc con phải theo đạo cha mẹ. Con trai, con gái, cháu, chắt, nội, ngoại của tôi sinh ra tại nơi này đã khôn lớn theo đạo Công-Giáo để lập gia-đình cũng nhiều. Nay mới nghe người có đạo được chấp thuận kết nạp đảng, như trong địa phương xã Bắc-Sơn có mấy ông cán bộ xã ngưòi theo đạo Công-Giáo cả bao thế hệ trước, làm việc Xã cả mấy chục năm nay mới được kết nạp đảng để phục vụ cơ-quan chính-quyền và lãnh đạo Xã. Tôi lấy làm hoan-hỉ cùng với các vị. Cũng mừng cho những người có Tôn-Giáo, có kiến thức, trình độ học vấn cao toàn quốc, đang làm việc trong cơ-quan chính quyền, của nước C.H.X.H.C.N. Viêt-Nam trong các Bộ, Ngành hành-chánh, quân-sự v.v từ thấp lên cao, có điều-kiện phấn-đấu tiến thân.
Chương III.- LÀM NGƯỜI LÃNH ĐẠO CŨNG NHƯ THƯỜNG DÂN SỐNG TRÊN THẾ GIAN PHẢI CÓ ĐẠO-ĐỨC.
a.-Làm người phải có Đạo.
Chúng ta may mắn được sinh ra làm người sống trên thế gian này cần phải có văn-hoá, đạo-đức. Đạo-Giáo là an vui, hạnh-phúc là con đường chân-lý và lẽ sống phụng-vụ hoà-bình nhân loại trên toàn Thế-giới.
Danh-từ đạo-đức lúc nào cũng song hành với nhau, có đạo là phải có đức, mà người có đức đương nhiên là đã có đạo rồi.
Từ ngữ đạo-đức là một từ nối, tuy một mà hai.” Nhiều người nói vanh-vách phải học theo đạo-đức Bác Hồ nhưng chưa sáng lẽ. Có mấy đứa học trò cháu chắt hồn nhiên hỏi tôi Đạo-Đức là gì hỡ ông? Tôi nói có ba cách trả lời:
1.- Đường ngay lẽ thẳng để đi đến chân, thiện, mỹ của người có đạo sống làm việc và tu hành tại gia.
2.- Sống thực, sống tỉnh giác, sống thiền, của người xuất gia tu hành đạo Phật.
3.- Đức là gì? -Đây là một câu hỏi khó trả lời bằng miệng, mà trả lời sự thực hành của chính mình. Người thế gian hay khuyên bảo nhau, chớ nên ăn ở thất nhân thất đức. Họ còn bảo rằng: con gái nhờ đức của cha. Con trai nhờ đức của mẹ. Có câu: ăn ở sao để đức lại cho con cháu nó nhờ. Đây là nói để đức chứ không phải để vàng bạc, châu báu, của cải vật chất đâu nhé!
Của cải không phải mồ hôi nước mắt đổ ra, để lại đầy kho tiêu xài hoang phí không đúng việc.
Có câu: Con không đẻ không thương,
của không làm không xót.
Tục ngữ thế gian
Có sẳn tiêu xài thả ga chưa bao lâu cũng hết, thêm mang nhiều tội lỗi. Tác giả xin nhường lại chữ Đức quý vị độc giả suy nghỉ tự hiểu lấy”.
Có câu:
Ở có đạo mới có gạo mà ăn,
ở có đức không sức mà ăn.
Chữ Đức thấy khó lý giải hơn chữ Đạo. Mấy người có đạo mà thấu hiểu đạo lý cao sâu, đang sống với đời, biết làm việc từ thiện, tu-hành có lòng từ-bi hỉ xả, đời sống của họ về vật chất tuy chẳng giàu có hơn ai, nhưng giàu lòng nhân ái, họ sống rất thoải mái, tâm hồn trong sáng và có trí tuệ cao siêu.
Ngày xưa chưa có đạo Phật, đạo Công-Giáo. Đức Khổng-Tử dạy lễ-nghĩa, hiếu-để, tiền học lễ hậu học văn, hiểu đạo làm Người để chúng ta sống theo nho-phong lễ giáo, làm người thì phải giống người. Ăn ở với nhau biết khiêm tốn lễ độ, kính trên nhường dưới, trong gia đình cũng như ngoài xã hội phải thuận-hoà v.v, mới trọn đạo làm mgười.
(Trên thế gian này có một số người tự cao, tự đại dám nói, cái gì cũng biết, nhưng chưa biết làm Người, chỉ mới làm Ngợm thì chưa phải là khôn).
Có câu:
Ăn ở sao cho trải sự đời
Vừa lòng cũng khó há rằng chơi
Nghe như chọc ruộc tai làm điếc
Giận dẫu căm gan miệng mỉm cười.
Ngày xưa ông Nguyễn-Công-Trứ là người học rộng tài cao thi đỗ ra làm quan, chính-trị, Quân-sự kể cả làm kinh-tế ông đều giỏi cả v.v. Cũng bị cách chức xuống lên, nên ông viết ra bốn câu thơ trên này, thì thử hỏi làm người đâu phải là dễ.
“Có câu:
Vi nhân nan”.
(Tạm dịch: làm người khó).
Cho nên hiểu đạo làm người đã là khó, còn nói đến đạo Phật-giáo, đạo Công-giáo lại càng khó hơn.
-“Tôi trích ra vài câu dể hiểu nhất trong cái đạo làm Người để quý vị độc giả tìm hiểu thêm.
Đức Không-Tử dạy:
-Về đạo làm trai: Tam cang, ngũ thưòng. Đạo làm gái: Tam tòng tứ đức.
Tôi xin tạm dịch nôm na cang thường đạo lý làm trai:
Có 3 cang: Nghĩa Vua tôi. Tình-Nghĩa cha mẹ & thầy cô. Tình-nghĩa chồng vợ.
5 thường là: Nhân, nghĩa. lể, trí, tín.
-Tam tòng, tứ đức của đạo làm gái:
Có 3 tòng: Nội gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. (Chồng chết theo con, không phải chết theo chồng).
4 đức là : Công, dung, ngôn, hạnh.
Trong Tang Phục Truyện của Nghi Lễ có ghi rõ như trên. Nếu phân tích ra tỉ-mỉ để áp dụng cho đời sống thì 98% là tốt, đúng. Chỉ có thiệt cho phái nữ cái câu tam tòng, có thiệt thòi một ít, nhưng thấy cũng không đến nỗi như phụ-nữ đạo-Hồi, phong-tục nầy của luật Manu Ấn-Độ đã có từ thời xa xưa.
Nho-GiáoTrung-Hoa truyền sang với dân tộc ta học chữ, học đạo từ thời cổ-đại trước Phật lịch, trước Công-Nguyên, cả hàng mấy nghìn năm nay, thấm sâu vào máu thịt, tâm khãm của người Việt đã thành truyền thống văn hoá dân tộc từ bao giờ”.
Nếu có ai đó phủ nhận bây giờ thời văn-minh khoa học hiện đại của thế kỷ 21 con người đã lên đến mặt trăng và sao hoả, đi áp dụng từ ngữ xa xưa của thời phong kiến, huỷ bỏ không thèm dùng một từ nào của Đức Khổng-Tử nêu trên để thực hành với cuộc sống đối nhân xử thế hàng ngày trong xã hội văn-minh hiện đại, thì thử hỏi có còn là con người văn minh nhân-bản nữa không? Hay là trở thành bản-năng sinh-tồn của loài thú vật một lủ Vượn, Khỉ đi cấu xé lẫn nhau để tranh dành vật chất và sự sống còn. Hi-sinh đời bố củng cố đời con.
Người xưa cũng có cái hay, cái dở.
Đặc biệt là: “Văn-Hoá Đạo-Đức của Người Xưa thì hết chỗ chê.”
Câu văn trên Tiến-Sĩ Giáo-Sư Triết học Hoàng-Chí-Bảo giảng tại trường Đại-Học Lạc-Hồng Đ.N ngày 12-4-2008.
Thời nay cũng có cái đúng, cái sai, những cái tinh hoa văn-hoá, đúng ta đem ra học tập để áp dụng trong cuộc sống hàng ngày, cái gì ta thấy sai trái lỗi thời thì bỏ, nên noi gương các nước văn minh. Chớ nên xoá bỏ, huỷ hoại hoàn toàn văn-hoá nghệ thuật đạo-đức người xưa là không đúng. Những nước văn minh và nhiều cá nhân họ còn đi sưu tầm văn hoá, nghệ thuât, bão tồn cổ vật.
Có câu: “Vô cổ bất thành kim”. Tạm dịch: (Không có củ làm sao có mới). Thời nào cũng phải sống theo cổ kim hoà điệu.
Chúng ta được làm người thời hiện đại nên có đạo, không đạo Công-Giáo thì đạo Phật. v.v.
Con người mà vô đạo-đức xã-hội văn-minh hôm nay và cả Thế-Giới không ai chấp nhận.
“Thời xưa mấy ông Vua gian ác, tham dục người ta ám chỉ đồ hôn quân vô đạo”.
Đạo Nho-Học đã bị lu mờ nửa thế-kỷ 19, vì luồng gió của văn-minh, khoa-học bên Âu, Tây thổi sang quá mạnh, Thánh-Hiền bay mất về trời. Nên người Việt ít học chữ Nho, chuyển sang phần nhiều học chữ Quốc-Ngữ, chỉ còn cúng bái Tổ-Tiên theo văn hoá truyền thống mà thôi.
Đạo-Giáo là con đường ngay thẳng đi đến chân-lý, sống chung hoà-bình. Nói chung tôi tìm hiểu giáo-lý của các đạo đều có trùng lặp, đạo luật gần giống nhau, chỉ có khác danh-từ xưng hô mà thôi.
Có câu :” Nhân hư Đạo bất hư”. (Người xấu, Đạo là tốt).
Đạo Khổng-Giáo Nhân Học văn-hoá Cổ rất cao siêu, gốc TQ mà cũng bị lu mờ bởi Chủ-Nghỉa Mác-Lê và phát minh khoa học bên phương Tây bay sang. Hiện nay họ đang cho phục-hồi trở lại.
b.- Đã có đạo chúng ta phải học và hành cho đúng.
Tôi xin chứng minh vài câu đại khái, chứ triết lý của đạo giáo thì cao, sâu, rộng, lớn vô cùng, vô tận. Không có giấy bút nào tả hết được. Giáo lý dạy sơ đẳng: bỏ ác làm thiện, biết sống yêu thương nhân loại, có lòng từ-bi hỉ-xã giúp đỡ lẫn nhau những khi gặp khó khăn, bệnh tật, tai-nạn, thiên tai. v.v. Sống phải hiền lành, thật-thà không dối trá, không tham lam làm những việc bất chính, phải luôn luôn có tinh thần đoàn kết.
“Bán bà con xa,
mua láng giềng gần”.
Tục ngữ
-Sống phải tuân theo pháp-luật, không nên hành động gian ác trộm cướp, đánh đập giết chóc, ỷ mạnh hiếp yếu, lấy thịt đè người. Phi văn-hoá đạo đức, gây cho xã hội xáo trộn, đất nước mất an-ninh trật-tự, bị chiến-tranh. Kinh-tế không phát triển lên được, nghèo nàn lạc hậu.
Cứ nhìn về lịch-sử cả thế giới và của nước ta thời Vua Chúa xa xưa thì thấy rõ. Ông vua nào hôn quân vô đạo, hành-động sai đường lối, độc tài tham dục bạo tàn, làm cho dân tình điêu đứng nghèo khổ dốt nát, ngăn cấm tác phẩm các nhà văn, thâu hồi sách báo đốt bỏ, trù dập người trí thức giống vua Tần-Thuỷ-Hoàng, trước sau cũng bị lật đổ, còn lưu lại tiếng xấu xa.
Ông nào minh quân văn võ song toàn, đạo đức chân chính, biết thương đân giảm bớt sưu cao thuế nặng, quan tâm về dân sinh dân trí, trị vì đưa đất nứơc đi lên giàu mạnh, được tự do ngôn luận, mới là cường quốc làm bá vương, bá chủ nước nhà thịnh trị truyền ngôi cho tử tôn lâu dài lưu lại tiếng thơm muôn đời muôn thuở. Nên lấy đó làm gương, xưa sao thi nay cũng vậy.
Ví dụ: Nói chung làm ông bà cha mẹ trong một gia-dình cũng phải mẩu mực, làm cấp lãnh đạo đứng đầu một cơ-quan đoàn thể, các bộ ngành, xí nghiệp công tư, từ cấp hạ tầng cơ-sở trở lên toàn cã nước. Phải sống lương tâm trong sáng, công việc theo khoá biểu thời gian nghiêm túc, thưởng phạt phân minh để làm gương cho thuộc hạ.
Có câu: “Thượng bất chính hạ tác loạn”. (Trên ở chẳng kỹ cương dưới lập đường mây mưa). Làm cấp lãnh đạo mẩu mực có tài đức vẹn toàn là rất khó. “ Bị lãnh đạo là điều may mắn, làm lãnh đạo người khác là điều cay đắng”.
Tinh Vân
Có câu: “Nhân vô thập toàn” (Tạm dịch: Làm người ‘lãnh đạo” không ai mười phân vẹn mười được). Nếu có lở bị sai sót nhân dân phê phán, nên sáng suốt thận trọng xem lại để sửa chửa.
Sống và làm việc đúng với hiến pháp, pháp luật của Quốc-Hội đề ra.
Chớ tự ái bão thủ, ỷ có quyền lực chụp mủ bắt bớ, tù tội gây sự đối đầu oán hận trong lòng quần chúng là không tốt.
-Bản thân của mình không làm gương trước thì khó mà bão thuộc hạ, dân chúng tuân theo.
Chương IV.- MUỐN CÓ ĐẠO CẦN PHẢI GIA-NHẬP MỘT TÔN-GIÁO THỊNH-HÀNH NHẤT V.N HỌC HỎI CHO THÔNG HIỂU GIÁO-LÝ, RỒI THỰC-HÀNH ĐÚNG ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẠO. MỚI LÀM ĐƯỢC LÃNH ĐẠO TÀI-BA TRONG TƯƠNG LAI.
a.- Người có đạo cần phải học hỏi nhiều mới thấu hiểu đạo-lý.
Triết học về đạo đức không thể học thuộc lòng vài câu rồi nói suông thao thao bất tuyệt, đĩ-thoã đầu môi chót lưỡi như vẹt để lừa gạt lòng người. Lời nói phải song hành với việc làm mới có giá trị. Nếu muốn hiểu về Đạo-Giáo cần phải học hỏi suốt đời cho đến khi quả tim ngưng đặp mà vẩn chưa hiểu hết.
Học Đạo không phải để trị bệnh cho người, mà trước tiên trị cái bệnh tham, sân, si, của chính tâm-hồn bản thân mình. Để biết cách đối xử với đân chúng và làm việc cho đúng đường lối đạo đức.
Những người thấu hiểu đạo lý, ăn ở hiền hoà nhân hậu, con mắt người tầm thường tiểu nhân nhìn thiển cận, bão họ hiền lành không dám làm gi? Nhưng không có việc gì mà họ không làm. Từ bi mà dũng, trí, không thể lặng thinh sợ thằng ăn cước trả thù, khi nhìn thấy nó móc túi cái ví tiền của bạn mình, họ còn viết ra sách sử, văn học nghệ thuật và kinh điển, để lưu truyền cho hậu thế học tập noi gương. Cách ăn ở giao tiếp ai cũng kính mến. Còn ra giúp nước thì dũng-cãm, anh-hùng, công-minh, chính-trực.
-Lời bác Hồ : Đạo đức cách-mạng không phải trên trời rơi xuống
còn sống phải chiến-đấu học tập suốt đời.
-Ngọc càng dủa càng sáng, vàng càng luyện càng xanh.
Theo ý của Bác dạy chúng ta sống chiến-đấu (*), lao-động, học-tập để noi gương Bác. Phải cần, kiệm, liêm, chính. Chí công vô tư. Mới là người lãnh đạo có đạo đức.
-Tôi thấy hiện nay mới thi đua học về tư-tưởng đạo-đức của Bác, thì hơi muộn. Muốn học đạo đức của Bác Hồ phải nghiên cứu kỹ về phong cách của bác sống và làm việc. Rồi học bắt đầu từ A đến Z như học chữ quốc ngữ vậy, mới hiểu đạo đức của Bác được. Chứ đóng khung thời gian lịch-sử lại một đoạn ngắn mà học thì chẵng có ai hiểu đầu đuôi ra làm sao? Học cho mất công tốn của không ai hiểu, chẵng có kết quả ích lợi gì.
Bác Hồ là người làm chính-trị, muốn được lòng mọi người bác sinh hoạt giao tiếp với đồng-bào và thuộc hạ dùng phong-cách phương tiện của triết-lý Tam Giáo Đông phương (Lão, Khổng, Phật) và kinh nghiệm về Nhân học trên đời, sống giản dị hoà đồng, cách ăn mặc, nói năng, ứng xử, đạo-đức, lễ-phép, chân chính, rất thân mật, yêu thương toàn dân từ già đến trẻ, đối xử với quần chúng Bác hiền lành như Bụt. Dân họ mới kính yêu lại Bác nghe lời mà phục vụ, quên mình vì Tổ-Quốc.
-Bởi vậy Bác nói: Dễ trăm lẩn không Dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong.
-Đối với quân thù. Bác có vũ-khí sắt bén và tinh thần sáng suốt, anh-dũng vô song, hành-động khôn ngoan, lừa gạt địch.
Bác dùng vũ-khí để đánh đúng đối tượng theo thời thế. Mới dành thắng lợi hoàn toàn, thành công rực rỡ.
Binh-Pháp & Vủ-Khí: Bác sử-dụng để thắng Pháp, Mỹ trong hai cuộc chiến V.N. cuối thế kỷ 20.
Có 4.- Sức mạnh tối tân nhất theo thời cuộc là:
1.- Đ.C.S. Sức mạnh Lãnh-Đạo Chỉ-Huy.
2.- Chủ-Thuyết Mác Lê. Sức mạnh Tinh-Thần theo thời-thế.
3.- Nhân-Lực, nội-lực. Sức Mạnh đoàn kết của toàn đân V.N. yêu nước, căm thù quân địch xâm lăng.
4.- Ngoại viện: Sức mạnh các nước bạn Đồng-Minh viện-trợ vũ-khí tối tân, lương-thực. (Khoa-học kỹ-thuật, tinh thần lẫn vật chất v.v.).
Bác cũng suy nghĩ nghiên cứu binh-thư, binh pháp đắn đo trước, tuỳ cơ ứng-biến, theo binh-pháp Tôn-Tử, “tri bỉ tri kỷ” (biết mình biết địch) và lợi dụng thiên-thời, địa-lợi, nhân-hoà. v.v. Dùng vũ-khí nào thật là lợi hại mà phù hợp theo tình thế, theo từng giai đoạn của cuộc chiến, nhờ có sách luợc mới chiến thắng hai Đế-Quốc bạo cường. Đáng tiếc là Bác tuổi cao sức yếu phải quy Tiên giửa đường, khi chưa đạt ý nguyện đi đến mục tiêu Nam Bắc một nhà.
-Nhưng kết cuộc chiến thắng, thống-nhất, độc-lập mà cũng phải trả giá quá đắt bằng xương máu nhân dân mới có. “Số người tham gia chiến tranh hai phe Tả Hửu nói chung, dù có chính nghĩa hay phi chính nghĩa, phần nhiều oan uổng cho lớp binh sĩ còn thơ ngay, non trẻ, cắt ké, phải đi khinh binh trước đầu tên mủi đạn. Một lớp dân đen chân lấm tay bùn, hai vai trỉu nặng, ở nhằm những vùng xôi đậu, bị bên này bắt bên kia lôi làm công tác phục vụ chiến tranh, do bom rơi đạn lạc cũng phải bỏ mạng sa trường hoặc bị tàn phế không ít. Thành phần dân đen này chẳng có ai cho họ một lời an ủi.
Còn các vị lãnh-đạo cao cấp, khi thi hành công tác thì có cận vệ hộ tống giử an-ninh, còn ở tại căn-cứ làm việc trong thành cao hào sâu, xui xẻo lắm, tới số mới chết một người.
-Một số lớn Lãnh-Đạo Việt-Nam Cọng-Hoà miền Nam tai to mặt bự, ăn trên ngồi trốc phè phởn, là con cưng hoặc cọng tác CIA của Mỹ, biết đã bị thua tại bàn đàm phán Ba-Ri “1971-1973” tìm dường cao chạy xa bay trước ngày miên Nam sắp sụp đổ. Giao lại một số Lãnh-Đạo thứ con rơi, con ghẻ thuộc loại cắt ké, hoặc già nua nói không ra tiếng sắp xuống lổ. Để ra lệnh đầu hàng, di tản chiến thuật, giảm thiểu đổ máu cho đôi bên, hy sinh vô lối. Bên miền Nam bị Mỹ bỏ rơi thua chạy vắt dò lên cổ. “Quân vô Tướng, như Hổ vô đầu”. (Linh không chỉ huy, như cọp bị chặt đầu). Cả một dám tàn quân phải tự lo lấy mà thoát thân, hồn ai nấy giử. “Hàng sống chống chết”. Là câu khẩu lệnh của quân giải phóng kêu lính nguỵ quy hàng. Bị thương không cứu chửa, chết không chôn, bỏ xác như hươu nai trong rừng, thật thê thãm trong những ngày tàn cuộc chiến mùa xuân Ất-Mão 1975. Địch thì mặc kệ chẳng kể làm chi. Vì lòng nhân đạo, tình ruột thịt Đồng-Bào không ai làm ngơ mà không lên án người Lãnh-Đạo.
Một số phe ta hy sinh vì chính-nghĩa Cách-Mạng dài dài trong suốt cuộc chiến, đến hôm nay vẫn còn mất tích chưa tìm ra mồ mã, đừng nói chi đến quyền lợi chính sách. Địa phương nào mà chẳng cố người bị thiệt thòi, coi như huề cả làng. Bác đã yên nghỉ nghìn thu. Nay ai là người thừa kế, nối nghiệp, đang hưởng thụ, dám đứng ra chịu trách nhiệm với gia-đình nạn nhân, với Lịch-Sử.
Bất cứ một cuộc chiến tranh nào xẩy ra với các nước trên Thế-giới cũng gây chết chóc tang thương, nhà tan cửa nát không thể tưởng tượng, tội ác tày trời, máu đổ thành sông, xương chất chồng như núi. Thế kỷ hôm nay chúng ta nên cùng nhau bắt tay sống hoà đồng, hoà hợp, đã là đồng-bào chớ nên bất hoà, thù hận mới là thượng sách, để toàn dân được sống an lành, sinh sống làm ăn và kiến thiết lại đất nước.
-Những cư-sỹ học cao, hiểu rộng trí thức, họ thấy xã hội bất bình, Tổ-Quốc lâm nguy, đứng ra góp ý, giúp sức làm chính-trị thì rất thành công và thắng lợi tốt đẹp. Phải tìm hiểu kỹ càng mà trân dụng nhân tài, đừng có thành-kiến, đa nghi, đố kỵ như Tào-Tháo là thất bại về sau.
-Nếu làm ngược lại thì toàn Thế-giới và nhân dân V.N chẵng có ai tán-thành và chấp nhận.
-Có hai Tôn-Giáo lớn: Phật và Công-Giáo có từ trên 2000 năm. Phật-giáo Ấn-Độ đi theo đường tơ lụa truyền sang Trung-Hoa rồi qua Việt-Nam vào thế kỷ thứ II. Công-Giáo gốc ở Do-Thái. Bởi người Tây-Ban-Nha, Bồ-Đào-Nha đi theo đoàn thám hiễm Thế-giới truyền sang V.N. thế kỷ XV. Thời xa xưa V.N ít có người theo học hai Đạo-Giáo này.
Có câu : “vạn sự khởi đầu nan”. ( Tạm dịch: việc gì lúc đầu cũng khó). Một mặt ngôn ngữ bất đồng. Vì thời cổ-đại đân trí còn thấp kém, phần nhiều cấy trồng lúa nước nên thờ cúng Thần-Linh như: Thần Sông, T.Núi, T.Mây, T.Gió và T.Sấm-Sét v.v. theo truyền thuyết huyền bí, họ hay cầu-khẩn Trời mưa thuận gió hoà, để mùa màng được bội thu. Một phần mê tín dị đoan, ma quỷ, đồng bóng, bùa phép, thầy bói nói đui, sống dương-gian lo chuyện âm-phủ v.v. không đúng với đạo-giáo nào cả. Mà cứ ngã chấp, nên ít học theo hai Tôn-giáo này.
Lại còn Triều-đình vua Minh-Mạng cấm ngặt toàn dân không cho theo đạo Công-Giáo, nên đất nước xẩy ra chiến tranh gây tang tóc, bởi nguyên nhân từ đó.
-Nhưng thời nay hoà-bình, đã văn minh hiện đại của thế kỷ 21, hai Tôn-Giáo này được bành trướng thịnh hành nhất, lang toả khắp thế-giới công nhận cùng V.N. tôn thờ và tu học.
Còn một đạo truyền thống từ thời Cổ-Đại là Nho-Giáo Trung-Hoa truyền sang theo chữ Hán. Vì thời xa xưa Việt-Nam chưa có chữ Nôm, chữ Quốc-Ngữ. Nên Tổ-Tiên ta phải học chữ Nho để làm việc, viết văn-thư các loại chánh-trị, quân-sự, kinh-tế, văn tế, thư từ văn-bản dân-sự thay cho lời nói v.v. Một mặt cũng theo Nho-Phong Lễ-Giáo để an sinh xã hội và thờ Vua, cúng bái Tổ-Tiên, Ông Bà, kính yêu Cha Mẹ. Thời Quân-Chủ phong-kiến Đạo Nho-Học có thể được phổ biến khắp đất nước của chúng ta. (Lệ thuộc văn-hoá Trung-Hoa). Đạo nầy thời văn minh hiện đại không còn thích hợp mấy cho V.N.
Lịch-Sử VN có bốn nghìn năm văn-hiến. Mất một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây. Bác Hồ ra đời hơn 100 năm nay thôi. Ta đi học gương Bác-Hồ thì ta chỉ có hiểu về bản thân và hành động đánh giặc của bác mà thôi. Làm sao ta hiểu cao, sâu, rộng, lớn về khoa-học đạo-học văn-minh lịch-sử của Bác học. Mà sống đứng đắn như Bác được. Học đúng theo Đạo-Đức của Bác là chữ Hán khó học hơn chữ Quốc-Ngữ, phải học lâu lắm mới viết ra chữ, hiểu được nghĩa. Chúng ta nên học Phật-Giáo, hiện nay kinh sách dịch ra toàn chữ Quôc-Ngữ dễ học, dễ hiểu, mà giáo-lý Phật-Giáo đa số trùng lặp triết-lý Nho-Giáo, học viên dể hiểu thấu đáo đạo-đức của Bác chín chắn hơn. Nếu ra ứng cử làm lãnh-đạo, thì phải có đạo-đức. “Vô đạo không thể làm lãnh-đạo được, vì nhân dân thế kỷ 21 họ khôn và kinh nghiệm lắm rồi, không ai dám bầu những người không có đạo-đức lên làm lãnh đạo là nguy to”.
(Con cháu của tôi theo Thiên-Chúa Giáo tôi cũng dạy bão phải học cho hiểu giáo lý tối thiểu để biết ăn, biết ở, có hiếu, có nghĩa, đối đãi với bà con xóm giềng cho đúng lễ độ, mới đẹp đời tốt đạo).
-Thời gian luôn-luôn biến chuyễn hôm nay thế này ngày mai thế khác, nếu ai đó thủ cựu, bảo thủ không tiến bước theo thời gian, sẽ bị bánh xe tiến hoá nghiền nát cuộc đời. Những gì thấy văn-minh hiện đại ta nên học theo, để nâng cao kiến thức mà làm theo, mới tiến lên kịp các cường quốc giàu mạnh trên thế giới.
Có câu: “con hơn cha nhà có phúc”. Nếu muốn có phúc và tìm hiểu đạo-đức Bác-Hồ dể hiểu hơn, ta phải luôn chuyễn đổi cải-cách giáo-dục học hành.
Riêng tôi cảm nhận xin góp ý thì như vậy. Quyền là của quý vị, muốn dạy sao cứ dạy, muốn học sao cứ học.
Nhưng nhớ rằng:
Cái học cũng phải đổi mới, học sâu hiểu rộng mới có tiến bộ. Noi gương các nước văn minh nhất, khuyến-khích con em học theo Mỹ, Liên-Xô, Ấn-Độ, Nhật-Bản v.v. Nhưng cũng phải bảo vệ gìn giử bản sắc văn-hoá dân-tộc của mình. Trung-Quốc cũng văn-minh, sinh-viên chớ nên du học.
(Lý do: “Để đề phòng lây nhiễm bản tánh hay đút lót tham lam bất chính, lập lờ lật lọng”. Còn về chữ Hán của Thánh-Hiền cứ học càng nhiều càng tốt Việt-Nam thiếu gì thầy dạy chữ Hán. Trước ngày giải-phóng miền Nam T.Q lợi dụng tình hình chiến tranh lộn xộn, đã đánh chiếm đảo Hoàng-Sa của nước ta, sau ngày giải phóng đánh lấn biên giới nước ta phía bắc, gây tang tóc, bị quân đội ta đẩy lùi.
-Tôi thấy trên đài, báo cách nay không lâu vẫn còn tranh chấp Hoàng-Sa. Tình bạn bè, láng giềng, đồng minh mà đi tranh chấp với nhau từng tấc đất, mất đoàn kết là không tốt, để thế giới khinh thường. Cho nên gây nhân hưởng quả, những người có lòng tham lam gieo gió thì gặt bão, đó là lẽ đương nhiên theo tín ngưỡng của Phật-Giáo. Còn ai gian ác Bị Chúa phạt là lòng tin của đạo Công-Giáo, chúng ta đang chứng kiến hiện trường trước mắt. Còn chuyện xưa thì lắm, cả ngàn năm.
Lịch-sử, quá khứ cố nhiên không cho xoá hết, nhưng cứ tìm xét mãi chỉ khiến hận thâm sâu, chúng ta nên vùi lấp kín lại, dĩ vãng cho về quá khứ chẳng bới móc ra làm gì, các ngài hiền-nhân quân-tử họ hay lấy ân báo oán).
Chỉ bắt tay giao tiếp về kinh-tế, buôn bán với nhau mà thôi, đây là đường lối lâu dài, hoà-bình an ổn, chớ có mặn mà làm chi.
Vui thời vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai
Nguyễn Du
Tôi lấy ví dụ câu văn: “Dụng nhân như dụng mộc”. (Chúng ta có cây gỗ lớn, quý mà bị hư một lổ nhỏ, không có ông thợ lành nghề khéo tay làm ra tủ, bàn đẹp để dùng, thì cây gỗ ấy cũng vô dụng).
Cho nên con người chúng ta sinh ra khi còn bé chưa biết gì, phải tìm thầy thông-minh, trí-tuệ, những trường lớp có tiếng tăm, để học chữ, học đạo, khi khôn lớn vừa làm vừa học, liên tục, cho đến già cũng phải học trong kinh sách. Học ngoài đời, ông 70 học ông 71, ông 71 học cậu 15 mới thấu hiểu được văn minh khoa-học đạo lý cao sâu thời cổ đại và thời hiện-đại. Để biết cách làm việc và ăn ở hoà-đồng với xã-hội mới tiến bộ.
“Có câu: Hậu sinh khả uý”. (Tạm dich: Tuổi trẻ có tài-năng thông-minh). Nếu họ đúng, giỏi thì mình cũng tán thành và học theo. Có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Người già, mồm đừng già, cứ cãi bướng cho rằng: trẻ người non dạ là không đúng, để cho họ buồn mất tin tưởng thì chớ nên. Có chuyện gì bất đồng nên xét lại cho kỹ.
Có câu: “Tiên trách kỹ hậu trách nhân”. (Tạm dịch: Trước trách mình sau mới trách người).
Có câu: “Kỹ sở bất dục, vật thi ư nhân”. (Tạm dịch: việc gì mình không thích, chớ đem làm cho người khác buồn).
Người đời xưa họ đối với mình thì nghiêm khắc, đối với người thì khoan-dung độ-lượng nên ít khi chạm lòng tự ái với bạn bè.
-“Tôi suy nghỉ bản thân tôi cứ ngã chấp, không chịu học hỏi tuổi trẻ và bạn bè, xem sách báo hàng ngày thì làm sao cập nhật tin tức, biết sử dụng vi tính để viết văn được. VN mới có Vi-Tính mấy chục năm nay, sử dụng nhiều chỉ mới mấy năm nay thôi.”
Khi học hiểu rồi, hành cho đúng đường lối thì viẹc gì cũng có kết quả tốt đẹp, thành công mỹ-mãn.
b.- Những kẻ hay tự kiêu tự đại bị thất bại mọi mặt.
Những kẻ lười học dốt nát hay tham lam, còn trịch thượng, nâng cái tôi của mình lên, không chịu nghe lời dạy dỗ cha mẹ, học tập nghe lời phê phán bạn-bè, để cải-thiện tánh nết, ăn nói lỗ mãng làm việc thường bị sai trái, nếu làm chỉ huy quân-đội thì nguy hiểm cho tính mạng binh-sĩ, làm cán bộ hành-chánh sự-nghiệp thì thất thoát công quỹ nhà nước, gây phiền hà cho nhân dân. Hay ăn hối-lộ và biển-thủ công quỹ.
Nếu ai muốn nổi tiếng danh-nhân, anh-hùng thì phải phấn-đấu nuôi hoài-bão, có chí lớn xoay trời, mữa đất lập công to.
Đem lại cuộc sống ấm no hạnh-phúc cho nhân-dân, ích lợi cho nước nhà. Phải chịu học hỏi suốt đời. Khi hiểu rồi có thời-cơ thuận lợi đứng ra khởi sự, dựng cơ-nghiệp được kết quả mới nổi tiếng. Đừng lợi dụng thời-thế phe cánh con ông cháu cha. “Nam nhân chi chí, nhỏ không học lớn làm Đại-Uý thì hỏng việc”. Anh hùng tạo thời thế mới hay, mới tài giỏi, chứ thời thế tạo anh hùng, theo đóm để ăn tàn thì dở ẹc. Những kẻ cơ hội bất chính gây nhiều tội ác, trước sau cũng bị tán gia bại sản, con cái hư hỏng gây tai hoạ, có khi bị cách chức tù tội, mất mạng nữa là khác. Đó là luật đương-nhiên gây nhân hưởng quả, chứ chẵng phải Trời phạt, Phật quở gì cả. Tôi đã chứng kiến rất nhiều vụ. Mong rằng quý vị độc giả nên tư-duy mới thấy rõ và đúng.
Khi đã quán-triệt thì giữ tâm mình trong sáng, ngay thật là tuyệt chiêu. Làm việc gì cũng tốt, cấp trên tín nhiệm, được bạn bè yêu quý mến thương.
c.- Nói về học tập gương đạo đức của bác Hồ một chút :
Bác Hồ thời còn bé rất thông-minh học chữ Nho thuộc hết tứ thư, ngũ kinh của Đức Khổng-Phu-Tử, cho nên thơ của bác nói chung phần nhiều viết bằng Hán tự. Học Quốc-Ngữ, Pháp văn rồi làm thầy giáo. Hiểu sơ qua thân thế sinh hoạt của Bác thời còn trẻ một vài điểm như trên. Người ta thường nói đạo-đức Bác Hồ, mà chẳng biết Bác theo đạo nào? Có đạo hay không? Xin bật mí: Đương nhiên Bác là người có Đạo Nho-Giáo truyền thống bản-sắc văn hoá dân tộc thờ kính Tổ-Tiên Ông-Bà Cha Mẹ.
Khi còn thơ ấu chịu học tập cho đến trưởng thành, không cần đi thi cử với cái chế độ bị trị mà đi dạy học trò. Bác nhận thấy đất nước ta bọn thực dân phong kiến đè đầu cỡi cổ, bắt nhân-dân làm nô lệ, kìm kẹp, xiềng xích, sưu cao thuế nặng bóc lột đói khổ. Nên bác phải ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước. Bác đi năm châu bốn bể, các nước văn minh đệ nhất, đệ nhị trên toàn cầu. Như: Ấn-Độ, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Trung-Hoa. v.v. Bác học hỏi thêm về triết học đạo-lý Đông, Tây vừa viết báo, đấu tranh chính trị, làm việc kiếm tiền để sống và học hỏi, thời gian hai phần ba đời người, tiếp-nhận những cái hay cái đẹp về khoa học, kỹ thuật, tinh hoa văn-hoá, ngôn ngữ và Quân-sự, chính-trị v.v. trên thế giới. Bác đem về Việt-Nam áp dụng đúng đường lối để lãnh đạo đất nước làm Cách-Mạng mới có ngày hôm nay.
Những người xưa học rộng tài cao đạo đức uyên-bác. Họ không có lòng tham vô đáy làm lợi lộc cho cá nhân họ. Mà họ làm vì mọi người. Cứu nhân độ thế, các người theo đạo Phật có thể họ hoằng pháp lợi sinh. Người có đạo Nho-Giáo, Công-Giáo mà thấu hiểu sâu xa giáo-lý. Số người trí thức này họ làm bất cứ việc gì cũng đạt kết quả tốt, an sinh xã hội, đẹp lòng người.
Bác hồ khi còn sinh tiền bác sống giản-dị, hết lòng lo cho dân cho nước, việc làm của Bác bất cứ nơi nào, hoàn-cảnh nào cũng đều nghĩ đến ích quốc lợi đân. Chúng ta nên lấy đó làm gương để mà học hành như Bác.
Chương V.- CUỘC SỐNG VÀ HÀNH ĐỘNG CHIẾN TRANH, HOÀ-BÌNH.
a.- Hành-động thời gian chiến-tranh.
Khi đất nước đang còn chiến tranh nghèo khó, hạt gạo cắn làm đôi để tiếp tế đánh Mỹ, thế hệ cha bác, đoàn kết một lòng, muôn người như một, trẻ già, trai gái ùn ra chiến trường như vũ bão cá mè một lứa, ai có khả năng trình độ chuyên môn năng khiếu, ủng hộ hết mình cho Tổ-Quốc, không sợ chết chẵng tiếc thân, hy sinh xương máu không thể biết số lượng bao nhiêu mà kể, yêu nhau như ruột thịt, trường kỳ kháng chiến, lớp này ngã xuống có lớp khác xung lên chịu đựng gian khổ, ăn khoai lang, củ mì, gạo hẩm cơm nguội mà chiến đấu, Bác còn ở hang Bắc-Bó ăn cháo bẹ để dệt Sử Đảng trên chiến trường Việt-Bắc. Mất người, tốn của, nợ nần bạn bè từ vật chất đến ơn-nghĩa, thời gian chiến đấu 30 năm mới đánh đuổi được quân thù hoàn toàn ra khỏi đất nước.
b.- Thời kỳ hoà-bình.
Sau ngày 30-04-1975 lúc giao thời im tiếng súng, ôi thôi lắm chuyện rắc rối tồi tệ cã đôi bên thắng, bại, bên chiến thăng lên làm Vua, hân hoan tự mản, việc nước đã tạm ổn, lo củng cố bản thân gia đình và hưởng thụ. Bên thua như rắn mất đàu, như cua gẩy càn, như cá nằm trên thớt. Đa số là cắt ké, con rơi còn lại, cho là ngụy, phải tập trung học tập cải tạo để biết đường lối chính ghĩa của Cách-Mạng, ai sức lực yếu kém không chịu đựng thử thách gian khổ thì “đay” (chết). Ai có sức chịu được thời gian cải tạo và mười năm bao cấp nó cũng trôi qua nhanh như nước chảy xuôi giòng. Khi đất nước mở cửa ai muốn đi diện HO hay con lai Mẽo v.v. cứ việc làm thủ tục xin đi. Nhưng phải có lắm “cây” (vàng) mới hợp lệ đi được, vì tôi có hai ông anh đi diện HO nên tôi quá rỏ chuyện này. Có số liều mạng vượt biên theo Mỹ bằng đường biển bị cá xực cũng nhiều. Ai nghèo phải chịu, hoặc yêu mến quê hương không muốn đi thì ở lại siêng năng lao động nuôi con xây dựng gia đình, đóng góp với xã hội đất nước. Nay già yếu con cái khôn lớn làm nuôi lại, không giàu có hơn ai nhưng hàng ngày dùng đủ, cũng cơm no, rượu say như ông Hai Lúa vậy thôi. Sau một cơn mưa trời lại sáng, đối với dân nhà nông chúng tôi quen chịu khó chịu khổ thấy chẳng xi-nhê gì cã. Sơ qua vài nét, không nên kể rỏ chi li làm gì thêm sinh tội.
Bây giờ đã được hoà-bình thống-nhất độc-lập hơn 30 năm.
Nhờ chính sách ông N.V.L đổi mới mở cửa giao lưu với Thế-giới năm 1986 nhân dân mới đỡ khổ. Nay đang phát triển nhà nước giàu có mọi mặt, cũng nhờ phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào, tiền viện trợ của các nước Tư-Bản để kiến thiết lại đất nước bị tàn phá vì chiến tranh. “Thế gian có người tốt kẻ xấu, không phải vơ đủa cả nắm”.
Có một số cán bộ lớn tranh quyền cố vị giữ ghế lâu dài, vô đạo đức tham lam thoái hoá biến chất lợi dụng kẻ hở pháp-luật, làm những việc sai trái đường lối vi phạm luật-pháp, mất lòng tin của nhân dân.
Nhận thấy như vụ giao thông vận tải mới đây do ông Ngũ-Vị-Tiền gây ra, ông Bùng-Tí-Dũ GĐ. PMU.18 cơ quan Q.L vốn viện-trợ phát-triển đất nước và biết bao nhiêu vụ nửa có từ trước, bị tổn thất công quỹ nhà nước hàng tỷ tỷ bạc, làm nghèo đất nước, những việc nầy cứ tái đi tái lại mãi. Tại sao các vị lãnh đạo Luật-Pháp không dùng biện pháp mạnh để loại bỏ thành phần sâu dân mọt nước làm băng hoại đạo đức Cách-Mạng, tham-ô công quỹ để làm gương.
Mấy ông cán bộ tham-nhũng của cải nhà nước, mấy ông làm như của tư riêng, cứ tiêu xài tiền bạc, tài-sản dùng cho bản thân và gia đình thoải mái. Xây nhà lầu, mua xe máy loại cao cấp, xe hơi đời mới, bao gái đẹp, nhậu nhẹt, cờ bạc, tệ nạn xã hội, ăn chơi trác-táng, vinh thân phì da.
Thêm có các công ty ma. Mệnh danh công ty mẹ công ty con xuất khẩu lao-động bằng cách trá hình làm những việc phi nhân-bản đạo đức để thu lợi nhuận. Bằng cách buôn bán ma-tuý mại dâm buôn lậu hàng gian hàng giả trốn thuế nhà nước, cũng như đem phụ-nữ trẻ em bán ra nước ngoài số lượng lên đến hàng ngàn người. Gây hoang-mang bức xúc, nhức nhối và đau khổ cho gia-đình bị hại, và còn nhiều chuyện khác v.v. không thể kể ra hết được.
-Nông đân chất phác như chúng tôi và tất cả toàn đân nghe nhìn trên đài báo thấy rất buồn, mất hết lòng tin.
Những đối tượng nguy hiểm trên đây làm băng hoại xã-hội, nghèo nàn đất nước. Gây tội lổi lên tận mây xanh.
Công quỹ nhà nước là bởi mồ hôi, xương máu, nước mắt của nhân-dân, nông-dân đóng góp lâu dài mới có. Khi bị C.A. phát-giác, hoặc thuộc hạ tố cáo việc sai phạm đổ bể, một số có thân-thế họ hạ cánh an-toàn, một vài vụ xui quá mới bị pháp luật xử án phạt tù mười năm, hai nươi năm, hoặc có chung thân đi nữa, qua một thời gian ngắn rồi các vị lãnh đạo cấp cao làm việc trong chính phủ năm năm, mười năm già yếu cũng phải mãn nhiệm kỳ về hưu. Khi mãn nhiệm, hết quyền lực. Đồng-Chí khác lên thay thế cũng hô hào đổi mới, chống tiêu cực tham nhũng, có lòng trung với Đảng, hiếu với dân, cũng yêu quý tôn thờ Bác càng nhiều càng tốt. Tội phạm lặng lẽ, êm đềm, đêm tối vượt ngục, đem gia-đình đi tìm nơi xa lạ lánh mặt sinh sống vương giả hợp lệ hợp pháp, trong bản địa chẳng ai hay. Sự việc đã năm bảy năm phôi-phai đi rồi, chỉ có trời mới biết. Dân chúng lo làm ăn sinh sống, ai còn để ý làm gì ba chuyện hôi nách ấy.
Thành ra cứ nhìn mặt nhau mà tham nhũng liên tục, nên tệ hại nầy cứ vẩn tồn tại mãi mãi. Miệng thì hô hào bài trừ tham-nhũng, bài trừ buôn lậu, ma túy v.v. mà thấy các cơ quan chức năng có tích cực bài trừ tối đa để giảm bớt gì đâu. Hàng ngày thấy càng nổi cộm. Có thể kẻ gian họ dựa vào một thế lực nào đó tầm cỡ quyền lực ngang T.T.BUS. Rât tinh-vi, xảo quyệt bí mật bao che kẻ xấu ngang nhiên hành động vô tội vạ. Nên cơ quan chức năng con mắt thịt khó phát hiện để tiểu trừ. Kiểu này phải mời đến Lão Tôn học trò Đường-Tăng dùng phép thần thông biến hoá và thiết trượng đập vở gáo, hay là ông Thiên-Lôi của Ngọc-Hoàng Thượng-Đế xách búa tài-xồi xuống trần gian ra tay một phen trừ khử để cứu độ toàn dân và nhà nước. May ra mới yên ổn. Còn để lũ Yêu Quái này khoáy động nhũng nhiễu mãi, thử hỏi làm sao đất nước phát triển nhanh chóng lên được.
Chương VI.- HÀNH ĐỘNG VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA CÁC VỊ LÃNH ĐẠO TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG CỦA THẾ HỆ TƯƠNG LAI.
a.- Lãnh đạo trung-ương.
Làm lãnh-đạo cao cấp của Trung-Ương tương lai. Muốn được nhân dân ủng-hộ, thế-giới kính nể. Tâm phải trong sáng, không tham vọng bất chính, cuộc sống giản-dị, bao-dung mà dũng-cảm, biết hy-sinh quên mình, hành động theo đạo-đức, chân-lý có chính-nghĩa đường lối cách mạng, hết lòng vì dân, vì Tổ-Quốc. Thưởng phạt phân minh. Tranh đấu cho nước nhà được độc-lập tự do toàn vẹn lâu dài, đưa đến văn-minh, phú cường.
Người làm vị nguyên thủ lãnh-đạo cấp cao, phải học hỏi suốt đời về văn hoá, ngoại ngữ, khoa-học, đạo-đức, triết lý Đông,Tây, cho đến bốn năm chục tuổi, thấu hiểu cao sâu, nhìn xa trông rộng có kinh nghiệm, bản-tính nhân-hoà . Có bằng cử-nhân hay Tiến-sỹ, Thạc-Sỹ cao-học chính-quy. Khi ra ứng cử làm lãnh đạo, mới là vị lãnh-đạo tài-ba, sáng-suốt, lý-tưởng và chân-chính. Mới là con cháu của Bác Hồ giống như Bác.
b.- Lãnh đạo địa phương.
Làm việc lãnh đạo cấp thủ trưởng từ cơ quan, ban ngành trở lên cấp Tỉnh và Thành-Phố, có quyền lực trong tay là rất khó. Phải có văn hoá, tài, đức. Tâm trong sáng, sống giản-dị bao-dung, luôn luôn nghĩ ra sáng kiến mới, có giá-trị mà phù hợp với thời thế, đệ trình lên thượng cấp cùng nhau thực-hành.
Quan tâm công việc hàng ngày, đời sống và gia-đình của thuộc hạ, để thưởng phạt phân minh, nên thường tìm hiểu tâm-tư nguyện-vọng của toàn dân, để cập nhật thực thi đúng đường lối Cách-Mạng, có tinh thần nâng đỡ, bớt gây phiền hà cho dân. Tiếp tục đổi mới, đưa cơ-quan làm việc theo công nghệ thông tin khoa-học văn-minh hiện đại, công việc hoàn thành nhanh chóng có chất lượng. Xã hội của địa phương mình và đất nước tiến lên giàu mạnh.
Người có đảng, ít học hành, lo lót tiền bạc mua bằng cấp dổm, thiếu tài đức, tâm không trong sáng, ra làm lãnh-đạo lại càng nguy hiểm hơn. Tôi nhìn thấy như cha con V.C.T ở xã B. Huyện T. Tỉnh Đ. Không nên bổ-nhiệm hoặc bầu cho các mgười dốt nát tham lam lên làm cán bộ. L. Đạo là hư bột hư đường.
c.- Khả năng người làm cấp lãnh đạo, nói chung từ Trung-ương đến hạ tầng cơ-sở địa phương.
Ví dụ: 1.- Như người lèo lái một con thuyền chở hàng hoá nặng, đang đi lên ngược giòng, phải có tâm trong sáng, trí-tụê siêu- việt, nghị-lực dũng-cảm và chuyên-môn giỏi, luôn luôn có tư-tưởng đạo-đức cách-mạng. Mới đưa con thuyền lên tầm cao mới một cách an toàn, đến nơi đến chốn. Nếu ai không đủ yếu tố trên, thì làm nhân viên, công nhân cũng tốt. Tham lam danh lợi mà làm lãnh-đạo, có khi thuyền không đi lên được, bị dừng tại chổ rồi trôi lui ra biển Đông chìm đắm thì nguy to, thật là hại dân hại nước, có thể gây hậu quả khôn lường. Cái gương của Lãnh-Đạo chế độ củ miền Nam vẫn còn trơ trơ ra đó.
2.- Làm lãnh-đạo tài ba cũng như người làm nghệ-thuật giỏi.
Trong phim tuyện vua Càn-Long của Trung-Quốc có ba nhân vật tiêu biểu. Vua Càn-Long, Tể-Tướng Lưu-Dung, trung thần. Quan Cận-Thần Hòa-Thân, nịnh thần là thật. Những người nghệ-sỹ nhập vai thì giả, mà diển xuất giống như thật, thế mới hay, mới tài.
Cổ nhân thường dạy:
- (Làm cái gì phải giống cái đó).
Làm người thì phải giống người. Làm Lãnh-Đạo phải giống cấp Lãnh-Đạo tài ba như Bác. Nhân vì diễn xuất “giống” do đó được sự hưởng ứng của người xem. Đây là không phải một sự cảm ứng đó sao? Có người nói “cuộc đời như sân khấu”. Quả thật là như thế. Chúng ta cũng tuỳ sự biến đổi trên vũ-đài không gian thời gian mà làm. “Cái gì phải giống cái đó” rất cần thiết chớ vì sự không tròn trách nhiệm của mình, mà làm hư hết bầu không khí của sân khấu để mình, người đều thất vọng ảo não thở than.
d.- Nên tự kiễm.
Các vị cán bộ lãnh đạo tài ba trung với đảng, hiếu với dân, chưa mắc phải khuyết điểm nên luôn luôn kiểm tra tâm mình thấy có ý nghĩ sai, nên mạnh mẽ chỉnh đốn giữ tâm từ-bi, trong sạch luôn học hỏi nâng cao kiến-thức, tài đức. Để phục-vụ cùng nhau đưa đất nứơc đến vinh-quang.
Chương VII.- Đoạn kết: Tôi viết tác phẩm này nói lên những lời tâm-đắc, tâm-nguyện và tâm-huyết của Nông Dân chất-phác ước mong có ba mục đich:
1.- Để dóng lên một hồi chuông thức tỉnh hoàn toàn người đang lãnh-đạo và người sắp được bầu hoặc bổ nhiệm làm lãnh đạo trong tương lai của các Bộ Ngành. Từ Trung-Ương cho đến địa phương. Nói chung phải luôn giữ tâm trong sáng, bão vệ Tổ-Quốc, phục-vụ nhân-dân hết lòng, sống giản-dị đạo-đức chân-chính noi gương Bác Hồ, đưa đất nước lên tầm cao mới. Xã hội chúng ta được sống công bằng giàu sang. Mới được toàn dân cãm ứng tấn phong Danh-Hiệu vị Lãnh-Đạo Chân-Chính, Anh-Minh, Tài-Ba, Đạo-Đức.
2.- Khuyến-khích con cháu Sinh-Viên tuổi trẻ đang học, hay đã thành đạt ra đời tự lập trên toàn quốc, noi gương các bậc danh nhân tiền bối đạo đức tài ba, cố gắng tiếp tục học hỏi thêm văn-hoá, khoa-học, đạo-đức, học bạn, học đời rút kinh nghiệm nâng cao sự hiểu biết để làm việc. Theo sự biến chuyển của thời gian, tre tàn măng mọc.
Có câu: “Quan nhất thời dân vạn đại”. Sớm muộn cũng đến lớp Thanh-Niên các anh các chị đứng ra phục vụ xã-hội, Tổ-Quốc sống có kiến thức văn hoá đạo-đức, hành mới ích Quốc lợi Dân.
-Những thành phần Thiếu-Niên còn đang tuổi ăn học nhờ vã bố mẹ. Chớ nên mê ăn, mê chơi đua đòi theo kẻ xấu thoái-hoá đạo đức. Làm lu mờ truyền-thống bản-sắc văn-hoá của Dân-Tộc V.N
Đất nước chúng ta tương-lai được phát triển lên giàu mạnh ngang hàng với cường quốc năm châu hay không? Cũng hy vọng vào sự thông minh học hành tuổi trẻ của các em, các cháu. Khi đã lớn khôn thành đạt, biết sống trong sạch, đẹp đời tốt đạo, mới làm cho dân giàu nước mạnh xã hội thật sự công-bằng dân-chủ văn-minh.
3.- Có thể xin tất cả quý vị độc giả cho phép tôi đóng góp văn học một tí bằng hạt bụi, để xây dựng đất nước và làm chuyển-hoá lòng tham sân si. Thành trong sạch, hiền lương và sáng suốt. Để xoa dịu nỗi khổ trầm-luân của con người. Cùng nhau sống hoà-thuận, đoàn kết đại doàn kết, chung sức đưa đất nước chúng ta đến giàu mạnh vinh quang, ngang tầm cỡ quốc tế. Sống xã-hội văn-minh, thịnh-vượng, hoà-bình trường cửu và toàn dân được sung-sướng hạnh-phúc lâu dài.
Làm đẹp cho đời là điều không phải khó khăn xa xôi. Nên chung tay vì cộng đồng, cần có tâm, có chí, chịu học hỏi, trau dồi tài, đức mọi người nam, nữ chúng ta đều có quyền bình đẳng, tinh-thần khả-năng, tự do đi bầu cử, ra ứng cử, nhân dân tín nhiệm thì được làm Nguyên-Thủ Lãnh-Đạo đất nước như thường.
(*)-Chiến đấu có hai cách, chiến đấu với địch, chiến đấu bản thân. “Tu tâm sửa tánh”.
HẾT
Tác giả Phan-Vinh.
Viết xong bản thảo ngày 29-06-2008.
MUC LUC
1Hồi ký
2Ông Ba cang
3Truyện con rồng
4Tình yêu hôn nhân
5Tình nghĩa bạn bè
6Bài điếu văn
7Mối tình chung thủy Cô Hòan
8 Hạnh phúc gia đình
9 Những lời tâm huyết
Của PHAN-VINH.
HỒI-KVNHâ
___
LỜI NÓI ĐẦU
Mùa mưa gió ruộng đồng ngập lụt. Ở nhà rảnh-rỗi thất nghiệp chẵng có việc gì làm, xem sách báo lâu cũng hết chẵng kiếm đâu ra tiền để mua thêm, mở truyền-hình coi ngày nọ qua ngày kia cũng chán, đi nahậu thì bạn-bè trang-lứa hợp gu đã chết gần hết, còn lại một vài người già-yếu bệnh-tật kiêng-cử từ-chối. Con cháu ăn ở vẫn còn đông, ban ngày mỗi đứa một việc đi tẩu-tán chẵng còn ai, nhà cửa trống-vắng.
Tuổi già thấy cô-đơn lạnh-lẽo có khi hơi buồn. Tôi nghĩ một cách, thời-gian rảnh-rổi vắng-vẽ này nên làm một việc gì đó có ý-nghĩa của đời mình để lưu lại cho con cháu đọc, hiểu và thương mình hơn sau khi mình không còn trên thế-gian này nữa. Tôi nghĩ ra ý định ngồi viết hồi-ký, từ trước cho đến bây giờ, tôi chưa hề viết được một bài văn bài thơ nào cả. Đây là do tôi động nảo nhớ ra những sự việc quá khứ và hiện tại của bản-thân, bạo tay viết ra trong khoảng thời-gian sáu mươi lăm năm cuộc đời do bản-thân hành-động và những điều tai nghe mắt thấy của thế-kỹ 20 qua thế-kỹ 21.
Những câu văn ghi lại chất-phát mộc-mạc của tâm hồn nông-dân, hoàn-toàn sự thật để con cháu đọc cho vui, tìm hiểu cuộc đời tôi thời còn trai trẻ sống trong hai cuộc chiến-tranh gian-nan, vất-vả, nguy-hiểm như thế nào ? Khi thất cơ lở vận khốn-đốn cùng-cực như thế nào ? Khi được tự-do làm ăn sinh sống phải nổ lực gắng sức làm sao để vươn lên với mọi người.
Đất nước trên đà phát-triển, con cháu có khi nó cũng giàu có lên, sẳn tiền ăn chơi trác-táng, đọc quyển hồi-ký này tôi tin rằng nó có thể ăn-năn giảm bớt một phần nào. Nếu đứa con có văn-hoá biết hiếu-thảo nó sẽ sống tốt hơn.
Cũng để làm quà tặng bạn-bè thân-mật xem cho đở buồn, nếu người ngoài có ai đó cầm được xem qua nhận xét tôi có viết gì sai trái không hài lòng quí vị, đó là sự trùng-lặp, ngoài khả năng trình-độ hiểu-biết của tác-giả, chỉ vô-tình không cố-ý.
Có câu nào sơ-xuất độc-giả không được hài lòng, tôi xin chân-thành nhận lỗi. Kính mong sự góp ý phê-bình của quí-vị, xin thành-thật cám ơn.
Bùi-Chu, ngày 20 tháng 9 năm 2003.
Tác giả : PHAN-VINH
Ngày 02 tháng 8 năm 2003 khai bút viết quyển Hồi-Ký này.
HỒI KÝ
PHAN-VĂN-VỊNH
CHƯƠNG I : TUỔI ẤU-THƠ & THỜI NIÊN-THIẾU
BÀI 1 : BỐI-CẢNH , THỜI-GIAN, SỰ VIỆC.
Sinh ra và lớn lên ai cũng có quê-hương, dù có đi khắp năm châu bốn bể họ cũng đều nhớ về quê-hương, có quê-hương mới khôn-lớn, nhớ quê-hương mới nên người, tôi tự giới-thiệu về quê-hương đôi nét.
Quê-hương tôi tính theo đường bộ từ Nam ra Bắc, quý-vị khách bộ-hành, du-lịch, hoặc cô bác, anh chị em, bạn-bè, con cháu, có dịp nào đó trên đường đi ngang qua địa-phận Tỉnh Thừa-Thiên. Địa đầu ranh-giới từ đèo Hải-Vân trở ra, nên để ý nhìn xem phong-cảnh hữu tình, núi cao biển xanh cảnh đẹp như một bức tranh sơn thuỷ.
Đi xe lửa qua khỏi đèo Đồng-Nhất đến ga Lăng-Cô, tàu chạy trên đường sắt men theo chân núi đến Hói-Mít bên trái dãy Trường-Sơn, bên phải đầm Lập-An, tàu chui qua khỏi cái hầm ngắn đó là quê tôi.
Nếu quí vị đi xe hơi xuống khỏi đèo Hải-Vân đến cầu Lăng-Cô cở 10 cây số là đỗ dốc hết đèo Phú-Gia, nhìn bên phải có nhà dân-cư dọc theo Quốc lộ 1 A là làng Phú-Gia, qua đoạn 850m bên phải có ngã ba Chân-Mây là con đường xuống hải cảng độ chừng 200m, áp sát đường hướng bắc đó là nhà ông Phan-Tường em ruột của tôi. Cha mẹ tôi ngày xưa còn trẻ đã sinh ra tôi tại đây vào ngày 16 tháng 10 năm 1939, nhằm năm Kỹ-Mão cầm tinh con mèo. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, có họ hàng, bà con, làng xóm quê-ương tôi.
Từ ngã ba Chân-Mây chạy theo quốc lộ 1 A đến Thừa-Lưu xã Lộc-Tiến là xã quê tôi. Xuôi theo đường đến Nước-Ngọt là xã Lộc-Thủy, qua đèo Phước-Tượng đến Cầu-Hai huyện Phú-Lộc, huyện quê tôi. Tiếp nữa Đá-Bạc, Truồi, Nong, Phú-Bài, Hương-Thủy, An-Cựu, thành phố Huế tỉnh Thừa-Thiên là quê hương tôi.
Khi tuổi ấu-thơ và niên-thiếu của tôi nằm trong thời-kỳ thực-dân phong-kiến, phát-xít Nhật đổ bộ cướp nước đè đầu cởi cổ. Kết thúc Đệ nhị thế chiến, Việt-minh lên nắm chính-quyền 1945. Qua 1946 tôi mới lên 8 tuổi, còn nhớ cha cỏng chạy giặc, ban đêm leo lên núi Khe Hang để trốn quân Pháp tái chiếm Việt-Nam. Lúc này tình-hình chính-trị rất rối-ren, toàn dân cả nước phải nỗ-lực đóng-góp tối đa từ tinh-thần lẫn vật-chất để cực-lực chiến-đấu chống quân Pháp. Quê-hương tôi hướng đông giáp biển, hướng tây sát núi Trường-Sơn, làng nằm giữa, có đường quốc lộ 1 A và đường xe lửa áp sát với làng bên trái hướng tây.
Thời chống Pháp trên địa-thế này là vùng xôi đậu, ban ngày của Pháp, ban đêm của V.M. Nhân-dân sinh-sống rất vất-vã, chật-vật, bị uy-hiếp đủ điều. Nhưng vẫn cứ bám đất bám làng để sống, góp phần chiến-đấu anh-dũng, chống quân Pháp suốt 10 năm gian-khổ, đến 1954 mới được đình-chiến, chứ chưa phải hòa-bình độc-lập. Trong khoảng thời-gian nói trên, gia-đình tôi rất khó-khăn, năm sáu tuổi đầu đã biết ra đồng mò cua bắt ốc hái rau, để gia-tăng bữa cơm đạm-bạc hằng ngày, lợi-dụng đi làm công việc nầy để nghịch bùn bơi sông tắm suối cho thỏa-thích. Kỹ-niệm một ngày anh em đi tát cá mò cua còn nhớ mải suốt đời, tôi với anh Doãn con ông bác rũ nhau vào phía trong đường rầy xe lửa ngang cầu 8 thước, be bờ quanh một góc ruộng. Hai anh em hì-hục tát hơn giờ đồng hồ mới cạn nước thì người đã mệt nhoài, đứng hết muốn nổi nên phải ngồi bẹp xuống sình để mò cua bắt cá. Anh Doãn mò mãi-mê thế nào mà một con đỉa trâu to bằng đầu chiếc đủa chui tuột vào hậu-môn của anh, cảm giác nhột-nhạt sờ tay nghe trơn lạnh. Anh kêu tôi : "Ĩa em ơi ! mi xem giúp tau hình như có con đỉa đang chui vào đít". Tôi vội-vàng chạy lại bảo anh chổng mông lên để xem thì thấy nó đã chui vào hết hai phần con, chỉ còn thò bên ngoài cở một phần, nhìn kỷ đúng là một chú đỉa trâu, nhanh-nhẹn thò tay dí hai móng bấm thật chặt cố gắng lắm mới kéo nó ra được. Hai thằng nhìn nhau sợ quá không dám mò nữa đi qua vũng cầu tắm rửa ra về.
Nhớ lại những lời kể chuyện của bà nội, đỉa mà chui vào lổ tai là nó ăn hết óc rồi đẻ đỉa con đầy đầu, chui vào bẹn, vào hậu-môn hút hết máu làm chết người, sợ quá từ nay về sau không dám ngồi bẹp xuống sình mò cua bắt cá nữa.
Năm 1945 anh em tôi được 7 tuổi đời, bác cho anh Doãn đi học trường Dì Phước dạy cạnh nhà thờ Đạo Công-giáo của ông Cố Vị, Cố Phương ngoài Tam-Vị. Từ nhà ra đến trường học độ chừng hai cây số có đi qua một cái cầu leo nguy-hiễm, đi không cẩn-thận là lọt tỏm xuống sông, bác gởi anh Doãn cho chị Xuyến và anh Khuê dắt qua cầu lúc đi cũng như khi về.
Còn tôi đã đến tuổi đi học mà chẵng được đi, vì không người giữ nhà trông em để cha mẹ đi làm công việc đồng-áng, một phần đường sá qua cầu nguy-hiễm, nên cha mẹ tôi chưa cho đi học.
Cách-Mạng mùa thu năm 1945 dành được thắng-lợi, nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa ra đời, mới có phong-trào bài trừ giặc dốt, Bác Hồ kêu-gọi toàn dân phải đi học từ già đến trẻ bắt buộc phải đọc thông viết thạo chữ quốc-ngữ. Ba tôi ngày đi làm lụng tối lại phải tập trung đến trụ-sở tham dự khoá học Bình-dân học-vụ, do Thầy khóa Nhượng dạy. Hồi đầu cha tôi mới học hai mươi bốn chữ cái, ông học được chữ nào về truyền dạy lại cho tôi. Thế là tôi được cha tôi làm thầy khai-trí học vở-lòng đầu-tiên. Tôi học tới học lui hai mươi bốn chữ cái mà u-mê đọc trước quên sau. Cha tôi có một cây roi mây nhỏ xíu bằng chiếc đủa, dài cở một mét rưỡi, đầu roi có chùm rễ xoè ra để ông cầm mà đánh. Một bữa nọ ham đi chơi rong quên hết, chiều ông đi làm về, khảo bài không thuộc, nổi nóng rút roi phết vào lưng lằn ngang lằn dọc đau điếng người. Mẹ thấy tôi bị ăn đòn xót ruột lắm, nhưng chẵng dám cự-nự ông một lời để an-ủi. Bà nghĩ rằng ông cũng thương con nên phải răn-đe đánh-đập cho nó nên người.
Tháng 2 âm-lịch mùa Xuân năm 1946, trong xóm có hai ông bà gia-đình khá giả mời gia-sư dạy học trong nhà cho con cháu của họ, dạy cả chữ quốc-ngữ lẫn chữ Hán. Được cha dẫn đến lớp học, trước xin hai ông bà chủ chấp-thuận, sau gởi tôi cho thầy dạy-dỗ. Đầu tiên thầy đặt tên cho tôi là Phan-Vinh, thầy dạy lễ phép chào kính người trên kẻ dưới, đã là học trò không được nghịch phá, tham-lam, trộm-cắp của bạn-bè, phải đoàn-kết thương yêu chỉ vẽ lẫn nhau, biết thi-đua học tập cho tốt.
Thế là năm nay tôi mới được ngồi lớp học tại trường có thầy giáo dạy, nói là trường chứ một gian chái gạnh ra bên hông nhà trên của hai ông bà chủ, kê mấy bộ bàn ghế thô-sơ, cả lớn bé đều ngồi chung một lớp. Học với Thầy Khóa Nhượng được tám tháng tập viết chữ ghép vần tiếng Việt, xem sách chữ in chưa thông-suốt, thì thầy xin nghỉ dạy về quê-hương gia-đình của thầy ở làng Thổ-Sơn.
Khi thầy còn dạy học tại làng Phú-Gia, tuổi thầy đã cao nên già yếu, ngày thì dạy lớp học trẻ từ sáng đến tối mới được nghỉ. Một lớp học trên dưới khoảng hai mươi trò lớn nhỏ, trình-độ cao thấp khác nhau, thầy soạn bài viết bài cũng vất-vả, tối lại bắt buộc thầy phải đi dạy học bình-dân học-vụ, sức thầy chịu đựng không nổi, nên thầy xin ông bà chủ cho nghỉ về nhà. Không còn thầy dạy sự học của tôi bị gián-đoạn từ đây, ở nhà đi chơi long-nhong. Dạo nầy em gái tôi đã biết bồng em giữ nhà nấu cơm, tôi giao việc cho em tôi làm, chạy rong nghịch phá. Cha tôi thấy vậy, đến gia-đình cùng xóm có một bầy trâu rất đông, năn-nỉ hai ông bà chủ xin chăn rẽ một nái để gầy giống và cày ruộng, đẻ nghé con thì chia ba, chủ hai còn người chăn giữ một. Được ông bà chủ chấp-thuận, làm giấy hợp-đồng dắt trâu nái mẹ về nhà, bắt đầu tôi được làm mục-đồng chăn trâu không còn rảnh-rỗi đi chơi rong lêu-lổng nữa. Làm mục-đồng chăn trâu có nhiều bạn-bè cũng thích-thú. Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, được ngồi lưng trâu, được sờ đuôi trâu. Hằng ngày được ngồi trên lưng trâu di-chuyển một vài cây số là thường. Khi đến bãi chăn thả, bày ra các trò chơi như : đánh đu, đánh đáo, đánh bi, đá cầu, đá bóng, múa gươm múa gậy, chạy ô-ba, xúi nhau vật lộn, nghịch-ngợm đủ thứ v.v... Tôi đi chăn liên tiếp ba năm, trâu mẹ đẻ cho được hai chú nghé đực, một con ba tuổi, một con hai tuổi mập-mạp dễ thương, tôi yêu-mến chúng lắm.
Tháng 9/1950 lính Pháp mở cuộc hành-quân ra xóm Tre, xóm Đình làng Phú-Gia. Không hiểu mấy ông du-kích địa-phương dàn trận đánh thế nào bị thất-thế để chúng vây bắt được một ông, trói tay dắt về đồn Thừa-Lưu theo đường quốc lộ 1 A. Lính Pháp nhìn thấy năm bầy trâu chăn gần đường lộ ngã ba Chân-Mây bây giờ. Một ông quan hai người Pháp chỉ tay vào đàn trâu đang gặm cỏ la om-sòm, ra lệnh cho mấy tên Việt-gian đi theo Pháp lội xuống ruộng dí súng bắt anh em tôi đánh hết trâu về đồn, nó lấy cái cớ trong làng có V.M.
Lùa hết năm bầy trâu lên đồn Thừa-Lưu nhốt hết vào trong hàng rào đồn-luỷ của chúng, đóng chặt cổng trại rồi đuổi anh em tôi đi về. Tôi tiếc nuối buồn rầu, lủi-thủi ra về vừa đi vừa khóc, vì thương hại cho hai con nghé bé-dại yêu-quí của tôi. Hai anh em tôi với Sinh về đến cống Gạo tai nghe phía sau có tiếng xe chạy. Ngoảnh lại nhìn thấy một chiếc xe Dodge chở đầy lính súng-đạn mã-tấu, mấy anh lính người Việt kêu to : Ê, hai thằng tê. Tôi tưởng nó cho quá giang về làng, hai anh em co giò chạy theo cở năm mươi mét xe nó từ từ dừng lại tại cống Gạo ngang xóm Rú là xóm Núi, dắt xuống xe hai người bịt hết con mắt đưa xuống bờ ruộng gần suối để đứng tại đây. Mấy thằng lính người Việt nói hai thằng mầy đứng đó coi tụi tau cho hai thằng V.M. về chầu Diêm-vương. Tụi lính đánh thuê cho Pháp toàn người Việt, cả một tiểu-đội nó nằm sấp xuống đường lộ, ôm súng Mas 36 lên đạn nghe rốp-rốp. Thằng quan Tây ra lệnh bắn, chúng bóp cò súng nổ liên-thanh, đạn bay trúng vào người của hai ông nhảy cẫng lên trời rồi nhào đầu xuống đất dẫy chết. Tụi nó buông súng, xách mã-tấu chạy xuống bờ ruộng chặt đầu. Tôi nghe tiếng mã-tấu chạm xương cổ kêu cốp-cốp. Khi đầu lìa khỏi xác chúng xách lên đường, leo lên chạng ba của cây mù-u lớn trồng bên đường lộ để đầu lên đó, nhét vào miệng mỗi ông một điếu thuốc lá trắng lốp, rồi tụt xuống leo lên xe tài-xế lái chạy về đồn. Bạn Sinh nhìn thấy có run hay không lúc ấy tôi chẵng để ý. Riêng tôi thì mặt mày tái mét run cầm-cập hồn-vía bay hết lên ngọn cây. Thật căm-thù cho cái quân độc-ác, người Việt giết người Việt, tôi ngao-ngán cho đời có chiến-tranh xâm-lược. Anh em lủi-thủi đi về mà thương tiếc tội nghiệp cho hai ông ấy. Đêm hôm đó hể tôi nhắm mắt ngủ là mơ-màng ác mộng trước mắt nhan-nhản cảnh tượng hiện ra khi mình được chứng-kiến sự giết người tàn-bạo của bọn thực-dân Pháp.
Ngày hôm sau có một số cụ già lụ-khụ 65 tuổi trở lên 70, 80 tuổi, mặc quần dài trắng áo dài đen, chân mang guốc, đầu chít khăn đóng, che dù đen đội nón trắng, rủ nhau cuốc bộ lên Đồn Thưà-Lưu xin lại năm bầy trâu. Nghe mấy cụ đi về kể lại tụi Pháp không thèm tiếp, nên chẵng thương-lượng gì được.
Cách năm sáu ngày sau, vì trâu bị nhốt lâu ngày quá đói khát, phần nó sợ giết thịt, nên ban đêm xé rào tẩu-thoát về làng. Mỗi bầy bị giết hai hoặc ba con trâu tơ mập, để tiếp-tế cho lính Pháp ăn khắp cả địa bàn đồn trú trong huyện Phú-Lộc. Bầy trâu của tôi gồm ba con hai chú nghé dễ thương của tôi đã bị chúng giết thịt, chỉ còn lại con trâu mẹ già ốm về được. Tháng giêng năm sau bị một trận dịch nó cũng chết luôn, thế là toi cơm mấy năm chăn-dắt dãi-dầu mưa nắng.
Tháng 2 năm 1951, khủng-hoảng kinh-tế gia-đình vì quân Pháp chẵng cho cày ruộng cấy lúa trong đường quốc lộ 1 qua đường xe lửa giáp chân núi, vì chúng sợ phá đường giao-thông xe tàu. Hết gạo ăn thất nghiệp dói khát khuẩn-bất, cha tôi cũng trốn làng vào Lăng-Cô theo bác tìm việc làm kiếm sống, tiết-kiệm tiền gởi về cho mẹ nuôi anh em tôi. Vào được Lăng-Cô cha tôi nhờ bác kiếm việc, xin với ông Cửu-Sang làm bốc-xếp các đốt gỗ to tướng do trâu bò kéo trên rừng về để tại ga tàu lửa Lăng-Cô. Ba đến bốn chục người mới lập thế kéo lên toa tàu được một đốt súc Chò-chai to tướng nặng trịch, để ông chủ đưa vào Đà-nẵng hoặc ra Huế bán cho các trại mộc đóng đồ gỗ, mới có tiền mang về phát lương cho cu-li.
Còn mẹ tôi ở nhà đi khắp làng tìm hỏi mua tre chặt vác về, cây dài cưa làm bốn, cây ngắn cưa ba, tuỳ theo thước tấc mà cưa cho phù hợp, bó lại đưa lên vai vác đi, đến ga Thừa-Lưu bỏ lên toa tàu, mua vé và cước-phí, rồi chở vào ga Lăng-Cô bán lại cho mấy ông thuyền chài để họ đan dụng cụ đi làm nghề, kiếm tiền lời về đong gạo nuôi con, cứ sáng đi sớm chiều về nhà với con cái. Có bữa mua không có tre thì chặt một cây chuối nặng trịch một chuyến vác. Năm nay có chị Hai con của bác Cả chồng chết sớm không có nhà ở, một tay phải nuôi hai đứa con trai còn bé dại, ở chung trong nhà. Sáng sớm thím cháu vác chuối đi với nhau. Chị Hai khỏe hơn vác cây to, mẹ yếu hơn vác cây bé vừa, phải đi năm cây số mới đến nhà ga xe lửa bán cho thương-lái mua chở vào Lăng-Cô bán lại cho các người nuôi heo. Thời ấy nuôi heo mọi cho ăn toàn rau lang và chuối cây, làm gì có thực phẩm hổn-hợp như bây giờ.
Mẹ và chị bán được tre và chuối thì đong gạo về ăn được trong ngày, mai lại đi làm tiếp, cứ thế mà cứu gia-đình qua khỏi cơn đói khát ngặt-nghèo. Thời-gian cha vào Lăng-Cô làm việc ở nhà nhớ cha quá, xin mẹ cho đi theo vào ga Lăng-Cô thăm cha. Xuống tàu đi đến chỗ cha đang bốc cây, thấy cha lao-động nặng-nhọc vất-vã thương cha quá.
Một hai lần đầu vào thăm cha xong lên tàu về lại với mẹ. Lần sau nữa xin cha ở lại, ở với bác, chiều tối cha đi làm về ăn ngủ với cha. Mấy ngày sau cha đi làm, tôi ở nhà theo anh Doãn sang ga Lăng-Cô bán nước cho lính Pháp đi lại trên xe lửa. Anh Doãn thì khôn-ngoan lanh-lẹ hơn, anh chỉ-vẽ cho mà làm đi săn-nhặt vỏ chai thuỷ-tinh súc rửa cho sạch, hái lá bàng non vò nát nấu đậm đem pha trộn với nước lã cho có màu nâu lợt giống nước chè, đổ vào chai đóng nút kỹ, năm bảy chai bỏ hết vào giỏ cói mang đi rao bán. Chẵng thấy thằng Tây nào chịu mua bằng tiền, nó chỉ trao-đổi mà thôi, nó đổi cho phong bánh Bítqui, bánh kẹo, ổ mì, hộp cá hoặc hộp thịt nhỏ, nhiều ít cũng đổi. Có một vài thằng Tây xấu bụng kêu đưa nước cho nó, nó đỗ đầy binh đông, rồi nó đuổi mình đi chổ khác chẵng cho cái gì, hận quá chửi đ. m. mi, nó chẵng hiểu mình nói gì. Hôm nào lính Pháp đi hành quân đông trên tàu đổi được nhiều thứ. Cái nào còn nguyên vẹn bao bì tốt, đem bán lại cho mấy mụ bán quán lấy tiền, thứ không có bao bì thì để dùng hoặc mang về nhà cho các em.
Tháng 5 năm 1951 đến mùa lúa chín ở quê, mẹ bắt tôi vào Lăng-Cô kêu cha trở về làng thu-hoạch vụ mùa đông-xuân, cha con cùng về với nhau, dạo nầy không vào ở Lăng-Cô nữa. Thỉnh-thoảng cha con vào thăm hai bác và các anh chị một bữa, rồi trở lại sinh sống với xóm làng.
Mùa xuân năm 1952 thầy Khóa Sinh mở lớp dạy học hai thứ chữ Hán Việt, ai muốn học chữ gì tuỳ ý thầy vẫn dạy. Con nhà khá giả xin học cả hai thứ , tiền thầy mua sắm giấy bút phải gấp đôi. Nhà nghèo nên cha chỉ nhờ dạy một thứ chữ Việt mà thôi. Mẹ mua sắm cho đầy đủ giấy bút, may cho một bộ áo quần mới, một cái mủ đan lát thủ công bằng sợi cói, để đội đầu đi học che mưa nắng. Cha dắt đi đoạn đường năm cây số mới đến nhà ông Bân tại xóm Bàu làng Trung-Kiền nơi thầy dạy học gởi cho thầy. Tại xóm Chùa tức là xóm của tôi ở, chỉ có tôi với bạn Khảm được cha mẹ cho đi học mà thôi, các bạn trang lứa vì nhà quá nghèo không có cơm rau để ăn còn nói gì đến việc học hành, chỉ cho đi ở chăn trâu bò cho các nhà giàu kiếm cơm ăn để sống mà thôi.
Dạo nầy tôi với bạn Khảm sáng sớm cơm nước xong, cắp sách đội nón, mang theo một bữa cơm trưa, cuốc bộ bằng hai bàn chân trần năm cây số mới đến trường. Lớp học đến trưa nghỉ ăn cơm, học lại buổi chiều, vì đường xa thầy cho hai anh em được ưu-tiên nghỉ sớm, lại cuốc bộ năm cây số mới về thấu nhà. Cứ ngày qua ngày hai đứa cuốc bộ mỗi ngày mười cây số, mỗi tháng chỉ được nghỉ hai ngày rằm và mồng một âm lịch. Theo học một năm với thầy Sinh biết đọc biết viết, biết làm những bài toán cộng trừ.
Mùa xuân năm 1953 thầy khóa Thúy ở làng Bình-An lên mở lớp dạy học ở làng Thổ Sơn ranh giới sát làng Phú-Gia gần đường đi hơn, nên tôi từ-giả thầy Sinh về học với thầy khóa Thúy. Bạn Khảm cũng theo tôi học thầy mới bỏ thầy cũ, hai anh em tôi học cùng lớp chữ quốc ngữ. Thầy khóa Thúy dạy tốt hơn thầy khóa Sinh, ông nầy dạy giỏi học trò dễ hiểu mau tiến-bộ. Học với ông được năm tháng, đến tháng 6/1953, chợ Thừa-Lưu ban đêm tự nhiên bị hỏa-hoạn thiêu rụi, phải kiến-thiết lại chợ mới. Xã nhờ thầy viết văn tế lễ Khánh-thành chợ, viết bằng chữ Hán. Không biết thầy viết những gì trong tờ văn tế mà bị vi phạm chính-trị, thầy bị bắt đi tù. Thế là anh em tôi phải nghỉ học, vừa tiếc nuối mình bị nghỉ học dỡ-dang, vừa thương thầy không biết thân phận thầy tù-tội nơi đâu mà thăm-viếng.
Văn-chương phú-lục chưa hay,
Không thầy dạy chữ, phải học cày cho xong.
Tôi lại tiếp tục đi chăn trâu cày ruộng. Mùa xuân năm 1954 chiến tranh gần ngày kết-thúc rất ác-liệt. Lính Pháp đốt hết nhà cửa, cưởng bức cả làng phải di-cư lên làng Trung-Kiền khu-vực trảng trống, cho ở tập trung tại đây, chia lô cất lều trú-ngụ. Được cha cho học lại với thầy Sinh ít tháng, thì Pháp bị Việt-Minh đánh bại tại Điện-Biên-Phủ ngày 07.5.1954. Đôi bên được lệnh đình-chiến do hội nghị Giơ-ne-vơ (Thuỵ-Sỉ). Cả làng được cho về lại chốn cũ làng xưa, tôi cũng tạ-từ thầy về làng nghỉ học.
Năm nay tôi vừa được mười sáu tuổi đời, cùng cha dở lều chuyển về làng sinh sống. Tuy hoà-bình nhưng đất nước vẫn còn chia đôi lãnh-thổ. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, miền Nam từ vĩ tuyến 17 cầu Hiền-Lương trở vào. Mỹ đưa cụ Ngô về làm Thủ Tướng miền Nam, cũng mở ra chiến dịch và các chính-sách để ổn-định lòng dân, viện-trợ cho dân nghèo đói, xóa nạn mù chữ v.v...
Thời gian nầy anh Sanh còn trẻ tuổi đẹp trai, con nhà giàu học giỏi. Anh tự nguyện làm việc nghĩa, đứng ra mở lớp dạy học bình-dân ban đêm cho con em mù chữ trong xóm chùa, học tại nhà ông Đê, mệ Đỉu. Ban ngày đi làm ăn, tối tập trung lại anh dạy cho học đến 23giờ mới giải-tán ra về. Trong lớp học được bốn anh em có trình-độ hơi khá ngang nhau, anh tách riêng ra Phan-Vịnh, Trịnh-Quyền, Lê- Diên, Hứa-Khảm dạy riêng chương trình học cao hơn và khuyến- khích thi-đua để học tốt. Trong-thời gian thọ giáo với anh trình-độ văn-hoá của tôi và các bạn cũng được nâng cao lên một ít, dù ít hay nhiều tôi cũng nhớ ơn anh ấy. Cho dù một chữ cũng thầy nửa chữ cũng thầy, nhờ vậy mà khi vào đời đi xa gia-đình cũng có mang theo chút ít văn-hóa tối thiểu để làm hành trang xử lý cho đời mình.
BÀI 2. MÁI NHÀ XƯA LÀNG XÓM CŨ
Từ năm 1955 đến năm 1959 tôi vẫn sinh sống với gia-đình làng xóm tại quê-hương. Khi đã được hồi hương về xóm cũ làng xưa, cha tôi dựng tạm lên một túp lều tranh cỏ che mưa nắng tạm thời để lo bắt tay vào làm kinh-tế ruộng vườn. Sau thời-gian một năm, kinh-tế gia-đình tạm ổn.
Vì cuộc chiến-tranh gần kết thúc nên rất căng thẳng ác-liệt. Pháp cưởng bức làng phãi dở nhà di cư ở tập trung cho chúng dễ kiểm sóat. Làng tranh-đấu không chịu dỡ nhà, chúng nổi nóng ra lệnh cho bọn tay sai phóng hỏa dốt sạch. Nhà tấm lợp tranh cỏ dễ cháy, mái nhà xưa chỉ còn một đống tro tàn. Toàn cả làng cùng chung số phận như nhau. Chỉ còn lại một cái nhà mái ngói có tường gạch của ông bà Sắc-Đ... Ông bà biết thương-lượng xin với Pháp nói là cái nhà thờ của gia-tộc, nên nó tha không đập phá, sau ngày đình-chiến gia-đình ông bà hồi hương về ở tốt lành nguyên vẹn, chỉ có một vài vết đạn nhỏ không đáng kể.
Toàn cả làng ai cũng dựng túp lều ở tạm, làng yêu cầu xã cho phép lên rừng khai-thác gỗ về cất lại nhà ở được chấp-thuận. Trong khi đi khai-thác phải làm đơn Thôn-trưởng chứng thực mang lên Xã phê chuẩn thuận cho, mới được mang theo lương-thực ở lại ăn làm. Nếu ai không xin tự tiện mang lương-thực đi bị Công-an chế-độ cũ xét gặp quy cho tội tiếp tế V.C, bị tù mục xương.
Mỗi đợt đi làm phải xin phép gia chủ gánh theo lương-thực, thợ rừng mang theo rìu, rựa, cưa, đục. Lộ-trình phải chui qua hầm tàu lửa Phú-Gia, thẳng đường rầy vào đến khe Bạch-Xà leo dốc núi đi mải cho đến trại Hang. Đây có một cái hang đá to ở được, mới dừng chân hạ trại ở lại cả tuần lễ đốn hạ cây to cưa xẻ ra thành kèo cột phách gỗ, đục lỗ bịn xỏ dây cột chặt kéo xuống núi vác ra đầm kéo về gần cửa hầm tàu mới vác vai đi về nhà. Đoạn đường đi trên núi dốc và dưới đường đằm ước chừng hơn mười cây số.
Cha tôi thuê mướn thợ rừng đi khai-thác bảy tám lần mới đủ nếp nhà, vì làm nhà rường theo kiểu Huế cổ-điển nên kèo cột nhiều lắm. Cây gỗ đã đủ mướn thợ mộc ông Bộ-Hòa làng Thổ-Sơn làm thợ cả, ông Tỏ học trò phụ, hai ông cặm cụi cưa bào đục đẻo hai tháng trời mới dựng nhà lên được. Cha mẹ cũng chuẩn bị tấm lợp bằng cỏ tranh đánh hom sáu chải-chuốt sạch-sẽ, dây buộc lạt lợp cả năm sáu tháng trước mới đầy đủ. Sườn nhà cây gỗ được thợ mộc bào trơn đóng bén, mái lợp sạch-sẽ gọn-gàng, trông lên cũng mát mắt, vây chung quanh sườn tre tráp tranh lát kín đáo, được tạm ổn cả nhà ở khỏi sợ các cơn mưa bão khắc-nghiệt tại miền Trung.
Lúc này anh Sanh được làng bầu làm Thôn trưởng nên nghỉ dạy học, anh em tôi cũng nghỉ học. Thời-gian nầy ngày tôi đi làm việc nhà, tối phải xuống xóm tre nhà mệ Tình để dạy cho các em nhỏ học bình-dân, những em nhà nghèo không có điều kiện đến trường.
Anh Sanh làm Thôn trưởng chỉnh-đốn tổ-chức lại, phân chia làng ra bốn liên-gia, mỗi liên gia phải bầu một liên-gia trưởng, tổ-chức các đoàn-thể thì có các lão-ông, lão-bà, nông-dân, phụ-nữ, mỗi đoàn-thể phải bầu Ban Chấp-Hành để lãnh-đạo.
Đầu tiên tôi được bầu Chấp-hành Thiếu-niên. Năm 20 tuổi sung vào đoàn-thể thanh-niên, tôi cũng được bầu làm Ban chấp-hành Thanh-niên. Làm chức-vụ nầy thỉnh-thoảng nhận được giấy mời đi họp đại hội tại Xã, phải cuốc bộ năm cây số mới đến địa-điểm họp, thường tôi chọn một chỗ ngồi sau cùng để an toạ. Cán-bộ xã khai-mạc cuộc họp tôi chỉ lắng tai nghe thuyết-trình thao-thao bất tuyệt, nghe hơi êm tai gió bên ngoài thoang-thoảng thổi vào phòng họp hiu-hiu mát-mẻ, tôi đánh một giấc ngũ. Ngũ gật mê-man ngon-lành, không đề-nghị không ý-kiến cho đến khi bế-mạc ra về.
Khi có Lễ Song-Thất hoặc Quốc-khánh 7/7, 26/10... nhiệm-vụ phải xắp chữ dán băng rôn những câu tung-hô và đả-đảo, tôi không tiện viết ra đây đọc kỳ lắm.
Mỗi khi đi dự lễ tôi phải thân-hành vác băng cờ khi đi cũng như khi về, chỉ làm tay sai cho các cấp lãnh-đạo thôn và đoàn-thể. Ăn cơm nhà vác ống loa hàng tổng, chẵng có được một tiếng khen ngợi, quyền-hạn gì cả, thêm mất công bỏ việc của gia-đình. Đôi khi báo với cha ngày mai con bận đi họp, nhìn nét mặt của cha thấy ông không được vui, nhưng chẳng nói gì, tôi hiểu ông chẳng phải nể-nang gì tôi, mà ông chỉ sợ mang vạ vào thân vu cho cái tội phản-đối chế-độ.
CHƯƠNG II. BỔN-PHẬN CÔNG-DÂN
BÀI 3. BỔN PHẬN, GIA-ĐÌNH, XÃ-HỘI
Lúc nầy tuổi đã trưởng-thành phải làm nghĩa-vụ đầu tiên cho làng, vì làng tôi có hương-ước ấn-định : Mỗi người nam trong làng khi tuổi đã trưởng-thành, không sớm thì muộn phải qua một khóa (một nhiệm kỳ) một năm đầu-xâu cho làng (tiếng Bắc là anh mõ) làm tay sai cho làng, để các vị bô-lão và ông Thôn-trưởng sai-khiến khi có việc cần. Mời làng họp, đi quyên tiền tế-tự xuân-kỵ, thu-thường, tống-đạt giấy báo thuế nông-nghiệp, khi làng cúng-tế bưng cỗ đến nhà cho các vị bô-lão bị ốm-đau không đi dự tiệc được, bị sai làm đủ việc v.v...
Làm chức-vụ nầy là một tay sai mà thấy nhàn hơn chức-vụ trên. Được bàn-giao Ban chấp-hành Thanh-niên cho người khác, được miễn đi canh-gác ban đêm giữ an-ninh trật-tự trong làng. Thu xong vụ thuế nông-nghiệp lại được tiền thù-lao, ông Thôn-trưởng trích quỹ thôn cho 10$, tỷ giá tiền bây giờ cỡ 100.000$. Nhưng ông chẳng đưa trực-tiếp cho tôi, mà lại gởi cho cha mang về sung vào quỹ gia-đình để mẹ chi-tiêu việc chợ-búa.
Trong làng có người qua đời tôi cũng đi gánh đám đưa các vị đến nơi an-nghỉ cuối cùng. Chiến-tranh chống Pháp đến lúc ác-liệt, đình chùa bị bom đạn tan-tành, nên phải đóng góp tiền bạc công sức xây-dựng lại. Thành-lập Đoàn Gia-đình Phật-Tử để hương-khói tụng-niệm ngày rằm, mồng một Âm-lịch hằng tháng tôi cũng có tham-gia.
Năm 18 tuổi cha đi nói vợ. Phải làm rể 3 năm mới được cưới, công việc làm rể phải đi cày ruộng, vun luống khoai lang cao ngang thắt lưng cho gia-đình bên vợ, làm một ngày là oải ba sườn. Mang tiếng thanh-niên nhưng sức còn yếu, lao-động không kịp ông già vợ. Nhờ ông có lòng thương con rể nên chẵng trách-móc gì.
Tôi lấy vợ là do cha mẹ quyết-định, vợ chồng tôi chẵng quen biết trước và tìm hiểu gì cả, nhìn nhau như mặt trăng, mặt trời, do cái tội mắc cở, chứ chẳng phải chê-bai gì nhau. Làm rể đã lâu ngày, cha vợ thấy hai đứa chẵng tâm-sự gì với nhau. Tôi nhớ có một hôm ông gọi cả hai chúng tôi đi theo ông ban đêm để thăm chẹp (đó), ông dàn cảnh cho ngồi trên đường quốc-lộ, ông lội xuống ruộng đi mất, cở một tiếng đồng hồ mới quay trở lại, hai đứa tôi cứ ngồi im-lặng chẵng đứa nào nói năng một điều gì. Bây giờ nhớ lại mới buồn cười. Đến năm 1960 nhà cửa làm xong xuôi ổn-định, cha mẹ lo cưới vợ cho tôi, đang hội ý với nhau, tôi rình nghe, hai ông bà bàn-bạc việc sắm-sanh lễ vật. Bà nói theo thông-lệ của phong-tục, phải làm một đôi hoa tai chạm lọng một chỉ vàng y (vàng 24 ca ra) là một số tiền hơi lớn nhưng phải có. Ông nói thời nầy làm bông chạm lọng là xưa chỉ có mấy bà già còn đeo mà thôi, hiện nay tôi thấy con gái toàn đeo hoa tai bèo, mình đi đặt cho thợ họ làm đôi hoa tai bèo hợp thời-trang cho con dâu nó thích. Bà nói : Hơi đâu mà ông đi chiều con dâu, theo tôi nghĩ, bông tai bèo là để đeo đi chơi các lễ thường, còn đây là mình sính lễ cưới xin, nhà mình con cái hiếm-hoi mà nó là con trưởng nam, làm bông tai bèo đi cưới vợ răng được. Bà nói tiếp, ông không nghe người ta nói : Lênh-đênh bèo nổi trên sông, bềnh-bồng trôi dạt biết về nơi mô. Ông chịu thua lý của bà, nhất trí đặt làm đôi hoa tai chạm lọng. Lại bàn qua cặp áo cưới, phong-tục ở Huế áo cưới cô dâu phải mặc hai chiếc áo dài. Bà nói : Mình mới làm nhà cửa vừa xong tiền bạc cũng thút-mút, may cả cặp áo dài mua vải tốt lấy đâu ra tiền, còn phải sắm sửa cổ bàn nữa, ít nhất cũng phải mời bà con họ-hàng, làng-xóm, tính sơ cũng bốn mâm, đãi họ đàn gái đưa dâu hai mâm, con cháu trong nhà nữa, vị chi phải bảy tám mâm chớ phải ít sao, mà đi vay mượn thì cũng phải trả. Cưới rồi bắt con dâu đi làm trả nợ là tội nghiệp cho chúng nó, mà mình cũng mang lấy tiếng tăm. Tôi nghĩ ông bà sui và con dâu họ cũng hiểu cho hoàn-cảnh gia-đình mình. Ông bà nhất trí may cặp áo cưới bằng vải nội-hóa loại xoàng, bàn xong việc bông hoa mua sắm áo quần. Cha đi nhờ thầy xem ngày lành tháng tốt để tổ-chức đám cưới, năm 1960 là cha mẹ cưới vợ cho tôi, rước nàng dâu mới về chung sống với gia-đình, vài tháng sau cô em gái cũng cất bước theo chồng. Vợ chồng tôi đi làm lụng với nhau cũng vất-vã, hết việc đồng-áng lên núi chặt củi đốt than. Trở lại mùa cấy gặt thì làm việc đồng-áng, chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tương-lai mù-mịt, lấy nhau cả một năm mà chưa dám sinh con.
Lúc này lại nhận được lệnh gọi đi quân-dịch, phải đi trình-diện khám tuyển, Bác-sĩ khám chưa đủ sức-khỏe, Hội-dồng tuyển-binh cho hoãn lại năm sau sẽ xét tuyển. Ở nhà được một năm, qua năm sau có lệnh gọi lại, tôi nghĩ lần nầy là phải đi thôi. Đi quân-dịch thời ấy nhà nước chỉ nuôi cơm, chẵng có lương-bổng gì. Tôi lo-lắng nhà thì nghèo mà đi các thứ lính không lương lấy gì ăn tiêu, phần tiết-kiệm được đồng nào gởi về phụ giúp gia-đình. Tôi tính-toán suy-nghĩ chắc phải tìm lính gì có lương bổng đi đăng-ký trước, dù gì mình cũng phải đi làm lính, không sớm thì muộn, chẵng ai cho ở nhà với vợ mãi được đâu. Tôi nhất quyết phải bỏ lại cha mẹ, vợ, em, làng-xóm để ra đi làm bổn phận nam-nhi hồ-thỉ.
đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với vợ (mẹ) biết ngày nào khôn.
(Ca dao)
CHƯƠNG III. NGHĨA-VỤ QUÂN-SỰ
BÀI 4. ĐĂNG-KÝ LÍNH BIỆT-ĐỘNG-QUÂN MIỀN NAM.
Đầu-óc tôi đang suy-nghĩ tìm-kiếm đăng-ký vào binh-chủng nào cho có lương, thì gặp dịp Xã đưa thông-tư về làng phổ-biến nhà nước đang tuyển-mộ lính Biệt-Động-Quân ai muốn đi đến Tiểu-Khu Thừa-Thiên để đăng-ký. Sau khi bế-mạc cuộc họp của thôn, về nhà xin cha mẹ đi đăng-ký lính nầy. Hồi đầu cha bảo đi lính nào phục-vụ gần địa-phương, thỉnh-thoảng về thăm gia-đình vợ con, tau nghe cái lính nầy ở mải trong Sài-gòn xa-xuôi quá chớ nên đi, tôi phải lựa lời lẽ năn-nỉ phải trái mãi, ông bà mới xiêu lòng cho tuỳ ý. Xong chuyện cha mẹ, cũng phải bàn qua với bà xã vài câu cho hợp lệ, tài gì mà bà xã giữ được chân, khi lòng tôi đã quyết.
Trong khi sắp đi xa mẹ tôi sắm một mâm cổ, để cha cúng bái Tổ-Tiên Ông-Bà, cha tôi khấn-nguyện được ơn trên phò-hộ tôi được bình-an mạnh-khỏe, ngày ra đi có ngày trở lại. Cha cũng dặn-dò tôi đủ điều không thể nhớ hết nổi, chỉ nhớ vài câu đại khái, nên làm việc thiện lánh việc ác, khôn-ngoan xão-quyệt quá người ta cũng ghét, dại-dột thiệt-thà quá thiệt cho bản thân, con liệu mà ăn ở đối-nhân xử-thế cho phải đạo là tốt, điều cần nhất giữ-gìn sức-khỏe là quí hơn tiền tài vàng bạc, kể cả ngọc ngà châu báu cũng không sánh bằng sức-khỏe của con người. Câu cuối ông dặn thêm phải biết thương cha nhớ mẹ, thương vợ nhớ đến các em và quê-hương tình làng nghĩa xóm. Chớ nên vui-vẽ quá trớn mà quên hết lời dặn dò của cha và nhiệm-vụ của cấp trên giao phó, quên gia-đình là con lỗi đạo, quên nhiệm-vụ bị khiển-trách phạt tù tội không có cơ-hội tiến thân, tôi cũng hứa xin giữ lời cha mẹ dạy con không khi nào dám quên. Sau khi cúng-bái Tổ-tiên Ông bà xong, cha mẹ dọn đồ cúng xuống bàn, quanh-quẩn cả gia-đình dùng bữa cơm thân-mật, ngày mai xách gói lên đường. Đồng hành có ba anh em Vịnh, Sâm, Sơn đã cùng rủ nhau từ mấy hôm nay, khi ra đến Tiểu-khu Thừa-Thiên (Huế) ba anh em vào xin đăng-ký lính Biệt-Động-Quân. Ngày vào Phòng xét tuyển, Vịnh, Sâm đủ tiêu-chuẩn được thu-nhận, Sơn bị rớt vì quá thấp không đủ chiều cao, thất-vọng lủi-thủi ra về một mình buồn da-diết, hai anh em được trúng tuyển ở lại cũng ngậm-ngùi thương hại cho Sơn.
Trong năm nay có một số đông anh em trong làng đồng trang lứa, họ đã rủ nhau đăng-ký lính Bảo-An đi gần ngót, anh em tôi thấy ở nhà cũng buồn nên rủ nhau đi .
Tôi khám sức-khỏe đã trúng tuyển, hai hôm sau Ban-Tuyển binh thu nhận hồ-sơ khai-sinh vợ, hôn-thú, thẻ căn-cước, để thiết-lập hồ-sơ quân-bạ. Binh 2 Phan-Vịnh số quân 60/202.413 nhập ngũ ngày 07/9/1961 Binh-chủng Biệt-Động-Quân tại Tiểu-khu Thừa-Thiên. Nay tôi đã chính thức là người của quân-đội Chính-phủ miền Nam. Phải ở tập-trung tại Mang-Cá Huế để đợi tuyển-dụng cho đủ số-lượng, thời-gian chờ-đợi tại đây cả hai tháng trời nhà nước phải nuôi ăn, lần đầu tiên tôi được ăn cơm nhà binh tập-thể tại đồn Mang-Cá, ở đây nhà bếp cho ăn cũng tạm được. Mỗi ngày chỉ có hai lần tập họp điểm danh sáng và tối mà thôi, chẵng có làm công việc gì cả, tập họp kiểm-danh buổi sáng xong, rủ nhau kéo ra Phu-Văn-Lâu chơi bơi lội tắm giặt trên sông Hương, trưa về dùng cơm lại đi chơi tiếp. Có một số anh em nhà quê mới lên tỉnh lần đầu tiên còn ngáo-ộp, đi xa cha mẹ cho ít tiền mang theo hộ thân khi cần đến không biết giữ-gìn, bị bọn du-đảng bụi-đời làm cò-mồi dụ-khị đánh tráo bài ba lá, mấy anh có máu mê cờ-bạc moi tiền ra đặt xuống bị chúng tóm hết sạch vấy. Bên phe lính mới thì đông, tụi đánh lận bài tráo chỉ có ba bốn đứa nó ăn hết tiền đã đầy túi vội la lớn có Cảnh-Sát đến bỏ chạy mất tiêu. Phát-hiện gian-lận, biết nó nơi đâu mà tìm, đành chịu thua, bị chúng cho một bài học đau hơn hoạn. Khi chờ-đợi tại đây tôi cũng xin phép cán-bộ tuyển-binh về thăm lại nhà ba bốn lần. Tháng 12/1961 mới đưa đi thụ-huấn, trước khi đưa đi huấn-luyện cán-bộ cho biết ngày giờ lên tàu lửa, để anh em về đông-đủ tập họp mà đi, tôi cũng về thăm nhà lần cuối cho bà xã biết tôi đi chuyến tàu đêm tại ga Huế, sáng 07g30 tàu chạy ngang qua địa-phương, tôi trông xuống bờ ruộng bên lề đường tàu, nhìn thấy bà xã đứng một mình, ngữa mặt nhìn lên tàu, tôi đứng sẳn ngoài cửa đưa bàn tay bai-bai vài cái, tàu đã chạy đến cửa hầm Phú-Gia chui qua mất hút, tôi bùi-ngùi thương vợ muốn ứa nước mắt. Tàu chạy một ngày ròng rã đến 24g00 đêm vào tới ga Nha-Trang thì xuống tàu. Có cán-bộ hướng-dẩn đến đoàn xe quân-vận chờ sẳn ở bên ngoài sân ga, cán-bộ ra lệnh cho anh em leo hết lên xe chở ngược lui Ninh-Hòa rồi rẽ về Dục-Mỹ là đã đến địa-điểm huấn-luyện. Năm ấy Trung-tâm huấn-luyện mới thành-lập, nhà cửa còn lụp-xụp, không đủ cho lính ở phải che thêm lều vải ở tạm, ban ngày trời nắng nóng lắm không chịu nổi. Qua ngày sau lãnh quân-trang quân-dụng đầy ăm ắp một xách maranh (túi đựng quần aó), lãnh vủ-khí mỗi người một khẩu súng Garan Ml, một sợi nịt lớn gọi là xăng-tuya-rông. Thành lâp Đơn-vị để huấn-luyện hai anh em tôi và Sâm chẳng được ở chung với nhau, tôi thuộc ĐĐ3/B Sâm ĐĐ4/B. Huấn-luyện thì ít mà đi làm tạp-dịch thì nhiều, xe GMC cũa Trung-Tâm chở khoá-sinh chúng tôi lên tới đèo Phượng-Hoàng, đường đi lên Banmêthuộc chặt cây cắt tranh chở về Trung-Tâm làm lều trại để ở.
Ăn tết dương-lịch, âm-lịch năm 1962 tại T.T.H.L. anh Sâm nhớ bồ dù về thăm ăn tết ở nhà, còn tôi thì nhát gan không dám làm việc phạm kỹ-luật, ở lại quân-trường ăn tết đầu tiên trong quân-đội, nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ vợ buồn muốn thúi ruột. Tết xong anh Sâm trở lại trình-diện bị phạt, trước tiên cạo đầu trọc-lóc như thầy chùa, nhốt vào chuồng cọp, kẽm gai đan kín, thấp, nhốt vào thì chỉ có ngồi còm lưng, bò bốn chân như con cọp, sau phạt đi nhảy tử-thần khô tại núi Đeo. Dây tử-thần là một sợi dây cáp dăng từ chóp núi xuống chân núi dài cở 150m, khi nhảy móc rõ-rẻ vào dây cáp, người nhảy hai tay cầm chặt hai chiếc vòng sắt gắn liền với rõ-rẻ chỉ co giò lên cho hỏng mặt đất, thế là bánh xe rõ-rẻ đưa người chạy xuống độ dốc của sợi dây, khi chạy xuống gần chạm mặt đất có người cầm cái cờ đỏ phất mạnh một cái là phải buông tay té theo thế nghiêng mình kê bả vai xuống bãi cát nhào-lộn theo trớn bốn năm vòng đúng tư-thế thì an-toàn, té thất thế thì bị thương tật cột sống, gãy cổ, có khi bị vở gan mật gây chết người, nếu không chết cũng bị tàn-phế suốt đời. Qua một thời-gian cho khóa-sinh bị phạt nhảy thử nghiệm, có gây ra chết người nên mới dẹp bỏ môn nầy, chỉ còn huấn-luyện dây tử thần nước mà thôi.
Tháng 2 năm 1962 bắt đầu vào khuôn-khổ huấn-luyện rất căng thẳng. Súng Garan M.1. không có dây mang, luôn-luôn cầm hai tay nghiêng đầu súng về bên trái 45 độ, vai mang ba-lô nặng 20 kg, đầu đội nón sắt hai lớp, chân mang giày Bốt-đơ-sô, khi di-chuyển ra bãi tập năm cây số, phải chạy đều bước hai hàng dọc, khi đi cũng như khi về, không bao giờ cho đi đều bước thong-thả, thời-gian nầy vừa làm tạp-dịch vừa huấn-luyện quân-sự, bị hành-hạ quần-thảo thật gian-khổ, có một số anh em không theo nổi đã đào-ngũ tại quân-trường.
Mấy ông Sĩ-quan huấn-luyện-viên nói thao-trường đỗ mồ hôi, chiến-trường bớt đỗ máu. Nhà bếp của Trung-Tâm nuôi ăn rất tệ hại mất vệ-sinh, cơm thì hai phần cơm một phần lúa, thức ăn canh rau muống già đựng trong sọt cần xé gánh xuống suối chao-đão vài lần đem lên đổ vào chảo nấu với nước lã và muối hột, món ăn mặn cá biển ươn ình kho với nước và muối thấy toàn xương ăn mặn chát. Nhưng đi tập dợt về bụng quá đói cũng dứt một gamen đầy ăm-ắp ngon-lành.
Khóa A và B nầy khai-giảng đầu tiên lúc Trung-tâm mới thành-lập nên rất thiếu-thốn mọi mặt. Trung-tâm phải giữ lại làm tạp-dịch kiến-thiết quân-trường, mọi người đều được lãnh lương hàng tháng, riêng mình tôi chỉ được nuôi cơm giống như đi quân-dịch, tôi tìm hiểu nguyên-nhân, anh thư ký quân-số báo-cáo đào-ngũ nhằm tên của tôi nên bị ngưng lương, tôi làm đơn khiếu-nại chẵng được giải-quyết, cũng ráng cố gắng chịu-đựng qua thời-gian huấn-luyện nầy. Ngày mãn khóa rời quân-trường ra-đơn vị hành-quân, xe quân-vận chở hết vào ga Nha-Trang lên xe lửa vào ga Saigòn, xe chở về Miền Tây tỉnh Long-An trình diện Đại-Đội 32 Hành-Chánh Quản-trị Biệt-Động-Quân, tôi lại làm đơn trình bày lý-do gần một năm tôi chưa có lương, Đại Đội-Trưởng cho tôi được lưu-trú tạm-thời với năm anh em cùng khóa hàng ngày canh-gác cổng ra vào, chờ đợi điều-chĩnh lương-bổng cả một tháng mới được, cho tôi ký lãnh một tháng để thanh-toán tiền cơm tháng khi lưu-trú tại đây. Điện đến Hạ-sĩ-quan Hậu-cứ tại Trại Lê-văn-Trúc Mỹ-Tho lái xe Dodge đến Long-An nhận lãnh sáu anh em tân-binh, về đến căn-cứ hậu-trạm, ra lệnh gởi hết rương xách túi quân-trang cồng-kềnh vào kho Đại-Đội, Hậu-cứ trang-bị súng-đạn xong, vai mang ba-lô tay cầm súng nạp đạn tư-thế sẳn-sàng chiến-đấu lên xe Dodge của Hậu-trạm tài-xế đưa đến bắc Rạch-Miễu đi Kiến-Hòa xuống phà chạy cặp bến xe leo lên đường chạy mãi về tới tỉnh Kiến-Hòa xuống xe, đến tàu thuỷ lên tàu chạy dọc theo sông Hàm-Luông. Trong khi đang di-chuyển trên tàu tôi nhìn thấy quang-cảnh mênh-mông, sông nước hai bên bờ sông nơi nào cũng trùng-trùng điệp-điệp toàn cây dừa nước rậm-rạp, chẳng thấy loại cây gì mọc xen lẫn.
Tàu chạy cả buổi sáng cho đến 15giờ chiều mới cặp bến chợ huyện Thạnh-Phú nơi đồn-trú của đơn-vị hành-quân. Tân binh chúng tôi có sáu anh em được bổ-sung về đây. Thường-vụ Đại-Đội hướng-dẫn trình-diện Đai-Đội-Trưởng, ông dặn-dò anh em chúng tôi đôi lời, rồi ra lệnh Thường-vụ bổ-sung cho các Trung-đội mỗi nơi hai người, tôi được bổ-sung về Trung-đội 1 trinh-diện Trung-đôï-trưởng nhận công-tác. Tôi được phân-công làm khói lửa cho Ban Chỉ-huy Trung-đội gồm có sáu miệng ăn, sáng nhận tiền ra chợ mua thức ăn về trại nấu cơm, dến 10 giờ dọn ra mời ăn bữa trưa, rửa dọn nghỉ-ngơi lo bữa chiều. Bổn cũ soạn lại cứ thế mà làm, khỏi đi hành-quân tuần-tiểu trong khu-vực của huyện, ban đêm phải gác hai giờ. Ở đây được ba tháng thì có lêïnh thuyên-chuyển cả Đại-Đôïi về Liên-Trường Võ- khoa Thủ-Đức. Về đây tôi nhận nhiệm-vụ mới, được bổ sung cho Tiểu đội 1 Hành quân tuần-tiểu ban ngày lẫn đêm, có khi đi phục-kích giữ an-ninh tại ấp Tân-Phong, Đình Phong-Phú, Bân Ông Thàn quanh khu-vực quân-trường để sinh-viên sĩ-quan đi huấn-luyện chiến-thuật ban đêm cũng như ban ngày, ở đây cũng nhàn-rỗi, chẳng có đánh đá đụng trận nào cả, một tháng sau Hạ-sĩ-quan hậu-cứ đến phát lương tôi được lãnh một lần tám tháng lương, thời-gian thụ-huấn chưa lãnh. Trả hết nợ cho bạn-bè, nợ quán của mấy mụ vợ lính bán quán cà-phê sáng ăn uống thiếu ghi sổ, tiền còn lại đi may sắm áo quần sơ mi quần tây, sắm đồ dùng cá-nhân, mua giày dép, mua khăn len, áo ấm để làm quà tặng cho gia-đình. Mua giấy ca-rô bút máy về trại viết đơn gởi Đại-đội-trưởng xin được nghỉ phép thường niên 15 ngày, ông nhận đơn xét thấy sự thật hơn năm chưa được nghỉ phép, ông chấp-thuận cấp phép, ra lệnh thư ký tiền-trạm làm giấy phép trình lên Đại-Tá Chỉ-huy-trưởng Liên-trường ký xong gọi trình-diện đưa cho, cầm được tôi không quên lời cám ơn Trung-uý rồi chào ông trở về phòng nghỉ của binh-sĩ, sung-sướng vô cùng, mừng hơn là trúng số độc-đắc, mang súng-đạn quân-trang gởi vào kho Tiền-trạm, giả-từ tạm biệt bạn-bè, xách túi hành-lý qua ga tàu lửa Thủ-Đức mua vé tàu đi Huế. Về phép lần thứ nhất trong đời đi làm lính, lại mới được truy-lãnh tám tháng lương tha-hồ mua sắm quà cáp về tặng gia-đình cháu-chắt. Năm nay về phép quê-hương vẫn còn an-ninh yên-ổn đi lại thăm-viếng bà con làng xóm khắp nơi chưa có cách-mạng bắt-bớ, đêm vẫn ngủ nhà với gia-đình được. Dẫn bà xã đi Huế ra chợ Đông-Ba mua sắm quần áo vải đẹp, đổi lại đôi hoa tai cho bà xã hài lòng. Chung sống với gia-đình 10 ngày qua mau quá, sắp hết phép, mẹ cũng sắm một mâm cỗ cho cha cúng ông bà tổ-tiên phù-hộ cho con và dâu ra đi được bình-an mạnh-khỏe, dùng bữa cơm gia-đình nghỉ-ngơi trò-chuyện. Sáng ngày mai dắt vợ lên đường từ-giả tất cả, trở về Đơn-vị trình-diện. Năm nay cha mẹ vẫn còn khỏe, ông 52 tuổi, bà 48 tuổi, nên tôi cũng yên lòng mà đi. Vợ chồng vào đến nơi trình-diện trả giấy phép đúng hạn, báo cho Đại-đội-trưởng có mang theo vợ. Ông ra lệnh cho Thường-vụ sắp xếp nơi ăn chốn ở tại Khu gia-binh Liên-trường. Ở đây vợ tôi chỉ đi chợ nấu cơm hai đứa ăn với nhau, những ngày tôi được đổi ca nghỉ ở nhà, còn khi đi công-tác bên ngoài thì bới cơm vào camen ba ngăn đậy nắp ràng dây thun kỹ, gởi cho xe GMC đưa cơm hàng ngày của quân-trường ngày hai lần trưa và chiều.
Thời-gian cứ trôi đi trôi đi sự việc cứ diển-biến như thường lệ, vợ chồng tôi sống với nhau được sáu tháng, thì bụng bầu vợ đã thấy bự, tôi khuyên bà xã nên về quê sinh nở để nhờ Bà ngoại lo cho một đứa con đầu lòng. Vợ đồng ý về quê, tôi đưa qua ga Thủ-Đức mua vé ra tàu về quê.
Tôi trở lui về đơn-vị công việc cũng như thường ngày, dạo nầy ăn cơm tháng vợ lính nấu, đến tháng lãnh lương trả tiền. Vào ngày 01.11.1963 Dương-Văn-Minh lật đổ Ngô-Đình-Diệm, tình-hình chính-trị lúc nầy rất rối-ren, Quân Giải-Phóng Miền Nam cũng lớn mạnh lên, Đại-Đội được lệnh rời khỏi Liên-trường Thủ-Đức, di-chuyển về Trung-Lương Mỹ-Tho để thành-lập Tiểu-Đoàn 52 Biệt-Động-Quân. Đưa đi huấn-luyện bổ túc tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Động-Quân Trung-Hòa Củ-Chi Hậu-Nghĩa. Thời-gian huấn-luyện tại đây cũng đụng nhiều trận với quân Giải-phóng, ác-liệt nhất trận Hố-Bò bị chết Cố vấn Mỹ, nhiều lính Biệt-Động-Quân chết và bị thương, bản thân tôi được bình-yên vô-sự. Sau ngày mãn khóa học cả Tiểu-Đoàn di-chuyển về tại Mỹ-Tho.
Tiền trạm đóng tại chùa Ông, về đến đây Tiểu-Đoàn nhận lệnh hành quân liên-tục. Hành-quân Tiểu-khu Long-An vừa về đến trại, nhận lệnh hành-quân Định-Tường vừa chấm dứt lại nhận lệnh hành quân Tiểu-khu Kiến-Hòa, cứ xây quanh như chong-chóng, không có được một ngày nghỉ. Đi hành-quân băng sông lội rạch áo quần giày vớ lúc nào cũng dính đầy bùn lấm ẩm-ướt thật là gian-khổ không thể tưởng-tượng. Khi bình-thường còn nản chí, khi đụng trận lại càng bi-đát hơn. Bạn-bè người bỏ mạng sa-trường kẻ thương-tích tàn-phế, có đôi khi lội suốt từ sáng đến chiều tối bị đụng trận không được một hột cơm vào bụng đói muốn rã ruột. Cứ ngày đi đêm dừng nghỉ, hết xứ nầy đến nơi khác, cây cối rậm-rạp, sông-rạch chằng-chịt, tôi cứ mang một túi xách cứu thương và khẩu súng Carbin lủi-thủi đi theo đoàn quân tham-dự các cuộc hành-quân liên-tục không trốn tránh một ngày nào.
Sau Tiểu-đoàn dời Tiền-trạm về đóng tại Long-An, Đơn-vị cũng đi hành-quân hai ba tháng mới về tiền-trạm nghỉ được một hôm lại chuẩn-bị đi tiếp. Cũng có một số binh-sĩ không chịu-đựng được gian-nan nguy-hiễm bỏ đào-ngũ về đăng-ký lính khác. Sáu anh em tân-binh khóa của tôi được bổ-sung về đơn-vị 1962 người chết kẻ bị thương có một anh đào-ngũ, chỉ còn lại một mình tôi là mạnh-khỏe đang-phục vụ Đại-đội 4/52 Biệt-Động-Quân.
BÀI 5. MỘT TRẬN ĐÁNH NHỚ ĐỜI
Tôi tham-dự một trận đánh nhớ đời tại Lương-Hòa Thượng, thuộc huyện Đức-Hòa, Long-An. Vào O700H không nhớ ngày, nằm trong thời-gian tháng 12 năm 1964, Tiểu-đoàn được Giang-Đoàn 22 đưa hết binh-sĩ của đơn-vị qua bên kia sông Vàm-Cỏ Đông, Tiểu-Đoàn-Trưởng ra lệnh cho tất cả bốn Đại đội, mỗi Đại-đội một cánh quân di-chuyển trong rẩy mía đường, song song theo con sông Vàm-Cỏ-Đông về hướng tây huyện Đức-Hòa. Như mọi ngày tôi cũng mang một túi xách cứu thương đựng đầy những gói băng-bó cá-nhân để cấp-cứu cho thương binh khi lâm trận, tay cầm khẩu súng Carbin lên đạn sẳn, đi theo Ban chỉ-huy Trung-Đội 1 Đại-Đội 4, đơn-vị di-chuyển được một cây số thì nghe có tiếng súng AK trong các đám mía đường bắn ra, tôi trông thấy binh-sĩ của Đại-đội 1 đã có hai người bị thương y-tá đang băng-bó, tiến xa một quảng nữa, thì nghe anh mang máy truyền-tin PRC 25 của Trung-đội báo lại cho Trung- đội-trưởng, lệnh của Đại-bàng cho biết cánh quân Đại-đội 1 đang đụng-độ rất nặng, đã có số binh-sĩ bị thương và tử trận. Đơn-vị chúng tôi đi cánh quân sát bờ sông, nhìn thấy trực thăng đáp xuống tản thương, Trung-đội-trưởng ra lệnh binh-sĩ đề cao cảnh-giác, sẳn-sàng chiến-đấu, tôi vừa đi theo ban chỉ-huy Trung-đội nhìn kỹ phía trước bên trái bên phải từ sáng đến gần trưa chẵng thấy một bóng dáng VC nào mà nổ súng cho phí đạn. Khi cánh quân cùng Ban Chỉ-huy của Trung-đội tôi tiến đến sát con rạch nằm chận ngang phía trước mặt. Tai tôi nghe một phát súng bên kia rạch bắn qua rất gần, trúng phải đầu anh lính mang máy truyền-tin Trung-đội vở sọ ngã nhào chết liền tại chỗ, tôi thấy đã chết nên không băng-bó, ông Trung-đội-trưởng, cấp-bậc Chuẩn-uý mới về đơn-vị mang khẩu súng Colt 45 đầu đội mủ nâu đi ngóc-ngách bị một phát súng, đạn xuyên qua trước trán hơi sâu, té ngữa máu ra đầm-đìa, tôi chạy lại bên ông ngồi xuống xé băng để bó vết thương cho ông ấy, tai tôi nghe bỏm một cái sát mé rạch gần chỗ tôi đang ngồi, nổ ầm lên một tiếng điếc cả tai bùn nước khói bắn lên tung-toé phủ cả một vùng, tôi tưởng là đã chết theo các bạn rồi, khi hoàn hồn nghe đầu gối hơi đau nhói, biết mình mới bị thương chưa chết vẫn còn đi cà-nhót được, tôi đi lùi về phía sau gặp được TS1 Hớn tôi cho anh hay, anh lính truyền tin đã chết, Trung-đội-trưởng có lẽ cũng chết vì đã bị thương thủng trán quá nặng. TS1 Hớn là Trung-đội-phó từ lâu sống chung trong ban Chỉ-huy Trung-đội bạn chơi thân với nhau, ông ấy choàng vai tôi dìu lui phía sau cả hai trăm mét thì thấy một số binh-sĩ bị thương và tử trận được cứu ra khỏi làn đạn giao-chiến, nằm ngồi la-liệt chờ trực-thăng cứu thương đến di-tản, tôi ngồi xuống đây với anh em tự tay băng bó rịt lại vết thương cho kỹ, cở năm phút nghe có tiếng trực-thăng đến bốc hết số binh-sĩ bị thương và tử trận rồi cất cánh bay lên ra khỏi trận-địa, từ đây tôi mới hú hồn thở phào một cái nhẹ nhỏm, biết chắc mình đã được bạn bè cứu mạng.
Về đến Tổng-Y-Viện-Cộng-Hòa Saigòn, đầu gối của tôi bị sưng to nhức nhối không thể đi lại được nữa y-tá đưa vào phòng mỗ, Bác-sĩ gây mê mổ lấy mãnh đạn trên đầu gối ra để nằm trong phòng lạnh một đêm, ngày sau đưa ra ngoài điều-trị được ba ngày thì bó bột từ bắp đùi cho đến bàn chân, thế là cái chân phải của tôi to-tướng, trắng-lốp, nặng-trịch, ngay-chò, chẵng duỗi ra co vào được nữa, bệnh-viện cho ký nhận một cặp tó để chống nạnh di-chuyển khi cần, nằm tại đây được năm ngày sau có một số anh em bạn lính cùng đơn-vị chơi thân với nhau, họ được may-mắn sống sót mạnh-khỏe bình-an, rủ nhau sáu anh em đến thăm tôi tại bệnh-viện, họ kể chuyện lại cho tôi nghe, trực-thăng tải thương chuyến của mầy là cuối cùng.
Sau nầy VC xung-phong đánh tan-tành cả Tiểu-đoàn, Bộ-Chỉ-huy Tiểu-đoàn chết sạch, đứt liên-lạc, các Đại-đội bị thương và chết hết phân nữa, ai bị thương nhẹ chạy được may ra còn sống, ai bị thương nặng đi không được là chết hết, Trung-đội-trưởng, Tiểu-đoàn-trưởng đã bỏ xác tại trận.
Sau khi đứt liên-lạc với Tiểu-Đòan tan-rã hàng-ngũ chạy tán-loạn. Tụi tau chạy lui ra xuống bờ sông nhờ Giang-Thuyền cũa Tiểu-Khu Long-An cứu mạng bốc hết anh em còn sống sót đổ hết qua bên kia sông mới còn có ngày hôm nay đến thăm mày. Tôi nghe các bạn kể xong câu chuyện, hú hồn hú vía nói với các bạn, mạng cũa tau còn hên chưa tới số, nếu bị thương trễ năm mười phút sau là đã bỏ mạng sa-trường rồi, còn đâu nữa mà các bạn tới thăm. Mấy anh em chuyện-trò qua lại gần một giờ đồng hồ, các bạn chúc tôi điều trị chóng bình-phục rồi từ-giả ra về, anh em cho hay số còn lại đang an-dưỡng tại Quân-đoàn III Biên-Hòa chờ bổ-sung quân-số.
Tôi nằm Bệnh-viện Bác-sĩ cho uống thuốc viên 10 ngày thì cho xuất Viện về điều-trị tại gia 29 ngày tái khám. Về nhà xa quá trong khi người còn thương tích, về nhà sợ cha mẹ vợ con buồn. Hồi ấy Hậu-trạm Tiểu-doàn vẫn còn ở Long-An, tôi được nhận giấy xuất viện về thẳng Hậu-trạm trình-diện nghỉ-ngơi tại đây cho đến ngày tái khám nhập viện lại, Bác-sĩ cho cắt bột vết thương cũng lành, nhưng chân vẫn còn ngay-chò, chưa co vào duỗi ra được, Bác-sĩ cho nghỉ tiếp 29 ngày nữa để tập thể-dục cho cái chân trở lại bình-thường mới đi làm việc. Tôi nhận được giấy xuất viện lần thứ hai cũng được nghỉ dài ngày, mừng quá về lại đơn-vị xin đổi giấy phép nghỉ tại gia. Lúc nầy mặc áo quần thường dân đi xe khách về Huế, lần nầy về làng ấp chiến-lược đã bị phá huỷ tan-tành, ban ngày thì của quốc-gia, ban đêm của Cách-mạng, chỉ viếng về nhà ban ngày một vài tiếng đồng hồ thăm cha mẹ vợ và các em rồi vào Lăng-Cô ở lại nhà bác cho đến ngày hết phép từ-giả ra đi. Vào đến Long-An đi vô doanh trại thấy trống rỗng chẵng còn ai, hỏi ra mới biết Tiền-trạm và gia-đình binh-sĩ đã di-chuyển hết về Biên-Hòa.
BÀI 6. PHỤC-VỤ HẬU-CỨ & TIỀN-CỨ
HẠ-SĨ-QUAN, QUẢN-TRỊ QUÂN-SỐ & TIẾP-LIỆU
Hết phép dưõng bịnh tại gia, trở vào đơn-vị, thì đã di-chuyển hết về Biên-Hòa, thời ấy tôi chẵng biết Biên-Hòa ở nơi đâu cả, chỉ nhớ lại mang-máng trong đầu óc sáu tỉnh Miền Đông Nam-Bộ, có lẽ giáp ranh giới gần Saigòn. Suy nghĩ một lát nếu đi Saigòn Biên-Hòa thì xa lắm, phần nữa xa lạ chưa rành đường sá biết đâu mà tìm. Tôi quyết-định trở lại Mỹ-Tho trình-diện hậu-cứ Hạ-sĩ-quan Quân-số và Tiếp-liệu Đại-đội ở bên cạnh Đại-đội 32 Hành-chánh quản-trị Tiếp-liệu Biệt-Động-Quân. Thời-gian ấy TSI Trân giữ chức-vụ nầy, ông ấy bảo tôi ở đây làm việc, khi nào có chuyến liên-lạc tau sẽ gởi mầy ra trình-diện Đơn-vị, ông ấy bày việc cho mà làm, ông mở kho chỉ vào một đống súng-ống ngoài chiến-trận đưa về đủ loại bùn bám rỉ-rét, chưa lau chùi vào dầu mỡ để bảo-trì quân-dụng, ông bảo tôi làm việc nầy. Tôi nghĩ ăn lương thì phải làm việc, mà làm việc nầy chẵng phải nặng nhọc gì, tôi ước-ao được làm việc nầy vĩnh-viễn thì cũng chẵng cực-khổ gì, còn nhàn hơn một ngàn lần theo Đơn-vị đi hành-quân. Tôi cặm-cụi tháo ra từng loại súng chùi-rữa sạch-sẽ, vô dầu mỡ sắp-xếp lại ngăn-nắp theo vị-trí đâu vào đấy, ông ấy thấy tôi làm việc nhiệt-tình rất hài lòng, tôi làm hai ngày thì hoàn tất đâu vào đấy, ông lại giao cho việc khác, ông hỏi tôi mầy biết viết chữ không ? Tôi trả lời dạ thưa TS em viết được, ông đưa cho một tờ giấy mẩu Q.T.I và một bản danh-sách Đơn-vị, ông bảo viết hết danh-sách từ trên xuống dưới vào đây để làm phiếu gởi xin cấp quân-trang (áo quần). Tuổi còn trẻ mắt sáng tay viết chữ còn mềm-mại sắc-sảo, ngồi vào bàn viết nghiêm-túc, nấn-nót nét chữ rõ-ràng ngay-thẳng đẹp-đẽ, ông nhận-xét nét chữ của tôi viết và sự làm việc nhiệt-tình tận-tuỵ, ông rất mến giữ lại phục-vụ hậu-cứ với ông hai tháng tại Mỹ-Tho. Ban ngày ông giao công việc cho làm, đêm nghỉ tự-do, tôi mướn phòng trọ bên ngoài, ban đêm đi chơi tôi thấy trong thành-phố có lớp dạy đánh máy chữ, tôi xin đăng-ký học một khoá hai tháng, phải trả tiền trước hai phần mới thu-nhận vào học, tôi chấp-nhận đóng tiền để học, tôi học một tháng mười lăm ngày, đã sử-dụng máy thành-thạo, thao-tác đánh máy mười ngón tay, cách-thức trình-bày văn-bản phải cân-đối theo khổ giấy. Đêm đi học đánh máy chữ hết giờ về nghỉ nhà trọ bên ngoài, ngày vào hậu-cứ làm việc như thường-lệ, hôm nay là ngày báo-cáo quân-số định-kỳ bằng danh-sách, anh lính thư-ký vắng mặt. Xếp hỏi tôi lâu nay đi học đánh máy chữ đã đánh được chưa ? Tôi trả lời : dạ thưa em cũng đánh tạm được nhưng còn chậm, ông nói thì cứ thư-thả mà làm cho đàng-hoàng là được. Ông đưa cho một tờ mẫu với quyển sổ kiểm-danh, bắt lót ba tờ giấy đánh thành ba bản. Tôi thư-thả đánh cẩn-thận, trình-bày cân-đối đẹp-đẽ, làm hoàn-chỉnh trình lên cho ông xem ký tên đóng dấu để gởi đi, xếp rất hài-lòng và khen-ngợi. Ông giữ tôi lại giúp việc hậu-cứ được hai tháng thì có lệnh của Đơn-vị-trưởng bảo ông phải gởi số binh-sĩ xuất viện hết thời-gian nghỉ dưỡng bệnh ra hành-quân. Vì cấp số của mỗi Đại-Đội làm việc hậu-cứ chỉ được ba người : một hạ-sĩ-quan, hai binh-sĩ, chức-vụ HSQ/QSTL thư-ký đánh máy chữ, tài-xế, thêm tôi là thặng dư, anh thư-ký đang làm việc quan-liêu, ỷ lại, ham đi chơi, bỏ việc làm, thiếu trách-nhiệm, vô kỹ-luật. Nên ông không dùng nửa, ông ra lệnh cho tôi trang-bị súng-đạn như tất cả các anh em khác hết hạn nghỉ bệnh phải ra hành-quân. Ông giữ tôi lại làm việc hậu-cứ. Viết thư cho Đơn-vị-trưởng trình-bày lý-do thay đổi nhân-viên văn-phòng hậu-cứ, cũng được Đơn-vị-trưởng chấp-thuận. Từ đây tôi được chính -thức cơ-hữu của văn-phòng Quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4/52/BĐQ.
Bà xã và con gái đang ở với cha mẹ tôi tại quê nhà, có bà chị dâu vợ ông anh họ rủ nhau vào Nam tìm chồng, bà chị vào Thủ-Đức gặp chồng, còn bà xã tôi thì bơ-vơ, đường-sá xa-lạ đất rộng bao-la, chẵng biết chồng đang hành-quân nơi đâu mà tìm, ở tạm với anh chị mấy ngày sau, ông anh cũng lanh-lẹ đi tìm hỏi tới Biên-Hòa, Đơn-vị cho biết tôi đang làm việc tại hậu-cứ Định-Tường Mỹ-Tho, ông xin địa-chỉ đi đánh điện-tín về hậu-cứ, Xếp tôi nhận được nói cho tôi biết, ông bảo viết Sự-vụ-lệnh ông ký cho mà đi rước vợ con về (cột lý do công tác : Liên-lạc đơn-vị hành-quân Thủ-Đức) Tôi cầm Sự-vụ-lệnh mặc áo quần dân-sự đón xe ca đi Saigòn, sang xe về Thủ-Đức gặp vợ con rước về Mỹ-Tho mướn nhà trọ ở với nhau, từ nay gia-đình có 3 người mới sum-họp, vợ chồng ở tại đây được năm tháng. Đầu năm 1965 Đại-đội 32/ Hành-chánh/Tiếp-liệu được lệnh giải-thể, sáp-nhập Đại-đội 31/HCTL/BĐQ Thủ-Đức. Hậu-cứ Tiểu-đoàn và các Đại-đội cũng di-chuyển về Thủ-Đức, vợ con cũng đưa về đây mướn nhà trọ ở.
Ông TSI Trân được thăng cấp Thượng-sĩ Tiểu-đoàn-trưởng bổ-nhiệm chức-vụ khác Quyền Sỉ-quan Hoả-thực của Tiểu-đoàn, TS Soa thư-ký tiền trạm Đạ-đội thay thế Hạ-sỉ-quan quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4. Tôi vẫn tiếp-tục làm thư-ký Đại-đội, đợt nầy tôi cũng được thăng Hạ-sĩ vừa được hai tháng thì thay đổi Đai-đội-trưởng mới về thay-thế Đại-đội-trưởng cũ đi nơi khác. Ông nầy đưa đệ-tử vào làm thư-ký Văn phòng Đại-đội thay tôi ra ngoài Đơn-vị hanh-quân làm thư-ký quân số tiền-trạm, đơn-vị đang đồn-trú tại Quân-đoàn III Biên-Hòa. Công-tác của tôi hàng ngày vào buổi sáng Đơn-vị tập họp xong báo-cáo quân-số lên Tiểu-đoàn, hàng tuần lãnh lương-thực, thực-phẩm phân -phối cho Đại-đội, mỗi tháng nhận hàng Quân-tiếp-vụ phân-phối cho binh-sĩ đơn-vị ghi chép rành mạch để trừ vào dịp lính lĩnh lương hàng tháng hoàn tiền lại cho cửa hàng. Công-tác nầy tôi làm tốt chẵng có gì khó lòng. Cuối năm 1965 Tiểu-đoàn đã được bổ-sung đầy-đủ quân-số đưa đi huấn-luyện bổ-túc lần thứ hai tại Trung-tâm Huấn-luyện Biệt-động-quân Trung-Hòa Củ-Chi, Hậu-Nghĩa. Tôi cũng đi theo Tiểu-đoàn, dạo nầy đến đây nhìn thấy pháo-binh của Mỹ và xe Thiết-giáp đóng chung quanh Trung-Tâm rất đông. Trung-tâm cũng bị VC pháo-kích liên-miên, phía Mỹ cũng phản pháo bằng đại-bác hạng nặng 175 ly cài trên xe thiết-giáp bắn liên-tục 24/24 vào hướng mật khu cách-mạng Hố-Bò và địa-đạo Củ-Chi. Kỳ này quân giải-phóng lớn mạnh lấn-chiếm bao-vây thu hẹp tầm hoạt-động của Trung-Tâm, nên Tiểu-Đoàn chỉ học chiến-thuật quanh-quẩn gần hai bên hàng rào, không dám hành-quân ra xa bên ngoài như lần trước. Khi mãn-khóa học nầy Trung-Tâm cũng có huấn-luyện cho tân binh một thời-gian gần một năm. Được giải thể cuối năm 1967.
Tiểu-Đoàn được đưa về Long-Khánh, căn-cứ tiền-trạm đóng trên chóp đồi Tân-Phong Xuân-Lộc, hoạt động ba tỉnh Long-Khánh Bà-Rịa, Bình-Tuy. Tôi ở làm việc với Tiền-Trạm Tiểu-Đoàn được thăng Hạ sĩ I. Đến mùa xuân 1968, Tiểu-Đoàn được điều về giữ Saigòn đi hành-quân ven đô. Ban Quân-số Tiếp-Liệu Tiền-trạm Tiểu-đoàn đóng dưới móng cầu Saigòn tôi cũng theo tiền-trạm làm việc tại đây.
Tháng 12/1967 Đại-Đội 31 Hành-chánh Tiếp-Liệu/Biệt-Động-Quân dời căn-cứ Thủ-Đức về căn-cứ Long-Bình, Mỹ rút bàn giao lại tại Thanh-Hóa Hố-Nai, thuộc khu-vực trại gà bây giờ, để thành-lập Liên-Đoàn 3 Biệt-Động-Quân. Hậu-cứ Liên-Đoàn và 3 Tiểu-Đoàn trực thuộc đóng tại đây.
Thời-gian đơn-vị hành-quân chung-quanh Saigòn tôi làm đơn xin theo học khoá quản-trị tiếp-liệu, được cấp trên chấp-thuận. Bộ Chỉ-Huy 3 Tiếp-Vận căn-cứ tại trại Lê-Văn-Duyệt Saigòn gọi tôi trình-diện khai-giảng khóa học nầy, khóa-sinh theo học đủ các quân-binh-chủng 120 người học ba tháng thì mãn-khóa, tôi được tốt-nghiệp xếp hạng 45/118 bị đánh rớt hai anh không đủ điểm trung-bình. Mãn khóa học nhận Sự-Vụ-Lệnh trở về đơn-vị cũ.
Qua năm 1969 được đủ điều-kiện thăng cấp bậc Trung-sĩ cũng làm nhiệm-vụ Hạ-sĩ-Quan tiền-trạm. Năm 1970 Tiểu-Đoàn được lệnh đi huấn-luyện bổ-túc lần thứ 3, lúc nầy Trung-Tâm huấn luyện Trung-Hòa đã giải thể, Cách-mạng chiếm. Tiểu-Đoàn phải chuyển ra Trung- Tâm Dục-Mỹ Nha-Trang để huấn-luyện. Toàn-thể Tiền-trạm Hậu-cứ đều phải đi huấn-luyện hết.
Khi gần ngày mãn khóa có một anh lính gìa nhậu rượu đế say khước nằm ngũ giữa trời không căng bông-sô che sương đêm khuya lạnh cóng anh ta thả hồn theo gió, chết cứng-ngắc chẵng có ai biết, sáng ra khi anh em thức dậy đi làm vệ-sinh cá-nhân để chuẩn-bị tập-họp mới phát-hiện. Tiểu-đoàn cấp Sự-vụ-lệnh cho tôi và một Tiểu-Đội chở xác anh lính chết vào nhà xác quân-khu Nha-Trang để tẩm-liệm xin máy bay đưa về Saigòn. Khi chưa tẫm-liệm đang để trong nhà xác, Tiểu-Đội đi theo có nhiệm-vụ quân-phục chĩnh-tề cầm súng đứng canh giữ xác chết, khi được tẩm-liệm bỏ vào quan-tài hai lớp phía trong có bọc kẽm hàn kỹ đóng nắp thật chặt, xong xe đưa quan-tài ra phi-trường, thì Tiểu-Đội đi theo canh-gác trở về lại Quân-Trường Dục-Mỹ.
Lúc nầy tôi ngồi trong phòng trực phi-trường của Không-Quân Nha-Trang chờ-đợi máy bay đến chở quan-tài, ba anh lính Không-Quân trực sân bay bỏ ra bộ bài binh xập-xám ăn tiền, rủ tôi chơi một tay, tôi cũng vui-vẻ nhận lời ngồi vào bàn, cầm bộ bài xáo-trộn đều-đặng rồi để xuống một anh thò tay vào cân, một anh cầm bài lên chia mỗi người một con, ai lớn được làm cái ván đầu, phần tôi lật lên con ách tôi được làm cái, cầm hết bài lên trộn đều để xuống cho các anh ấy cân, tôi nhập bài lại chia xong, bắt bài lên binh, bài lớn dễ binh nên tôi binh nhanh bỏ xuống, còn ba anh bài xấu nên binh lâu, chờ cho các anh bỏ xuống hết, bắt đầu tôi xét từ trái qua phải, thấy bài cả ba anh đều thua, tôi gom tiền hết, đặt tiền lại, tới phiên anh kế tôi làm cái, chia bài xong bắt lên tôi thấy mậu binh bỏ xuống ngồi nhìn các anh binh xong chung tiền cho tôi trúng lần hai, thừa thắng lấy gậy ông đập lưng ông, tôi đặt hết tiền đã ăn được, nếu có thua thì tiền của các anh mình trả lại, thế mà bài cứ đỏ ăn liền năm sáu ván, ba anh ấy thua sạch tay. Thì gặp dịp máy bay vừa đến, tôi xin phép nghỉ ra phi-trường lên máy bay, ba anh không-quân nhìn theo tôi mà lòng thất-vọng, tôi nghe một anh thốt lên rằng : ba đứa mình bị cọp vồ, vì huy-hiệu Biệt-Động-Quân có may đầu cọp bên cánh tay trái. Tôi lên máy bay cất cánh ngồi nhớ lại thấy cũng diệu-kỳ, bình thường tôi cũng có binh xập-xám nho-nhỏ cỏn-con chơi giải-trí, nhưng ít khi được ăn ai, vì binh chậm thấp không biết gian-lận, nên ăn thì ít thua thì nhiều.
Hôm nay đi chuyến công-tác áp-tải quan-tài về quê của người bạn tử-sĩ sao mà hên quá, vớ được một số tiền bài xập-xám tại Nha-Trang về nhà tha-hồ uống bia với các bạn. Tôi nghĩ vong-hồn của anh lính nầy linh-thiêng phù-hộ cho tôi được bình-an hoàn-thành nhiệm-vụ và được phát tài. Máy bay về hạ cánh tại phi-trường Tân-Sơn-Nhất thì đã có xe GMC đợi sẳn, đưa quan-tài lên chở thẳng về gia-đình của anh ấy, mặc dầu thân-nhân của họ đã qua đời, cũng hỏi qua nguyên-nhân cái chết, tôi kể sự thật gia-đình cám ơn rối-rít. Tôi thay mặt Đơn-vị và anh em bạn-bè nói đôi lời phân-ưu với thân-nhân tử-sĩ, trao số tiền Đơn-vị quyên-góp phúng-điếu, báo cho tang-gia biết mai-táng xong-xuôi đến hậu-cứ tôi hướng-dẩn nạp hồ-sơ lãnh tiền tử. Tôi từ-tạ lên xe về hậu-cứ Hố-Nai với gia-đình. Cách tuần lễ sau Tiểu-Đoàn cũng mãn khóa về đến. Ông Tiểu-Đoàn-Trưởng nầy mới nhậm chức trước ngày Tiểu-Đoàn đi thụ-huấn bổ-túc, ông cũng-cố hệ-thống tổ-chức của Tiểu-Đoàn, sắp-xếp lại các ban-ngành, bổ-nhiệm cán bộ lãnh-đạo chỉ-huy, cán-bộ chuyên-môn làm việc hậu-cứ theo khả-năng thích-hợp đúng ngành-nghề, thay-thế những người không có chuyên-môn đưa ra hành-quân. Tôi cấp-bậc TS I có bằng chuyên-môn Tiếp-Liệu, được bổ-nhiệm chức-vụ Hạ-Sĩ-Quan Quân-số Tiếp-Liệu Đại-Đội 4/52/BĐQ, thay-thế TSI Soa giữ chức-vụ khác, tôi nhận chức-vụ nầy đầu năm 1970. Tiểu-Đoàn được lệnh hành-quân sang Campuchia, xáp trận liên-tục, bị tổn-thất nhân-mạng, quân-trang quân-dụng, văn-phòng hậu-cứ phải làm hồ-sơ báo cáo tổn-thất để xin bồi-hoàn bổ-sung cho đơn-vị. Lúc nầy hậu-cứ cũng làm việc rất căng, làm không kịp thời kịp lệnh bị Sĩ-quan chỉ-huy hậu-cứ chửi, ngoài tiền-tuyến cần những món quân-dụng gọi điện về chưa có gởi ra kịp cũng chửi. Nhưng được làm việc tại hậu-cứ, khỏi phải đi hành-quân gian-khổ, thỉnh-thoảng máy bay trực-trăng đưa đi tiếp-tế quân trang quân-dụng phát lương-bổng cho binh-sĩ một vài hôm là đưa về hậu-cứ làm việc.
Cuối năm 1971 Liên-đoàn rút khỏi Campuchia về đóng tại Binh-Long An-Lộc. Năm 1972, năm gọi là mùa hè đỏ lửa, lâm một trận lớn san bằng bình-địa tỉnh Binh-Long An-Lộc thành một đống gạch vụn. Hậu cứ không tiếp-tế không liên-lạc, thời-gian hơn hai tháng, chỉ có máy bay C.130 của Mỹ chở lương-thực đạn-dược tiếp-tế bằng cách thả dù, dù rơi đúng vị-trí thì quân bạn lấy dùng, dù bay lạc hướng ra ngoài thì chịu thua, ai xài cũng được. Trận nầy trung-gian mà nói đôi bên bạn địch đều tổn-thất nặng-nề. Phía Giải-phóng chỉ chiếm thêm một ít từ Lộc-Ninh trở về An-Lộc. Khu-vực thành-phố Bình-Long An-Lộc Liên-đoàn 3/BĐQ còn tử-thủ được. Sau thời-gian mới chịu bỏ di-tản về huyện Chơn-Thành, Bến-Cát, Bình-Dương.
Đầu năm 1973 tôi bị đưa đi học khóa tu-nghiệp Hạ-Sĩ-Quan tại Trung Tâm huấn-luyện Quang-Trung, khóa nầy chẵng có thăng quan tiến chức gì cả, thêm tốn công tốn tiền, bỏ một vợ và năm đứa con sống trong trại gia-binh nheo-nhóc, vợ một mình chăm con không kỹ để chết một thằng con trai vừa tròn một tuổi, tôi đang thụ-huấn tại trung-tâm, được tin báo, nóng ruột trốn trại đi về Hố-Nai lo chôn-cất con xong-xuôi trở lại trình-diện, bị ban an-ninh của Trung-Tâm gọi lên điều-tra xét hỏi, tôi cũng trình-bày hoàn-cảnh sự thật, các xếp cứ bắt-bẽ bảo sao không làm đơn xin phép, tôi trả lời thẳng-thắng, nếu tôi làm đơn lên Thiếu-Tướng Chỉ-Huy-Trưởng ký được giấy phép chắc con tôi đã thối vửa ra nước. Nếu các xếp không tin lời khai của tôi cứ điện về đơn-vị của tôi mà hỏi thì rõ hư thật. Sau khi các xếp xác-hận đúng cũng khoan-hồng cho tôi không phải bị phạt, tôi tiếp-tục tham-dự khóa học cho đến ngày mãn khóa trả về đơn-vị cũ, tôi cũng được phục hồi lại chức-vụ hiện-hành.
Đầu năm 1975 Liên-đoàn thất-thủ căn-cứ Chơn-Thành, Bến-Cát, ban đêm cho lệnh di-tản về Lai-Khê Bình-Dương, binh-sĩ bị xáp trận với quân Giải-phóng bỏ xác rải-rác trong rừng, số bị thương cũng chẵng được cứu-chữa, tản-thương, một số bị quân Giải-phóng bắt làm tù-binh gần muốn hết, còn lại một ít may-mắn sống sót chạy về hậu-cứ mình trần thân trụi, trình-diện hậu-cứ cái xác không hồn.
Đơn-vị xin bổ-sung thêm một số lao-công đào binh mới ân-xá, một số quân-dịch mới ra trường, cả cũ lẫn mới tập họp cả liên-đoàn quân số chưa được một Tiểu-đoàn, lệnh cấp trên cho thay đổi toàn bộ phận chỉ-huy Liên-đoàn. Liên-đoàn-trưởng mới về nhậm-chức ra lệnh cho hậu-cứ trang-bị lại quân-trang quân-dụng vủ-khí cá-nhân tập-thể đầy-đủ. Tập họp đưa đến sân bay Biên-Hòa. Máy bay C130 chở ra đổ hết xuống Phan-Rang để làm lá chắn được một ngày thì bị tan-rã. Thấy Đại-uý sĩ-quan Ban 3 của Tiểu-đoàn 52/BĐQ và một số binh sĩ cũng chạy về mình không trình-diện hậu-cứ, thế là toàn bộ phận lính chiến-đấu của Liên-đoàn 3/BĐQ đã bị quân Giải-phóng xóa tên lần cuối cùng tại Phan-Rang.
Hậu-cứ Liên-đoàn và ba Tiểu-đoàn trực-thuộc vẫn còn làm việc như cũ, ai làm việc gì cứ làm việc ấy, lúc nầy rất khuẩn-bất bi-thãm. Nhân viên hậu-cứ chúng tôi phải làm việc 24/24 giờ, quân Giải-phóng sắp đến bên lưng. Ông Trung-uý Mẫn Chỉ-huy hậu-cứ phát điên lên ngày nào cũng nhậu say tuý-luý, chửi anh em làm việc hậu-cứ như tát nước vào mặt, ông hối thúc phải làm nhanh các hồ-sơ khai-báo tổn-thất gởi đi, để xin bồi-hoàn kịp thời, quân-số, quân-trang, quân-dụng, lương-thực, hướng-dẫn làm hồ-sơ cho thân-nhân binh-sĩ chết mất tích lãnh tiền càng sớm càng tốt. Ví có ba đầu sáu tay cũng chẵng tài nào làm kịp. Một phần vợ con gia-đình của lính tử-trận, mất tích đến hậu-cứ khóc-lóc om-sòm, đòi lãnh tiền tử. Thân-nhân tử-sĩ họ cũng nghĩ rằng : quân giải-phóng đến chiếm căn-cứ thì còn đâu mà lãnh, nên họ khóc-lóc la-lối, có đôi người nóng-nảy chửi-bới tôi cũng phải cắn răng mà chịu đựng. Đến giờ nghỉ đi ăn cơm đạp xe về trại gia-binh nhìn thấy bà xã bụng thì bự gần ngày sinh, bốn đứa con dại khờ, ba đứa mạnh khỏe, một đứa bé nhất ốm nặng, chỉ mua thuốc viên về tán ra cho uống, bà xã một mình không thể nào đưa con đi bệnh-viện được, đưa đi thì bỏ nhà bỏ ba đứa con lại không ai nấu cơm nước cho tôi về ăn để đi làm. Đến giờ nghỉ về ăn cơm nhìn con càng ngày càng ốm nặng ra, người nó teo lại như con tép, cặp mắt lờ-đờ. Thở thom-thóp không ra hơi, tôi thương con quá muốn trào nước mắt. Tôi suy-nghĩ một lát quyêt-định, việc nhà cần phải lo trước, việc nước lo sau, bằng mọi giá phải cứu con của mình đã, cứ mãi-mê lo công-vụ rủi con chết như thằng em nó nửa thì ân-hận suốt đời. Tôi trở vào hậu-cứ gọi anh lính thư-ký ra ngoài phòng làm việc căn-dặn kỹ-lưỡng, chỉ-vẻ công việc ở nhà nên làm công việc gì trước sau, giao hết bộ chìa khoá kho-tàng cho anh ấy giữ, tôi chẵng cần-thiết gì nữa. Dặn lại chỉ-huy hậu-cứ có hỏi đến tôi, anh cứ nói thật con tôi gần chết nên trốn ở nhà đem con đi bệnh-viện. Tôi chẵng cần phải xin phép thêm rắc-rối, nếu xin lão già ấy chẵng cho mà còn chửi nữa thêm nhục. Đào-nhiệm trốn về nhà ẵm con đi chửa bệnh tại Bệnh-viện Tiểu-khu Biên-Hòa, đến tới bệnh-viện lúc 14g00 ngày 25/4/1975, được Bác-sĩ khám tiếp nước biển cho uống thuốc con tôi hơi tĩnh lại, 14 giờ ngày 28/4/1975 quân giải-phóng đã tiến đến Trà-Cổ Tân-Bắc, thuộc xã Bắc-Sơn bây giờ. Quân đoàn III và bệnh-viện cũng được lệnh di-tản. Tôi ẳm con leo lên xe Hồng-thập-tự chạy đến Saigòn thì trời đã tối, xuống xe tại bệnh-viện Trần-ngọc-Minh, bệnh-viện nầy chỉ tiếp nhận thương-binh, không nhận gia-đình vợ con binh-sĩ. Tôi mướn xe xích-lô máy chở cha con qua bệnh-viện Nhi-Đồng 2 xin cho con được nhập viện, được nằm tại đây đến 28, 29/4/75, rạng ngày 30/4/1975 tôi ngồi trên lầu 2 của bệnh-viện nhìn xuống ngã sáu Saigòn thấy đủ các lính quân-binh-chủng của chế-độ cũ, áo giáp nón sắt súng đạn đầy-đủ, súng to súng nhỏ có cả đại-bác pháo-binh 105 ly, xe pháo đầy ngã sáu, trong khoãng thời-gian cở 9 hoặc 10 giờ sáng 30/4/1975 nghe radio trên đài phát-thanh Sài-gòn ông Dương-Văn-Minh kêu-gọi anh em binh-lính chế-độ Sài-gòn ngưng bắn bàn-giao súng-đạn căn-cứ đồn-trại lại cho quân Giải-phóng. Một lát sau tôi nhìn xuống thấy súng-đạn xe-pháo nằm la-liệt hai bên lề đường, chẵng còn thấy một ông lính của chế-độ cũ nữa. Chế-độ Saigòn cũ sập-đỗ hoàn-toàn chấm-dứt từ đây.
Quân Cách-mạng thắng-lợi thống-nhất đất-nước hai miền Nam Bắc.
Cuộc đời binh-nghiệp của tôi cũng được chấm dứt từ đây. Trả hết món nợ tang-bồng của thời trai trẻ.
Trót sinh ra phải có chi-chi, Chẵng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
(Nguyễn-Công-Trứ)
Trong thời-gian 14 năm làm lính chế-độ Saigòn tôi đã bỏ ra 5.040 ngày, tỷ giá theo đô-la 50.400 USD chẵng mua được danh-vọng hay một tí tài-sản vật-chất gì cả, chỉ mua được cái nhục to-tướng, góp công chế-độ cũ gây ra bao nhiêu phiền-hà cho đất nước. Chẵng có công, mà chỉ là mang lấy tội, kéo dài một cuộc chiến vô nghĩa, huynh-đệ tương-tàn. Mạng sống ngàn cân treo sợi tóc. Biết giữ lấy đạo làm người của Đức Khổng-Phu-Tử, ghi nhớ làm theo lời dặn dò của cha trước khi xa gia-đình, nhờ có đức của cha mẹ, Ông bà Tổ-tiên, Phật Trời phù-hộ được còn sống sót đến ngày hôm nay.
Nhớ lại những ngày còn đi đánh trận bị thương rất nặng, nhờ anh em bạn-bè cứu mạng nếu chậm một chút xíu nữa là đã bỏ mạng sa-trường, bây giờ nghĩ lại mà rợn tóc gáy.
CHƯƠNG IV. SINH-HOẠT - CUỘC SỐNG CŨA BẢN THÂN VÀ GIA- ĐÌNH SAU NGÀY GIẢI-PHÓNG.
BÀI 7. NGƯỜI DÂN CHƯA ĐƯỢC THỪA NHẬN
Trước giờ phút đánh dấu bước ngoặt của lịch-sử, chấm dứt thời kỳ đen tối, chuyển sang thời kỳ vinh quang sán-lạn của đất nước được độc lập.
Hai cha con của tôi còn ở trên lầu 2 bệnh-viện Nhi-đồng, con tôi nhờ ơn Bác-sĩ cả hai nơi chữa trị nay đã được phục-hồi sức khỏe. Trong giờ phút giao-thời nầy, các Bác-sĩ và y-tá làm việc trong bệnh-viện cho các em nhi-đồng đang điều-trị và thân-nhân thăm nuôi ra khỏi bệnh-viện đóng chặt cửa khóa lại để bảo vệ cơ-sở vật-chất, phòng kẻ xấu thừa cơ-hội vào cướp-bóc phá-tán.
Tôi hiểu rõ lời Bác-sĩ và ý-thức liền ẳm bé Phú con tôi ra khỏi bệnh-viện, cuốc bộ về nhà ông anh vợ tại Hòa-Hưng ở bên cạnh Bộ-chỉ-huy Biệt-Động-Quân chế-độ cũ. Thời-gian nầy khoảng 11giờ ngày 30/4/1975, tôi rất lo lắng cho vợ đang mang bầu gần ngày sinh, ba đứa con còn bé nhỏ ngay-thơ không hiểu bây giờ còn ở nơi đâu? Mẹ con có được bình-an hay khônh? Súng ngoài đường thì vẫn nổ dòn như pháo tết ngày xưa. Sau khi tìm hiểu tiếng súng, không phãi đánh nhau, mà các dứa trẻ con thành-phố tinh-nghịch nhặt súng M.16 cũa lính chế-độ củ vứt bỏ bừa-bãi la-liệt hai bên lề đường cũa thành-phố bắn chỉ thiên cho thoả-thích. Sợ quá tôi chẵng ra khỏi nhà đi tìm vợ con. Một lát sau thì vợ con cũng đến đầy-đủ với hai anh bạn lính cùng đơn-vị họ đã bị thương xuất viện về nghỉ dưõng bệnh tại trại gia-binh, dắt dìu giúp đở gia-đình tôi cùng chạy loạn, tìm đến nơi đến chốn bình-yên vô-sự. Trước ngày giải-phóng vợ tôi đã biết địa chỉ nhà của ông anh. Giờ đây hai vợ chồng bốn đứa con đã được sum-họp, mừng-mừng tủi-tủi cứ ngồi yên trong nhà nhìn ra ngoài đường trông thấy một số ngưỡi xấu bụng, tham-lam chạy đi hôi của từng đoàn ngoài phố. Súng trẻ con cứ bắn nghịch họ cứ đi thản-nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Thấy họ mang về hàng quân-tiếp-vụ quân-đội Sài-gòn. Nào là gạo, đường, sữa, rượu bia, thuốc lá, nước ngọt, lẫn cả của cải thường dân họ sợ chết bỏ nhà trốn đi nước ngoài, tôi vô cùng chán nản chẵng ham muốn gì cả. Tôi nghĩ bụng đi làm lính 14 năm đã vào sinh ra tử mà không chết, chỉ có bị thương, đừng nên có lòng tham-lam đi theo họ làm việc phi-nghĩa, phi-pháp xui-xẽo bị tụi trẻ con bắn nghịch lạc đạn chết bỏ vợ con thì lãng xẹt. Ông anh cũng bảo bây giờ ngoài đường phố tình hình chưa ổn-định, o dượng cứ tạm ở lại đây một vài ngày chờ yên tiếng súng rồi hãy về, bây giờ mà về gấp là nguy-hiễm, cũng chưa có xe nào dám chạy về Hố-Nai đâu. Tôi nghe lời anh chị ở lại ba hôm tình-hình đã yên-ổn, vợ chồng dắt dìu con cái đón xe về Hố-Nai. Về đến nơi thấy anh chị em bạn lính ở cùng doanh trại họ đã trở về gần đầy đủ, vào căn nhà thấy cạy cửa đập khóa tanh-bành, rinh hết đồ-đạc trong nhà rỗng tuyênh từ trước ra sau vơ-vét sạch-sẽ, chẵng còn cái gì đáng giá một xu.
Gia-tài sản-nghiệp của tôi lúc nầy chỉ còn được mụ vợ bốn đứa con thơ dại. Anh chị em cùng ở chung trong trại ai có bà con gia-đình ở gần, họ cũng mướn xe chở đồ-đạc về quê sinh sống, dần-dần họ từ giả đi gần muốn hết. Chỉ còn lại gia-đình của tôi và Hai Cưu quê hương quá xa tại Đà-Nẳng và Huế chẵng đủ tiền bao nổi chuyến xe để về quê, nên còn nấn-ná ở tại đây.
Vợ chồng bàn bạc khi sinh nở xong tìm cách về làng sinh sống cùng cha mẹ và quê-hương. Cứ ở lì tại trại được 10 ngày thì quân giải-phóng đến tiếp-thu khu-vực quân-sự đuổi ra khỏi trại, tôi dắt dìu vợ con ra đến gia-đinh bác Hạp xin trú-ngụ tạm ít hôm để che mưa nắng cho vợ con tạm thời rồi sẽ lo liệu. Hồi đó gia-đình của bác có một căn nhà tranh vách đất lụp-xụp kê được hai chiếc giường để cho vợ lính mướn ở, bây giờ đang bỏ trống, Bác cho ở nhờ chẵng phải thuê mướn gì. Hai Cưu thấy tôi còn ở đây cũng mướn của bác Cương anh bác Hạp mấy mét vuông đất để che tạm một cái lều nhỏ xíu kê được chiếc giường để ở tạm rồi đi kiếm việc làm ăn, quen biết ông Chuẩn xin được đất mới dỡ lều ra Tây-Lạc. Thời-gian gia-đình tôi tá-túc tại căn lều Bác Hạp để đợi vợ sinh xong về quê chẵng biết có việc gì mà đi làm, thất-nghiệp ngồi nhà ăn không cả một tháng, gia-đình lớn nhỏ có sáu người mà kéo dài không làm gì có thu-nhập, ngồi không mà ăn thì sông cũng cạn núi cũng mòn, cả nhà sắp chết đói đến nơi. Khi vợ đến ngày sinh bé Phúc đưa đến trạm xá Bùi-Chu nhờ cô Huê giúp đở chẵng phải tốn kém, vợ sinh phải ở nhà nuôi đẻ giặt giũ, vì lúc ấy con còn bé chưa nhờ được. Sau một tháng nữa vợ tròn con vuông được khỏe-mạnh cứng cáp, giao cho bà xã ở nhà coi con nấu nướng mà ăn, tôi theo Hai Cưu đi tìm việc làm, cuốc cỏ tranh cho bà Quan một ngày được 500$ bạc của chế độ cũ, mua được ký gạo đủ cho một mình ăn, nhưng vẫn đi làm với nhau vô lẻ ngồi nhà hoài, đi vào sâu trong rẩy trong đồng ruộng mới thấy công ăn việc làm của bà con, anh em đổi ý về quê, rủ nhau đến Trưởng-ấp xin đăng-ký tạm trú. Vợ chồng cũng bàn lại bỏ ý định về quê. Bây giờ mà mình mang một bầy con lóc-nhóc về chỉ báo đời cha mẹ đôi bên, bây giờ thì cha mẹ đã già yếu kinh-tế khó-khăn, có một điều nữa xấu hổ với bạn bè làng xóm. Tôi mang sổ gia-đình và giấy căn-cước của hai vợ chồng đến Văn-phòng Ap Bùi-Chu nộp hết cho ấp xin được đăng-ký nhập cư thường-trú, ông Thận làm Phó ấp trực tại Văn-phòng nhận hồ-sơ cho được tạm trú để đi lao-động nuôi con, được yên chí nhận nơi nầy làm-quê hương thứ hai để sinh sống. Vợ mới sinh còn yếu chưa đi làm được ở nhà chăm bầy con dại năm đứa. Tôi phải đi tìm việc làm thuê cuốc mướn để kiếm tí tiền mua gạo sống qua ngày, ngày nào tìm không có việc thì bé Quang với tôi hai cha con đi mót củ mì trong Long-Bình Cầu-Cháy để đem về ăn độn, ngày nào cũng phải đi lao-động không việc nầy thì kiếm việc khác làm để có lương-thực nuôi con. Thời ấy người ta thường nói lao-đôïng là vinh-quang, bây giờ tôi suy nghĩ kỹ mới thấy câu văn hay và đúng lý.
BÀI 8. TỪ NGÀY ĐƯỢC NHẬP HỘ KHẨU,
ĐƯỢC HỌC CẢI-TẠO TẠI ĐỊA-PHƯƠNG.
Tôi làm lính 14 năm mới bò lên cấp bậc Trung sĩ I chức-vụ Hạ-Sĩ- Quan Quân-số Tiếp-liệu Đại-đội 4/52 Biệt-Động-Quân, nên cách mạng cũng khoan-hồng gọi tập-trung cải-tạo tại địa-phương, vì ấp Bùi-chu đông nguỵ-quân nguỵ-quyền, mà cán-bộ quản-giáo chỉ có hai ông Trung-uý bộ-đội, nên phải chia ra làm ba bốn ca, cải-tạo từng đợt ca một cải-tạo một tuần, cho về đi lao-động làm ăn, đến ca hai, rồi đến ca ba luân-lưu tuần-tự cho đến hết chương-trình thì cho nghỉ. Sau thời-gian cải-tạo có quyết-định được phục-hồi quyền công-dân. Hôm nay tôi mới được chính-thức làm phó thường dân Nam bộ.
Thất nghiệp vô tài bất tướng chẵng có nghề-nghiệp chuyên-môn gì, chỉ biết đi làm thợ đụng, đụng việc gì cũng làm, có tiền công là được. Có thời-gian đi bốc-xếp gỗ cho bộ-đội, sáng bới một lon gô cơm ra đường lộ chờ đợi xe, có ngày đợi hoài không thấy, mất toi cơm một ngày về không, có bữa chỉ vào đến rừng, cưa máy bị hư-hỏng không làm được lại về không mất công chẵng được gì. Thấy công việc làm rừng nầy khó ăn tiền, nghỉ đi nghề rừng, về tìm việc nghề nông làm mướn tuy ít tiền công hơn nhưng dễ kiếm việc thường hơn.
Đồ nghề nông cụ của tôi chỉ vỏn vẹn có hai chiếc, một cái mã tấu, một cái xẻng cá-nhân của Mỹ, tôi lấy trong kho khi còn làm lính, để vợ chẻ củi và dọn cỏ chung quanh nhà trại gia binh. Khi đi chặt mướn mía đường thì mang theo mã tấu, xẽng gấp tháo bỏ cán ngắn thay thế cái cán dài để cuốc đất mướn, mỗi ngày công chỉ được 500$ tiền chế độ cũ, mua được một ký gạo, có đôi lúc mua không có gạo, thì mua bo-bo về nấu ăn cũng ngon lành. Chiếc mã-tấu dùng đi chặt cây làm nhà ở và phá rừng làm rẫy. Đã quyết-định chọn ấp Bùi-chu làm quê-hương thứ hai thì phải kiếm miếng đất cất cái lều nho nhỏ để gia-đình trú-ngụ che mưa che nắng không lẽ ở nhờ ở đậu mải như thế nầy coi sao được. Lúc nầy anh em cựu lính rủ nhau đi làm mướn, gặp anh Vầy hỏi thăm khu-vực của anh ở có còn chổ nào chỉ cho tôi cất cái lều ở với cho vui, anh trả lời cứ vào nhà tôi chỉ cho mà làm, hai ngày sau đi vào anh dắt đến chỉ cho, anh bảo miếng đất nầy của thằng Hoa nó xí nhưng không ở bỏ đi nơi khác rồi, anh cứ ra đây làm mà ở với anh em cho vui, tôi cũng thích rồi, nhưng sang hỏi ông Út Một cho chắc ăn. Vì ông là người ở đây trước ngày chưa giải-phóng, để tránh sự rắc-rối về sau. Sang nhà ông Út Một ông cũng bảo đất hoang-vu vô chủ cứ ra làm mà ở, thằng nào nói gì có tôi, mới vững bụng, vác cuốc ra đắp một cái nền xí để đó. Có đất rồi phải lo vật liệu, xách mã-tấu vào rừng Cầu-Ba chặt cây.
Năm ấy rừng thiên-nhiên còn bao-la tha-hồ mà chặt, vào rừng cứ thấy cây thẳng vừa ý là đốn hạ rồi vác dồn lại một đống róc sạch vỏ, về ấp mướn xe bò vào chở. Hồi đầu nhờ Bác Tỳ bác nói rừng cấm khai-thác, để tôi hỏi ông Hai Hà cho phép mới dám chở, tôi nghĩ mình đã đi chặt trộm mà ông bảo hỏi Hai Hà Chủ-tịch xã lúc bấy giờ. Tôi sợ năn nỉ với ông, Bác không giúp em được thì em đi nhờ người khác Bác đừng báo Xã họ bắt tội nghiệp em. Em chỉ lén chặt một ít đủ che túp lều để gia-đình che mưa nắng, em hứa không làm việc phi pháp, ông lặng yên, tôi tạ từ ông về, đi mướn xe bò ông Bảy-Ép, ông nhận lời ngay, đánh xe vào bốc chở về, khỏi trình báo ai cả, ông chở về đường đi tự-nhiên chẵng thấy ai hỏi han gì, đến nơi đỗ xuống tôi trả tiền công song-phẵng và cám ơn Bác Bảy, ông đánh xe về. Đã có cây đầy đủ, tôi vào dốc đồng ruộng chặt tre chẻ hom vác về, vợ đi vào Phú-Sơn cắt tranh phơi khô mang về xếp đống, ngày nào không có việc làm ở nhà soạn tranh ra đánh thành tấm lợp bằng hom sáu, chuẩn bị đầy đủ vật-liệu, một mình tự cưa ngàm đục lổ sàm vài để sẳn, đi nhờ hai ông bạn Bác Vấn và Hai Cưu đến phụ giúp, ba anh em vừa dựng vừa lợp mái làm một ngày là xong, ngày sau một mình đóng bổ vách tấp tranh vào cho kín đáo. Nay đã có cái lều tranh kê được hai chiếc giường, chái thêm một khúc phía sau để nấu cơm.
Tạm thời đã có nơi trú-ngụ che mưa nắng, tôi từ-giả ông bà Hạp dọn về cái lều mới làm để ở. Tôi thưa với ông bà rằng : Dạ em kính thưa hai bác, thời buổi chiến-tranh ly-loạn, em buộc phải đi lính-tráng vào đến đây, nay bị lở đường giữa chốn xa xuôi không có người thân thuộc, chẵng biết nương-tựa vào đâu, may mắn gặp gia-đình bác mở rộng lòng thương, cho gia-đình em được tá-túc trong căn lều của hai bác đợi cho vợ sinh nở cứng-cáp tìm đường về quê, ở đây vợ em đã sinh nở mạnh khỏe mẹ tròn con vuông, thời-gian thấm-thoát đã bốn tháng trôi qua, vợ chồng em quyết-định không về quê nữa, em đã xin ấp cư-trú tại đây làm ăn nuôi con. Bấy lâu vợ chồng em đã lo liệu che được một túp lều tranh phía ngoài sân bóng đá kế nhà ông Út Một, xin hai bác cho em dọn về ngoài ấy để trú-ngụ, vợ chồng em trả lại căn lều cho hai bác. Dạ thưa hai bác ! một đêm nằm hơn năm ở, dù gì em cũng ở nhờ nhà hai bác hơn bốn tháng nay ơn nghĩa nầy quá lớn biết bao giờ em đền đáp được. Em cầu xin ơn trên ban phước lành cho toàn thể gia-đình bác. Bác Hạp gái cũng nói lại : Không có gì đâu, biết giúp nhau lúc hoạn-nạn mới là phải, rồi bác cũng chúc lại vợ chồng con cái vào trong ấy ở được mạnh khỏe, làm ăn mau khấm-khá. Tôi cám ơn bác rồi dọn nhà vào đây ở kể từ tháng 8 năm 1975 cho đến ngày hôm nay.
BÀI 9 : AN CƯ LẬP NGHIỆP
Được chính-quyền địa-phương chấp nhận cho cư ngụ, kiếm được miếng đất dựng lên cái lều tạm che mưa nắng cho gia đình trú-ẩn. Lúc nầy rất bi đát kinh tế gia đình đã cạn kiệt có ngày không gạo nấu, con cái phải ăn củ mì bo bo mà sống. Tôi ngày nào cũng đi làm mướn xạc cỏ lúa rẩy cho ông Chuẩn hai tháng, xong việc cỏ đi cuốc ruộng cho ông Chánh-Tôn, cuốc rẩy nhặt cỏ tranh cho bà Quang con gái bác Khương, đắp bờ phát cỏ ruộng cho cụ cố Phác, ai bảo làm gì cũng làm, miển trả công mỗi ngày tương đương một ký gạo là được, để nuôi bầy con sống qua ngày. ăn thì đều mà đi làm chẵng đều, có đôi lúc hết việc không ai mướn thất nghiệp ở nhà cũng phải ăn.
Khoảng trong tháng 9/1975, lúc nầy kẹt quá, gạo hết tiền chẳng làm gì có, con đói phải mang số nữ-trang của bà xã, tiết-kiệm sắm một chút để phòng cơ, còn 8 chỉ vàng 24 cara, một sợi dây chuyền có quả tim 5 chỉ, 3 cái nhẫn mỗi cái một chĩ. Vợ giữ kỷ trong người khi chạy loạn nên vẫn còn. Vợ chồng bàn với nhau mang đi bán, hỏi hết các nhà có tiền chẵng ai thèm mua tôi mang một cái khâu một chỉ ra bà Giáo-Luyện nhờ bà mua giúp cho, trả bao nhiêu cũng được miễn có tiền về đong gạo cho con ăn là cám ơn. Đây là nơi thân chủ quen biết đã từng mua bán với bà trước ngày chưa giải phóng, tôi nghĩ bà chỉ sợ mình khốn-đốn quá, có khi đem vàng dổm để lường-gạt, nên bà không dám mua. Bí quá không biết làm sao, bà xã rỉ tai thổ lộ sự thật nhờ bác Hạp bán giúp cho, nhà em đã mang đi hỏi bán mà chẳng ai mua. Bác nhận lời giúp đỡ mang tận Saigòn mới bán hết được, đem tiền về đưa cho vợ chồng tôi, mừng quá cám ơn bác, có tiền đi đong gạo gia-đình ăn, gạo lúc nầy đắt lắm, bán 8 chỉ vàng mà tính ra cả trước sau đong cả tạ gạo là sạch tiền. Có gạo ăn cứu nguy cơn đói. Tôi tự suy nghĩ để kinh nghiệm. Vàng bạc ngọc ngà châu báu chẳng quí bằng hạt gạo của trời. Khi bụng đói cồn cào không thể ăn vàng ăn bạc vào bụng mà sống được
Sau đó một thời-gian có tình trạng vượt biên sang Mỹ, vàng lên giá vùn-vụt nhiều người đi tìm mua, lúc này còn mà bán một chỉ có thể mua được hơn tạ gạo, 8 chỉ tính ra gạo cở 10 tạ, tôi đã bán sạch sẽ từ lâu, tôi cũng chẳng có tiếc nuối làm gì. Tôi tự nghĩ một miếng khi đói bằng gói khi no, may mắn có người giúp bán được để cứu đói là tốt rồi. Thế là của Tây trả lại cho Tàu, sạch trơn sạch trụi của cải vàng bạc tích-luỷ cả 14 năm làm lính nguỵ, hôm nay đã tiêu tán sạch sẽ theo cát bụi của thời gian.
Hết năm 1975 qua năm 1976 ăn Tết Ất-Mão âm lịch xong, tháng giêng nhìn thấy bà con trong ấp rủ nhau đi phá rừng làm rẩy, cũng vác mã tấu đi theo vào cầu ba phát đưòng ranh khoanh vùng một mẫu rừng xí để đó, về đi làm mướn kiếm gạo nuôi con, ngày nào không có việc đi làm mướn, thì bới cơm nước xách mã-tấu vào phát rừng, cứ vừa đi làm mướn vừa phá rừng, một mình cũng phát xong 5 sào, còn 5 sào để qua năm sau phá tiếp.
Tháng 12 năm 1975 cụ cố Phác cho mướn 2 sào ruộng cấy lúa thần-nông giống 732, cày cấy xong bỏ đó đi phát dọn rẩy, lâu lâu ghé thăm đắp nước vào, chẳng vải phân, không xịt thuốc, chỉ có làm vài ngày cỏ mà thôi, thời tiết tốt không sâu bọ phá, qua tháng 3 năm 1976 thu-hoạch được 20 bao lúa tính ra cả tấn, mừng quá còn hơn trúng số độc-đắc, chở về phơi khô khén vây cót đổ vào dự-trữ để ăn đi phá rẩy dọn rẩy, khỏi lo chạy gạo hàng ngày, nên bây giờ tôi vẫn nhớ ơn ông cố cho đến muôn đời.
Từ đây tôi chỉ đi làm việc nhà hết đi làm mướn. Chỉ có bà xã đến mùa bà con trong ấp cấy lúa nước, đi cấy mướn, lúc mới giải phóng ít có người biết cấy, đi cấy là nghề-nghiệp của bà xã, đến vụ cấy bà con mướn đi làm liên-tục. Mùa cấy năm 1980 mang bầu thằng con trai út, tên nó là thằng Đức bây giờ, đến ngày gần sinh tôi bảo ở nhà, đi cấy nửa coi chừng đẻ giữa ruộng, tôi đi làm ở lại trong rẩy, bà xã ở nhà ông Thiệp vào kêu đi cấy, nể nang cũng ra đi vào làm được nửa buổi, chuyển bụng đẻ ngay giữa bờ ruộng như vịt. Gặp chú Hùng Rô có xe bò làm kế bên, bỏ mẹ con lên chở về trạm xá cô Huê, đồn ra trên làng dưới xóm ai ai cũng biết, tin vào rẩy tôi chạy về gấp, vào trạm xá bà xã vẫn tĩnh-táo sức-khỏe mẹ tròn con vuông, tôi hú hồn hú vía hết hồi-hộp. Nghỉ lại có lẽ Trời Phật ở trên cao nhìn thấu, phù hộ cho mới được như vậy. Ngày sau đem về nhà giao cho con gái lớn chăm mẹ, cha con vào rẩy làm tiếp, cứ theo bà con học hỏi mà làm cho đúng mùa vụ, thấy bà con trồng trỉa giống gì cứ theo mà làm, có làm là có thu-hoạch mới có lương-thực mà ăn, hết thứ nầy thu-hoạch thứ khác
Nhưng cũng vất-vả vô cùng, làm việc bằng hai cánh tay chẳng có năng-xuất, phải làm hết sức lực may ra đủ ăn. Đi làm phải lội bộ 10 cây số đường rừng mới đến nơi, qua sông Lạnh còn đi vào tới Đồi-đất phá rẫy, cha con che trại ở làm tại chỗ, có khi hai tuần lễ hoặc cả tháng mới về thăm nhà một lần.
Mang lương thực về nhà nuôi con phải đi ban đêm tránh trạm kiểm soát, nếu xui bị bắt là không xin lại được. Sản-xuất cầm chừng vừa đủ ăn, không thể mang đi thành phố bán đổi để bà con tiêu-thụ được, kinh-tế gia-đình xã-hội thời bao cấp khó phát-triển, đời sống của nông-dân càng vất-vả hơn.
Nam 1977 qua phá rẩy bên kia sông Thao thuộc ranh giới huyện Vĩnh-cửu rừng nguyên-sinh còn nhiều, cây to nhỏ còn rậm-rạp, cây chò-chai, cây dầu cả hai người ôm vẫn còn nhiều, ông Hải ròn mướn thợ cưa vào xẻ về làm nhà ở, xẻ được ít nhiều có chở về bớt một vài xe bò, số còn lại có lẽ kẻ nào xấu bụng báo cáo du-kích Vĩnh-cửu sang tịch-thu bắt dân vác về Đồng-lu một số, gỗ còn lại chất đống nổi lửa đốt cháy sạch sẽ, xui cho hai anh đẩy xe thồ đi chặt cây rừng, bị đốt cháy xe còn phải bị bắt vác một chuyến cây về đến Đồng-Lu mới thả cho về. Lúc nầy tôi cũng vào đây để lựa chặt một nếp nhà, cứ kiếm cây khế, cây dấp cứ cây nào thẳng thử rựa thấy cứng vừa ý là hạ, dứt đúng thước tấc róc mặt đẻo vỏ, tính đủ làm, vác hết qua sông.
Buổi chiều du-kích sang bắt cây ông Hải, hai anh em tôi đang chuyển cây qua sông. Tôi biết trước nên trốn thoát khỏi bị bắt vác cây. Người em chuyển dùm cây với tôi là vợ của cậu Quý, ở ngoài quê vào Saigòn thăm chồng là sinh-viên Đại-học bách-khoa lúc mới giải phóng, mợ về thăm ở lại nhà tôi, nhờ mợ đi vác giúp. Hai anh em chuyển cả ngày mới qua hết bên kia sông, đi mướn xe bò chở hết về nhà chất lại, vào rừng chặt tre chẽ rui, mè, hom tranh, lạt buộc vác về mấy chuyến đầy đủ. Vợ chồng vào dốc đồng ruộng cắt tranh, năm ấy tranh mọc quá nhiều, tha hồ mà cắt, chải chuốt đàng hoàng sạch sẽ, phơi khô bó chặt lại từng bó, dồn lại một đống kêu xe bò ông Trầm-Ninh Tây-lạc vào chở, chất hết lên một chuyến quá nhiều, không nặng nhưng nó cồng-kềnh, tranh khô trơn, đường ổ gà xe bò kéo đi bị lắc-lư tuột đỗ mấy lần, phần trời tối đói bụng khát nước, hai anh em sắp xếp lại mệt muốn đứt hơi, nhờ ông Ninh hồi ấy rất khỏe, chịu khó làm nhiệt tình, xếp lại xong ràng-rịt kỷ-lưỡng cũng đưa được xe tranh về đến nơi. Tôi mừng quá cám ơn, uống nươc xong bỏ tranh xuống trả tiền xe cho ông về cũng hơi muộn. Làm sàng chất hết lên đậy lại che mưa nắng kỹ-lưỡng.
Đầu tháng 10/1980 về quê thăm cha mẹ anh em. Về xe lửa bước xuống ga Thừa-Lưu xách gói rảo bộ về làng, đi đến một quảng đường cở cây số, gặp một toán trẻ em đi lên xã học tiểu-học. Tôi hỏi các em ở thôn nào đi học xa rứa ? các em trả lời ở thôn Phú-Gia, các em có biết ông Đính không ? các em trả lời có biết, ông đã chết chôn hôm qua rồi. Một cú xốc bất ngờ đầu óc choáng váng bước hết muốn nổi vừa đi vừa khóc, bụng bảo dạ phải chi mình về sớm được vài ngày cha con nhìn mặt nhau lần cuối, đi đến nhà nhìn thấy bàn thờ bát nhang bài-vị, đứng khóc than một lát cho vơi bớt nổi lòng, tôi tự trách mình là người con trưởng bất hiếu, sống xa quê hương cũng vì tương-lai của con-cái, khi cha qua đời chẳng lấp được một lát đất, thật là vô dụng, cầm nén hương ra mộ thấy đống đất mới, thắp ba cây nhang xá nấm mộ ba xá khóc một lát rồi ra về nhà với mẹ. Bà con đến thăm họ cũng góp lời an-ủi. Ở lại với mẹ đến ngày 9/9 âm lịch là ngày chạp mã lúc ấy, bây giờ dời lui ngày 9/8 âm-lịch, chạp mả cúng bái xong. Rủ mẹ vào Nam sống với con cháu, bà chịu đi theo vào đến nơi nhìn thấy hoàn-cảnh nhà cửa của con cháu ở như cái ổ chuột chẵng giống ai, bà rưng-rưng nước mắt, mẹ ở được hơn tuần lễ thì vợ chồng đi thu-hoạch lúa rẩy, nhờ rẩy mới nên lúa tốt cũng trúng mùa, thu-hoạch 5 sào được 25 bao 50, chở về chuyến xe bò đầy, mẹ thấy cũng mừng, vợ chồng phải đi làm liên-tục, bà ở nhà với cháu bỏ tranh ra đánh hom sáu cả hai tuần lễ mới hết đống tranh, tôi sắp lại đếm được 400 tấm, mỗi tấm dài 1m20, tấm lợp đã đủ.
Công việc hơi vản, tháng 10 trời hết mưa, nhờ ông Khiêm một tay với tôi dỡ đống cây ra làm thợ mộc cưa ngàm đục lổ ráp 4 vài kèo làm nhà ba gian dài 6m ngang 4m làm mộc xong, buổi sáng sớm nhờ ít anh em trong xóm đến phụ dựng lên bỏ đòn dông chống chỏi vững vàng, anh em về nhà ăn cơm đi lao-động. Một mình tôi cắm cúi đóng hết đòn tay, làm hai mái rui tre đóng đinh buộc dây cưa tề bằng phẳng ngắm mấy hàng cột sửa lại cho thẳng nện cứng. Đóng bổ vách cột sườn vào để vắt vách đất.
Dở đống tranh ra tề đầu bằng phẵng chải sạch sẽ sắp có hàng lối tưới nước lên, cho tấm tranh nở cứng khi lợp đưa lên mái nhà khỏi tuột ra.
Tôi chuẩn bị sườn nhà sườn vách tiêm-tất, đi cậy nhờ anh em bạn-bè cũ và anh em trong khu-vực có ông Hải, ông Yến, ông Một ông Khiêm tập trung lại giúp cho, người lợp mái kẻ vắt vách ai biết việc gì làm việc ấy, làm một ngày là xong, buổi trưa nghỉ dùng cơm làm lại buổi chiều là hoàn tất, rửa tay chân bồi-dưỡng một chầu nhậu xã-giao, vui-vẻ, anh em không tính công cán gì, chỉ giúp đở nhau mà thôi, tôi cũng có lời cám ơn tất cả. Hôm nay có cái nhà tranh vách đất chắc-chắn cao-ráo rộng-rãi hơn, cái ở cũng tạm ổn, chỉ còn lo cái ăn.
Bắt tay vào làm kinh-tế vô sông Lạnh xẻ núi lấp suối làm ruộng lúa nước ngắn ngày, ngăn đập sông Lạnh làm thuỷ-lợi, đứng ra hô-hào bà con cùng làm. Sửa sang lều trại chắc-chắn, cha con ở làm có khi hai ba tuần khi một tháng mới về thăm mẹ, thăm nhà một lần, vợ sớm đi bộ vào làm một buổi chiều đường xa lo về sớm với con, tôi có về thì nghỉ tại nhà qua đêm sáng mai cũng đi ngay. Bà ở nhà với cháu bé, con dâu đi làm liên-tục, ít khi được ở nhà mẹ con chuyện-trò, thấy vắng-vẻ phần nữa xa lạ bà buồn quá nhớ quê, nhớ hai đứa con còn ở ngoài xứ bà đòi về, tôi giữ lại không cho, cầm chân bà được sáu tháng, có dượng Sinh con rễ của bà vào thăm, bà quyết một đòi về với dượng Sinh, tôi cũng phải chịu để mẹ về quê sống với hai em được bảy năm, rồi bà cũng đi theo ông. Kể từ năm 1987 tôi mất hết cả cha lẫn mẹ, cha thọ 70 tuổi, mẹ thọ 72 tuổi.
Kể từ khi miền Nam được giải phóng, hơn 10 năm sau nhà nước có chính-sách đổi mới, bỏ việc ngăn sông cấm chợ cho đi lại buôn-bán tự-do, ra lệnh dẹp bỏ các trạm kiểm-soát không cần thiết, nông dân tự-do sản-xuất làm ra của cải muốn bán cho ai cũng được, không thu mua ép giá, cho chở lương-thực đi lại tự-do, nông-dân mới vui-vẻ ham làm, tôi chăm lo sản-xuất dồi-dào lương-thực, gia-đình sử-dụng không hết, đem bán lấy tiền tích-luỹ dần-dần, mới có vốn mua trâu cày bừa ruộng, mua góp vật-liệu để chuẩn bị xây nhà. Lúc nầy vật liệu xây dựng vẫn còn khan-hiếm, hai thứ xi-măng và sắt, có tiền mà tìm mua cũng khó. Gạch có là của hợp-tác-xã Tây-lạc do ông Minh quản-lý bán cho, gỗ xuống trại cưa nhà ông Hạnh mua của ông Chiến-Khàn, ngói mua Tân-Vạn nhờ xe kéo ông Hoang-râu chở, sắt mua gom sắt phế-liệu Long-Bình, xi-măng mua lại xi-măng bồn của mấy mụ buôn mánh, về đổ vào thùng phuy bịt kín miệng để dồn chừng nào đủ vật-liệu thì mướn thợ làm. Tôi mua sắm các thứ vật liệu trước sau một thời-gian 4 năm mới đầy-đủ. Năm 1989 mướn thợ mộc thợ xây khởi công làm. Nhờ hai ông Quang thợ cả, một mộc, một xây, thợ phụ có ông Thành, ông Hưng, ông Thạch lãnh khoán làm cho.
Theo truyền-thống của xứ Huế sống cái nhà thác cái mồ, ăn ở nhà cửa xập-xệ bạn-bè khinh-bĩ, làng xóm cười chê. Nên tôi quyết chí phải xây cái nhà tương-đối để ở. Lúc nầy con trai trưởng và con gái thứ nó cũng đã lớn đi lao-động tốt, siêng-năng ngoan-ngoãn, biết tiết-kiệm, động-viên phải giúp mỗi người một tay, mới làm nổi cái nhà nầy. Để cả gia-đinh trú-ngụ cho đến hôm nay. Tính từ ngày làm thời gian đã 15 năm trôi qua, vẫn chưa được hoàn-chĩnh theo ý muốn, còn nhiều việc phải tu-bổ, nhưng vì già yếu, thiếu kinh-tế đành chịu thua.
BÀI 10. TUỔI TÁC CON CHÁU SẢN NGHIỆP HIỆN HỮU
Tính đến ngày 16/10/2003 tôi tròn 65 tuổi, vợ 64 tuổi, con tổng số 8 người, 4 nam, 4 nữ, đã lập gia-đình 2 trai, 2 gái, còn chung sống với cha mẹ 2 trai, 2 gái chưa có gia-đình.
Con gái đầu lòng 41 tuổi, con gái út 21 tuổi, cháu nội ngoại tổng cộng 11 đứa
Đất ruộng nằm bên sông Lạnh ấp 6 xã Tân-An, huyện Vĩnh-Cửu và tại đồng Tân-Bắc thuộc xã Bình-Minh do tay tôi khai-khẩn, vẫn còn giữ nguyên để cho con cháu làm ăn sinh sống, những đứa nối nghiệp cha, còn các đứa khác, nếu có thất-cơ lở-vận cũng có đất để làm mà sống.
Gia-đình thường trú số 213 thôn Nam-Hòa, ấp Bùi-Chu, xã Bắc-Sơn, huyện Thống-Nhất, tỉnh Đồng-Nai.
Nhà cửa cũng có để che mưa nắng tạm ổn tuổi gìa, trông lên thấy chẳng bằng ai, vẫn còn khó-khăn thua kém bạn bè trang lứa, nhưng nhìn xuống cũng có người khó-khăn hơn mình. Tôi tự an-ủi cho cuộc sống của mình khi đã đến tuổi gìa yếu, gần đất xa trời để bớt lo nghĩ bon-chen, tinh-thần được thoải-mái hơn.
Tôi xin cám ơn, xin đa tạ Trời Phật, Tổ Tiên Ông Bà phù hộ mạnh khỏe cả gia-đình chúng tôi. Cám ơn Bác, cám ơn Đảng đem lại độc lập tự-do cho đất nước. Riêng gia-đình tôi cũng được cơm no áo ấm, con cái học hành tương-đối, có nghề-nghiệp làm ăn để sống. Nói chung toàn thể nhân-dân được nhiều nhà hạnh-phúc, xã-hội văn-minh.
Tôi mong rằng : các thế-hệ hậu sinh phải ăn ở cho có đạo-đức, noi gương các bậc tiền-bối học hỏi không ngừng, để nâng cao trình-độ kiến-thức. Biết cần, kiệm, liêm. chính mới tiến thân làm nên sự-nghiệp cho bản-thân, gia-đình và xã-hội.
Biết trung, hiếu, lễ, nghĩa, trí, tín, không nên đua-đòi bắt chước kẻ xấu tham-lam, gây tội ác, ăn chơi truỵ-lạc, làm mất đạo-đức văn-hóa con người, đối với bản-thân và gia-đình của xã-hội, đất nước Việt-Nam.
Trãi qua đoạn đường đời mà tôi đã đi, trong một thời-kỳ chiến-tranh ly-loạn, gặp biết bao nhiêu sự nhục-nhã gian-nan, nguy-hiễm đủ điều thử-thách quật ngã cuộc đời. Nếu không có tinh-thần nhẫn-nại, dũng-cảm, hy-sinh bền chí gượng dậy làm lại cuộc đời cho bản-thân, gia-đình để đóng góp với xã-hội và đất nước. Làm sao mà có ngày hôm nay đang được sống vui, sống khỏe, hạnh-phúc với vợ con.
Tôi nghĩ trên đời có ai biết được chữ ngờ, đời tôi đã sắp qua, đời con cháu tiếp nối, nên nhớ rằng :
-Lúc thắng chớ kiêu, khi bại chớ nản, thua keo nầy bày keo khác, sông có khúc, người có lúc, cuộc đời được thua vinh nhục là thường tình. Sau cơn mưa trời lại sáng, do đầu óc của mình biết tuỳ cơ mà ứng xử. Là người quân-tử, không nên tham-lam, gian-trá, xu thời, nịnh bợ, bè phái ăn hiếp kẻ yếu, cao ngạo, hoặc cố chấp, phải hiểu biết thông-cảm mở rộng lòng thương nhân-loại, đừng nên tự-ty mặc-cảm là có hại cho tinh-thần, gây thất bại mọi mặt.
Dù có cực-khổ đến ngần nào cứ ung-dung vui-vẽ thoải mái, cố gắng siêng-năng lao-động, học-tập, ăn ở đối nhân xử thế cho phải đạo. . . là sống bất cứ nơi nào cũng tốt.
Trời nào phụ kẻ có nhân
Ngời mà có đức muôn phần vinh hoa.
(ca dao)
HẾT
Tác giả : PHAN VINH
Viết bản thảo hoàn tất, Bùi-Chu, ngày 23/9/2003
Nhằm ngày : 27 tháng 8 năm Quí Mùi
PHỤ TRANG
Việc làm và tinh-thần văn-hóa có ý nghĩa của đời tôi :
1. Năm 1996, về quê nhật tu gia-phả sao lại thỉnh vào để thờ phụng tại tự-đường gia-đình Đồng-Nai.
2. . Năm 2000, về quê chứng-kiến động-viên tinh-thần
các cháu xây lăng mộ Tổ-Tiên.
3. Năm 2001, về quê xây lăng-mộ ấm-cúng cho Ong-Bà Ngoại và cha mẹ ruột.
4. Năm 2003, biên-soạn gia-phả chữ Việt.
5. Năm 2003, viết xong quyển Hồi-Ký PHAN-VĂN-VỊNH.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
1
Chương I : Tuổi ấu thơ và niên thiếu.
Bài 1 : Bối cảnh, thời gian, sự việc 2
Bài 2 : Mái nhà xưa làng xóm cũ. 11
Chương II : Bổn phận công dân.
Bài 3 : Bản-thân gia-đình xã-hội 14
Chương III : Nghĩa-vụ quân-sự
Bài 4 : Đăng-ký lính Biệt-Động-Quân Miền Nam 17
Bài 5 : Một trận đánh nhớ đời 24
Bài 6 : Phục-vụ Hậu-cứ, Tiền-trạm,
Quản-trị quân-số và Tiếp-liệu. 27
Chương IV : Sinh-hoạt và cuộc sống sau ngày giải-phóng
Bài 7 : Người dân chưa được thừa-nhận 36
Bài 8 : Từ ngày được nhập hộ- khẩu,
Cải-tạo nguỵ-quân tại điạ-phương 39
Bài 9 : An-cư lập-nghiệp 42
Bài 10 : Tuổi-tác con cháu sản-nghiệp hiện hữu năm
2003. 48.
Phụ trang 50.
-(Mời quý vị độc-giã xem tiếp những tác-phẩm truyện ngắn, bút ký, nghị luận cũa tác-giả sáng-tác sau quyễn Hồi-Ký).
___
ÔNG BA-CANG Ở LÀNG PHÚ-MỸ.
của Phan-Vinh
1.-Thời Thực-dân Phong-kiến ở làng Phú-Mỹ có một gia-đình địa-chủ ông bố hay chữ Hán thuộc hạng thông-thái nhất trong làng thời còn trẻ làm Lý-Trưởng, hét ra lửa dân làng ai-ai thấy ông cũng khiếp vía. Khi tuổi cao làm chức-sắc đứng hàng tiên-chỉ. Sinh ba người con, hai gái một trai, phong-tục thời xưa trọng nam khinh nữ, hai chị em gái không cho đi học chữ, cho học thêu-thùa may vá, công việc đồng-áng, nội-trợ, đến khi khôn lớn trưởng-thành gã lấy chồng hết. Cang là một cậu ấm đẹp trai, được bố mẹ nuông-chiều như trứng, nhưng đầu-óc quá khờ-khạo, thích rong chơi, lười-biếng không chịu học hành.
2.-Khi tuổi còn thơ, bố mẹ mướn thày dạy chữ Hán cho cậu tại nhà sáu năm trời, cậu học trước quên sau, chữ trả cho thày, mất công tốn cũa chẵng được tích sự gì. Sau thời Đông-du phục-quốc của cụ Phan-Sào-Nam chữ Quốc-ngữ có chiều-hướng thịnh-hành hơn, bố mẹ cậu lại cho cậu đến trường học chữ Quốc-ngữ, cậu đi học liên-tục hơn mươi năm mà thi lấy mảnh bằng yếu-lược cũng chẵng đậu, gia-đình sợ mất mặt với làng xóm, ông bố phải chạy-chọt lo-lót mới thi đỗ được cái bằng yếu-lược, cậu học-hành thì dở, cái tài ve gái thì đứng số một, độ này tuổi cậu dã trưởng-thành, học thua chúng kém bạn, nên mắc cở không chịu đi học nữa, ở nhà đòi bố mẹ cưới vợ, cũng dược nuông-chiều cưới cho câu một cô vợ con nhà có ăn học đẹp gái thông-minh tương xứng thông-gia đôi bên gia-đình cùng môn-đăng hộ-đối. Vợ chồng cậu vẫn chung sống với cha mẹ, tính-tình thật-thà theo phong-tục làng quê, còn vợ cậu thì khôn-ngoan lanh-lẹ biết đảm-đang giao-tiếp, Một ngày nọ chị Kiểng vợ cậu nghe bạn-bè kể lại rằng:
-Con nhà giàu có ăn học, đi ra làng xã hội hè đình đám, chỉ biết ăn no rồi ra về thua kém một người nông-dân chất-phác không được học-hành, thật là không biết xấu-hổ. Nếu cứ để suốt đời như vậy thì cũng được thôi, có câu tục ngữ người xưa nói rằng :
Nói ít lỗi ít, nói nhiều lỗi nhiều, không nói gì thì không có lỗi.
Ông già cũa anh dạo này cũng yếu hay bệnh-tật đau-ốm làm biếng đi lại, không thích giao-dịch hội-hè đình-đám nữa, nên anh phải thay thế.
Nhưng ở đời biển lặng cũng có ngày nổi sóng, chị vợ khuyên chồng:
-Chữ nghĩa thì anh đã được cha mẹ cho ăn học ít nhiều, anh cần phãi học ăn, học nói, học gói, học mở cho kịp chúng bạn, để nở mặt mày với gia-đình vợ con, làng xã. Anh chồng hứa với vợ:
-Năm nay lể hội đình làng anh sẽ trổ tài ăn nói cho em hài lòng.
Đến ngày hội làng tế-tự Thần-linh xong, khi đến lượt được phép ngồi vào bàn tiệc, bạn-bè ngồi chung bàn họ ăn nói có văn-hoá lễ-độ thật vui-vẻ. Riêng mình anh từ đầu đến gần cuối tiệc, chỉ biết chăm-chú ăn uống, chẳng nghĩ ra được câu chuyện gì để giúp vui cùng bạn-bè, nhớ lại lời khuyên cũa vợ anh cảm thấy xấu-hổ, lặng-lẽ bước ra ngoài cửa suy-nghỉ kiếm dề tài để phát ngôn.
Anh nhìn quanh khuôn-viên đình làng hồi lâu, trông thấy một bụi tre “trúc” to tướng, anh chợt nghĩ ra câu nói động trời và chết người như sau :
-Anh trở lại bàn tiệc, làm bạo nói lớn xin làng cho tôi có ý-kiến. Làng cho phép, anh nói:
-Tôi nhận thấy bụi tre của làng này to quá, nếu đốn xuống gông cả làng cũng vẫn còn thừa.
Anh vừa dứt lời, cả làng la lên cái anh nầy nói chuyện xui-xẻo, làng ta có tội gì mà anh đòi đốn tre gông cả làng chứ?
Các vị bô-lão ra lệnh cho trai-tráng bắt trói lại đánh một trăm hèo cảnh-cáo, phạt vạ một mâm trầu rượu và năm đồng bạc. Nếu không nộp phạt nhanh-chóng, sẽ dẫn độ lên cai tổng bỏ tù. Anh nhắn tin về nhà vợ anh lo đủ lể-vật đem đến nộp phạt, rồi xin lỗi làng mới cho lãnh chồng về.
Đến nhà vợ la chồng:
-Anh thật là ngớ-ngẩn, hết chi chuyện nói mà anh đi nói cái câu động trời như vậy, chị ta la to:
-Chồng ơi là chồng, ngu ơi là ngu. Anh ta nói lại:
-Cũng tại em đó thôi.
Ông bố đang uống rượu nhà trên, nghe hai vợ chồng cãi nhau , đi xuống hỏi cho ra lẽ, nghe con dâu kể lại, ông tức-bực chửi môt trận, rồi ứng khẩu thành thơ dạy anh tám câu thơ lục bát:
-Biết thì ăn nói đàng-hoàng
Không thì dựa cột đình làng mà nghe
Chớ nên nhìn thấy bụi tre
Nghĩ ra câu chuyện đốn tre gông làng
Vợ con cha mẹ bàng-hoàng
Xùm-xì to nhỏ xóm làng cười-chê
Im-lặng ăn uống ra về
Bày trò ăn nói kẻ chê người cười.
Từ đây về sau anh ta bị mất thể-diện và uy-tín với bà con xóm làng.
oOo
Thời-gian lặng-lẽ trôi qua đến năm 1945-1946 tình-thế thay-đổi , kinh-tế xuống cấp cửa-nhà sa-sút, cha mẹ anh đã già yếu đến lúc suy-sụp anh chẵng có cái nghề-nghiệp gì, con cái nhà nông mà không biết cầm cày cầm cuốc thì làm sao mà sống được. Ở nhà ăn bám cha mẹ vợ con, ra xã-hội ăn bám bạn-bè, anh đánh hơi nghe tiếng bà con, bạn-bè làng xóm, có ai đụng dao đụng thớt làm thịt cầy hoặc thịt trâu già mất sức kéo, mò đến xía vào làm một bụng. Lúc túng quẩn anh trổ tài chôm-chỉa sống qua ngày. Có khi xui-xẻo bị bà con phác-giác bắt quả tang, nhận thấy hoàn-cảnh của anh quá khốn-đốn nên cũng thông-cảm tha cho. Vợ con thì đau-ốm liên-tục, không có tiền thang-thuốc, vợ phải lìa đời khi tuổi còn đang trẻ, mới sinh ba mặt con, sau ngày vợ anh mất, bố mẹ anh hết người nương-tựa, buồn-rầu đau-ốm rồi cũng qua đời hết, bỏ lại một mình anh gà trống nuôi ba đứa con dại, hai đứa bé đói-khát bịnh-tật cũng theo mẹ về âm-phủ, còn lại được đứa con gái đầu lòng sống với anh.
oOo
Sau ngày đình-chiến năm 1954 được yên-ổn dân-chúng hồi-cư về làng làm ăn phục-hồi kinh-tế. Con gái anh cũng lớn lên nhờ được. Dạo này tuổi của anh cũng gần năm mươi. Ông đi theo mụ Hồng góa chồng, mụ nầy rất khỏe-mạnh siêng-năng, rước về ăn ở với nhau, thế là vợ và con gái đi làm nuôi ông, ông là con người lười-biếng có hạng, tuổi trẻ sống nhờ cha mẹ, khi lớn tuổi sống nhờ vợ con.” Câu tục ngữ dân-gian thường nói :
-Khi làm chẳng thấy lão đâu,
khi ăn thì lão đứng đầu tiên-khai.
Ông sống vô tích sự, làm ô-uế xã-hội.
Sau tết Mậu-Thân năm 1968, chiến-tranh leo thang ác-liệt, con gái ông đã có chồng, cô thoát-ly theo chồng vào mật-khu chống Mỹ bị bom đạn hy-sinh cả chồng lẫn vợ.
Mụ Hồng vợ chắp-nối của ông dạo nầy già-yếu bệnh-hoạn, cửa nhà cũng tan-nát vì chiến-tranh, không làm ăn gì được, chồng thi chiêu, buồn-rầu đau-ốm cũng qua đời. Bỏ lại cho ông hai người con khôn lớn nhờ được, năm 1975 miền nam được giải-phóng, thống-nhất đất-nước. Người con trai lấy vợ ra riêng, còn lại cô con gái lỡ thời ở với ông. Hồi-cư về làng che một cái chòi tranh cha con trú-ngụ.
Những ngày mới giải-phóng, kinh-tế nói chung rất khó-khăn. Ruộng đất của ông già để lại xung vào làm ăn tập-đoàn, tập-thể. Ông Ba Cang lúc này đã già-yếu, một mình cô con gái đi làm nghề nông ăn công tính điểm làm sao nuôi đủ hai khẩu, cái khó khăn trước mắt, con gái ông còn đèo-bồng, không chồng mà chửa, rồi sinh con, ôm con dại.
Thì thử hỏi lấy gì mà sống. Bà con làng xóm trông thấy gia-đình ông thật là thê-thảm, lúc này cha con ông sống nhờ vào cứu-trợ của bà con đoàn-thể bữa khoai lang, bữa cháo sắn sống qua ngày.
oOo
Thời gian mười năm, tính từ ngày giải-phóng, đất nước được đổi mới dân làng ăn nên làm ra, già trẻ gia-đình nào cũng sửa-sang nhà-cửa, kẻ có tiền nhiều xây-dựng khang-trang, người còn khó-khăn họ cũng sửa-chữa tương đối, quê-hương miền Trung thường mưa bão khắc-nghiệt quý-vị độc-giả cũng thường nghe. Cha con ông chỉ ở túp lều xiêu vẹo dột nát đến mùa mưa bão trông thật là thảm-thương. Thuộc vào diện xóa dói giảm nghèo ăn bữa hôm, thiếu bữa mai, công đâu, tiền đâu mà có vật-liệu sửa lại nhà cửa.
Khi có chính-sách nhà nước Xã-Hội Chủ-Nghĩa tặng nhà tình-thương đợt đầu tiên cho hộ xóa đói giảm nghèo không có khả năng làm nhà.
Xã cấp cho ông mấy chục tấm tôn và một số xi-măng, ông đi nhờ anh em bà con đúc cho ông một nếp cột xi-măng cốt sắt, ông cũng đi nhờ anh em lối xóm xúm lại dựng giúp ông cái nhà mới, cột xi măng kèo đòn tay bằng gỗ, trên lợp tôn, vây chung quanh vách bằng tranh lá kín-đáo được hơn vài chục mét vuông, cha con ông có một cái nhà ở khỏi bị mưa dột, tạm ổn cho cha con, ông cháu sống qua ngày.
Năm 2003, đất nước trên đà phát-triển nhà nước mở-mang đường-xá giao-thông, dùng máy-móc hiện-đại, ông Ba-Cang năm nay dã quá già, mắt mờ tai điếc nhưng bản chất còn hiếu-kỳ, thấy chiếc xe hủ-lô đang làm đường quốc-lộ 1A đậu nghỉ giải-lao tài-xế vẫn ngồi trên xe uống nước, ông bước vào bánh xe sau để sờ-mó, anh tài-xế chẳng nhìn thấy, de xe lui đằng đường, đằng nhằm ông dẹp lép như chiếc bánh tráng, thế là kết-liễu cuộc đời ông Ba-Cang.
Ông sống thượng thọ 82 tuổi.
Tai nạn này công-bằng mà nói, bác tài-xế xe hủ-lô chẵng có lỗi, mà lỗi là do người sờ xe gây ra.
Nhưng vì lòng nhân-dạo, thương ông cụ già chết thê-thảm không toàn thây.
Chủ thầu cũng thương-lượng với gia-đình nạn-nhân giúp-đỡ một cỗ quan-tài, một số ngân-khoản, để hiếu-chủ lo ma-chay tống-táng.
oOo
-Hay dở, đúng sai, tốt hoặc xấu. Ông cũng là một vị Lão-Thành trong làng, nghĩa-tử là nghĩa-tận, làng cũng mang chiêng, trống đến gia-đình hiếu-chủ dể treo lệnh, các cụ Phụ-lão phãi chia phiên nhau trực để đánh lệnh “đánh chiêng trống”, khi có khách hành-hương đến phúng-điếu, hoặc nghi-thức cúng-bái đám ma do hiếu-chủ yêu-cầu.
-Xóm-giềng, Làng, Xã, Mặt-Trận, Đoàn-thể địa-phương cũng đến thăm-viếng phúng-điếu.
-Ngày đưa đám, nhiêm-vụ cũa Đoàn-thể Nông-Dân, Thanh-Niên vác đòn Rồng đến kết lại thành một dàng khiêng, chọn lựa một số khoẽ mạnh gánh-vác được, lập thành một Đội Âm-Công, cử một ông đứng tuổi có năng-khiếu làm Cai-Dang “Đội-Trưởng”, để chỉ-huy toàn đội vào sân bái quan, đánh cặp sanh ra lệnh toàn đội chạy Cửu-Long, Tứ-Trụ xong, rẻ trái phãi hai hàng dọc, rồi ra hiệu lệnh tiến vào nhà nhắc quan-tài ra để lên dàng khiêng, theo lệnh cũa Cai-Dang đánh sanh cã Đội từ-từ nâng dàng khiêng lên vai rồi đi ra đồng đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng, mới hoàn thành nhiệm-vụ của làng-xóm phục-vụ cho người quá-cố.
-Sau khi hạ huuyệt xong, cã Đội tháo bộ tuồng-đòn ra vác về để tại đình làng, rồi ai về nhà nấy, không đuợc ăn-uống nhậu-mhẹc tại nhà héo.
-Đó là phong-tục tập-quán ngày xưa và luật-lệ thời nay cũa làng Phú-Mỹ.
Ông là con trai độc nhất được sinh ra trong gia-đinh địa-chủ giàu-có, cường-hào, thời thực-dân phong-kiến, được cha mẹ nuông-chiều, muốn gì dược nấy, thuở còn bé chẳng chịu học-hành, rong chơi lêu-lỏng, đến tuổi mới lớn, thì đam mê mèo chuột, gái trai, biết yêu đương quá sớm, bị chi-phối đầu-óc làm sao mà tiếp thu chữ-nghĩa được nữa.
Cuộc đời ông được sung-sướng nhất từ lúc mẹ ông sinh ra, cho đến ngày được cha mẹ cưới vợ cho ông, thời-gian này khoảng 18 hay là 19 năm mà thôi.
Đén lúc hết thời hưng-thịnh của ông bố. Từ đó về sau, Ông ta toàn gặp những điều bất-hạnh .
oOo
3.-Con người khi có tiếng khóc chào dời còn tệ hơn con vật, loài vật khi được sinh ra đã có tất cả môi-trường để sống.
Ví dụ : Con cá có nước đầy vi-khuẩn, con chim có rừng đầy côn-trùng sâu-bọ, con trâu con bò thì có đồng cỏ để ăn v.v.
Con người chào đời chẳng có cái gì ? Chỉ hai bàn tay trắng mà thôi.
Khi còn thơ-ấu nhờ cha mẹ nuôi dưỡng cho ăn, cho bú, lên ba, lên bốn tuổi dạy-dỗ, đưa vào trường lớp cho học-hành, ước mong sau này con của mình được thành-dạt. Vào đời có chút vốn-liếng làm ăn, khôn-ngoan biết ăn ở, đối-nhân xử-thế, làm người cho ra người.
Có bằng cấp văn-hóa, nghề-nghiệp cao-cấp, thì làm sao mà nghèo đói nổi. Từ ngàn xưa cho đến nay, những người quyền cao chức trọng, giàu-sang phú-quý lâu bền, lưu-truyền nhiều thế-hệ cho con cháu, nhờ chịu khó học-tập lao-động rèn-luyện thân-thể trau-dồi đạo-đức, có kiến-thức văn-hóa cao-siêu và uy-tín với gia-đình xã-hội mới được như vây.
Thế-hệ bây giờ đang sống trong thế-kỷ 21, đất nước được hòa-bình, độc-lập, thống-nhất 31 năm nay, đang trên đà phát triển mọi mặt, để hội nhập vào thương-mại thế-giới, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã-hội văn-minh.
Con người ước muốn giàu-sang danh-vọng, được vui tươi, sống hạnh-phúc.
Thế-hệ trẻ bây giờ nên cố gắng chăm-chỉ học-hành đỗ-đạt thành tài, sau này mới mong sung-sướng được. Ở trên đời nầy mọi cái đều phải trả giá bằng mồ hôi nước mắt, nếu cần phải hy-sinh xương-máu, mới có giá-trị tồn-tại lâu-bền.
Nếu ai đó vô ý thức, quen lối sống ăn bám gia-đình xã-hội, làm những việc bất-lương bất-chính, phải mau-mau hối cải, làm lại cuộc đời cũng không muộn, con người đủ sức-khỏe có thể sống tới trăm năm.
Sống đời thừa vô tích sự, một thứ cặn-bã gánh nặng cho gia-đình, xã-hội, như Ba-Cang, khi sống cũng như lúc chết, thì chẳng nên sống làm gì cho đến thượng thọ.
Người ta sinh một lần rồi chết cũng một lần. Có câu tục ngữ nói rằng :
-Hổ chết dể da, người ta chết để tiếng”. Những kẻ dốt-nát tiểu-nhân, sống hành-động bất chính, khi chết rồi còn để lại tiếng xấu xa.
Người có chí học-hành cao-siêu, khôn-ngoan đúng mực, sống cứu nhân độ-thế, khi đến thời-kỳ cõi Tiên ghi tên vào sổ, được thăng Thiên, hoặc tiêu-diêu nơi miền Cực-Lạc, hay là về với Ông Bà, đều được ân đền lập lăng miếu để thờ, rạng danh cho gia-tộc, tiếng thơm lưu truyền đến nghìn năm muôn thuở.
Thế hệ con cháu sau này nên lấy đó làm gương.
HẾT
(Viết xong bản thảo ngày 05 tháng 11 năm 2006.)
(Viết về quê-hương)
TRUYỆN KỂ CON RỒNG
của Phan-Vinh
___
Phần I.-
TÌM LONG ĐIỂM HUYỆT NGÀY XƯA
Truyền thuyết dân gian thời xa xưa.
Những ngày tôi còn thơ-ấu mùa hè nghỉ học ở nhà đi làm mục-đồng chăn trâu cùng với một cụ già lão Lai trong làng, ông cụ là người có học Hán Nôm, thuột vào hạng trí-thức văn-hoá thời ấy.
Ông cụ thấy tôi là học trò được thầy đồ dạy-dỗ lễ phép, nên ông rất thương mến, những ngày cho trâu ra đồng chăn thã hai ông cháu tôi vẫn quanh quẩn bên nhau, tôi rất thích ông cụ kể chuyện đời xưa, những chuyện văn-học lịch-sử địa-lý của Tàu của Ta, truyện Tàu thì có các nhân vật anh hùng như: Việt-Vương Câu-Tiễn, Kinh-Kha, Nhiếp-Chánh, Trương-Lương, Lưu-Bang, Hàn-Tín, rồi đến Lưu-Bị, Quan-Công v.v…
Nhưng hồi ấy tôi mê nhất là truyện Tây-Du-Ký. Còn truyện Ta thì Lạc-Long-Quân, qua sáu đời vua Hùng, rồi tới Thánh Gióng dẹp giặc Ân, tới Trưng-Trắc, Trưng-Nhị, tới các vị vua chúa đời xưa Đinh-Bộ-Lĩnh , Lê-Lợi, Quang-Trung .v.v…
Ngày nào tôi cũng năn-nỉ ông cụ kể chuyện cho tôi nghe, từ chuyện Tàu đến chuyện Ta, tôi càng nghe ông kể càng thích thú.
Những chuyện Việt-Nam tôi thích nhất là Đinh-Bộ-Lĩnh, nhỏ cũng đi chăn trâu như ông cháu tôi , bẻ bông lau làm cờ tập trận, sau lớn lên chiêu-mộ binh-sĩ đánh trận dẹp được mười hai sứ quân, thống-nhất đất nước, xưng Vua là Đinh-Tiên-Hoàng-Đế. Tôi nghe ông cụ kể dứt câu, tôi thích quá, ước gì ông cháu mình làm được như ông Đinh-Bộ-Lĩnh ngày xưa ông hỉ:
-Ông nói lại không được mô cháu ơi. Ông ấy là con của trời sai xuống trần-gian mới được như rứa. Ông cụ nói tiếp:
-Ông cũng có nghe mấy cụ già đời ông cố ông cha kể lại cho ông nghe như thế nầy…, để ông kể lại cho cháu nghe. Tôi thích quá xúi:
-Ông kể tiếp cho cháu nghe đi ông. Ông lại kể: ngày xưa các ông thầy Địa-lý thường hay đi tìm long điểm huyệt, nếu chôn hài cốt của cha mẹ nằm trúng hàm con rồng thì được phát làm vua hay làm quan to trong triều-đình, nếu không được làm vua quan cũng được giàu-sang suốt đời sung-sướng, ông nói tiếp:
-Ngày xưa có mấy ông thầy địa-lý ở bên Tàu hay sang nước mình tìm long điểm huỵêt. Ở ngòai Bắc có mấy con sông lớn lắm, không biết là sông Hồng-Hà hay Thái-Bình gì đó? Ông Đinh-Bộ-Lĩnh thã trâu chăn trên bờ sông đến trưa trời nắng nóng, trâu của ông xuống sông để đằm cho mát, ông cũng lội xuống sông tắm rửa bơi lặn, gặp một con rồng khổng lồ dang nằm dưới giòng sông, làm bạn với ông rất là dể thương, nên thường ngày trời nóng, trâu xuống sông đằm ông cũng xuống tắm lặn xuống cỡi con rồng chơi cã tiếng đồng hồ mới lên bờ cỡi trâu về nhà. Hàng ngày có một ông thầy địa-lý người Tàu biết dưới gìòng sông nầy có một con rồng đang nằm dưới đáy sông, ông ấy ngày nào cũng đến ngồi trên bờ sông theo-dõi tình-hình thấy cậu mục-đồng bơi lặn xuống sông cã tiếng đồng hồ mới lên, ông ta nghi-kỵ chắc có chuỵện bí-ẩn gì đây, nên ngày nào ông ấy cũng lân-la dò-xét.
Một ngày nọ ông tìm cách làm quen với cậu bé chăn trâu này, ông mang quà bánh đến tặng rồi chuyện-trò dò hỏi. Hôm nào ông ấy cũng đến thật sớm ngồi trên bờ sông rình chờ cậu bé tắm xong bước lên bờ thì ông ta mò đến tặng quà và hỏi thăm cậu bé. Câu bé cũng vui-vẻ nói chuyện , ông ấy hỏi cậu bé hôm nào cháu cũng lặn xuống sông làm gì mà lâu đến thế ?
-Nói thật cho bác nghe rồi bác cho cháu thêm tiền nữa đấy. Cậu bé kể:
-Cháu lặn xuống chơi với bạn cháu vui ơi là vui, bạn cháu là một con rắn khổng-lồ rất hiền-hòa vui-vẻ, nhanh-nhẹn bửa nào cháu cũng giỡn với nó, cháu cỡi lên lưng rồi sờ mó râu ria mồm miệng nó hiền khô bác ạ. Ông thày địa-lý bão:
-Vậy thì cháu tã hình-dáng con rắn ấy cho bác nghe xem nào ? Cậu bé cũng tã thật:
-Đầu nó to có nhiều sừng, lại có hai sợi râu dài, hai con mắt nó lồi, miệng rộng, mình dài có vẩy, đuôi có nhiều vi, bốn chân có móng vuốt đại khái là như vậy đó bác ạ. Ông ta chẵng còn nghi ngờ gì nữa đích thật là có con rồng nằm dưới giòng sông nầy rồi. Ông ta đi về nhà suy-nghĩ tìm cách làm sao đưa được hài-cốt của ông bố đến nằm trên hàm con rồng, để ông và con cháu sau này phát-đạt làm vua quan giàu có, ông ta cũng hiểu rằng: Để được hài cốt trên hàm thì được làm vua, trên lưng thì được làm quan, hay giàu-có, nếu ai đó không hiểu xui mà trúng nhằm cái đuôi thì tán gia bại sãn. Nếu con rồng này mà nó nằm dưới lòng đất thì quá dễ đối với ông, chỉ về mang hài-cốt đến đào đất lên để xuống ngay cái hàm là hay biết mấy. Ngặt vì một nổi nó nằm giữa giòng sông thì thật là khó nghĩ cách thực-hiện ý đồ, dưới nước thì làm sao mà để hài cốt lên hàm được, nếu có để lên được nó sẽ trôi đi mất. Đêm về ông không ngủ đựơc, cứ nằm suy nghĩ mãi, cuối cùng ông cũng tìm được một cách:
-Chỉ có cho vào mồm để nó ngoạm càng tốt, nếu nuốt vào bụng thì cũng hay.
Ông ta quay trở lại giòng sông tìm cậu bé mục-đồng để thương-lượng dụ-dỗ.
Khi ông đến găp lại cậu bé trước hết ông ta tặng quà bánh, hai bác cháu tâm-sự với nhau một lát rồi ông ấy hỏi cậu bé cháu chơi với bạn vui như thế mà có khi nào nó há mồm cho cháu thò tay vào được không ?
Cậu bé trã lời với ông, tưởng gì chớ cái đó thì dễ ợt, cháu còn đút cho nó ăn quà bánh của bác cho và ăn cơm của cháu nữa cơ. Ông vừa nghe cậu bé nói dứt câu, trong bụng ông ta vô cùng phân-khởi, ông ấy nói với cậu bé, bác có một gói quà để tặng cho bạn cháu, không hiểu bạn cậu có chịu nhận của bác không ? Cậu bé nói lại:
-Nếu bạn ấy không nhận cháu sẽ tìm cách thuyết-phục chắc bạn ấy sẽ nhận ngay. Ông ấy nói:
-Nhưng khốn nỗi nhận của bác bạn ấy phãi tiêu-dùng, bằng cách ngoạm vào miệng càng tốt, nếu nuốt vào bụng cũng được, chứ nhận rồi bỏ đi thì không nên. Cậu bé nói:
-Đương nhiên nhận thì phãi dùng chứ. Nếu được như lời cháu nói thì bác trọng thưởng cháu rất hậu.
Cậu bé hỏi lại:
-Nếu cháu làm được như ý định của bác, bác tặng cháu món gì nào ? nói thật ra đi cho cháu biết mới đuợc. Ông ấy trã lời:
-Bác sẽ tặng cháu một ngàn lạng vàng được chưa ?
Cậu bé nói: -Nếu đúng như lời hứa cháu sẽ giúp bác, bác thật là người giàu-có và tốt bụng.
Cậu bé suy-nghĩ bâng quơ một lát, rồi thưa lại với ông rằng:
-Bác cháu mình nói chuyện với nhau như vậy, nhưng bác thư-thã cho cháu một vài hôm để cháu còn thuyết-phục bạn cháu đã, bạn cháu có chịu hay không sẽ trã lời với bác một ngày gần đây. Ông ấy dặn dò với cậu bé một lần nữa:
-Cháu ráng cố-gắng giúp bác, bác thương cháu lắm. Rồi hai bác cháu chia tay, ông ấy ra về rất phấn-khởi, ông tự cho mình là thông-minh, nghĩ ra được một kế thật hay, trong lòng ông rất tràn đầy hy-vọng, ý nghĩ của ông tiền nhiều thì làm việc gì mà không được.
Hai hôm sau ông ấy trở lại tìm cậu bé hỏi ?
-Việc bác nhờ cháu giúp đã đi đến đâu rồi. Cậu bé trã lời:
-Cháu đã thuyết-phục bạn cháu rât vui-vẻ và chấp nhận . “Chuyện giữa con rồng và cậu bé Đinh-Bộ-Lĩnh chỉ có trời mới biết”.
Cậu bé mục đồng bão ông ấy bác cứ về mang gói quà của bác đến đây cháu sẽ giao cho bạn cháu tiêu dùng được chưa? Nhưng đầu óc ông ấy vẫn còn đa nghi chưa tin lắm, nếu nhận rồi bỏ đi thì mất tong. Cậu bé thông minh hiểu ý, nói với ông ấy rằng: bác mang gói quà đến bác cháu mình cùng lặn xuống sông chứng kiến cháu trao cho bạn cháu ngoạm rồi bác cháu mình mới bơi lên nhé.
Nghe cậu mục-đồng nói như vậy là chắc ăn rồi, trở về đào mã cha hốt hài cốt gói gắm kỹ-lưỡng mang đến, bác cháu lặn xuống đưa cho con rồng ngoạm vào miệng rồi trở lên bờ sông trao đủ một ngàn lạng vàng cho cậu bé còn cám ơn rối-rít, ông ấy ra về trong lòng phơi-phới tràn đầy hy-vong sự-nghiệp cũa ông và con cháu sau này sẽ phát-đạt rạng ngời. Sau này ai đươc con rồng ngoạm hài cốt làm vua mới biết, cứ xem tiếp sẽ rõ.
Sau khi Đinh-Bộ-Lĩnh nhận số vàng lặng-lẻ mang về chôn cất kín đáo, ngày sau cũng cho trâu ra bờ sông chăn thã như mọi bữa, đến trưa nắng, trâu xuống sông đằm, ông cũng lặn xuống chơi với bạn, con Rồng chỉ gói quà cho ông mở ra xem thấy toàn là sọ xương người, ông đâm ra suy-nghỉ việc nầy quan-trọng lắm nên ông Tàu này mới thưởng cho mình số vàng nhiều như vậy.
Con Rồng ra giấu cho Đinh-Bộ-Lĩnh hiểu ý về bốc hài-cốt của thân-nhân mang đến rồng sẽ ngoạm ngay. Rồi từ đó bắt đầu phát-đạt, khi còn đi chăn trâu bẻ bông lau làm cờ tập trận với các bạn mục-đồng, khi ông khôn-lớn đem số vàng của ông Tàu thưởng ra chiêu binh mãi mã đi đánh trận tiêu-diệt được mươi hai sứ quân, thống-nhất đất nước. Tự xưng danh hiệu lên ngôi Đinh-Tiên-Hoàng Đế.
Sau khi đất nước được thống nhát, Đinh-Tiên-Hoàng thường hay mở tiệc chiêu-đãi quan quân, vì nhậu quá say kể lại cặn kẻ đời tư của ông cho một vị quan cận thần nghe hết.
Người đời xưa dạy rằng:
“Thiên cơ bất khã lộ” Tam dịch: Việc trời không nên thổ-lộ cho ai biết. Bởi vậy ông không làm vua lâu dài được.
Chuyện xưa đến đây là chấm dứt.
___
Phần II.
TÌM LONG ĐIỂM HUYỆT NGÀY NAY
Dãy núi Trường-Sơn nằm dọc theo đất nước Việt-Nam từ
Nam ra Băc.
Có một đoạn nằm chính giửa dãy núi ở miền Trung trên những các địa danh sau đây là địa đầu ranh giới của Thừa-Thiên Huế, Quãng-Nam Đà-Nẵng.
Tính từ phía Nam đi ra Bắc: đèo Hãi-Vân, Lăng-Cô, Lập-An, Phú-Gia, Thổ-Sơn, Trung-kiền, Thuỷ-Tụ, Nước-Ngọt, Phước-Tượng, Cầu-hai, Đá-Bạc.
Đoạn núi nầy là một phong-cãnh hửu tình, thượng sơn, hạ thuỷ, chạy dài trên đỉnh đèo Hãi-Vân ra đến chóp núi Bạch-Mã chỗ thì nhô lên, nơi thì lõm xuống như hình một con rồng lượn thành chín khúc, là cửu đĩnh nằm trên vùng này do Tạo-hoá xây dựng lên một địa-thế kỳ-quan từ ngàn xưa cho đến bấy giờ, không thế hiểu được bao nhiêu thế-kỷ mà nói.
Đoạn núi này đi dọc theo đường quốc lộ 1A nhìn lên cho kỷ, thì bất cứ con mắt thường ai-ai cũng nhìn thấy và công nhận như vậy.
Vì đất nước chúng ta từ xưa cho đến nay ít khi có hoà-bình độc-lập lâu dài.
Một ngàn năm đô-hộ giặc Tàu, một trăm năm nô-lệ giặc Tây, ba mươi năm giặc Pháp, Mỹ và nội chiến, đến khi đất nước được hoàn toàn giãi-phóng độc-lập thống-nhất, nhưng còn một thời-gian mười năm bao cấp.
Một con rồng khổng-lồ vẩn nằm sâu dưới lòng đất của dãi Trường-Sơn im-lìm bất động. Đến năm 1996 ông Bí-Thư Nguyễn-văn-Linh của Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam ra chính-sách đổi mới mở cửa giao-lưu và buôn-bán với thế-giới, con rồng này mới bắt đầu chuyễn mình cựa-quậy.
Các ông thày địa-lý Tàu, Ta thời văn-minh hiện-đại dò tìm bằng vệ-tinh, ra-đa, máy rà điện-tử, vi-tinh, các ông đã thừa hiểu. Nhưng không nắm bắt được thời-cơ thuận-lợi các ông ấy chẵng làm ăn gì được. Năm 2000 nhà nước ta mới cho Nhật-Bãn nhận thầu, khoan thủng núi Hãi-Vân để xe-cộ lưu-thông khỏi leo đèo nguy-hiểm. Năm 2006 đường hầm xe-cộ đã lưu-thông qua lại an-toàn tốt đẹp . Tôi từ Đồng-Nai về thăm quê nhà làng Phú-Gia, đi vào Lăng-Cô thăm bà Dung là bác đâu của tôi, năm nay bà đã gần một trăm tuổi vẩn còn khoẻ-mạnh và các anh chị con của bác tôi những người còn sinh-sống tại đây. Vì tình-nghĩa của người xưa, khi bác và ba tôi còn sống kết bạn rất thân với ông cụ tên Trần-văn-Thọ ở đây, nên ông xem tôi cũng như con cháu trong nhà ông vậy. Năm nào tôi có về thăm bác cũng phãi ghé nhà ông ấy để thăm. Ông cụ nầy năm nay đã chín mươi tuổi, có con cháu Việt-kiều Mỹ, Nhật, sức-khoẻ cụ vẩn còn tốt, da-dẻ hồng-hào, tinh-thần minh-mẫn, thấy tôi đến thăm ông rất vui-vẽ niềm-nở tiếp đón. Tôi lể-phép hỏi thăm sức-khoẻ ông và các con cháu ông, ông cũng vui-vẽ cho biết. Ong hỏi lại sức-khoẻ toàn gia-đinh tôi, tôi cũng cám ơn ông và trã lời gia-đình con-cái của cháu vẩn mạnh-khoẻ bình-thường.
Ông quay qua nói chuyện đất nước phát-triển. Ông hỏi tôi mi đi lâu rồi, nay trở về thấy Lăng-Cô thế nao? Tôi trã lời thật hiện đại ông ạ, đường xá thì rộng rãi, nhà cửa thì thật đẹp. Ông cụ nói tiếp địa danh bây giờ cũng đổi mới là Thị Trấn Lăng-Cô chứ không phãi xã Lôc-Hãi nữa đâu. Tôi cứ dạ-dạ ngồi im để nghe, ông nói tiếp nhờ chính-sách đổi mới của ông Nguyễn-Văn-Linh mới có ngày hôm nay mi hiểu chưa ? Tôi cũng dạ-dạ thưa ông cháu hiểu. Ông nói à bác quên, khách đến nhà không trà cũng rượu chứ, ông đứng dạy mỡ tủ lấy ra một chai rượu ngoại mỡ nắp rót vào hai ly thuỷ-tinh, ông bão cháu uống đi, rượu này ngoại chính hiệu, con tao nó gởi từ bên Mỹ về đó, tao nghe nó nói một chai tới mấy trăm dô-la lận. Tôi cũng dạ-dạ rồi nói ;
-Cháu cũng biết uống rượu nhưng chỉ có uống rượu đế mà thôi ông ạ. Ông bão mi cầm ly lên bác cháu mình uống một cái để cháu thưởng-thức mùi vị nghe chưa. Tôi cũng thủ lễ dạ-dạ chấp với ông một hớp, để ly xuống.
Ông nói tiếp:
-Mi ở trong nớ có nghe việc kỹ-sư nhà thầu khoán hầm Hãi-Vân có một chuyện bí-ẩn mi có biết không ?
Tôi trã lời:
-Dạ thưa ông cháu hàng ngày lo đi làm ăn ít có thời giờ xem đài báo nên chẳng rỏ chuyện chi, chỉ có biết việc khoan hầm mà thôi. Ông nói chuyện này bí-mật có ai dám đưa lên đài báo đâu mà biết.
Tôi nói:
-Ông có biết được chuyện gì hay ông kể cho cháu nghe với! Ông cụ có rượu ngà-ngà rồi ông cao hứng kể cho tôi nghe hết đầu duôi câu chuyện không còn dấu diếm điều gì.
Ông lại kể tiếp:
-Tao có thằng cháu tên nó là Thông con của bác Thái anh tao, nó đi ra nước ngoài trước ngày giãi-phóng miền Nam, hắn sang du học bên Nhật-Bãn khi giãi-phóng hắn ở bên nớ luôn, hắn học giỏi lắm, tao nghe nó nói nó có bằng kỹ-sư hay tiến-Sĩ gì đó ở bên Nhật-Bãn lận. Hắn về Lăng-Cô thuê khách-sạn ở để đi làm hầm Hãi-Vân với nhà thầu. Khi hầm gần hoàn-chỉnh, hắn đến nhà thăm tao lần chót để cáo từ về Nhật. Vì tao là chú ruột của nó, nó coi tao cũng như cha nó, nên nó mới kể cho tao nghe chuyện bí-mật này. Hắn dặn tao không được kể lại cho ai nghe cã, tao biết mi thật-thà tao coi mi như con cháu trong nhà mới kể cho mi nghe chơi, mi đừng kẻ lại cho ai biết nghe chưa. Tôi dạ-dạ cháu không dám đâu.
Ông kể tiếp:
-Có một ông thày địa-lý người Việt-Nam họ Nguyễn, nhưng cháu tao chẳng nói tên cho tao biết. Ông ta tìm đến chỗ khách-sạn cháu tao ở để thương-lượng nói thật với cháu tao, ở giửa đường khoan hầm có Long mạch, khi máy khoan đến đụng nhằm râu Rồng sẽ nổi giận phun nước, khi nào thấy nước Rồng phun ra thì cho ông ta để hài-cốt thân-nhân vào đó , Rồng sẽ ngậm miệng nước hết chãy. Nếu được như nguyện-vọng của ông ta, ông ấy sẽ tặng số tiền rât lớn, đôi bên đều có lợi.
Thăng cháu tao nó dè-dặc không dám nhận lời. Sợ ông ta đưa chất nổ chậm đến để vào thì nguy-hiểm ở tù như chơi. Ông thầy địa-lý tìm cách năn-nỉ và thuyết-phục đủ điều, cháu tao mới nhận lời. Nhưng ra điều-kiện phãi cho mở ra khám xét, dem máy rà soát đúng sự thật chẳng có gì nguy-hiểm mới chấp-nhận . Ông thầy địa-lý bằng lòng. Sau khi thực hiện công việc của ông thầy địa-lý suông-sẽ, ông ấy phãi chi trã cho kỹ-sư một tài-khoãn rất lớn. Việc này bí-mật hợp-đồng với nhau không thổ-lộ cho một ai biết cã.
Ông ấy về hốt hài-cốt của thân-nhân đến làm thủ-tục khám-xét xong gói lại kỹ-lưỡng bỏ vào cái tráp bằng kim-khí sơn màu đen rất đẹp khóa lại rồi giao chìa khoá cho kỷ-sư giử làm tin, còn ông ấy giử cái tráp.
Đến ngày khoan đến Long mạch chổ con Rồng nằm đụng vào râu nó, y như lời thày địa-lý dự đoán nó phun nước xối-xã rất khó thực-hiện việc khoan hầm. Kỷ-sư điện-thoại bão thầy địa-lý cãi trang thành ông công-nhân xách tráp đi theo kỷ-sư vào đến chỗ Rồng nằm.
Ông thầy địa-lý chỉ điễm cho máy móc đât lên để tráp xuống ngay hàm rồng tự nhiên nước tắt ngay, rồi lấp lại là xong việc. Hẹn tối về lại khách-sạn đôi bên thanh-toán sòng-phẳng với nhau rất tốt đẹp và bao nhậu một chầu vui-vẽ.
Nên hầm nầy rất dể làm, bàn giao, nhiệm thu đúng thời gian hợp đồng, với nhà nước. Chất lượng rất đạt yêu cầu ngang tâm cỡ Quốc-Tế.
Ông chủ thầu nầy lời to. Tao được biết chắc-chắn, ông ta gọi lại những công-nhân hợp-đông có thời hạn làm hầm với ông chi trã thêm mổi người năm triệu “5.000.000.VNĐ “. Ông cụ cứ thao-thao kể cho tôi nghe mê-mệt hơn một giờ đồng hồ mới dứt lời. Tôi nói với ông:
-Cháu xin cám ơn bác kể cho cháu nghe được câu chuyện quá hấp dẩn , đến đây tôi xin cáo từ ông cụ ra về, trong lòng phơi-phới. Mừng thầm mình được ông cụ tặng món quà tinh-thần khá hay.
Sau khi về đến Đông-Nai tôi vẫn e-dè suy nghĩ mãi không dám thổ-lộ với ai. Sau một thời-gian dài, tôi nghe tin ông cụ đã quy Phật. Nhận thấy câu chuyện hấp-dẩn như thế này mà không viết thì quá uổng phí. Tôi suy nghỉ mãi, việc nầy không phãi ai-ai có tiền nhiều mà làm được đâu. Chắc là cũng có Trời, Phật giúp cho ông thày Địa-lý nầy mới làm được .
Nên tôi quyết-định viết truyện này. Thời xưa ông bà ta đã rút kinh-nghiệm làm việc gì đại sự phãi nắm bắt thời-cơ, có đầy đủ ba yếu-tố như:
Thiên-thời, địa-lợi và nhân-hòa, việc mới thành công tốt đẹp cho cã đôi bên như vậy.
___
Phần III.-
CON RỒNG VIỆT-NAM ĐANG HỒI-LỰC VÀ KHỞI-SỰ
Nói lại chuyện con rồng nó nằm dọc theo dãy núi Trường-Sơn, cái đầu tại đèo Hãi-Vân, đuôi ra tới núi Bạch-Mã, không biết bao nhiêu thế kỷ vẫn nằm im-lặng như tờ.
Dân-cư sống trong địa-bàn rồng nằm thật nghèo-nàn vât-vã, đến cuối thế-kỷ 20 lại chịu đựng hai cuộc chiến-tranh Pháp, Mỹ điêu-tàn tán gia bại sãn, dến hôm nay cũng chưa được hồi-phục phát-triển bằng các nơi khác.
Nhưng chúng ta nên tin rằng:
-Con rồng hôm nay đã ngoạm được thang thuốc bổ vào hàm, nó sẽ sung sức chổi dạy biến-hoá cất cánh bay lên. Trong tương-lai hãi cãng nước sâu Chân-Mây của địa-phận Huyện Phú-Lộc, tàu thuỷ hạng nặng của thế-giới cập bến tấp-nập, cơ-sở bến-bãi và các xí-nghiẹp nước ngoài đầu-tư xây-dựng lên theo bãn đồ quy-hoạch của tỉnh Thừa-Thiên, thì dân-chúng sống trên địa-bàn nầy dược đổi đời.
Công-nghiệp hoá hiện-dại hoá. Có công ăn việc làm thu-nhập cao. Con em lớp tuổi trẻ hiện nay đang bỏ xứ đi nơi khác kiếm việc sinh sống sẽ quay trở về lại quê-hương sống đoàn-tụ với gia-đình làm ăn giàu có, phát-triển tốt đẹp xóm làng văn-minh, mới xứng đáng với cái địa-danh do tổ-tiên đặt cho từ bao thế-kỷ nay, là Làng Phú-Gia, Xã Lộc-Tiến, Huyện Phú-Lộc, Tỉnh Thừa-Thiên.
Đây là nói riêng cho tỉnh Thừa-Thiên quê-hương tôi.
Nói chung tương-lai nước Cộng-Hoà Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam nay đã được hội-nhập thương-mại thế-giới, sẽ văn-minh hơn, giàu-mạnh hơn, tốt-đẹp hơn. Sánh vai ngang hàng với các cường quốc năm châu, bốn bể.
Chúng ta cứ đặt niềm tin nền kinh-tế sẽ là chắc-chắn như vậy.
Còn các vị lèo-lái con Rồng của Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam tương-lai cũng sẽ là những người thông-minh sáng-suốt, học rộng tài cao, văn võ song-toàn, đạo-đức chân-chính, là ai chưa rõ được, mong rằng quý vị độc giã hãy đợi đấy…
(Đây là chuyện kể, không phải lịch sử).
HÊT
-Viết về quê hương.
“Viết xong bãn thão ngày 14-02-2007”
TÌNH-YÊU HÔN-NHÂN VÀ CUỘC SỐNG THỜI CHIẾN-TRANH HOÀ-BÌNH
Của Phan-Vinh
___
Chương 1.- SỰ SINH TỒN CỦA LOÀI NGƯỜI DO TẠO HOÁ XẾP ĐẶT
CHIẾN TRANH GÂY CHẾT CHÓC LÀM THIẾU HỤT NAM GIỚI.
Sự sinh-tồn của loài người bất cứ trong thời điểm nào cũng do luật Tạo-Hoá sắp đặt, Nam Nữ đều sít-soát số lượng ngang nhau. Theo tài-liệu thống kê dân số trên toàn Thế-Giới nói chung và các nước Đông-Nam Châu-Á nói riêng. Tôi tìm hiểu qua sách báo, phái Nam và phái Nữ cũng có chênh-lệch một số ít nhưng không đáng kể. Nếu nước nào được hoà-bình lâu dài, tình-hình kinh-tế phát-triển mạnh phồn-thịnh giàu có, thì nước ấy Nam nhiều hơn Nữ.
Cuối thế-kỷ 20 thật tàn-khốc bi-thãm vì chiến-tranh, gây tổn-hất Nam giới quá lớn, tràn đầy nước mắt và khăn sô cho những thiếu-phụ ngây-thơ, trẻ tuổi và trung niên đã có gia-đình con-cái.
Thiếu-phụ ngây-thơ là những em gái và học-sinh tuổi vừa đôi tám, là lớp tuổi mộng-mơ mới biết yêu-đương, còn e-thẹn chưa dám hôn nhau, chỉ một vài lời hứa-hẹn đầu môi chót lưỡi, viết lên trang giấy trắng quyển nhật-ký vài câu làm kỷ-niệm mà thôi.
Năm ấy Dũng thi vào Đại-Học không đậu, phãi nhận lệnh gọi lên đường tòng quân nhập ngũ, chàng và nàng tạm biệt nhau những lời ước-nguyện thề non hẹn biển gắn bó sắt son, chàng lên đường thi hành nghĩa-vụ quân-sự, nàng trở về khép kín khuê-phòng, lo học hành, một lòng chờ đợi.
Một chiều nọ Lệ-Thu đi học mới về, được tin như sét đánh bên tai . Dũng đã tử trận tại chiến-trường Campuchia, quan-tài anh ấy mới đưa về đến nhà.
Đột ngột quá, ai ngờ ngày tạm biệt đã trở thành vĩnh-biệt. Nghẹn ngào ứa lệ, biết ăn làm sao, nói làm sao, thật là khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt.
Vì lòng cãm-xúc vô hạn của mối tình đầu tan vỡ do chiến-tranh. Cô ấy làm bạo đến thăm Dũng nhìn thấy trên Quan-Tài có gắn quyết-định truy thăng cấp-bậc Thiếu-Uý và truy tặng huy-chương Anh-Dũng Bội-Tinh với Nhành-Dương-Liễu, đặt-biệt trên quan-tài có trãi lá cờ vàng ba sọc đỏ.
Trong gia-đình nhìn thấy Thu đến thăm cũng ân-cần tiếp-xúc, mời vào nhà ngồi uống nước nói chuyện. Thu thú thật với bố mẹ Dũng, là nàng đang yêu Dũng và Dũng cũng yêu nàng, hẹn ước với nhau ngày Dũng được về nghỉ phép, trình với bố mẹ hai bên cưới nhau nên vợ thành chồng. Bấy giờ tình đã mất thì còn cái nghĩa, cô ấy xin để tang cho Dũng, trong lúc này chẳng có ông bố bà mẹ nào mà không chấp-thuận cã, đây là một sự an-ủi cho người vĩnh-biệt cõi trần-gian.
Phát tang cho cô ấy bịt lên đầu, bất chấp phong-tục nghi-lể ngày xưa, Lệ-Thu đốt nhan bái lạy Quang-Dũng sau đó tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Trên đường về Lệ-Thu mang một mối tình thầm-lặng cô-đơn với nổi buồn da-diết và tuyệt-vọng. Bên ngoài là đám tang, bên trong tâm-hồn của Thu tưởng-tượng như là dám cưới anh ấy với mình, vì đã được bố mẹ anh ấy chấp-thuận là con dâu, một đám cưới trần-gian âm-phủ thật là chưa thấy sách vở nào đề-cập đến. Những tình huống trên đây Lệ-Thu được sắp-xếp vào hàng Thiếu-Phụ Ngây-Thơ. Còn những Thiéu-Phụ đã cưới nhau trước ngày tòng-quân nhập-ngũ hoặc đã có mái ấm gia-¬đình con-cái, thì còn gì là Ngây-Thơ nữa, và được hợp lệ lãnh tiền tử tiêu-xài nuôi con.
Số nầy thời chiến-tranh đem tàu mà chở cũng không hết. Công bằng mà nói, cuộc chiến ác-liệt cuối thế kỷ 20 phái Nam hy-sinh ngoài mặt trận quá nhiều. Vì phái nam là bị bắt-buộc, lệnh tổng-động-viên, không được trốn tránh, nếu anh nào trốn tránh, bị ghép tội hèn nhát, chống lại pháp-luật, bắt đi tù-tội, hoặc cắt hộ-khẩu, không cung cấp lương-thực, thì thử hỏi làm sao mà sống được, rốt cuộc cũng đưa vào hàng ngũ Quân-Đội nói chung cã hai miền.
Thời chiến-tranh Nam thiếu Nữ thừa.
Lý-do: -Tại con người gây ra cho con người, nên bị mất cân bằng giữa phái nam và nữ. Nhưng cũng có một số Anh-hùng gan-dạ yêu nước hoặc nâng cái tôi của mình lên trên mọi người, có cơ-hội mạo-hiễm thi-thố tài năng, may rủi có hai đường : Một xanh cỏ,”1” hai đỏ ngực.”2” Có một ít tốt số, may-mắn, sống lâu đuợc lên lão làng, cũng được phân-công đề-cử làm ông nọ, bà kia, vì thiếu cán-bộ, một số thiếu học chỉ biết ký mà thôi . Thành phần nầy làm cán-bộ chỉ-huy quân-đội thì nguy hiểm cho sinh mạng binh-sỹ, cán-bộ hành-chánh sự-nghiệp thì thiệt-hại tài-sãn nhà nước, gây phiền-hà cho nhân-dân. Bi cấp dưới lừa gạt sập bẩy mất chức, có khi bị tù tội rồi cũng phãi bồi thường thiệt hại tài-sãn cho nhà nước.
Nói về chiến-trận thì vô kể, lớp nầy ngã xuống có lớp khác xung lên, tuân lệnh thượng cấp, được thua là do người lãnh-đạo chỉ-huy và có chính-nghĩa hay phi chính-nghĩa. Những người đã hy-sinh đồng bào thương tiếc Tổ-Quốc ghi công là Quân-Đội Nhân-Dân. Còn mấy ông lính chế-độ cũ cũng hy-sinh quá thể, chết rồi còn bị xỉ-nhục.
Chết được lên Thiên-đàng hay xuống Địa-ngục, về cỏi Vĩnh-hằng, Tây-Phương-Phật, hoặc về theo Ông-bà, chẳng có ai hiểu được. Cái chết là sự sung-sướng nhẹ-nhàng, chẳng có thiết gì trên trần-gian nầy nữa. Những người chết non, chết trẻ thường gây hậu-quã cho những người còn sống trên trần-gian mới là nạn-nhân đau-khổ như :
Ông bà mất cháu buồn-rầu sinh bệnh mau chết, cha mẹ mất con trai trẻ, không ai phụng-dưỡng tuổi gìa, tre khóc măng, vợ trẻ mất chồng thương tiếc người yêu chung-thuỷ, con mất cha thiếu người nuôi dạy, em gái mất mối tình đầu yêu-dấu thương-đau. Thời còn chiến-tranh, Thượng đế cũng u-sầu thương-xót nên bàu trời Việt-Nam thường kéo mây đen xám-xịt, nhưng ít khi nổi cơn thịnh-nộ phong-ba .
Chương II.- NAM NỮ THỜI CHIẾN, NHIỆM-VU, VIỆC LÀM, ƯU THẾ.
Thời chiến-tranh đàn ông con trai rất có giá-trị, kiếm vợ cũng dễ, kiếm thêm vợ hai cũng chẳng khó gì, đó là luật sinh-tồn và nhu-cầu tình-yêu nam nữ của con người, những chuyện này tôi được chứng kiến rất nhiều, thành thật mà nói:
-Thời trai trẻ tôi có thi-hành nghĩa-vụ quân-sự tham-gia lính chế-độ cũ theo đơn-vị hành-quân vào vùng sâu, vùng xa nơi lãnh-địa của quân Giãi-Phóng kiểm-soát năm 1963-1964. Nơi nào dân cư ở thưa thớt chỉ đi ngang qua, nơi nào dân cư đông-đúc, được lệnh thượng cấp cho dừng quân hạ trại, thời ấy gọi là chiến-dịch Bình-Định Nông-Thôn để dành dân lấn đất. Có nơi ở lại vài tuần, có nơi một tháng, có chỗ đóng quân đôi ba tháng. Sự thật mà nói dân chúng họ sợ súng đạn không dám chống-đối, xui-xẻo có thằng khỉ gió nào đó nổi nóng bóp cò, thì tôm chết thiệt mẹ bán tôm, hắn dán cho cái made in VC”3” thì thử hỏi thưa ai kiện ai bấy giờ. Nên dân chúng họ tử-tế bên ngoài, chứ chẳng thích gì ba ông lính Ngụy,”4” có đôi khi thấy họ vui vẻ tôi gợi ý hỏi thử:
-Thưa bác. Ở đây sao cháu chẳng thấy có người đàn ông con trai nào cả vậy bác? Biết họ trả lời làm sao không ? Tôi xin nói lại câu trả lời để quý vị độc-giã rõ: Họ trả lời với tôi rằng:
-Con họ, chồng họ, ra ngoài thành đi lính Sư-Đoàn 7 hoặc Sư-Đoàn 5 Bộ-Binh hoặc các dơn-vị khác mà họ biết vv… Của chế độ miền Nam.
Nhưng sự thật là họ thoát-ly vào mật-khu để làm quân Giãi-Phóng, đó là nhiệm-vụ của nam giới trong vùng Giãi-Phóng. Còn phái nữ thì lại là khác, ai thích thì xung-phong làm quân Giãi-Phóng, ai không muốn, thì ở nhà làm ăn, để đóng-góp hậu-phương với tuyền-tuyến.
Các ông lính Biệt-Động-Quân Việt-Nam Cộng-Hoà thời ấy thật hào hoa có biệt tài quyến-rũ các cô gái trẻ đẹp hương đồng cỏ nội ở vùng Giải-Phóng theo họ, tôi chẳng hiểu mấy cô gái nhẹ dạ nầy bỏ nhà bỏ quê-hương ra thành-thị theo chính-phủ Quốc-gia hay là đi theo tiếng gọi của tình yêu con tim Nam Nữ, thử hỏi ai mà biết được?
Đơn-vị cấp Tiểu-Đoàn Biệt-Động-Quân của chế-độ Sài-Gòn dừng quân trong vùng Giãi-Phóng ngắn hạn thì hai ba cô, nếu dài hạn đôi ba tháng thì số lượng tăng lên năm bãy cô gái trẻ, bỏ nhà, bỏ cha mẹ, quê-hương, vùng Giãi-phóng, xách gói ra thị-thành tìm địa-chỉ theo các anh lính hào-hoa tốt mã đẹp trai của chế-độ cũ, khi mà đơn-vị rút quân di-chuyễn đi nơi khác. Có một số tình-yêu chân-chính làm đám cưới nhà binh đơn-giãn, rồi đưa nhau đến cơ-quan chính-quyền địa-phương xin đăng-ký kết hôn để chung sống với nhau hợp lệ hợp pháp, có một số chấp nhận làm vợ bé của các ông Trung-Sĩ trẻ, Thượng-sĩ già, có một vài cô hồng nhan phận bạc bị mấy anh lính tốt mã đẹp trai, đóng vai Sở- Khanh vùi hoa dập liễu tan-nát cuộc đời rồi đuổi đi hay đem bán vào các động Tiên-Nữ trần-gian ở thị-thành. Các cô gái xấu số này mang mối hận tình nhức-nhối như một mũi tên đâm nát con tim. Thời chiến người phụ-nữ gánh chịu nhiều thương đau bi-thãm của số phận hy-sinh thua thiệt cuộc đời lam-lũ bất-hạnh.
Chương III.- NỮ, NAM THỜI BINH, ƯU-THẾ, GIÁ-TRI.
Thời hoà-bình độc-lập thống-nhất hơn ba mươi năm, số lượng Nam Nữ đã cân bằng, tính ra cho kỷ hiện nay có khi nam đã nhiều hơn nữ. Những cặp vợ chồng trẻ nhà nước khuyến-khích sinh đẻ có kế-hoạch, để hạn-chế bùng nổ dân số Thế-giới. Dân số hiện nay của nước ta tám mươi triệu dân cã Nam lẫn Nữ. Theo luật bù trừ của Tạo-Hóa, phái Nam thời chiến chết quá nhiều, bị thiếu hụt làm thiệt thòi cho phái Nữ, để bù-lấp khoãng trống, thời hoà-bình thì con trai được sinh ra nhiều hơn.
Các nước hoà-bình lâu dài văn-minh nhất thế-giới cũng rất thiếu đàn-bà như:
-Mỹ, Đại-Hàn, Dài-Loan. Trung-Quốc vv… Viẹt-Nam đã được hoà bình độc-lập thống-nhất hơn ba mươi năm nay thì dân số phái Nam đã vượt trội hơn phái Nữ. Hiện nay đã được gia-nhập thương-mại thế-giới, được tự-do thoãi-mái kể cã tình yêu và hôn-nhân, đừng có vi phạm pháp-luật, tiền nhiều là xong ngay thủ-tục hành-chánh lấy chồng nước ngoài, Việt-Kiều để xuất cảnh. Bấy giờ có một số cô gái được voi đòi tiên, rất thích chồng ngoại Quốc, nếu lấy được chồng Mỹ càng tốt. Trước đây thì ghét, nay lại thương. Còn muốn chồng Việt thì ăn bận sang-trọng, trang-điểm nhan-sắc một chút, các anh chàng thanh-niên nhà ta tranh nhau theo đuổi, các cô tha-hồ mà tuyển lựa người yêu lý-tưởng. Thời bình được Thượng-Đế bù trừ, ưu đãi cho phái Nữ kể cã xin việc làm vào các xí-nghiệp cũng dể dàng hơn Nam giới, khỏi cần bằng cấp văn-hoá chuyên-môn. Cho nên có câu tục ngữ nói cũng phãi lắm : “Trai thời loạn. Gái thời bình”. Gái thời bình rất quý, thời bình là thời hưng-thịnh của các bà, các cô, và các em gái trẻ. Nhà nước đang khuyến-khích các đôi vợ chồng trẻ sinh đẻ có kế-hoạch từ một đến hai đứa con mà thôi, đôi vợ chồng anh chị nào đó may-mắn, sinh được hai cháu gái càng tốt. Thời nay xin miển bàn chuyện sinh con trai nối dòng nối dỏi là xưa rồi. Có một số gia-đình nhiều con trai thiếu dạy-dỗ, đi đua xe, cướp giựt, quậy phá, nhậu nhẹt, đánh lộn, bị thương tật, vi phạm pháp-luật bị tù tội thêm rắc-rối cuộc đời.
Thời hoà bình là thời hưng-thịnh của phái Nữ.
Chương IV.- KINH-NGHIỆM CUỘC ĐỜI CON NGƯỜI, CÓ VĂN-HOÁ HAY THIẾU VĂN-HOÁ ĐẠO-ĐỨC.
Xin tóm tắc vài dòng để độc-giả tuổi trẻ rút kinh-nghiệm, tương-lai đời sống các bạn được tốt đẹp hơn. Đừng nên si bì và nói liều những câu tục ngữ của người xưa như : “Trời sinh Người sinh lộc”. “Trời sinh Voi sinh cỏ”. Xưa là khác mà nay lại là khác, môi sinh môi trường biến-đổi theo thời-gian, bây giờ thời mở cửa hội nhập giao thương và công-nghiệp hoá hiện-đại hoá, tấc đất giá thị-trường tôi dự đoán tương-lai có thể lên đến hai ba tấc vàng, thời đất hẹp người đông, đất quý như vậy thì còn đâu để mọc cỏ cho voi ăn, lộc đâu còn cho người hái mà sống. Thật là người đông của hiếm, đàn ông con trai bây giờ dốt-nát quậy-phá, xin vào làm lính cũng khó, không có tiền-bạc, không có nghề-nghiệp, rất khó xin việc làm, đừng nói gì kiếm vợ. Thời bình là thời hưng-thịnh của phái Nữ.
Cuộc chiến thãm-khốc ác-liệt gây ra cãnh chết-chóc dau thương một số lớn. Khi nhìn lên màn ãnh hoặc hồi-ức lại , vẫn còn ám-ãnh rùng-rợn sự tàn-sát bom đạn bắn giết giữa con người và con người quá tàn-nhẫn, không thể tưởng-tượng nổi. Bây giờ chúng ta nên cùng nhau đoàn-kết, bão-vệ cho đất nước được hòa-bình trừơng-cữu. Những chiến-cuộc vừa qua không phãi để huỷ-diệt, mà để cho đất nước được hoà-bình độc-lập, thống-nhất. Chúng ta cùng nhau xây dựng lại cuộc sống mới tốt-đẹp, văn-minh hơn, hiện-đại hơn. Những chuyện hơn, thua, được, mất, đúng, sai đó là do thời thế. Bấy giờ nên xoá bỏ hận-thù những chuyện dĩ-vãng, cho nó dồn về quá-khứ.
Các bạn tuổi trẻ thuộc thế-hệ con cháu, nên đứng thẳng để nhìn về phía trước và nhìn xa thấy rộng hơn. Nước ta đang trên đà phát-triển mạnh đủ mọi mặt Sĩ, Nông, Công, Thương vv… thời công-nghệ thông-tin hiện-đại.
Muốn theo kịp các nước cường quốc giàu mạnh trên Thế-Giới. Lớp tuổi trẻ phãi cố gắng lao-động học-tập trau-dồi đạo-đức. Thành-đạt văn-hoá nghề-nghiệp chuyên-môn cao cấp, đó là những bạn có điều kiện kinh-tế. Còn nhửng bạn khó khăn, phãi theo pháp-luật hiện hành, nên cố gắng học hết chương trình Trung-Học Phổ-Thông Cơ-Sở có bằng nầy, mới xin học ngành nghề vào làm xí-nghiệp được. Các bạn có bằng cấp, có nghề-nghiệp chuyên-môn, bằng nào cũng có người mê, bằng nào chẳng có người thuê đi làm, thì kiếm việc làm ở đâu mà chẳng được. Trước nhất là cuộc sống của các bạn, sau là giúp ích cho xã-hội và đất nước. Khi đã ổn-định công ăn việc làm có thu-nhập hàng tháng, lúc nầy muốn tìm người yêu rất dễ-dàng, tìm đâu mà không có, rất là thoãi mái vậy. /.
1-Tử trận.
2-Nhiều huy-chương.
3-Việt-Cộng.
4-Lính Sài-Gòn chế độ cũ.
HẾT
Viết xong bản thảo ngày 11-4-2007.
TÌNH-NGHĨA BẠN-BÈ.
___
BẠN-BÈ VÀ CUỘC SỐNG.
Con người và vạn-vật đã được sinh ra và lớn lên trên trái đất, đều phải có bạn-bè, nếu không có bạn thì không bao giờ được tồn-tại nòi giống v.v. Từ hai tới ba người trở lên, anh em ruột thịt hoặc người dưng nước lã, chơi với nhau mến nhau đều là bạn-bè của ta cả.
Tình bạn là một trong những tình-cảm:
Bạn bè trang lứa chơi với nhau.
Bạn học, bạn nhà binh vv… và vv…
Đặc biệt là bạn trăm năm. (Vợ chồng).
Dù ở bất cứ nơi nào, hoàn-cảnh nào, lứa tuổi nào, đều không thể sống mà không có bạn-bè, không có tình bạn người phải sống lẽ-loi đơn-độc, vắng bóng bạn-bè không thể xem là người sống sung-sướng được.
BẠN-BÈ TUỔI MẪU-GIÁO ĐẾN HỌC HẾT CHƯƠNG TRÌNH CẤP I- II.và III.
Tuổi thơ-ấu lên ba lên bốn là tuổi ăn thật, nói thật. Có câu tục ngữ người xưa để lại:
”Ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ.” Tuổi này rất hồn-nhiên và chưa biết dối-trá. Các em bé cũng cần có bạn, hai tới ba em chơi với nhau mới vui-vẻ. Nếu không có bạn cô-đơn buồn tẻ bé khóc-lóc kiếm bố mẹ quấy rầy. Nên bố mẹ cháu hay gởi cho Dì Xơ (Soeur) học lớp mầm, chồi, lá để tập làm quen với bạn-bè. Khi các bé lên sáu tuổi đưa vào tiểu-học thì các cháu đã quen với bạn-bè rồi, nên dễ hòa-đồng với tập-thể, thi đua học tập mới tiến-bộ được. Các cháu lên mười một tuổi được vào Trung-Học Phổ-Thông Cơ-Sở tuổi này còn để dạy bảo, chơi với bạn-bè còn hồn-nhiên vui-vẻ. Các cháu lên mười lăm tuổi học hết chương trình PTCS. Chuyển lên học lớp mười Phổ-Thông-Trung-Học, tuổi này bạn-bè rất đông, ở trong trường học và ngoài đời cũng lắm bạn-bè.
Tuổi này là tuổi dạy-thì, tuổi mới lớn , các Cô các Cậu tự cho mình đã khôn lớn rồi. Tính-tình hơi bướng-bỉnh khó bảo, tập hút thuốc, uống rượu và tìm hiểu đủ mọi thứ trên đời vv…và vv…
Tuổi nầy gồm có hai thành phần sau đây:
Một là: càng lớn càng khôn, có ý-thức ngoan-ngoãn thi đua học tập với bạn-bè trau dồi văn-hóa đạo-đức, đạt thành-tích các kỳ thi vượt cấp được điểm cao có hạng nhất, nhì, ba, trong lớp, tối thiểu cũng được lên lớp, số học-sinh nầy rất đáng khen-thưởng để biểu-dương và khuyến-khích tinh-thần học-tập của các em.
Hai là: càng lớn càng dồn u-mê, ham ăn chơi lêu-lổng, học-hành thì lười-biếng thua chúng kém bạn, thậm chí thi không đủ điểm còn bị ở lại lớp, đâm ra chán-nản, trong trường thì trách-nhiệm của thầy cô giáo, về nhà thì các bậc phụ-huynh không theo-dỏi tính-tình tâm sinh lý học trò, con cái uốn-nắn lúc ban đầu, để muộn-màng hư thân trắc nết phá bĩnh rất khó trị”Số nầy là ngựa bất kham “.Nếu cha mẹ lo công việc làm ăn đua-bơi theo đường danh-lợi, không dám bỏ chút thì giờ kiểm-soát dạy-bảo, lầm tưởng con mình còn nhỏ và ngoan như ngày nào còn học ở cấp II, sẵn tiền bạc cho tiêu-xài phung-phí, đây là nói về các cô cậu con ông cháu cha, con nhà doanh-nghiêp tỷ-phú. Có một số con nhà nghèo cha mẹ lam-lũ kiếm tiền nuôi ăn học để được nên người tài-giỏi, khi vào đời đở vất-vã.Có câu tục ngữ: “Con hơn cha nhà có phúc”.
Không có ý-thức hoàn-cãnh của mình, cũng đua-đòi đi theo bạn-bè xấu. Thành phần này nếu cha mẹ không hiểu tâm-lý dạy-bảo cứng nhắc có thể tự-ái bỏ nhà đi bụi đời với bạn-bè du-đãng, hành-động các việc tày trời vv…và vv… làm mất đạo-đức văn-hóa, mang tai tiếng liên-lụy đến thanh-danh của bố mẹ, khi phát hiện thì đã muộn-màng.”Trăm dâu đổ đầu tằm “.Chính người làm cha mẹ là nạn-nhân bị lãnh đủ. Có những câu tục ngữ nói rằng:
“Mũi dại lái chịu đòn, con dại cái phải mang”.
“Con khôn cha mẹ đặng nhờ,
Con ngu cha mẹ nhuốc-nhơ cuộc đời.”
Ca dao
.BẠN-BÈ KHI TUỔI ĐẢ CHĨNH-CHẠC VÀO ĐỜI.
Tuổi trưởng-thành chĩnh-chạc có ít vốn-liếng, kinh-nghiệm, kiến-thức học-hành phải là độ tuổi hăm bảy trở lên. Tuổi nầy vào đời làm việc cũng cần có nhiều bạn-bè đủ mọi mặt, để giao-dịch với nhau công ăn việc làm mới phát-triển lên được.
Nếu nông-dân chuyên về làm ruộng thì bạn diền, trồng-trọt, chăn-nuôi thì bạn nhà nông. Các nhà kinh-doanh buôn-bán cũng đều có bạn, buôn có bạn, bán có phường, các nhà thông-thái văn–học, khoa-hoc các ngành nghề kỷ-thuât, công-nghệ hiện-đại cũng phải có bạn để học-hỏi hơp-tác với nhau. Có câu tục ngữ nói rằng :
“Học thày không tầy học bạn”. Để trao-đổi kiến-thức cho nhau, mới nâng cao trình-độ khoa-học lên tầm cỡ Quốc-Tế. Những bạn-bè tốt có kiến-thức chỉ-vẽ cho nhau học-hỏi biết qúy-mến bạn-bè, có tinh-thần yêu nước mới làm cho dân giàu nước mạnh. Đó là những bạn thông-minh đạo-đức, chúng ta nên tôn-trọng học-hỏi và noi gương.
Kinh-nghiệm của người xưa dạy rằng:
Nên làm tớ người khôn, chớ ham làm thầy thằng dại.
Làm tớ người khôn mình học thêm được cái hay cái đẹp, cái khôn cái khéo.
Làm thày thằng dại chẵng được cái gì? Lâu ngày chày tháng, có khi bị lây-nhiễm thói hư tật xấu, mình phãi mang tai tiếng vơi làng-xóm láng-giềng. Làm ân thường hay mắc oán, có khi bị lừa, bị phãn nửa là khác.
Thời còn trẻ tôi có nghe mệ Nậy ở làng Phú-Gia hát ru cháu rằng: à… ơi ……
“Rồng vàng tắm nước ao tù, người khôn bạn với người ngu bực mình,”
Có một số bạn-bè khi mới quen nhau đối-xử với nhau rất thân rất tốt, qua một thời-gian thì thay-đổi tính-tình, có đôi người lợi-dụng lòng tốt của bạn-bè mưu-cầu lợi-ích riêng tư cho mình. Nếu không được bạn-bè thỏa-mãn theo nguyện-vọng thì tự-ái nói xấu bạn-bè rồi chia tay, số này gồm cả bạn-bè khác giới và bạn tình yêu nam nữ trong lúc đầu đang thăm-dò tìm hiểu.
Một số bạn-bè đồng giới tính, thoái-hóa biến chất tham-lam tranh quyền cố vị, nếu ta phát-hiện nên lựa lời lẽ khuyên can đôi ba lần không nghe, vẫn tánh nào tật ấy thì nên tìm cách xa-lánh càng sớm càng tốt, đừng có tiếp-tục thân-thiện có khi bị phản-bội, làm mất thanh-danh và nguy-hiểm cho tính-mạng của mình nữa là khác, những sự bội-phản của cấp dưới cũng như bạn-bè rất đáng sợ, chúng ta cần đề cao cảnh-giác phòng-ngừa tối đa.
Mất bạn này chúng ta nên tìm bạn khác, để giao-hảo và hợp-tác làm việc cũng như chơi với nhau, một mình đơn-lẻ thì thật là cô-đơn buồn tẻ..
Chúng ta không thể vì lẽ này lẽ nọ mà không chơi với bạn-bè, mình xoè bàn tay ra cũng có ngón ngắn ngón dài, ở trên đời làm sao biết ai tốt ai xấu, cứ làm bạn chơi vơi nhau thời-gian sẻ trả lời.
“Đi lâu mới biết đường dài,
Ở lâu mới biết lòng người có nhân.”
ca dao
Bất cứ lúc nào, thời nào, làm việc gì, chúng ta cũng cần phải có bạn, nếu ai đó không có bạn cộng-tác, sống đơn-côi độc mã thì chẳng vui-vẻ làm ăn phát-triển gì được. Có câu tục-ngữ nói rằng:
“ giàu bởi bạn sang bởi vơ.ï”
Nói cho cùng, thậm-chí uống rượu cũng cần có bạn, nhất có mồi nhắm, nhì lắm bạn hiền hợp gu, uống mới ngon miệng vui-vẻ, chuyện-trò giao-hão mới hứng-thú.
Chim có đàn cùng hót, tiếng hót mới hay, ngựa có bạn cùng đua nước đua mới mạnh , huống chi chúng ta là con người mà chẳng có bạn sao được. Những bậc hiền-giả ngày xưa họ nói rằng:
Hàng ngày mình làm vui lòng được mọi người, một ngày tìm được một người bạn thì cuộc đời chúng ta rất có ý-nghĩa. Trên thế-gian này không có việc gì dể cả, nếu chúng ta chịu đoàn-kêt học-hỏi rút kinh-nghiệm, thì bât cứ sống nơi nào cũng tốt, làm việc gì cũng được thành-công và kết-quả mĩ-mãn.
.BẠN TRI-ÂM TRI-KỶ và BẠN-BÈ CÁO LẢO VỀ HƯU..
-Bạn tri-âm, tri-kỷ : Các bậc hiền tài ngày xưa họ rất khôn-ngoan, biết chọn bạn mà chơi với nhau rất chung-thủy như : Trần-Phồn với Từ-Trí, Bá-Nha, Chung-Tử-Kỳ, Dương-Tiêu-Sơ, Từ-Tử-Dử, Dưong-Khuê và Nguyễn-Khuyến v.v…
Tôi xin trích dẩn một ít kỷ-niệm của các bậc hiền tài trên đây dể quý vị đôc-giả tìm hiểu thêm : Trân-Phồn đời hậu Hán, có người bạn rất thân là Từ-Trí. Phồn dành cho bạn một giưòng để bạn ngồi, khi bạn về thì treo giường lên không cho người khác ngồi.
Bá-Nha có một cây đàn, chỉ dàn cho Chung-Tử-Kỳ nghe mà thôi. Khi Chung-Tử-Kỳ mất, Bá-Nha đặp đàn vứt đi, nếu để lại mà đàn thì không có ai nghe và hiểu được.
Dương-Tiêu-Sơ bị Nghiêm-Tung bắt bỏ tù, các quan sợ hải không ai dám vào thăm, chỉ có Từ-Tử-Dử hàng ngày đến thăm còn tiếp-tế cơm rượu. Tiêu-Sơ khuyên Từ-Tử-Dử rằng:
-Bạn chớ nên vì tôi mà liên-lụy đến thân. Ông Tử-Dử trả lời thẳng- thẳng rằng :
-Đạo bằng-hửu chỉ quý trong lúc này, nếu có liên-lụy, tôi cần-thiết gì quan-chức đâu mà bạn phải bận tâm.
Nguyễn-Khuyến khi đi thi Cử-Nhân, Tiến-Sỉ kết bạn với Dương-Khuê, cả hai đổ-đạt ra làm quan cũng chơi với nhau, khi cáo lảo về hưu cũng thăm-viếng nhau, làm thơ trao-đổi cho nhau để nâng cao trình-độ văn-học nghệ-thuât, nên thơ của các ông rất nổi tiếng.
Lúc Dương-Khuê mất ông Nguyễn-Khuyến làm một bài thơ để phúng-điếu khóc Dương-Khuê và kể lại những kỷ-niệm cuộc đời của hai ông rất hay, rất là bi-thảm.
Những chuyện kể tóm-tắt của bạn-bè tri-âm tri-kỷ trên đây, chỉ có các vị cao-siêu này mới làm được. Thời nay tôi nghĩ làm được như các ông ấy thật là hiếm có. Dù làm được hay không, chúng ta cũng nên lấy đó làm gương để soi đời.
BẠN-BÈ KHI CAO TUỔI GIÀ YẾU.
Khi tuổi già sức yếu, thời-gian cũng thay-đổi, bạn-bè nhiều người chia tay đi làm ăn xa, có một số qua đời, thậm chí các cặp vợ chồng có khi bà còn sống, ông đã qua đời, có đôi người ông còn sống bà đã mất, con cái lớn khôn có gia-đình xin ra ở riêng, một số đủ lông đủ cánh bay cao bay xa đi làm ăn, con gái lấy chồng sinh-sống nơi khác, bỏ lại cha mẹ gìa yếu cô-đơn.
Mặt dầu tuổi cao chúng ta cũng phãi có bạn để chuyện-trò chia xẻ khi vui khi buồn, nếu ở thành-phố các vị nên gia-nhập câu-lạc-bộ người cao tuổi, để tập thể-thao thể-dục mổi buổi sáng có huấn-luyện-viên hướng-dẫn, còn ở thôn-quê vùng sâu vùng xa nên rủ nhau đi bộ cho vui, hoặc tựu-tập một địa điễm nào đó thuận tiện tập thể-dục cũng dược, để giử-gìn sức-khỏe.
Cũng nên giao-lưu văn-hóa với nhau nâng cao kiến-thức để dạy con dạy cháu của mình, viết một quyễn hồi-ký cuộc đời ai mà không có một vài kỹ-niệm đáng ghi nhớ, hồi-ký cũng dể viết, mình lật lại những trang nhật-ký thời dĩ-vãng và động não nhớ lại những gi mình đã thấy, mình đã làm gép lại nhiều từ thành câu, nhiều câu thành đoạn, nhiều đoạn thành bài. Nếu ai có năng-khiếu làm một bài thơ, viết một bài văn xuôi nghị-luận về Việt-Nam đất nước con người, thiếu gì đề tài để viết, đừng có phê-phán bình-luận khuyết-điểm của Tôn-Giáo, Chinh-Trị thì thôi.
Tuổi già lẩm-cẩm , sức-khỏe thì yếu như ngọn lá vàng trước gió, như sợi chỉ treo cái chuông, không biết rơi-rụng lúc nào. Nên có một ít di-chúc văn-hóa lưu lại cho con cháu học hỏi noi gương và làm kỉ-niệm. Nên sống từ-bi làm công tác từ-thiện càng tốt. Trên thế-gian này chẵng có gì tồn-tại, mình sinh ra từ cát bụi kết cuộc cũng trở về với cát bụi. Tôi nghỉ rằng: ”Hổ chết để da, người ta chết để tiếng”. Chỉ có Khoa-Học, Đạo-Đức, Kỹ-Thuật, Văn-Học, Nghệ-Thuật, do con người phát-minh và sáng-tác lưu-truyền theo thời-gian lâu dài mà thôi. Các nhà văn, nhà thơ họ mất đã lâu vẫn còn lưu danh hậu-thế.
Bạn-bè nên lui tới thăm-viếng nhau, nếu ở xa thư-từ thăm hỏi, nghe tin bạn-bè đau-yếu nên tìm đến thăm-viếng an-ủi mới quý, ai có khả năng có thể gíúp-đỡ bằng vật-chất càng tốt. Tha-thứ cho nhau những việc bất-đồng nếu có, nên quý-mến yêu-thương nhau. Nghe tin bạn mình qua đời nên đến thăm-viếng phúng-điếu và chia buồn với tang-quyến, ở xa thi thư-từ đăng báo phân ưu.
Khi trẻ chúng ta chơi với nhau thân-mật, lúc già-nua tìm cách xa-lánh, là những ngườì thiếu tình-nghĩa bạn-bè, thuộc vào hạng vong ân bội ngãi nửa là khác.
Chúng ta nên tha-thứ và quý-mến nhau như ngày đầu quen nhau mới là bạn tốt, mới là chung-thuỷ.
Nói tóm lại bạn-bè và đời sống làm việc ở thời điểm nào ta cũng cần có bạn, có tinh-thần đoàn-kết với bạn-bè, đoàn-thể mới làm nên việc lớn được.
Tình bạn chơi với nhau, hoặc cộng-tác, hợp-tác, đã hiểu lòng nhau cùng chung lý-tưởng và chí-huớng, có một số bạn-bè thề-thốt nguy-nan, sống chết có nhau, dù nam hay nữ, bằng-hữu hay bạn đời vẩn tôn-trọng quý-mến chung-thủy tương-đối như nhau, trên đường đời xui-xẻo gặp chuyện bế-tắc không thể khăc-phục biến-hóa được. Đường cùng phải nhãy vào lửa đạn mà chết hy-sinh theo bạn-bè như ông Táo bà Táo cũng cam lòng, đừng tham sanh úy tử bỏ bạn-bè một mình gánh chịu thì không nên. Gương chung-thủy của ông bà Táo đến nay thiên-hạ vẫn tôn thờ.
Đừng bội-bạc bạn-bè, khi nghèo-khó bần-cùng có nhau, lúc gặp thời được giàu-sang phú-quý, danh-vọng cao-sang thì xa-lánh, phãn-bội bạn-bè. Trên thế-gian này có một số người vô đạo-đức, giàu đổi bạn, sang đổi vợ, chúng ta nhìn thấy bị hơi nhiều trong thời-đại ngày nay.
Những bạn-bè này sớm muộn cũng bị nguyền-rủa, thiên-hạ chê cười, có khi đi đến tán gia bại sản theo luật nhân-quả của Phật-Giáo.
Bạn xấu hay tốt chúng ta có biết đối nhân xử thế hay không? Một sống một chêt, tình bạn mới biết; Một nghèo một giàu, mới rỏ lòng nhau; Một hèn một sang, tình bạn rỏ ràng. Nếu bạn-bè có vấn-đề bất-đồng chớ nên nóng-nẩy thì dễ xa nhau, mình ẫn-nhẫn hạ mình xuống một tí và nhìn lại mình đúng hay sai trước đã, mới phê-phán bạn mình sau, đừng nên cãi bướn hoặc ỷ mạnh hiếp yếu dành phần thắng về mình, để cho bạn-bè phải ấm-ức đau khổ, không những bất nhân mà lại còn bất nghĩa nửa là khác. Nếu có máu anh-hùng đi đánh quân địch để cứu nhân độ thế mới giỏi, thắng bạn-bè được lợi gì? Thêm chạm lòng tự-ái mất hết tình bằng-hữu.
Đã chấp nhận bạn-bè phải yêu-mến tôn-trọng lẫn nhau, giao-hão nên giử lễ lựa lời, dẹp cái tôi của minh di một chút thì có thể sống vui-vẻ với bạn-bè lâu-bền, cuộc đời thấy thanh-thản, hạnh-phúc có ý nghĩa hơn, lại được bạn-bè và mọi người yêu-quý, mến-thương./.
HẾT
Viết xong bản thảo ngay 10-6-2007.
Tác giả PHAN-VINH.
BÀI ĐIẾU VĂN
--o0o-
Mấy hôm nay mịt-mù mây mưa thãm-đạm! Đó là dấu hiệu báo tin Trời, Phật sẻ rước linh-hôn anh vè cỏi Vĩnh-Hằng.
Tôi xin nói với anh một đôi lời trước giờ phút vĩnh-biệt.
Anh Sáu ơi!
Không hiểu vì ngẩu-nhiên hay là duyên-kiếp. Theo tôi nghỉ có thể là nhờ nhân-duyên .
Cách đây 44 năm, chúng ta gặp nhau kết tình huynh-đệ trong cuộc đời lính chiến.
Cuộc chiến-tranh hai miền Nam Bắc cuối thế kỷ 20 thật là ác-liệt, mạng sống con người như ngàn cân treo sợi tóc và ngọn đèn trước gió, không biết rơi rụng, đỏ tắt lúc nào.
Biết bao bà con bạn-bè cũa chúng ta cã hai bên, họ đã lìa đời vì làn bom mủi đạn khi tuổi còn non-trẻ.
Nhở ơn phúc-đức cũa ông bà anh em ta để lại và cũng nhờ ơn Phật, Trời phù-hộ, anh em mình che-chắn cho nhau mà sống sót đến ngày hôm nay. Sau ngày giải-phóng miền Nam, cuộc sống cũa anh em mình thật là khó-khăn bi-thãm, rả ngủ ra hai bàn tay trắng, một đàn con lúc-nhúc dại-khờ.
Chúng ta chia tay nhau mổi người một ngã.
Tôi ở Bùi-Chu anh lên Bàu-Cá, chọn quê-hương thứ hai để làm lại cuộc đời và tìm cuộc sống cho có ý nghĩa hơn. Đi vào rừng sâu khai khẩn tăng-gia sản-xuất cũng-cố kinh-tế gia-đình nuôi đàn con khôn lớn, cùng nhau đóng góp xây dựng xã-hội đất-nước.
Thời-gian thấm-thoát đã 30 năm trôi qua, con cái trưởng-thành, những đứa có gia-đình ăn ở riêng ổn-định, số ít còn lại đã học-hành thành-đạt, có công ăn việc làm tự-lập được. Cháu nội ngoai đã đày đàn dày đống.
Ngày anh qua đời , con cháu nội ngoại, bà con xa gần, bạn-bè thân hữu đến đông-đủ đẻ thăm-viếng và dự tang lẻ.
Đó là vinh-dự nhất trên dời, không phãi mọi người ai cũng được như vậy.
Hôm nay anh ra đi với tuổi thọ 71 là mãn nguyện lắm rồi, có câu văn cũa người xưa để lại:”Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Người sống đựoc 70 tuổi trên đời rất hiếm.
Tôi Hai-Vịnh bạn cũa anh mà cũng là tình-nghĩa thông-gia, vô cùng xúc-động, ngâm-ngùi thương tiếc, trong giờ phút vĩnh-biệt này. Tôi nghẹn-ngào chẵng nói nên lời.
Lấy bút viết điếu-văn kính chúc hương hồn anh được tiêu-diêu nơi miền Cực-lạc. Anh sống khôn thác thiêng, phù-hộ cho đàn con cháu nội ngoại sống bình-an, khỏe-mạnh hạnh-phúc.
Vong-linh anh luôn-luôn nhớ đến tôi, tôi cũng nhớ thương anh cho đến ngày chúng ta cùng nhau gặp lại ở bên kia Thế-giới.
Kính cáo.
Bùi-Chu, ngày 13 tháng 8 năm 2005
Tác giả Phan-Vinh.
“Bài văn phúng điếu ông Thông-gia Sáu-Mực tại Bàu-Cá”
MỘT MỐI TÌNH CHUNG-THUỶ CÓ TÍNH CÁCH LỊCH-SỬ CỦA CÔ HOÀN THỜI CHỐNG PHÁP, CHỐNG MỸ.
___
CHƯƠNG I.- GIA-ĐÌNH VÀ CUỘC SỐNG CŨA CÔ HOÀN THỜI THƠ ẤU.
-Cô Hoàn là con gái út, được sinh ra và lớn lên trong một gia-đình địa-chủ giàu có tại làng Phú-Mỹ , Tổng An-Cư, Huyện Phú-Lộc, Thừa-Thiên Huế.
Thời Thực-Dân Phong-Kiến. Ông Trịnh-văn-Bình bố của cô Hoàn cũng có làm Xã-Trưởng, ông là người trí-thức có học chữ Hán, Nôm nên ông sống rất hiền-từ có đạo-đức văn-hoá, biết đối nhân xử thế, nên trong làng ai-ai cũng kính-nể, vợ ông là bà Ngô-thị-Uyển người làng Phú-Bình, thời còn trẻ cũng rất đẹp gái, khi càng về tuổi già bà rụng răng móm-xọm, tính-tình thay đổi như là một mụ phù-thủy, chằng-lửa, hay chửi-rủa dân làng, hà-hiếp đánh-đập tôi-tớ, ai cũng ghét.
Bà sinh cho ông được bốn ngưòi con, hai trai, hai gái. Ông anh đầu kêu tên theo thứ tự anh Hai-Hành, cô gái thứ tên cô Ba-Đệ, cậu trai thứ tên Tư-Loàng. Hai người con trai và cô gái út cho đi học chữ, còn cô Ba-Đệ chỉ cho học may-vá thêu-thùa, nội-trợ và thay mẹ trông coi công việc đồng-áng.
Thời-gian tiến-triển hai ông anh Hai và Tư lớn lên ông bà lập gia-đinh cho hai ông, rồi cho ăn ở riêng chia đất ruộng cho phần ai tự lo nấy.
Trong gia-đình còn lại hai ông bà, hai người con gái, tôi-tớ ba bốn người, đó là ngày thường. Còn đến lúc thời-vụ mùa-màng thì người đến làm mướn ăn ở rất đông. Thời Phong-kiến là thời hưng-thịnh của các gia-đinh Địa-Chủ. Ông anh Hai của cô Hoàn dạo này được Hội-Đồng làng bàu làm Xã-Trưởng, tuổi trẻ sung sức, có quyền-thế, ông làm việc làng nước rất hăng-hái, hét ra lửa, dân làng từ già đến trẻ ai ai thấy ông cũng sợ, có lần làng tu sửa lại Đình, có một người dân làng tên là anh Chung bận việc gia-đình đến trễ, ông thộp cổ đè đầu xuống đánh mười roi, mất mặt xấu hổ đâm ra tự-ái. “ Chết vinh hơn sống nhục” anh ta đi thắt vòng vào cổ tử-vận, pháp-luật thời ấy thật nghiêm-khắc thưa kiện đến quan trên thì lấy mạng đền mạng. Sẳn tiền lo lót ông cũng bình chung như vại, vẫn là Xã-Trưởng. Thời Thực-Dân Phong-Kiến là thời hưng-thịnh Quan-lại và Địa-Chủ giàu có. Thời này đồng tiền là sức mạnh vô hạn.
CHƯƠNG II.- TÌNH YÊU, NHIỆM-VỤ, CUÔC SỐNG, CỦA CÔ HOÀN và GIA-ĐÌNH XẨY RA TRONG CUỘC BIẾN-CỐ 1945.
Dạo nầy cô Hoàn mới mười lăm tuổi, cái tuổi dậy-thì của con gái, mười lăm trăng tròn, mười sáu tròn trăng, con người cô rất dẹp gái, hình dáng vừa-vặn, da thịt trăng nõn, mặt trái soan, mủi dọc dừa, thật dễ nhìn, một học-sinh và hoa-khôi của làng Phú-Mỹ. Năm nay cô Hoàn vẫn còn di học, cô có bạn trai cùng chung lớp, chung trường, tên anh ấy là Nguyễn-anh-Dũng rất đẹp trai con nhà giàu học giỏi, trai tài, gái sắc thật xứng đôi vừa lứa, mối tình đầu của cô Hoàn và Dũng thật là thơ-mộng.
Cuộc đệ II Thế Chiến xảy ra, Nhật đầu hàng vì bom nguyên-tử của Mỹ. Bị Quân-Đội Đồng-Minh tước-đoạt vũ-khí, đuổi về nước. Tháng 8-1945, Bác Hồ đứng ra kêu gọi toàn dân làm cuộc Cách-Mạng Mùa Thu, lật đổ chế-độ phong-kiến bù-nhìn Bảo-Dại, Thành lập nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà, do Bác lãnh-đạo, đọc tuyên-ngôn độc-lập trước quảng-trường Ba-Đình Hà-Nội.
Bác-Hồ cũng kêu gọi toàn dân đoàn-kết.
- Bác-Hồ nói:
Hôm qua họ là kẻ thù của chúng ta, nhưng hôm nay họ biết ăn-năn hối-cải, chúng ta cũng coi họ như là bạn-bè, để cùng nhau góp công góp của xây-dựng lại đất nước được giàu mạnh tốt đẹp hơn.
Ông Hai-Hành mới ngày hôm qua là Xã-Trưởng của chế-độ Thực-Dân Phong-Kiến, nắm bắt thời-cơ ông tự nhiên cải lại chức-vụ là Chủ-Tịch làng Phú-Mỹ lúc giao-thời. Tôi nghe ba tôi nói chuyện với mẹ tôi, những người có học thức giàu có thời nào nó cũng làm cha thiên hạ. Vì giòng họ Trịnh của ông có quyền thế từ xưa cho đến nay. Nên dân làng chẳng ai dám đớ đụng đến, thời-thế cũng phải đổi thay.
Mùa Xuân năm 1946 Quân Pháp sang tái chiếm Việt-Nam. Ông sợ quân Pháp bắt giết, đêm ngày phải lẩn trốn. Vì trước kia làm Xã-Trưởng hà-hiếp dân làng, mặc dàu hôm nay ông là Chủ-Tịch của Việt-Minh, dân làng họ vẫn còn thù-hận riêng về cá-nhân ông hành-động hồi còn làm Xã-Trưởng của chế-độ cũ, bị Việt-gian điềm chỉ Pháp bắt ông ra nhốt tại lao Thừa-Phủ, lúc này bố mẹ ông cũng già yếu kinh-tế của gia-đình suy-sụp, không kiếm đủ tiền chuộc về, nên bị Pháp thủ-tiêu bỏ mất xác.
Cô Đệ con gái thứ, dạo này tuổi đã ngoài tứ tuần, mình mẩy mập mạp, mặt mày xấu-xí, mà ỷ thế con nhà danh-giá kén lựa, nên không ai thèm rước, vẫn ở với cha mẹ. Ông Loàng lúc này cũng sợ liên-can, nên cũng bỏ nhà bỏ cha mẹ gìa trốn theo Việt-Minh.
Cô út Hoàn được bố mẹ nuông chiều, dạo này tuổi của cô cũng vừa đôi chín vẫn còn đi học, cô Hoàn căm thù giặc Pháp tái chiếm đất nước còn bắt giết anh hai của cô, nên cô rủ anh Dũng người tình nghỉ học, cùng thoát-ly theo Việt-Minh để đánh Pháp, Cô Hoàn làm cán-bộ Phụ-Nữ Xã. Anh Dũng đi làm Sĩ-Quan Bộ-Đội Cụ-Hồ. Tạm đình-chỉ việc hôn-nhân, để cùng nhau chống Pháp.
Trong tình huống dầu sôi lửa bỏng của đất nước hiện nay, nhiệm-vụ của Thanh-Niên hiện tại, coi nợ nước trước tình nhà.
Anh Dũng là Bộ-Đội Chính-Quy Vệ-Quốc-Đoàn thời ấy, anh là một Cán-Bộ Sĩ-Quan ưu-tú, tinh-thần gan dạ, cầm quân đánh đâu thắng đó, rất xứng đáng với cái tên mà bố mẹ đặt cho anh hồi anh còn bé, cô Hoàn cũng lấy làm hãnh-diện và tự-hào cho mình có người yêu lý-tưởng.
Sau này anh cũng cầm quân tham-dự trận đánh lớn tại Thanh-Hương, Lam-Bồ, trận nầy quân Pháp mở cuộc hành-quân càn-quét cấp Sư-Đoàn Bộ-Binh đầy-đủ các Binh-Chủng, có Tàu-Bò, Tàu-Thủy, Pháo-Binh, Máy-Bay yểm-trợ. Trận này giặc Pháp cũng bị quân ta giáng một đòn chí-tử, bỏ xác tại trận hàng trăm tên.
Quân ta cũng có anh-dũng hy-sinh một số ít, Trong đó có Đồng-Chí Sĩ-Quan Nguyễn-anh-Dũng là người chồng chưa cưới của cô Hoàn. Được bạn-bè cho hay tin là Dũng đã hy-sinh trong trận đánh vừa qua, cô vô cùng cảm-xúc buồn-rầu thất-vọng mấy tháng trời, cô căm thù giặc Pháp giết anh mình rồi nay lại giết người yêu, nhờ có anh Nguyễn-Văn-Thanh là bạn đồng-chí. Làm việc cùng một tổ, vỗ về an-ủi cô mới khuây-khoả tiếp tục công-tác. Tình-cảm của cô Hoàn và anh Thanh mới chớm nở từ đó. Ban đêm cô cũng có lén về thăm cha mẹ cô và cũng báo tin cho cha mẹ Dũng biết là Dũng đã hy-sinh.
Từ ngày anh Dũng hy-sinh, thời-gian trôi qua gần một năm Thanh mới dám ngỏ lời cầu hôn với Hoàn, Hoàn nhận thấy Thanh cũng là người thông-minh, trí-thức không thua gì Dũng, Cũng điển trai con nhà danh-giá trung-lưu ở làng Phú-Bình, miền duyên-hải gần với mật-khu của cô hoạt-đông. Cô xin để suy-nghĩ ít hôm mới trả lời:
-Là cô đã nhất-trí và đồng-ý. Anh Thanh mừng quá như là mình đã vớ được một nàng Tiên-Nữ giáng trần, không bỏ lỡ cơ hội, sợ cô ta thay đổi ý-kiến thì hỏng mất, khẩn-cấp trình xin Uỷ-Ban Kháng-Chiến, được cấp Uỷ cho phép, anh tổ-chức lễ tuyên-hôn trong mật-khu. Mời quý vị Đại-Diện cấp Ủy tham-dự đọc lời tuyên-hôn xong, bữa tiệc chỉ có bánh in và nước trà mà thôi. Thời kháng chiến chống Pháp có câu ca : “A ly họ lờ … ngày xưa đám cưới heo gà… A ly họ lơ … ngày nay đám cưới nước trà bánh in… Hò lơ… Hó lơ … Lắng tai nghe, tiếng ai hò lơ … hò lờ ……
Thế là hoàn-thành thủ-tục kết hôn của đôi trai tài gái sắc thời kháng chiến chống Pháp. Từ nay hai người được phép ăn ở chung sống với nhau trong mật-khu kháng-chiến.
Cha mẹ cô Hoàn lúc này già-yếu bệnh-hoạn, con thứ hai bị Pháp giết, con trai thứ tư, con gái út bỏ đi kháng-chiến, ông bà ở với cô gái thứ ba bị ế chồng, nên tánh nết hay cáu-gắt, không coi cha mẹ già ra gì, hai ông bà cô-đơn buồn-rầu sinh bệnh rồi cũng qua đời hết. Gia-đình còn lại một mình cô Ba-Đệ lỡ thời tuổi gần ngũ tuần, có người mai-mối cho một ông già đau bao-tử chi có ăn cơm nếp, ở trong Đà-Nẵng ra rước đi. Đến 1953 chiến-tranh gần kết-thúc càng ác-liệt cái nhà xây tường gạch lợp ngói Tây của bố cô Hoàn cũng bị Pháp đập tan-nát, thế là gia-đình V.M bị tán gia bại sản từ đây.
Cô Hoàn và Thanh chung sống hoạt-động cho Việt-Minh trong mật-khu cũng sinh được hai Công-Chúa kháu-khỉnh rất giống bố mẹ. Sau khi quân Pháp bị thất-thủ trận Điện-Biên-Phủ. Buộc phải ký Hiệp-Định Giơ-ne-vơ tại Thuỵ-Sĩ ngày 07-5-1954. Được đình-chiến tại Đông-Dương.
Sau ngày đình-chiến 1954 theo hiệp-định, lệnh phải tập-kết, cán-bộ và Quân-Đội Việt-Minh từ miền Nam ra tới vĩ-tuyến 17 phải rút hết ra Bắc, toàn miền Bắc vào đến vĩ-tuyến 17 cầu Hiền-Lương, Quân-Đội viễn-chinh Pháp phải rút hết vào Nam, giao lại miền Bắc cho Việt-Minh, Bác-Hồ lãnh đạo.
Anh Thanh phãi từ-giã cha mẹ, vợ con, anh em lên đường tập-kết ra Bắc, trước giờ phút chia tay tạm biệt, hai vợ chồng Thanh và Hoàn thề Non hẹn Biển những lời sắt-son vàng đá với nhau.
“Cùng nhau thề thốt nặng lời
Dẩu mòn bia đá chớ phôi tấc lòng”.
Nguyễn-Du
Nếu sau này có chuyện bất trắc, không sum-họp cũng vẫn ở chờ đợi cho đến chết thì thôi, không ai được tự tiện phụ nhau đi theo người khác, là mang tội bội-phản với Trời, Phật và thất tín với nhau. Thanh và Hoàn cả hai đều có ăn học, gia-đình có văn-hoá truyền-thống, họ tin nhau, nên khi xa nhau họ dám thề thốt nặng lời như vậy.
CHƯƠNG III.- SAU NGÀY CHIA TAY THANH LÊN ĐƯỜNG TẬP-KẾT RA BẮC CÔ HOÀN VỀ LÀM DÂU SỐNG VỚI BỐ MẸ CHỒNG.
Sau khi Thanh đi rồi Hoàn đem hai đứa con mình về sống với bố mẹ chồng, thủ tiết nuôi con. Lúc nầy bố mẹ chồng còn mạnh-khoẻ, từ làng Phú-Bình dời nhà về làng Trung-Kiền gần chợ Thừa-Lưu, Xã Lộc-Tụ. Ở đây gần chợ búa, mới thuận-tiện việc buôn-bán làm ăn, ông già chồng làm Thầy Lang buôn-bán thuốc Bắc, mẹ chồng trông nom hai cháu và lo việc bếp-núc, Cô Hoàn và hai em gái hàng ngày chạy chợ gia-đình sống qua ngày, kiếm tiền nuôi hai con ăn học. Chờ đến tháng 7.1956 nhà nước tổ-chức tổng-tuyển-cử thống-nhất hai miền Nam Bắc với nhau thì anh Thanh sẽ về sum-họp vợ chồng.
Ai ngờ Mỹ đưa cụ Ngô về làm Thủ-Tướng miền Nam, lật-đổ chế-độ Vua bù-nhìn Bảo-Đại, đình-chỉ tổng-tuyển-cử, bởi vậy mới có cuộc chiến phân chia lãnh-thổ lâu dài. Anh Thanh phải sống một mình tại miền Bắc suốt hai mươi năm. Hai cô em gái của anh Thanh trưởng-thành cũng đi lấy chồng hết.
Lúc này cô Hoàn tuy đã có hai mặt con nhưng còn trẻ, vẫn đẹp gái như ngày nào, biết bao anh chàng trai trẻ muốn xin cưới cô làm vợ, nhưng cô khéo-léo chối-từ, cô nhất quyết một lòng ở vậy nuôi con và chờ đợi chồng về.
Như bài ca hòn-vọng-phu 1 của Lê-Thương.
“Bao nhiêu năm bồng con dứng đợi chồng về…
Bao nhiêu năm thời gian không phai lời thề…
Người đi ngoài vạn lý quan-san…
Người mong chồng vẫn sống (1) nuôi con……”
Gia đình bố mẹ chồng và cô vẫn làm ăn buôn-bán sống cũng được.
Bất thần ngày 1-11-1963 Dương-Văn-Minh lật-đổ Ngô-Đình-Diệm, Vì lý-do : gia-đình trị và đàn-áp Phật-Giáo. Cái gọi là Quốc-Sách Ấp Chiến-Lược của ông Cố-Vấn Chính-Trị Ngô-Đình-Nhu cũng bị nhân-dân phá tan-tành. Lúc nầy tình-hình an-ninh bất ổn, Mỹ ồ-ạt đổ quân sang miền Nam Việt-Nam. Tình-hình chính-trị quá rối-ren. Quân giải-Phóng cũng lớn mạnh lên, ban đêm kéo về đánh trụ-sở Xã Lộc-Tụ, Nghĩa-Quân canh-gác Xã người chết, kẻ bị thương, nhà cô Hoàn bị đạn pháo-binh hư-hại nặng, ông bà già chồng của cô Hoàn thấy tình-thế khiếp-sợ, phần thì nhớ con trai đi tập-kết không về, buồn-rầu ốm-đau cũng qua đời cả ông lẫn bà cùng trong một năm.
Sau ngày chôn cất cha mẹ chồng xong năm tháng sau mẹ con Cô Hoàn từ bỏ quê, dắt-díu nhau vào thành-phố Đà-Nẵng ở với bà Đệ chị ruột, cô xa-lánh mấy ông cán-bộ địa-phương của thời Tổng-Thống Nguyễn-văn-Thiệu, họ biết chồng cô là VC làm khó dễ. Nên cô phải bỏ quê tìm nơi an phận, để buôn-bán tảo-tần nuôi dạy hai con, kiếm trường cho con nhập học, Hiếu và Hạnh con gái của cô rất ngoan-ngoãn thông-minh, học-hành tiến-bộ thật xứng-đáng công lao của cô chăm-sóc nuôi-nấng từ lâu.
Có câu:
“Con nhà tông không giông lông cũng giống cánh”.
Hai cô càng lớn càng đẹp gái, lộng-lẫy như hai nàng Công- Chúa, học-hành thành-đạt nên người, dạo này hai nàng đã đến tuổi trưởng-thành. Cô Hoàn nuôi dạy con rất chuẩn-mực, tánh-tình rất đằm-thắm nết-na, đầy-đủ các đức-tính như: Tam-tòng, tứ-đức, công, dung, ngôn, hạnh. Các quan lớn chế-độ cũ đến ngắm-nghé, muốn hỏi làm vợ, nhưng cô nhất quyết không gả, vì cô đã kinh-nghiệm, thời chiến-tranh lấy chồng quan hay đi đánh trận bỏ con mình phòng không gối chiếc, có khi tử trận con mình bị goá-bụa. Cô phân-tách hơn thiệt cho hai con cô hiểu. Có quyền cao chức trọng, giàu có cũng chẳng màng.
Kiếm dân thường có kiến-thúc, hoặc là bác-sĩ kỹ-sư kết duyên.
Hạng người này thời chiến-tranh hiếm-hoi lắm, thanh-niên trí-thức ai cho làm thường dân thời này.
Xét suy cho kỹ cô Hoàn chẳng có thích gì ba ông quan chế-độ Sài-Gòn đâu, mà không gả cho mấy ông này thì con mình ở goá hay sao? Vi gia-đinh bên chồng và bản-thân cô là Đạo Phât-Giáo. Hay cho con đi tu làm Ni-Cô có thể không ? . Cô tự hỏi tấm lòng của cô, rồi cô tự trả lời:
-Việc tu-hành là do lòng tự-nguyện, không nên, không thể ép-buộc con như vậy được, để cho con-cái có quyền tự-do. Hai con mình tuổi đang non trẻ, có tội tình gì mà phải đầy-đọa chúng như vậy, thì tội nghiệp cho chúng nó. Suốt cuộc đời minh đã trung-thành với Đảng và Tổ-Quốc, hy-sinh cho chồng, cho con, mà quan-trọng nhất là tương-lai của hai con mình. Bất đắc dĩ cô mới cho hai con tuỳ ý kén chồng. Hai cô có học-thức cũng khôn-ngoan hiểu ý mẹ, hai cô chọn chồng Quan Văn có học-thức chuyên-môn làm việc trong các Bộ - Ngành quan-trọng của chế-độ Sài-Gòn. Lần hồi theo thời-gian cũng được thăng quan tiến chức, lên cấp-bậc Trung-Tá, Đại-Tá, làm việc trong Bộ Quốc-Phòng và Bộ Ngoại-giao, có một ông rể của cô Hoàn đi theo phái-đoàn Mỹ Việt chế-độ Sài-Gòn hội nghị tại Ba-Ri năm 1971-1973.
Nên các ông biết trước tình-hinh của miền Nam sau nầy.
Hai ông cột chèo bàn với nhau, tìm cách đưa ba mẹ con sang định-cư bên Mỹ trước ngày giải-phóng một năm.
Đến ngày 30-4-1975 hai chàng cũng đồng hành theo Mỹ sang sum-họp mẹ con. Qua Mỹ hai ông rể cũng tiếp-tục làm việc ngành ngoại-giao với Mỹ. Sau ngày giải-phóng miền Nam mẹ con cô Hoàn sống đoàn-tụ hạnh-phúc trên đất Mỹ.
CHƯƠNG IV.-CUỘC SỐNG CỦA ÔNG THANH SAU NGÀY GIẢI-PHÓNG ÔNG TÌM VỀ QUÊ-HƯƠNG KIẾM VỢ CON.
Ngày giải-phóng, thống-nhất đất nước anh Thanh trở về quê-hương tìm lại nhà xưa chốn cũ thì thấy cảnh tiêu-điều hoang-vắng không còn ai, anh hỏi những người ở chung quanh lạ hoắc, họ chẵng biết anh là ông mô, mà anh cũng chẳng biết họ là ai nữa, vì anh hỏi mấy người trẻ tuổi họ làm sao biết được. Anh suy-nghĩ một lát anh nhớ lại cái câu: “ra ngoài hỏi già về nhà hỏi trẻ”, anh mới hỏi tiếp:
-Ở đây có ông bà già nào sáu bảy mươi tuổi còn sống không ? Anh A trả lời:
-Chú cứ tới đằng kia hỏi nhà ông Lưu chồng bà Em ông ấy già lắm rồi, anh đi đến hỏi thì ông nầy có biết, ông ấy nói:
-Sau ngày đình-chiến 1954 ông bà Khoá đã dời nhà lên chợ Trung-Kiền ở để buôn-bán, nay thì ông bà đã qua đời hết rồi, tôi nghe người ta nói sau khi ông bà mất, O Hoàn lo chôn cất ông bà xong xuôi, cách măm sáu tháng sau ba mẹ con dắt nhau vào Đà-Nẳng ở, tôi chỉ biết đến đây mà thôi, vì tôi già rồi chẵng đi đâu xa mà rỏ hết được, anh nên lên trên làng Phú-Mỹ mà hỏi thì chắc có người họ biết rỏ hơn.
Anh Thanh cám ơn rồi cáo từ ông già ra đi lên làng Phú-Mỹ hỏi ra thì người thân còn quá nhiều, anh chị em ruột cô Hoàn không còn ai, chứ con cháu của cô già có. trẻ có, cả họ Trịnh ai mà chẵng biết o Hoàn, anh xưng với họ, anh là chồng chính-thức của o Hoàn đi tập-kết ra Bắc năm 1954 đến nay mới được về. Bà con họ cho anh hay tiếp, thế thì hỏng việc rồi, từ ngày dượng đi cho đến nay o Hoàn không thèm lấy chồng vẫn ở một mình nuôi con chờ dượng về, sao dượng chẳng về, o tưởng dượng đã chết hoặc đã lấy vợ khác bỏ o rồi, nên ba mẹ con o đã qua Mỹ trước ngày giải phóng hơn một năm nay rồi. Anh Thanh được tin này chính-xác một trăm phần trăm, anh buồn-rầu thất-vọng. Anh nhớ lại thời còn trẻ vợ chồng cùng chung chí-hướng đánh Pháp thắng-lợi. Nhưng rồi phải chia tay vợ con tập kết ra Bắc tiếp-tục chống Mỹ hai mươi năm gian-khổ vào sanh ra tử, nhờ Phật độ-trì sống sót. Nay về quê nhà gặp lại vợ con để sum-họp ca khúc khải-hoàn mừng ngày chiến-thắng, đất nước được hoà-bình thống-nhất độc-lập tự-do. Nếu như vợ con còn ở tại VN thì mình được sống hạnh-phúc, và lấy làm hãnh-diện với quê-hương làng nứơc biết bao.
Ông Thanh về quê-hương đã lâu mà chẳng thấy chính-phủ Cách-Mạng Lâm-Thời bổ-nhiệm một chức-vụ gi xứng-đáng, chỉ có đi làm các việc tạp-nhạp mà thôi. Vì công lao của anh quá lớn, mười năm chống Pháp, hai mươi năm chống Mỹ, đóng góp cho đất nước hết hai phần đời người, tuổi-tác của ông đã trên ngũ tuần, mà chỉ có hai bàn tay trắng, ông suy-nghỉ: “mình đi đánh đuổi Mỹ, mà vợ mình quên lời thề thốt ngày xưa, đem con mình đi theo Mỹ phản-bội lại minh, phản-bội cả Tổ-Quốc, mặt mũi nào mà nhìn bà con bạn-bè làng nước, chẳng còn con đường nào nữa mà thấy được mặt mủi vợ con”. Ông đâm ra chán-nản nhìn lại cuộc đời ông dến đường cùng, chẳng thấy gì là sáng-sủa nữa, lúc nầy ông vô cùng tuyệt-vọng con người ông dở điên dở tỉnh, sức-khoẻ của ông lúc này thấy hơi tiều-tuỵ xuống cấp.
Chương V.-CÔ HOÀN Ở BÊN MỸ ĐƯỢC TIN ÔNG THANH CÒN SỐNG VỀ TẠI QUÊ-NHÀ ĐI TÌM CÔ, NÊN CÔ BAY VỀ.
Cô Hoàn bên Mỹ nhận được tin chồng mình còn sống đang đi tìm mình tại quê nhà, cô đi Thẩm-mỹ-viện sửa lại sắc đẹp cho cô trẻ lại như con gái, mặc dầu năm nay tuổi của cô đã ngoài bốn mươi. Cô ra lệnh cho hai ông con rể lo thủ-tục giấy tờ và vé máy-bay để cô bay về Việt-Nam thăm “chồng” Bố. Cô cũng bão với hai con gái của cô, chị em con phãi đi mua vãi-vóc loại tốt nhất với quà-cáp quý giá, để mẹ mang về tặng Bố “cha” và bà con họ-hàng. Trước khi cô Hoàn về VN, rể và con lo cho cô thủ-tục giấy tờ về nước thăm thân-nhân, vé máy bay, đô-la, vàng, hành-lý quà tặng đầy-đủ. Hiếu và Hạnh còn dặn-dò mẹ phãi khéo-léo thuyết-phục Bố bằng lòng qua Mỹ, để các con lo thủ-tục bão-lãnh sang đoàn-tụ gia-đình.
Cô Hoàn cũng hứa với các con, mẹ sẽ đem hết tài-năng khôn-ngoan của mẹ để dụ-dổ Bố các con cho bằng được. Mẹ con dặn-dò nhau kỹ-lưỡng, con, rể gởi lời về thăm Bố và bà con họ-hàng, kính chúc sức-khoẻ.
Ngày cô lên đường, con, rể, cháu ngoại đưa ra tận phi-trường để cô lên máy-bay về quê-hương.
(Tinh-thần lẩn thể-xác của ông Thanh dạo này bị tiều-tụy, cũng như bụi cỏ héo tàn vì xáp cơn nắng Hạ khắc-nghiệt của phong-thổ và khí-hậu miên Trung, cái nơi mà cha mẹ đã sinh ra ông tại đó, sắp sửa được dịp mây, gặp cơn mưa Dông đúng lúc, thật là tươi mát cuộc đời của lão).
Năm 1977 trong thời-gian mới giải-phóng, tình-hình chính-trị chưa được ổn-định, thời còn quan-liêu bao-cấp, thời ngăn sông cấm chợ, nội bất xuất, ngoại bất nhập, thế mà cô Hoàn từ Huê-Kỳ bay về Việt-Nam một cách dễ-dàng như đi chợ. Để thăm chồng, thăm bà con làng xóm. Vì không có thời-gian cô đi khắp nơi thăm hết bà con làng xã , bà con ai biết tin cô về tới thăm thì dược cô tặng 500$ tiền VN hồi đó, quy ra tiền bấy giờ là 50.000$ VN, nên bà con đồn-đãi ra trên làng dưới xóm họ rồng-rồng kéo nhau đến tấp-nập thăm cô, bất cứ bà con hay người dưng nước lã, cô cũng tặng tiền như nhau, nên bà con làng xóm ai cũng mến cô. Cô có hai thằng cháu cũng lớn tuổi sấp-xỉ bằng cô, là con của ông anh ruột hai Hành, ông nầy bị Pháp giết bỏ mất xác, cậu anh tên Chánh gia-đình đóng 5.000$ Đông-Dương cho VM đưa ra Bắc học để sau này báo thù nhà, trả nợ nước. Khi giãi-phóng trở về dược Cách-Mạng phân-công vào làm cán-bộ Xã Lộc-Hãi được cấp nhà đất tại địa-phương nơi làm việc, thì o cho tiền ít, còn cậu em tên Trực đi theo lính Ngụy khi giải-phóng trở về làng làm phó thường dân, ruộng đất cha ông để lại bị đưa vào tập-thể, gia-đinh cậu quá nghèo khổ, thất cơ lở vận, ở cái nhà xập-xệ dột nát, chỉ ăn khoai mì, bo-bo khoai lang mà sống, nhìn thấy thật bi-thảm, thì cô cho nhièu tiền hơn và cung-cấp tiền xây cho cậu một nhà to lợp ngói để gia-đinh cậu ở và thờ-phụng tổ-tiên Ông Bà. Ông em đi sai đường lối đáng lẽ cô phạt, mà cô lại ưu-tiên hơn, thế mới tréo cẳng ngỗng.
Thời-gian cô và ông Thanh ở lại nhà cháu, tại làng Phú-Mỹ ông Thanh thấy cô cho tiền bà con nhiều quá, ông tiếc của sốt ruột bảo với cô nên di-tản địa-điểm cư-trú.
Sau mấy ngày thăm-viếng bà con cháu chắt thỏa-mãn, cô dắt ông Thanh bay vào Sài-Gòn thuê khách-sạn lưu-trú, chung sống với nhau, để có không-gian, thời-gian yên-tĩnh, cô thuyết-phục dụ-dỗ chồng cô bỏ Đảng theo mẹ con cô để sang Huê-Kỳ sum-họp gia-đình.
Khi đến Sài-Gòn cô thuê phòng khách-sạn hạng nhất, nghỉ ngơi cho thoải-mái, ngày hôm sau cô mới bắt đầu câu chuyện.
-Hồi đầu cô dỗ ngon dỗ ngọt đi theo cô để sang Mỹ, ông chẵng thèm mghe.
Ông Thanh nói:
-Thời mình còn thanh-niên, trốn chui, trốn nhủi, chịu đói, chịu rét, vào sinh, ra tử, nằm gai, nếm mật, trường-kỳ kháng-chiến, mười năm gian-khổ đánh đuổi được quân Pháp. Đình chiến em ở nhà nuôi con phụng-dưỡng cha mẹ, anh còn tập-kết ra Bắc tiếp tục nhiệm-vụ hai mươi năm chống Mỹ, hôm nay mình đã thắng Mỹ.
-Đất nước được hoà-bình, độc-lập thống-nhất, em biết không? Anh đã góp công sức hết hai phần đời người, trung-thành với Đảng mới được ngày hôm nay, em xúi-dục anh bỏ Đảng theo mẹ con em là bỏ thế nào được. Ông nói tiếp, tôi không thể bỏ Đảng đi theo Mỹ được, cô đừng nằm mơ, cô biết không? Hành-động như vậy là phản-bội lại nhân-dân, phãn-bội Tổ-Quốc, tội nầy trời không dung, đất không tha, ai đời đi đánh Mỹ rồi lại theo Mỹ răng được, không thể.
Cô Hoàn cứ ung-dung tự-tại lắng tai nghe ông nói cho hả dạ không cãi lại một lời nào cả, sẳn đà ông moi hết những gì ấm-ức trong lòng từ lâu, ông xổ ra hết muốn toẹt cả móng heo. Ông còn trách mắng cô Hoàn những câu thậm tệ, ông bão cô quên hết lời thề hẹn, trong ngày chia tay tạm biệt ra Bắc tập-kết. Ông bảo cô Hoàn là con người một dạ hai lòng, gió chiều nào cờ bay theo chiều nấy, dắt con của ông đi theo Mỹ là phản-bội lại ông và Tổ-Quốc.
-Cô Hoàn rất vui, cứ tươi như hoa, chẳng nói, chẳng rằng, cô đưa tay lên ngực của ông vuốt-vuốt ba cái, rồi lại thơm vào má của ông hai cái, để cho ông xuống cơn nóng dận, cô xem lại đồng hồ đã điểm Oh40, cô bảo:
-Những gì anh nói ra em đã nghe hết và hiểu rõ, thôi khuya lắm rồi mình đi nghỉ đi anh, còn chuyện gì tối mai tiếp-tục.
Qua ngày mai cô cũng ngọt-ngào khuyên-nhủ anh nên suy-nghĩ cho thật kỹ, em sẽ lo cho sang Mỹ vợ chồng cha con sống đoàn-tụ với nhau.
-Đầu óc, bụng ruột, đến cử chỉ-của ông Thanh càng cứng nhắc hơn, ông tưởng cô Hoàn đuối lý nên chẵng phản-đối lời nào. Ông lầm to.
Ông Thanh nói tiếp:
-Đối với Tổ-Quốc thì em đã có lỗi rõ-ràng, còn về tình sâu nghĩa nặng phu-thê, thì anh cũng thông-cảm cho hoàn-cảnh và thời-thế mà tha-thứ, anh cũng cám ơn em trong khi vắng anh, em một lòng chung-thủy ở một mình nuôi con mà không đi lấy chồng khác.
-Nếu hiện nay mà em vẫn còn yêu anh như ngày nào, thì em hãy bay về Mỹ bàn lại với hai con và hai cái thằng rể, rồi thu-xếp về lại VN ở với anh là hợp tình hợp lý nhất, để chúng ta hưởng-thụ hạnh-phúc tuổi già. Con cái lỡ sang bên ấy rồi cứ để tụi nó sống, em cứ coi như anh chẳng có con-cái gì cả. Em cứ làm theo ý anh là vợ chồng ta trọn tình, trọn nghĩa, mà riêng anh cũng tránh được cái tiếng tăm phản-bội bỏ Đảng, bỏ Tổ-Quôc.
Cũng đáng khen cho cô Hoàn chịu ẩn-nhẫn cứ im-lặng để cho ông nói, cô cứ lắng tai nghe để cho ông trút hết cái bầu tâm-sự uất-ức bị dồn-nén từ lâu, nay mới có dịp, có người để thổ-lộ cho sạch-sẽ, không còn gì để nói nữa.
Bây giờ cô Hoàn mới hỏi ông:
-Anh còn gì để nói nữa không ?
Ông Thanh trả lời:
-Không, những gì cần nói anh đã nói với em hết rồi.
Cô Hoàn:
-Khuya lắm rồi anh ! minh đi nghỉ đã, ngày mai thư-thả em sẽ đáp lễ theo ý-kiến và nguyện-vọng của anh.
Sáng nay vợ chồng vệ-sinh ăn điểm-tâm xong, cô điện-thoại mướn một chiếc xe con rất đẹp để đưa ông Thanh đi xem quang-cảnh thành-phố Sài-Gòn, cô bảo tài xế nơi nào có lầu-đài đẹp, phong-cảnh đẹp anh đưa vợ chồng tôi đến đấy để xem, rồi cô bảo tài xế chạy chậm-chậm khắp Sài-Gòn Chợ-Lớn cho Ông Thanh xem cho đã đời choá mắt, đến giờ ăn cô bảo tài xế, nhà hàng ăn uống nào sang nhất, ngon nhất, có tiếng-tăm, anh đưa vợ chồng tôi đến đó để dùng bữa. Bác Tài cũng tinh mắt biết vợ chồng cô là Việt-Kiều nên Bác chìu hết cỡ. Sau khi ăn uống ở tại nhà hàng xong, Bác tài đưa vợ chồng cô về trả lại chỗ khách-sạn cô mướn để ở mấy hôm nay, cô trả công cho Bác Tài bằng tiền đôla sòng-phẳng.
Hai vợ chồng nghỉ-ngơi, chiều lại cơm nước xong xuôi như mọi ngày trước.
Hai hôm liền cô Hoàn nhường cho ông Thanh trút cạn bầu tâm-sự, cô không xen vào lời nào cả.
Cô Hoàn rất khôn, cô đề-nghị trước khi đối-đáp những lời ông Thanh phê-bình chỉ-trích cô liên-tiếp hai hôm vừa rồi.
Cô Hoàn nói:
-Hai hôm vừa rồi là em nhường-nhịn để anh trút bàu tâm-sự cho nhẹ-nhõm tâm-hồn của anh, hôm nay là hôm thứ ba, anh không có gì nói nửa thì anh nhường lại thời-gian để em đáp-từ lại những câu chuyện mà anh đã nói với em hai hôm nay nhé !
Ông Thanh:
-Có gì em cứ nói, anh sẵn-sàng nghe đây.
Cô Hoàn Hỏi ông Thanh:
-Hôm qua mình đi dạo quanh thành-phố, anh thấy thế nào ? Ông Thanh trả lời:
-Cũng đẹp, cũng nhộn-nhịp xe-cộ, lầu-đài cũng đồ-sộ, đâu có thua gì Hà-Nội. Nhà hàng ăn uống cũng sang-trọng và ngon miệng.
Cô Hoàn nói:
-Bây giờ buôn-bán, nhà hàng, khách-sạn, vui chơi giải-trí chưa được năm phần trăm hồi còn chiến-tranh, hồi còn Mỹ đóng quân tại đây, vui chơi, buôn-bán, xe-cộ nhộn-nhịp gấp trăm lần, đây là Thủ-Đô của chế-độ Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu. Em cũng có ở đây một thời gian với con nên em biết rỏ. Bây giờ thành-phố buồn quá không vui nhộn tấp-nập như trước ngày còn chế-độ cũ. Ông thanh ngơ-ngáo chẳng hiểu gì cả.
Ông hỏi lại:
-Tại sao hoà-bình độc-lập mà lại buồn ?
Cô Hoàn:
-Tại vì nhà nước ngăn sông cấm chợ và Mỹ cấm vận Việt-Nam.
Cô Hoàn nói:
-Thôi tạm ngừng mấy chuyện vớ-vẫn này đi.
-Bấy gìơ anh hãy lắng tai nghe em nói đây.
-Anh phê-bình, chỉ-trích em có sáu điễm và đề-nghị một điều sau cùng.
-Em ghi-nhận vào trong lòng em đầy-đủ.
-Em xin giải-đáp từng điểm một, để anh dễ hiểu :
Thứ I.- (1 điểm). Quên lời thề :
-Ngày anh lên đường tập-kết ra Bắc, em đem con về ở làm dâu bố mẹ anh, một lòng chờ chồng nuôi con, phụng-sự cha mẹ anh khi tuổi cao sức yếu, khi qua đời. Em lo ma chay tống-táng mồ yên mả đẹp, tìm nơi yên-ổn buôn-bán tần-tảo sống một mình nuôi con, không đi lấy chồng khác. Chờ đợi anh cho đến bây giờ.
Mà anh bảo em quên lời thề là quên chỗ nào được.
Thứ II.- (2 đ.). 1.-Một dạ hai lòng. 2.- Gió chiều nào phất cờ chiều nấy:
-Anh thử nghĩ, em không chồng một tay ôm hai đứa con dại, khi quê-hương mất an-ninh, bom đạn nhà tan cửa nát, mẹ con em không thể sống được, tìm nơi yên-ổn buôn-bán tảo-tần nuôi con khôn lớn cho ăn học thành-đạt, dạy-dỗ nên người, lo gả chồng đàng-hoàng. Thời chiến-tranh em hai bàn tay trắng mà làm được như vậy thì quá sức tưởng-tượng.
-Thời-gian vắng anh trên hai mươi năm em chăm lo nuôi con không tham-gia việc gì trong chính-quyền chế-độ cũ, anh có tin hay không tuỳ ý, đến nỗi con anh trưởng-thành rồi mà em chẳng muốn gả cho những người làm việc cho chế-độ Sài-Gòn và Mỹ.
Anh ơi: việc đời đúng hay sai làm sao chúng ta hiểu nổi, đúng với hôm nay nhưng ngày mai sai bét, sai hôm nay mà ngày mai kia thì đúng, mà lại càng quá đúng cũng nên. Thời-gian thay đổi mãi, hợp rồi tan, tan rồi lại hợp, tình-thế rồi đây cũng phải đổi thay, không có gì bình-thường lâu dài được. Anh nên nghĩ kỹ mà xem. Em đã suy-nghĩ muốn bể cả đầu-óc, em mới cho phép hai con tuỳ ý kén chồng. Hiện nay hai con gái của mình đã có gia-thất. Chồng của con mình cũng có địa-vị trong xã-hội giàu-có sung-sướng, hạnh-phúc là tốt rồi, đấng làm cha mẹ nuôi con chi ước-ao như vậy là đủ rồi, chẵng còn gì hơn nửa, dù ở đâu cũng được, đất lành chim đậu. Còn anh nói em theo Mỹ, Không bao giờ. Em chỉ theo con.
Thì làm sao mà một dạ hai lòng, gió chiều nào cờ phất chiều ấy được.
Thứ III.- (3 đ.). 1.- Anh bảo em phản-bội anh. 2.-Phản-bội Tổ-Quốc. 3.-Dắt con anh đi Mỹ.
-Em vẫn giữ trọn lời thề cho đến ngày hôm nay, đêm ngày em thường nguyện-cầu cho anh được sức-khoẻ để hoàn-thanh nhiệm-vụ, em thường ước-mơ có ngày vợ chồng gặp nhau. Hôm nay ước-mơ của em đã thành hiện-thực. Em ở bên Mỹ dù xa xôi vạn dặm, được tin anh còn sức-khoẻ về làng tìm em. Em mừng quá bay về liền để thăm anh.
Em chẵng làm điều gì có tánh cách chống lại dường lối của Đảng của Cách-Mạng và Nhà-Nước, lo làm ăn nuôi con, không tham-gia cộng tác với chế-độ cũ và Mỹ.
Con của anh qua Mỹ sinh sống, là vì phận con gái giữ đạo Tam-Tòng.
Có câu ca dao, tục ngữ:
Lấy chồng thì phải theo chồng,
Ơn cha để đó nghĩa chồng phải theo.
Lấy chồng thì phải theo chồng,
Chồng vô hang rắn hang rồng cũng vô.
(Lấy gà theo gà. lấy chó theo chó).
-Anh xa vợ con hơn hai mươi năm không có tin-tức, mẹ con em chẳng biết ngày nào đất nước được giải-phóng, không biết anh còn hay mất, lúc nào anh về lại với mẹ con em, mà ở VN chờ đợi anh về. Anh không về thì em già yếu rồi sống với ai, nên em phải theo con, chứ anh bảo em theo Mỹ, ai cho em theo mà theo.
Em chẳng phản-bội ai cả, em cũng chẳng dắt con anh theo Mỹ.
Thứ IV.- 1.- Điều yêu-cầu. -Ông Thanh yêu cầu cô Hoàn về VN sống, để hưởng-thụ hạnh-phúc tuổi già.
Cô Hoàn phân-tích cho ông Thanh hiểu. Để ông đi theo cô:
-Vợ chồng mình tuổi-tác đã nhiều rồi, tính đến năm nay tuổi anh trên năm muơi, em cũng gần xấp-xỉ, đã tuột xuống cái dốc bên kia rồi, đâu có còn non-trẻ gì nữa, tuổi này mình nên lo hậu-sự thì tốt hơn anh ơi !
Có câu tục ngữ:
-Trẻ cậy cha, già cậy con. Vợ chồng mình đã già rồi, đi theo con để nhờ con. Tại sao đầu-óc của anh lại cứng nhắc như vậy, cái gì anh cũng dành phần thắng về anh cả. Việc gì anh cũng bắt em theo anh. Tại sao anh không theo mẹ con em một chuyến thử xem.
Anh không theo mẹ con em anh ở VN anh được cái gì nào ?
Anh trả lời cho em nghe đi!
Ông Thanh bí quá trả lời cụt lủn, chỉ được Bằng Khen, Lời Khen.
Rằng: Anh tham-gia Cách-Mạng đánh thắng Pháp, rồi thắng Mỹ, thật là Anh-Hùng, Anh-Dũng đó sao.
-Cô Hoàn nói: Thắng thì cũng đã thắng rồi, khen thì cũng được toàn dân khen, trên đài báo và cả Thế-Giới khen quá thể rồi sao, anh còn đòi gì nữa.
-Em hỏi anh? Bằng-Khen, Người Khen, anh thữ nghĩ có được đồng tiền bát gạo nào để mình sống qua ngày khi tuổi cao sức yếu không lao-động được nửa. Vì em là đàn bà con gái đảm-đang nội trợ phãi tính kỷ.
-Em hiểu quá, không bao giờ có chuyện đó.
Lý-do : Vợ con anh đã theo Mỹ.
Anh ơi! Có câu tục ngữ: em nói để anh nghe cho vui nhé.
-Ông Thanh: anh đang nghe đây mà, không những nghe, mà còn nghe rỏ, em cứ tiếp tục.
-Cô Hoàn: làm cho người khen ho-hen hết nổi,
Làm cho họ chê ngũ-nghê sung-sướng.
-Hai vợ chồng phì cười xé tan bàu không-khí.
Cô Hoàn xem đồng hồ rồi nói:
-Khuya rồi anh ơi ! Mình đi nghĩ đã, ngày mai tiếp tục.
Đêm nay nữa là qua đêm thứ tư. Vợ chồng cô cũng tại khách sạn Sài-Gòn.
Cô Hoàn hỏi ông Thanh:
-Miền Nam giải-phóng gần trọn hai năm, anh hồi hương về quê mình. Cách-Mạng có cho anh làm chức-vụ gì lớn không ?
Ông Thanh trả lời:
Chẳng có làm chức gì cả.
Cô Hoàn hỏi vì sao không làm gi ?
Ông Thanh nói:
-Vì mẹ con em theo Mỹ thì ai cho làm.
-Cô Hoàn: Em hiểu rồi anh đừng có bịa-đặt, vì anh già rồi chỉ còn lại cái xác phàm chẵng làm gì được, họ cho anh về vườn là phải.
Anh nên nghe theo em đi, đừng có cứng nhắc mà suốt đời phải khổ, tựa hồ như con rùa cứ khư-khư giử lấy cái mai, thì làm sao mà tiến bộ nổi, như con ếch nằm mãi đáy giếng thì làm gì biết được biển rộng, sông dài.
Em cũng hiểu rõ những câu văn kích-động tuổi trẻ, thời anh và em còn thanh-niên.
“Nợ nước trước tình nhà”, câu này dành cho tuổi thanh-niên mới lớn còn hăng-say bầu nhiệt-huyết.
-Còn anh và em đã đóng góp công sức hết hai phần đời người, đã trả xong nợ nước rồi. Thì cũng phải có tình nhà một chút chứ . Dù sao mình cũng là một con người như mọi người khác, có phải là Thần-Thánh gì đâu. Anh đã bỏ cha già mẹ yếu, vợ dại con thơ, tình làng, nghĩa xóm đi làm Cách-Mạng ba mươi năm.
Cũng may sao em vướng bận hai đứa con của mình, ở nhà nuôi con, phụng-dưỡng cha mẹ già thay anh. Không thì chữ Hiếu ai lo cho anh. Nếu không có em, thì anh được chữ Trung mất chữ Hiếu, anh là con người có kiến-thức, đạo làm trai Trung, Hiếu vẹn toàn, nếu không có em giúp một tay, thì bản-thân của anh công thì ít tội lại nhiều. Vợ chồng mình Trung, Hiếu đều toàn vẹn.
Tuổi già rồi đừng nên mơ-mộng hão-huyền, anh nên thủ phận giữ-gìn sức-khoẻ, tìm nơi có thuốc-men tốt để điều-trị cái bệnh già của anh đi càng sớm càng tốt, để sống với vợ con, ít năm nửa của quãng đời còn lại, tu nhân tích đức để cho con gái được nhờ đức cha, việc nước non, nay đã ổn-định, nhường lại cho thế-hệ con cháu họ lo.
Những lời của em nói, anh nghe có phải không anh ?
Ông Thanh:
-Phải phải, còn gì em cứ tiếp-tục, anh đang nghe.
Cô Hoàn:
-Đất nước mình bị chiến-tranh lâu-dài, mới được giải-phóng, kinh-tế còn khó-khăn, chế-độ quan-liêu bao-cấp, ngăn sông cấm chợ, lại bị Mỹ cấm vận. Đồng-Bào đói-khổ. Em nhìn thấy mà chính anh cũng chứng-kiến. Bà con của mình trong làng Phú-Mỹ, quần áo thi mặc bằng vải bao đựng cát làm công-sự chiến-đấu của Mỹ, còn thức ăn thì khoai lang, khoai mì và bo-bo, không bằng thực-phẩm cho súc-vật ăn, em nhìn thấy họ ăn, mà đứt cả đoạn ruột. Anh còn bão em về nước sống với anh, để hưởng-thụ hạnh-phúc tuổi già, em buồn cười thật, em mà về VN lúc này thì chết đói với anh cho có đôi, chứ hạnh-phúc cái nổi gi?
-Anh nên suy-nghĩ lại thật kỹ một lần cuối nữa đi, đồng ý đi theo mẹ con em, để em còn lo thủ-tục bảo-lãnh. Đừng chần-chừ rồi mai này không kịp hối.
-Nếu anh không chịu theo em theo con thì anh cứ ở đây với Đảng mà phục-vụ Tổ-Quốc.
-Em cũng đóng-góp sức-lực mười năm chống Pháp, còn anh ba mươi năm chống Pháp rồi lại chống Mỹ, mà chưa đủ hay sao?
-Anh nên nhường lại trách-nhiệm phục-vụ Tổ-Quốc cho thế-hệ con cháu không thì nó bị thất-nghiệp mất.
-Bộ anh tưởng VN bây giờ không còn người nào tài-giỏi như anh nữa hay sao ? Anh có muốn phục-vụ cũng chẳng ai cho. Họ cho anh nghỉ dưỡng già mà thôi.
-Anh không biết lo cái thân già đa bệnh, thương đến vợ nhớ đến con. -Đi lo những chuyện “bao đồng chí đìa, những chuyện voi chết không hòm, có Mợ thì chợ vẫn đông, không Mợ thì chợ vẫn đông như thường”. Đã già khụ-rụ rồi mà chẵng lo bản-hân, chẳng lo cho con vợ. Thật là ngớ-ngẩn và vô lý. Em khuyên anh một lần cuối cùng này nữa, anh nên trả lời gấp, để em còn thu-xểp trở về Mỹ, giấy phép về VN đã gần hết hạn rồi. Anh mà không nghe em dạo này em về Mỹ ở luôn, không bao giờ về lại VN, em đã mang tiếng phản-bội, thì phản-bội luôn, đi theo Mỹ thì đi luôn.
Ông Thanh:
-Em nói cũng phải lắm, nhưng muộn quá mình nên nghỉ-ngơi cho có sức-khoẻ, để có thời gian anh suy nghỉ đã, sáng mai anh trả lời sớm.
Sáng mai vợ chồng thức dậy, vệ-sinh, thể-dục, rồi ăn điểm-tâm thoải-mái.
Ông Thanh: -Đêm nay anh không ngủ được, nằm suy đi nghỉ lại đắng-đo kỷ-lưởng.
-Em hoàn toàn đúng. Anh sai rồi, những lời anh nói oan-ức với em cho anh xin lỗi. Em có tha-thứ cho anh không ?
Cô Hoàn : -chẳng có chi mà tha với thứ, vợ chồng mà anh !
Ông Thanh:
-Anh nhất trí và đông-ý theo mẹ con em, chứ em đừng có bắt anh theo Mỹ nghe chưa. Ông Thanh tiếu cho vui.
-Cô Hoàn: Ô kê năm bờ oan, ít nhất cũng phải như vậy mới khôn mới ngoan.
Hai vợ chồng cười với nhau vui vẻ, xé tan bàu không khí.
Ông Thanh:
-Em của anh quá khôn-khéo. “Có câu Kiều:
-Việc đời tri quá thì nên,
khôn-ngoan đúng mực nói năng phải lời”.
-Từ đây anh chịu thua em rồi, anh xin dong cã hai tay đầu hàng vô điều-kiện.
CHƯƠNG VI :-KẾT THÚC:
ÔNG NGUYỄN-VĂN-THANH ĐƯỢC HAI ÔNG CON RỂ BÃO-LÃNH SANG HOA-KỲ SỐNG ĐOÀN-TỤ GIA-ĐÌNH.
Thế là cô Hoàn sắp sửa tạm biệt ông Thanh, cô còn để lại một số tiền lớn, bảo với ông hãy mua thuốc-men mà dùng, đừng có hà-tiện, mua thức ăn, để ăn-uống bồi-dưỡng cơ-thể và nên giử-gìn sức-khoẻ, nếu anh xài hết tiền thì em bảo với tụi nó gởi tiếp tiền Đôla về cho anh xài thoải-mái. Cô sắp-đặt công chuyện xong xuôi, dặn-dò kỹ-lưởng, cô đọc cho Ông Thanh nghe bốn câu thơ thất ngôn, lục bát như sau:
- Anh ơi !
Quả đất tròn còn ngày gặp lại,
Bầu trời tuy rộng có gì xa.
Em đi, anh ở quê nhà
Chớ ăn rau muống với cà dầm tương.
Hai người cười vui-vẻ.
Ông Thanh đưa tiển cô Hoàn ra Phi-Trường Tân-Sơn-Nhất để về lại Mỹ.
-Cô Hoàn bái-bai ông Thanh. Rồi lên Phi-Cơ bay về Mỹ.
Đến nhà cô bảo ngay hai ông rể:
-Anh Long và Hùng, hai anh lo liệu thủ-tục gấp-gấp, bão-lãnh ông Nguyễn-văn-Thanh bố vợ sang Mỹ để đoàn-tụ và sum-họp gia-đình, vợ chồng, cha con.
Một thời-gian ngắn, là ông Thanh được hai chàng rể bão-lãnh sang Mỹ một cách dể dàng.
Trên trần-gian này thế-lực và đồng đô-la của Mỹ là số một.
Hôm nay ông Thanh đã sang tới bên Mỹ.
Cha con xa cách nhau trên hai mươi năm , là vi cuộc chiến-tranh phân chia Nam, Bắc, nay đất nước VN được độc-lập. Gia-đình ông Thanh mới được đoàn-tụ, vợ chồng, cha con ôm hôn nhau, mừng-mừng, tủi-tủi, thật là sung-sướng và hạnh-phúc tại Hoa-Kỳ.
Này chồng, này vợ, này con
Này hai chàng rể, này là cháu ngoan
Gia-đình sum-họp đàng-hoàng
Ông Thanh cởi bỏ lầm-than cuộc đời
Từ đây sung-sướng thảnh-thơi
Tiền đô đầy đủ cuộc đời nở hoa
Mới là hưởng-thụ tuổi già
Con hiếu rể thảo, ông bà sống vui.
Đại gia-đình được sum-họp, đoàn-tụ giàu có sung-sướng vui-tươi và hạnh-phúc tại nước Mỹ.
-Cô hoàn là một Phật-Tử ăn ở với cha-mẹ có hiếu đạo, đối với chồng con làm tròn bổn phận người mẹ người vợ chung thuỷ vẹn toàn, trung thành với Tổ-Quốc mới được kết quả phúc-báo. Gia đình cô mới có hạnh-phúc như vậy.
Mối Tình Chung-Thuỷ của cô Hoàn và ông Thanh cũng được trẻ lại rất nhiều.
“Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười răm xưa”.
Nguyễn-du
(1) Xin lổi Lê-Thương tôi có cải lời bản nhạc để hợp với câu chuyện.
HẾT.
Tác giả : PHAN-VINH.
Viết về quê hương.
Viết xong bản thảo. Ngày 22-8-2007.
NÊN TÌM HIÊU ĐỂ BIẾT CÁCH GIỬ-GÌN TÔ-ĐIỂM CUỘC SỐNG HÔN NHÂN VÀ GIA-ĐÌNH ĐƯỢC TRĂM NĂM HẠNH-PHÚC CHUNG-THUỶ VẸN -TOÀN.
Chương I.- TÌNH YÊU HÔN-NHÂN CẦN PHẢI CÓ HẠNH-PHÚC.
Trong cuộc sống tình yêu hôn-nhân gia-đình cần phải có hạnh-phúc, nếu gặp phải cuộc sống bất-hạnh, thì không thể tiến tới gia-đình có đạo-đức văn-hóa được.
Hạnh-phúc là một nhu-cầu cần-thiêt cho tất cả mọi người trên toàn thế-giới, nhưng nó cũng là một nỗi “bât-hạnh”của con người khi không tìm được hạnh-phúc, hay đánh mất hạnh-phúc của chính mình.
Chính vì thế mà nhiều quan-niệm bi-quan đã cho rằng : “ Làm gì có hạnh-phúc hôn-nhân trên cõi trần-gian này ! Đời chi là một cuộc sống đọa-đầy bể khổ trầm-luân mà thôi ! Nếu có tìm được, nó cũng như cái bóng mờ khi ẩn khi hiện, như một ảo-ảnh, mà suốt đời có kẻ chạy theo nó, nhưng không bao giờ với tới, bắt được nó !”.
Nói như vậy hạnh-phúc chỉ là khát-vọng và mơ-tưởng hão-huyền của con người hay sao?
Thế mà trong các cuộc lễ thành-hôn chúng ta thường nghe các vị khách quý, bà con cô bác, bạn-bè thân-hữu đều ai-ai cũng chúc mừng cô Dâu chú Rể trăm năm hạnh-phúc, chứng tỏ như vậy, thì cuộc sống đời thường hôn-nhân của chúng ta vẫn phải có hạnh-phúc chứ.
Anh chị em nào đã nắm bắt được tình-yêu hạnh-phúc rồi thì nên cẩn-thận gìn giử thật kỹ, vì hạnh-phúc khó tìm, nhưng dể bị mất lúc nào mà chúng ta không ngờ đươc, vì sự thờ-ơ, sau khi vợ chồng đã có con cái, chúng ta lo chạy theo tiền-tài, danh-vọng, lơ-là không quan-tâm đến nó.
Người ta ai cũng nghĩ rằng: những kẻ thành công trên đường đời, “công thành danh toại” thì cũng thành công trên lãnh vực gia-đinh, nghĩa là họ đạt được hạnh-phúc trong hôn-nhân do điều-kiện đầy-đủ về tiền-bạc, uy-quyền, tín-nhiệm…
Nhưng cuộc đời không phải là hoàn toàn như vậy, một túp lều tranh hai trái tim vàng vẫn có hạnh-phúc như ai.
Lịch-sử đã chứng minh cho thấy rằng: đại đa số những vĩ-nhân, danh-nhân của thế-giới và VN lại phãi gánh chịu bất-hạnh đau thương trong cuộc đời hôn-nhân.
“Anh hùng đa hoạn-nạn, gái má hồng là số truân-chuyên, hoặc:
Càng cao danh-vọng, càng dày gian-lao”, kể cả gian-lao trong đời vợ chồng.
Nam giới. Như Lưu-Bị trong truyện Tam-Quốc-Chí của Trung-Quốc, hiền triết Socrate, như Tổng-thống Abraham lincoln của Mỹ, như vị tướng tài Napoléon, như dại văn-hào Victor Huygo của Pháp v.v…
Nữ giới.- Nàng Kiều gia-đình trung-lưu, tài, sắc vẹn toàn ở Bắc-Kinh Trung-Hoa. Hai vị nữ tướng Trưng-Trắc, Trưng-Nhị, hai nữ thi-sỹ bà Huyện Thanh-Quan, Hồ-Xuân-Hương, V.N v.v… đều là những kẻ bất-hạnh trên đường tình duyên, vợ chồng.
Còn ở lãnh vực thường dân, thì ôi thôi ! Biết bao cuộc ly-dị, tự-tử, bao nhiêu cuộc đời phải chết âm-thầm, sống dần-mòn như điên, như dại trong dau-khổ vì thất-vọng tình duyên, bất-hạnh gia-đình và gây đau-khổ bao người chung quanh.
Vậy phãi định bản-chất hôn-nhân hạnh-phúc như thế nào mới phải ?
Hôn-nhân có hạnh-phúc hay bất-hạnh chúng ta cùng nhau phân-tích hai điểm sau này :
Trên thế-gian này, bât cứ việc gì đều có hai mặt, hai chiều hướng khác nhau, phải, trái, thuận và nghịch.
Điểm thứ I .- Mặt phải & thuận: Hạnh-phúc của những cặp tình nhân trai gái mới yêu. Của những đôi hôn-nhân mới. Của những gia-đinh khá-giả sống đây đủ vật-chât lẫn tinh-thần và những gia-đình sum-họp nhiều thế-hệ vv…
- Vây thì hạnh-phúc hôn-nhân gia-đình là những gì ?
-Đó là hạnh-phúc tình yêu của những kẻ đang yêu nhau tha-thiết, sắp sửa bước vào hôn-nhân.
Hạnh-phúc của những cặp vợ chồng trẻ vừa mới cưới nhau, được sống bên nhau như đôi Uyên-Ương theo sự ước-muốn của tinh yêu, đó là sự sung-sướng tuyệt vời của họ. Một số giàu có dắt nhau đi du-lịch hưởng tuần trăng mật âu-yếm nhau những nơi thăng cảnh thiên-nhiên thật là thơ mộng.
-Hạnh-phúc của đôi hôn-nhân gặp thời-cơ thuận-tiện, gặt-hái được nhiều thành-công trên đường đời, như tiền-tài, danh-vọng, sự-nghiệp, uy-tín. v.v… Hoặc sinh được những đứa con khoẻ đẹp, mũm-mĩm dể yêu, khi con cái được thành danh, thành nhân, làm vẻ-vang cho gia-đình dòng-tộc. Khi tuổi về già được vui-vầy bên đàn con cháu thành-đạt. Vợ chồng hoà-thuận, cùng chia ngọt, xẻ bùi với nhau trong suốt cuộc đời chồng vợ, có tình, có nghĩa, có thuỷ, có chung vv…
Đây là những cái thuộc về hạnh-phúc của hôn-nhân gia-đình vậy.
Những ưu điểm trên đây thuộc về măt phải, thuận buồm xuôi gió theo thời-thế, tình-cảnh. Một phần do truyền-thống đạo-đức của Tổ-tiên, ông bà, cha mẹ để đức lại cho con cháu, một phần từ khi còn thơ-ấu cho đến trưởng thành, do bản thân chúng ta biết sống, biết yêu đời, học-hành thành-đạt và lao-động không ngừng, sống biêt độ lượng, tri túc, từ-bi hỷ-xả mới có phúc-báo mà được kết-quả tốt đẹp hạnh-phúc như vậy.
Chương II.- TẠI SAO CHÚNG TA BỊ BẤT-HẠNH TRONG CUỘC SỐNG HÔN-NHÂN VỢ CHỒNG.
Bề trái & nghịch cảnh:
Để đối lại những niềm hạnh-phúc trên, thì hôn-nhân cũng có rất nhiều bất-hạnh phải kể đến: để kiếm được một chút hạnh-phúc bé nhỏ, thì họ cũng trải qua nhiều đau-khổ gian-lao của chuỗi ngày họ sống như một gánh nặng đè lên vai và mắt xích gắn chặt họ vào kiếp sống khổ-đau, đa số là phái nữ hy-sinh chịu-đựng bền-bỉ nhiều hơn phái nam.
Điễm thứ II.- Tại sao chúng ta bị bât-hạnh. Vậy bất hạnh là những gi?
Nêu lên một vài khuyết-điễm gây ra sự bất-hạnh trong hôn-nhân để bạn đọc thấy rõ:
a.- Hôn-nhân tuổi trẻ: bị gán-ép để xứng thông-gia, môn đăng, hộ đối, do tập quán cổ-hủ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, hôn-nhân có tính-cách tảo hôn, mua bán, đổi chác, hôn-nhân bồng-bột, yêu cuồng, sống vội, cả-nể dở-dang, hôn-nhân không tìm hiểu tính-tình nhau kỹ-lưỡng. Cưới trừ nợ, cưới đại, cưới liền tay, để thành đũa có đôi chung sống làm ăn. Cưới để chú Rể phải ra đi xa gia đình học-hành, công tác, nghỉa-vụ do cha mẹ bắt-buộc cưới. Một phần do cặp vợ chồng dốt-nát hoặc chưa kinh-nghiệm, mà không chịu học hỏi cách sống vợ chồng, hoặc không có đạo-đức văn-hoá truyền-thống, do bản ngã gây ra những điều ti-tiện, không có tình yêu hôn-nhân. Một mặt trái-ngang, do tác-đông hoàn-cảnh mẹ chồng nàng dâu và miệng thế bên ngòai gây ra vv…
b.- Hôn-nhân tuổi trung-niên : Thời tuổi trẻ, thời chiến-tranh, do chúng ta sống hành-động bất thiện, vô đạo-đức, nên ác giả, ác báo. Đó là những việc gây ra các cuộc hôn-nhân bất-hạnh. Những cặp vợ chồng ngày hôm qua vợ chồng con cái sống bên nhau hủ-hỉ rất hạnh-phúc. Bất ngờ chiến tranh nổi lên, ngưòi chồng bị gọi đi làm nghĩa vụ quân-sự phải xa gia-đinh, rồi bị tử trận, có đôi vợ chồng bị bệnh vô-sinh. Thời thế thay đổi, có kẻ bị thất cơ lỡ vận mất hết quyền lợi, tán gia bại sản, có khi bị tù đây, có kẻ bi tai-nạn , thiên-tai bất ngờ, bệnh tật nan-y vô phương cứu chữa, tiền mất tật mang, làm ăn bị thua lổ nợ nần, không có khả-năng chi trả, một trong hai vợ chồng bị mắc phải căn bệnh tệ nạn xã-hội, có người con cái hư-hỏng quậy phá, đi theo kẻ xấu đánh lộn, cướp-giựt v.v.. Bị bắt đi tù tội, cha mẹ phải mang tai tiếng .
Những tác động trên đây do bên ngoài ập vào, vì ngày trước chính mình gây nhiều chuyện vô đạo đức. Nay đường đời gặp chông gai đau-khổ, nguy-hiểm, sự việc đó có người theo đạo Nho-Giáo, hay thờ cúng ông bà tổ-tiên, họ cho là bị Trời phạt, có người theo đạo Công-giáo cho là sự thử-thách của Chúa, ngươi theo đạo Phật tin luật nhân quả, cho là do mình gieo nhân xấu từ trước, nên hưởng quả xấu, đó là lẻ đương-nhiên. Phải nhận lãnh gánh chịu đau-khổ, đoạ-đầy.
-Vậy thì cả vợ lẫn chồng phải ăn-năn, hối-cải, tu nhân tich đức, nguyện-cầu các Đấng Thiêng-Liêng phù-hộ độ-trì mau qua khỏi cơn sóng-gió cuộc đời. Cùng nhau chia-xẻ đau-khổ đắng-cay, cố gắng chịu đựng. Theo gìòng chảy của thời-gian việc gì rồi nó cũng trôi qua, sau cơn mưa trời lại sáng. Không nên bi-quan, tuyệt-vọng, đổ thừa đổ lổi cho ai cả.
c.-Sự việc nói chung cả ba hạng tuổi, do vợ chồng cố ý gây ra :
Cuộc sống đời thường ai-ai cũng phải phát-triển kinh-tế gia-đinh, lo kiếm tiền để xây-dựng mái-ấm và cuộc sống tương lai, phần lo nuôi dạy con cái ăn học, công việc bề bộn, một mặt bên ngoài xã-hội, bên trong nặng gánh gia-đình, nhiều lúc quá vất-vả mệt-nhọc, cáu-gắt lơ-là tình-yêu vợ chồng kể cả Nam & Nử. Cuôc sống trong thời kinh-tế thị-trường hội-nhập, có những người vì công việc làm ăn mánh-mung, có người được đảm-nhiệm chức-vụ vừa hoặc lớn trong công-ty xí-nghiêp, phải xã-giao, giao-tiếp, đôi khi vui-vẻ với bạn-bè quá chén bị oác cần câu. Thời tự do bình-đẳng, Nam Nữ bình-quyền, đàn bà con gái cũng đươc vui-thú, giải-trí, ăn nhậu ngang nhau, có số ngươi theo bạn-bè xấu rủ nhau mèo chuột để thưởmg-thức của lạ, khi về đến nhà bật ra ngủ khò, không còn nhớ gì đến vợ hay chồng, con cái ra sao, có người tức-tối những chuyện bên ngoài chưa giải-quyết được đang ấm-ức, khi về đến nhà gây gỗ với nhau. Tình huống này phái Nam gây ra nhiều hơn phái Nử. Bởi vậy mới có chuyện xich-mích giữa vợ chồng bị thành-kiến vói nhau, rất nhiều bạn coi cái tôi của minh quá trọng, hay tự-ái, có những đôi vợ chồng không tin tưởng nhau, muốn dành quyền quản-lý tài-chánh, làm chủ gia-đinh, không đúng cương-vị, không nhường nhịn nhau, nghi-kỵ viển-vông, ganh tương bóng-gió, chẳng có bằng chứng, có một số đã lớn tuổi đến thời-kỳ mãn kinh hết sinh đẻ, không hiểu được khoa-học, Y-khoa, sinh-lý về giới-tính Nam Nử, vì ái dục làm mất lòng, hết tin-tưởng nhau v.v… Những việc thường xẩy ra trong cuộc sống hàng ngày là do lòng dục vọng của con người gây ra.
Nên hay xung-khắc, gia-đình không được đầm-ấm, thuận-hoà.
-Tôi nêu lên một ít vấn-đề đại khái hay xẩy ra thường ngày, chứ nói hêt nỗi niềm thì thật là thiên hình, vạn trạng, không giấy bút nào tả hết được.
Những điều trên, là mặt trái, nghịch cảnh xấu-xa của cuộc sống hôn-nhân do bên ngoài koặc chồng vợ gây ra. Nên đời sống của những cặp vợ chồng đánh mất Hạnh-Phúc.
Các bạn thận trọng dè-dặt khăc-phục, cả vợ lẫn chồng cùng nhau xây dựng cuộc sống mới, gia-đình văn-hoá cho phù hợp với thời-đại văn-minh của thế kỷ 21, không thì dể tan-vở hôn-nhân hạnh-phúc gia-đinh do các khuyết điểm của hoàn-cảnh trái ngang nêu trên.
-Chương III.- NHỮNG ĐIỀU-KIỆN ĐỂ CHÚNG TA GIỬ-GÌN ĐƯỢC TÌNH YÊU HÔN-NHÂN BỀN LÂU TRĂM NĂM HẠNH-PHÚC.
a.-Nói đến bốn chữ Trăm Năm Hanh-Phúc chung-thuỷ vẹn-toàn, thì mọi người trên thế gian này ai mà không thích, không muốn, thich, muốn mà rất khó thực-hiện, khó gìn-giử được hạnh-phúc toàn-vẹn từ sơ đến chung, có người được đầu mất đuôi, có người được đuôi mất đầu, chỉ có một thiểu số sống vợ chồng có may-mắn, văn-hoá đạo-đức, họ giữ được hạnh-phúc vẹn-toàn thuỷ-chung như nhất, nhưng hiếm lắm, dù sao có còn hơn không.
Có câu:
Yêu nhau từ thuở trăng tròn
Bây giờ trăng khuyết vẫn còn yêu nhau.
Bí-quyết tốt nhất là: đặt tình yêu vợ chồng con cái lên trên hết, nên tha thứ những việc sai-trái nhỏ-nhặt hàng ngày chúng ta bị vấp phải, vì cuộc sống và sinh hoạt gia-đinh, xã-hội.
Để bảo-vệ tình yêu hôn-nhân hạnh-phúc gia-đình, có xẩy ra việc gì bất đồng nên bàn-luận mổ-xẻ ai sai ai đúng, để kịp sửa-chữa bổ-túc cho nhau, rút ưu khuyết điễm cùng sống hoà-thuận, đó là bí-quyết tuyệt chiêu, tuyệt vời để các bạn bão-vệ hạnh-phúc cho mình.
Cũng có câu:
Thuận vợ thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn.
b.- Phần để bạn đọc rút kinh-nghiệm. Nói lại hai chữ Hạnh-Phúc.
”Nó rất khó kiếm, mà cũng dể mất, nên các người thất-vọng bi-quan, cho là như một cái bóng, mờ-mờ ảo-ảo, khi ẩn khi hiện, yêu là đau khổ. Suy ra cho cùng, cũng đúng một phần theo ý-nghĩ của họ và những người đã xuất gia tu-hành thì đúng. Chứ với cuộc sống đời thường của con người hiểu biết yêu đời, không hẳn hoàn toàn là như vậy”.
Hạnh-phúc mua giá cao cũng không ai bán, bán cũng chẵng ai mua, xin cũng không ai cho, cho cũng không ai dám nhận. Vì nó đâu phải vật-chất mà mua bán, trao tay. Đôi tình-nhân hoặc vợ chồng tự xây-dựng và tô-điểm lấy mới có. Chỉ có người trong cuộc là ngươi yêu lý-tưởng và vợ chồng chính-thức mới cho nhau tình-yêu Hạnh-Phúc được.
Trên cõi đời này chẳng có việc gì khó, ăn thua vào tâm-hồn và ý-chí của mình có tự tin hay không.
Các bạn sống phải có đạo-đức văn-hoá, cố gắng lao-động học-tập, không ngừng, để nâng cao trình-độ hiểu biết, nên noi gương ngươi tốt, việc tốt, như các cha bác thời chiến-tranh họ thoát ly đi làm Cách-Mạng có ngươi vợ chồng sống xa nhau năm năm, mười năm, có người mười lăm đến hai mươi năm, khi đất nước độc-lập thống-nhất mới được sum-họp gia-đình. Cao tuổi về hưu, họ còn tham-gia làm việc xã-hội từ-thiện, ông bà vẫn sống mẫu-mực, thuận-hoà hạnh-phúc những ngày cuối đời bên đàn con cháu. Chúng ta nên đọc sách, xem đài báo của các nhà văn tâm-lý xã-hội học, nâng cao kiến-thức, để biết sống hoà-đồng bình-dẳng chồng vợ, ăn nói cư-xử với nhau phải giử lễ lựa lời, phải biết tôn trọng lẫn nhau. Đàn bà con gái không nên chanh chua hỗn láo, đàn ông con trai không nên cục-cằn, vũ-phu, gây bạo-lực gia-đinh trong khi nóng giận.
Có câu:“- Vội giận mât khôn, no mất ngon”. Chúng ta nên bình tĩnh, chuyện đâu vẫn còn đấy, hạ hồi phân giải mới êm đẹp, nói năng với nhau cũng nên lựa lời lựa lẽ.
Cũng có câu: “Lời nói không mât tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
c.- Nên tha thứ cho nhau những chuyện lỡ-lầm nếu có và cũng phải ăn-năn hối cải việc lỗi lầm của mình, nên mạnh dạng xin lổi nhau chuyện sai trái do mình gây ra, nên dẹp bớt cái tôi của mình, biết ẩn-nhẩn và khiêm-nhường, thương-yêu quý-mến lẩn nhau, trẻ làm sao, khi cao tuổi cũng như vậy, đời sống có an-cư mới lạc-nghiệp, thuận-hoà êm đẹp, để làm gương cho hậu thế.
Có câu: “ Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa cho đời khỏi khê” .
Có khi ngược lại càng tốt, đừng nên lửa cháy thêm dầu thi hỏng việc, để chờ sự việc nguội lạnh, mới đem ra bàn-luận thì vợ chồng dể thông cãm nhau hơn.
Các bạn lưu ý nên thực-hiện những điều tốt đẹp, nó rất cần-thiết cho đời sống vợ chồng, noi gương các bậc tiền-bối và thực-hành những đoạn văn nêu lên đời sống văn-hoá, đạo-đức trên đây. Thì cuộc sống gia-đình các bạn được thuận-hoà, đầm-ấm, vui-vẻ, tự nhiên Hạnh-Phúc đưa đến cho bạn ngay lập tức, bạn có trong tầm tay rất dể-dàng, khỏi cần chạy theo với vọng gì cả.
d.- Thêm một vài giòng sau đây để nhắc nhở các bạn chưa có tình yêu, hôn-nhân.
Mong rằng các bạn trẻ mới bắt đầu bước vào đường tinh yêu trai gái, nên rút kinh-nghiệm sự việc của những người đi trước, tìm hiểu thật kỷ-lưởng tính-ý của nhau, khi hiểu đó là người yêu lý tưởng rồi. Phải trình với cha mẹ đôi bên được chấp thuận. Cha mẹ bên đàng trai phải đến gia-đinh dàng gái thưa chuyện với người lớn của đôi trẻ chúng mình, được nhất-tri, đông-ý. Mới đi đăng-ký kết hôn rồi tiến hành hôn lể, các bạn nên viết một bản nội-quy hợp-đồng để chung sống với nhau cho đến suốt đời.
Có câu:
Trăm năm bạc đầu duyên tơ-tóc
Nghĩa tình chồng vợ suốt cuộc đời.
Mới mong ngăn-ngừa được sự gẫy gánh nửa đường, tan-vỡ hạnh-phúc. Vì thời kinh-tế thị-trường, hội nhập thương-mại thế-giới, cạnh tranh hàng-hoá đủ thứ, kể cả vợ chồng, trong thế-kỷ này Rắn Rồng lẫn lộn, có người tốt, kẻ xấu, được mới nới cũ, giàu đổi bạn, sang đổi vợ chồng, do si mê, tình dục gây ra cuộc sống xáo-trộn gia-đinh, bất ổn trong dòng-tộc và xã-hội, mất văn-hoá đạo-đức truyền-thống Á-Đông. Làm buồn lòng cha mẹ đôi bên, họ hàng cô bác anh chị em nội ngoại, gây ảnh hưởng không tốt cho thế-hệ con-cái về sau.
Thế kỷ 21 này tôi thấy bị hơi nhiều đôi vợ chồng đưa đơn ra toà xin ly-dị.
Mong tất cả các bạn chung sống thận trọng phòng-ngừa việc xấu, tránh xẩy ra đổ vỡ gây hậu-quả không tốt về sau. Gia-đinh là một tế-bào của xã-hội, gia-đình biết sống lành-mạnh, yên-vui, hạnh-phúc, xã-hội mới văn-minh, đất nước mới phát-triển giàu mạnh lên ngang hàng với các cường quốc trên thế-giới.
HẾT
Tác-giả Phan-Vinh.
Viết cho thế-hệ Con-cái, Dâu, Rể. Cháu, Chắt. Khuyên bảo sống đẹp đời, tốt đạo phấn-đấu tiến tới gia-đinh Văn Hoá.
Viêt xong bản thảo ngày 09-12-2007.
NHỮNG LỜI TÂM HUYẾT VỀ ĐẠO-ĐỨC LÃNH-ĐẠO.
___
Của Phan-Vinh.
-Vài nét về sinh hoạt và đời sống của tác giả.
Chương I.- ĐỜI NGƯỜI QUÁ NGẮN NGỦI.
a.- Nhìn lại quá khứ.
Nhìn lại quá khứ thấy cuộc đời con người quá ngắn ngủi, mới ngày nào đây tôi còn ở tại quê-hương làng Phú-Gia là một hướng-đạo sinh Phật-Tử thuộc khuôn-hội Phật-Giáo Thừa-Lưu. (HUẾ).
Vì cuộc nội chiến chia đôi lãnh thổ hai miền Nam, Bắc nổi lên, nên ăn ở đâu âu đó, tôi phải ra đi làm nghĩa-vụ quân-sự, xa quê hương năm 1961 đưa vào miền Nam, đi và ở phiêu bạt khắp nơi. Ngày 30-4-1975 miền Nam được cách-mạng giải-phóng bị rã ngũ, trở lại với một nông dân chất-phác theo nghề củ cha ông. Tôi mới chọn ấp Bùi-Chu, xã Hố-Nai 4, huyện Thống-Nhất, tỉnh Đồng-Nai là quê-hương thứ hai để lập nghiệp làm lại cuộc đời. Đi vào Sông-lạnh khai-khẩn phá rừng, lấp suối, thành rẩy, ruộng tăng-gia sản-xuất lương thực sinh sống nuôi con. Dành một phần sức người, sức của đóng góp để xây dựng xã-hội đất nước. Tôi xa quê nhà đã 47 năm, tuổi đời năm nay hơn 70.
Nhìn lại thời gian trôi nhanh quá, như nước chảy qua cầu như vó câu qua cửa sổ, tựa hồ như một giấc Nam-Kha khi tỉnh dậy nồi kê chưa chín.
Chương II.- SỰ BIẾN CHUYỂN CỦA ĐỜI NGƯỜI VÀ CUỘC SỐNG.
a.- Sự thay đổi biến chuyển của thời gian.
Mỗi năm tuổi tác chồng chất lên đầu, trẻ thơ thì khôn lớn, người cao tuổi gầy còm, bệnh tật rồi chết, theo luật đào thải của tạo hoá. Mới đón giao thừa năm Mậu-Tý (2008) tôi vừa cúng giao thừa vừa khai bút thư xuân, nay đã xuân qua hạ đến, màu đỏ thắm hoa phượng-vĩ đua nhau nở rộ, thời tiết nóng bức, học-sinh đã nghỉ hè, tạm biệt bạn-bè, trường lớp thầy cô, có nhiều em cảm thấy lòng buồn man-mác. Nên lũ ve sầu đang than thở tình yêu. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, rồi năm lại qua năm. Hè đi, thu tàn, đông rụi, xuân sang, biến chuyển theo bánh xe tiến-hoá của thời-gian bởi luật tuần hoàn của vũ-trụ.
Có câu:
Xuân khứ xuân lai xuân bất tận
Xuân đi xuân lại mãi còn xuân
Ca dao
Đây là xuân của thời gian theo năm tháng. Chứ tuổi xuân của đời người chỉ có một.
Thơ rằng:
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Xuân-Diệu
Thời gian cứ tuần tự thoi đưa trôi nhanh như chớp mắt.
b.-Thân thể con người cũng biến chuyển theo năm tháng.
Nay thân-thể của tôi đã già khụ-rụ, con người do duyên hợp tứ Đại mà có, là đất, nước, gió, lửa đó là phần trong cơ thể. Còn bên ngoài chúng ta sống vay mượn tạm bợ của tứ Đại như: cơm, nước, bánh mì, động “gió”, hơi ấm ”lửa”. Mượn trả song suốt thì sức khoẻ, nếu có một thứ không trả ra được thì phải đưa đi nhà thương cấp cứu.
Thân thể nầy nhờ cát bụi mà có tạm bợ, cuối cùng cũng trở về với cát bụi. Không thể tồn tại lâu bền được.
Tài giỏi như vị tướng Napoléon của nứơc Pháp ngày xưa bảo người nhà khi nào ông chết đưa đám ma, đục hai lổ quan tài để thò hai bàn tay trắng của ông ra ngoài cho thế gian nhìn thấy ông chẳng có mang theo của cải gì cả.
Có câu:
Người đời muôn việc của chung
Sanh không rồi lại tay không ra về
Ca dao
Tôi trở lại suy nghỉ cuộc đời mình đến đây ví như: ngọn hoa đăng le-lói, trôi bềnh-bồng trên sông nước Đồng-Nai, bị cơn gió mùa thu thổi tới, sắp trôi về bể cả mênh mông, rồi tắt lịm và tan biến trong đêm đông lạnh lẽo.
Mổi người đều trải qua một đời, thịnh, suy, thành, bại, vui buồn được mất, nhưng học hỏi được gì ở trên đời đó là chuyện khác.
Có câu :
“Thông minh nhất nam tử
Yếu vi thiên hạ kỳ
Trót sanh ra phải có chi chi
Chẵng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu”
Nguyễn công Trứ
Không thành Danh cũng phải thành Nhân.
Đến giờ phút cuối của cuộc đời không có chút gì lưu niệm cho đời thì thật là quá tủi hổ.
Có câu thơ:
Đời người như thể phù du
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng
Nguyễn-Du
c.- Tôi sáng tác một ít tác phẩm văn & thơ cho con, cháu, và độc-giả trong số bạn bè để làm kỷ-niệm.
-Sinh ra thất thời, thất học sống trong hai cuộc chiến tranh Pháp, Mỹ bị đi làm lính ngụy phiêu bạt khắp miền Nam. Hoà bình lập lại mới có thời gian ổn định để cuốc đất lật cỏ làm ăn nuôi bày con tám đứa đã khôn lớn, nay cháu chắt đầy đàn, nhà nghèo không có của cải hồi môn.
-Nên tôi viết tác-phẩm những lời tâm huyết này là phơi bày hết tâm can, não tuỷ, của bản thân hơn bảy chục tuổi, sống học hỏi kinh nghiệm được bao nhiêu đem hết khả năng viết lên những lời lẽ của một nông dân chất phác, mộc mạc mà hiện thật và giàu lòng nhân ái, để thay thế di chúc. Hay, dở, đúng, sai, văn không tả hết lời, lời không thể tả hết ý được, nhưng cũng nói lên tinh thần đạo đức con người, để lưu lại làm của hồi môn tinh thần văn hoá cho hậu thế.
-Quý vị độc giả muốn hiểu sao cứ việc, tuỳ tâm, tuỳ tánh của mổi người có cảm nhận khác nhau, hợp ý thì cho là đúng, hay, nếu không hợp cho là sai, dở, tác giả cũng xin cám ơn vui lòng chấp nhận.
Già yếu việc nặng không làm nổi, bị cái nghiệp lôi cuốn mà phải khổ, không thể ăn không ngồi rổi để chờ chết, thân trâu kéo cày trả nợ, kiếp con tằm nên nhã kén buông tơ, hết khả năng làm ra vật chât, thì cũng có chút tinh thần văn hoá đạo đức để phục vụ cho đời giải trí và tìm hiểu, câu nào, đoạn nào quý vị biết trước rồi thì thôi, có chỗ nào chưa hay biết bao giờ nên lấy đó rút kinh-nghiệm để tô-điểm thêm kiến thức cho đời mình. Kẻo mai mốt tôi già yếu trở về với cát bụi “chết” không còn lại gì? chẵng mang theo cái gì được.
Trước khi hạ bút tôi đã dự đoán rằng:
-Nói thật mất lòng, nói ngang làng ghét. Nhưng sự thật lúc nào cũng tốt, cũng thật.
Có câu: Sự thật thắng gian dối
Đạo-đức thắng tội ác
Tình thương thắng oán thù.
Nên tôi cứ bạo tay viết những gì có thật, nghe hiểu, nhìn thấy rất đáng quan tâm cho đời, hiện tại và tương lai.
Có câu:
Chở đạo bao nhiêu thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Đồ-Chiểu
Một số lớn độc giả có kiến thức, vài ông bạn già tri-âm tri-kỉ đang học hỏi trao đổi văn hoá với nhau, họ đọc hiểu và chấp nhận, có câu nào, từ nào sai họ góp ý đúng, tôi cám ơn xin chữa lại. Có vài đứa tiểu-nhân hoặc ranh con, ăn chưa no, lo chưa tới, đang mê ăn, mê ngủ, mê chơi cũng như cái thằng út nhóc con nhà tôi thường bị tôi trách mắng dạy bảo:
-Phải sống đàng hoàng lao động siêng năng, nâng cao tay nghề, quý thời-gian, biết tiết-kiệm tiền-bạc, trước hết lo cho bản thân, gia đình, giúp ích cho xã-hội, chứ làm ít ăn nhậu nhiều, nhậu say sáng ngày hay ngũ nướng là người u mê.
Có câu:
Ngủ ngày quen mắt
Nhậu vặt quen mồm
Tục ngữ
Lãng phí thời gian, hao tiền tốn của không đúng chỗ, đúng lúc, là con người hư hỏng xấu xa, thiên hạ chê cười.
Một số bạn đọc trung niên hoặc có tuổi tác, đang làm cán-bộ nhà nước hay các xí nghiệp công và tư, có lòng tham-lam gian-xảo bất chính, vì có tật hay giật mình, họ có thể cho rằng:
-Ông già lẩm-cẩm viết văn nho-nhe xưa-xắc, ngang như cua, người chế độ cũ mà đi viết văn ca ngợi Bác Hồ, không thèm đọc hết, lấy cái chí để hiểu cái ý, đến nơi đến chốn, đem lòng đố-kị, tự-ái, thù ghét để chê trách. Tôi cho rằng:
-Họ chỉ thấy đâu nói đó chẳng nhìn xa hiểu rộng sự lẽ trên đời.
Tôi nghỉ rằng:
-Bất cứ việc gì cũng có tương đối của nó.
Có câu:
Mặc ai nói xỏ nói xiên
Lòng em cũng vững như kiềng ba chân.
Ca dao
d.- Tôi tự tin và ước mong.
Tôi cứ tự tin và hy vọng về tương lai đến đời cháu, chắt cũng như thế hệ mai sau có đủ kiến thức, họ đọc tuyển tập văn xuôi sẽ hiểu được ý và thương mến tôi nhiều hơn. Thì lúc này đã hoá ra người thiên cổ. Nhưng linh hồn vẫn an vui hạnh-phúc nơi cảnh-giới Phật Đà.
Vì tôi đã để lại một ít tài sản văn-học nghệ-thuật tuy không được lưu loát, nhưng có giá-trị về tinh-thần đạo đức cho hậu thế với ý nghĩa là:
Những bài viết trung thực đạo đức, tôi nguyện cầu, van xin, ước mong tất cã toàn đân V.N sống trong nước cũng như ở hải ngoại đem lòng từ-bi xoá bỏ thành kiến dĩ vãng xưa và nay. Để đoàn kết chung sức tu tạo lại những gì có văn hoá bị chiến tranh tàn phá, xây dựng kiến thiết những gì mới mẽ tốt đẹp hơn cho đất nước. Khuyến-khích thế hệ tiếp nối phải sống trong sáng, tu tập, học hành đạo-lý, văn hoá, khoa học và kỹ thuật thành đạt, để ra phục vụ đất nước áp dụng theo thời văn-minh hiện đại, nâng cao hiệu quả sản-xuất và luôn luôn đổi mới, để nâng cao dân sinh, dân trí đưa đất nước đi lên ngang hàng với các nước văn minh giàu mạnh trên thế-giới. Để đời sống dân chúng được tân tiến giảm sự nghèo nàn, lạc hậu từ tinh-thần lẫn vật chất.
Hìện nay nước ta đã được hội nhập WTO. Uỷ-viên không thường trực L.H.Q.
Một phái đoàn cán bộ lãnh đạo cao cấp Việt-Nam có P.T.T bộ trưởng ngoại giao Phạm-gia-Khiêm và các doanh nhân tháp tùng, do Thủ-Tướng Nguyễn-Tấn-Dũng làm trường đoàn đã sang Hoa-Kỳ thăm xã-giao để ký kết hợp đồng thương-mãi và nhiều đối tác quan trọng khác, như môi sinh môi trường v.v. vào ngày 23.6.2008. Nhận thấy như vậy là đất nước ta tương lai có thuận-lợi phát triển mạnh về mọi mặt.
e.- Lòng lo lắng và nôn nóng của các vị lãnh đạo đứng đầu nhà nước.
Hiện nay mấy ông lãnh đạo hàng đầu nhà nước đang nôn nóng đất nước chóng phát triển đồng bộ, để theo kịp đà tiến-triển với năm châu.
Ra văn-thư, chỉ-thị, nghị-quyết và hô hào bằng miệng muốn rát cả cổ họng, lúc nào cũng bảo thuộc hạ làm việc theo khoa học, công-nghệ thông tin, cải-cách hành-chánh về mọi mặt một dấu một cửa, để tiết kiệm tiền bạc, thời gian, nâng cao hiệu quả, bớt gây phiền hà cho nhân dân lui tới chầu-chực.
Nhưng các vị lãnh đạo cấp dưới cứ lãng phí thời-gian, kéo dài công việc, giải-đãi như rùa bò, thậm chí đôi ba bộ ngành còn khuyết-điểm trì trệ, vũ như cẩn.
Nhận thấy Bộ Giáo-Dục, Bộ Y-Tế, Bộ Tài-Nguyên Môi-Trường, Bộ Giao-Thông Vận-Tải và nhiều ban ngành khác v.v. làm việc còn nhiều bất cập, chuyên môn nghề nghiệp chưa thành thạo, bị trì trệ, thiếu tài đức, là vì tâm chưa trong sáng, còn lắm tiêu cực, không tích-cực. Thực thi chưa đạt yêu cầu dự-án ấn định theo mực-độ, chỉ-tiêu của nhà nước giao phó, làm hao tốn ngân sách không đạt tiêu chuẩn, đất nước chậm phát triển, gây phiền hà bức xúc cho nhân dân.
Trên đài báo và các kỳ họp cấp cao của Quốc-Hội, Chính-Phủ. Các vị lãnh-đạo báo-cáo thuyết trình cũng công nhận vẫn còn nhiều khiếm-khuyết.
Nếu Bộ Ngành nào có vi phạm khuyết-điểm thì phải biết dũng khí nhận lỗi của mình, nhanh chóng sửa đổi tân tiến là tốt, đáng khích lệ để làm gương.
f.- Nên nhìn ra thế-giới bên ngoài. Khuyến-khích cán-bộ và tuổi trẻ có kiến-thức thi đua làm việc tốt, người tốt, phấn-đấu để kết nạp đảng.
-Chúng ta nhìn ra thế-gíới bên ngoài , các nước cường quốc văn minh nhất, làm việc rất khoa học, họ ít tham lam, đố kỵ gây sự đối đầu thù hận. Tự do tôn giáo, đảng phái chính trị, ngôn luận, báo-chí như Nga, Mỹ, Nhật và các nước giàu mạnh khác. v.v. Họ còn đa nguyên, đa đảng, vẫn sống hoà-bình giàu có, văn minh nhất nhì thế giới. Mức sống của dân chúng thu nhập lên rất cao.
-Nước Việt-Nam chúng ta chỉ có một đảng, mà ngày mới giải-phóng, ai có đạo thì không cho kết nạp đảng để phục vụ Tổ-Quốc. Nếu như vậy thì những người có chất xám và lòng yêu nước mà có đạo Công-Giáo chẵng làm được việc gì để đóng góp cho đất nước hay sao?
Vì tôi nhận thấy trong địa phương ấp Bùi-Chu, Bắc-Sơn, Trảng-Bom, ĐN. Phần nhiều là người theo đạo Công-Giáo hết 99% chỉ có một phần đạo thờ cúng Tổ-Tiên và Phật-Giáo. Vì thời tự do, nên tôi không ép buộc con phải theo đạo cha mẹ. Con trai, con gái, cháu, chắt, nội, ngoại của tôi sinh ra tại nơi này đã khôn lớn theo đạo Công-Giáo để lập gia-đình cũng nhiều. Nay mới nghe người có đạo được chấp thuận kết nạp đảng, như trong địa phương xã Bắc-Sơn có mấy ông cán bộ xã ngưòi theo đạo Công-Giáo cả bao thế hệ trước, làm việc Xã cả mấy chục năm nay mới được kết nạp đảng để phục vụ cơ-quan chính-quyền và lãnh đạo Xã. Tôi lấy làm hoan-hỉ cùng với các vị. Cũng mừng cho những người có Tôn-Giáo, có kiến thức, trình độ học vấn cao toàn quốc, đang làm việc trong cơ-quan chính quyền, của nước C.H.X.H.C.N. Viêt-Nam trong các Bộ, Ngành hành-chánh, quân-sự v.v từ thấp lên cao, có điều-kiện phấn-đấu tiến thân.
Chương III.- LÀM NGƯỜI LÃNH ĐẠO CŨNG NHƯ THƯỜNG DÂN SỐNG TRÊN THẾ GIAN PHẢI CÓ ĐẠO-ĐỨC.
a.-Làm người phải có Đạo.
Chúng ta may mắn được sinh ra làm người sống trên thế gian này cần phải có văn-hoá, đạo-đức. Đạo-Giáo là an vui, hạnh-phúc là con đường chân-lý và lẽ sống phụng-vụ hoà-bình nhân loại trên toàn Thế-giới.
Danh-từ đạo-đức lúc nào cũng song hành với nhau, có đạo là phải có đức, mà người có đức đương nhiên là đã có đạo rồi.
Từ ngữ đạo-đức là một từ nối, tuy một mà hai.” Nhiều người nói vanh-vách phải học theo đạo-đức Bác Hồ nhưng chưa sáng lẽ. Có mấy đứa học trò cháu chắt hồn nhiên hỏi tôi Đạo-Đức là gì hỡ ông? Tôi nói có ba cách trả lời:
1.- Đường ngay lẽ thẳng để đi đến chân, thiện, mỹ của người có đạo sống làm việc và tu hành tại gia.
2.- Sống thực, sống tỉnh giác, sống thiền, của người xuất gia tu hành đạo Phật.
3.- Đức là gì? -Đây là một câu hỏi khó trả lời bằng miệng, mà trả lời sự thực hành của chính mình. Người thế gian hay khuyên bảo nhau, chớ nên ăn ở thất nhân thất đức. Họ còn bảo rằng: con gái nhờ đức của cha. Con trai nhờ đức của mẹ. Có câu: ăn ở sao để đức lại cho con cháu nó nhờ. Đây là nói để đức chứ không phải để vàng bạc, châu báu, của cải vật chất đâu nhé!
Của cải không phải mồ hôi nước mắt đổ ra, để lại đầy kho tiêu xài hoang phí không đúng việc.
Có câu: Con không đẻ không thương,
của không làm không xót.
Tục ngữ thế gian
Có sẳn tiêu xài thả ga chưa bao lâu cũng hết, thêm mang nhiều tội lỗi. Tác giả xin nhường lại chữ Đức quý vị độc giả suy nghỉ tự hiểu lấy”.
Có câu:
Ở có đạo mới có gạo mà ăn,
ở có đức không sức mà ăn.
Chữ Đức thấy khó lý giải hơn chữ Đạo. Mấy người có đạo mà thấu hiểu đạo lý cao sâu, đang sống với đời, biết làm việc từ thiện, tu-hành có lòng từ-bi hỉ xả, đời sống của họ về vật chất tuy chẳng giàu có hơn ai, nhưng giàu lòng nhân ái, họ sống rất thoải mái, tâm hồn trong sáng và có trí tuệ cao siêu.
Ngày xưa chưa có đạo Phật, đạo Công-Giáo. Đức Khổng-Tử dạy lễ-nghĩa, hiếu-để, tiền học lễ hậu học văn, hiểu đạo làm Người để chúng ta sống theo nho-phong lễ giáo, làm người thì phải giống người. Ăn ở với nhau biết khiêm tốn lễ độ, kính trên nhường dưới, trong gia đình cũng như ngoài xã hội phải thuận-hoà v.v, mới trọn đạo làm mgười.
(Trên thế gian này có một số người tự cao, tự đại dám nói, cái gì cũng biết, nhưng chưa biết làm Người, chỉ mới làm Ngợm thì chưa phải là khôn).
Có câu:
Ăn ở sao cho trải sự đời
Vừa lòng cũng khó há rằng chơi
Nghe như chọc ruộc tai làm điếc
Giận dẫu căm gan miệng mỉm cười.
Ngày xưa ông Nguyễn-Công-Trứ là người học rộng tài cao thi đỗ ra làm quan, chính-trị, Quân-sự kể cả làm kinh-tế ông đều giỏi cả v.v. Cũng bị cách chức xuống lên, nên ông viết ra bốn câu thơ trên này, thì thử hỏi làm người đâu phải là dễ.
“Có câu:
Vi nhân nan”.
(Tạm dịch: làm người khó).
Cho nên hiểu đạo làm người đã là khó, còn nói đến đạo Phật-giáo, đạo Công-giáo lại càng khó hơn.
-“Tôi trích ra vài câu dể hiểu nhất trong cái đạo làm Người để quý vị độc giả tìm hiểu thêm.
Đức Không-Tử dạy:
-Về đạo làm trai: Tam cang, ngũ thưòng. Đạo làm gái: Tam tòng tứ đức.
Tôi xin tạm dịch nôm na cang thường đạo lý làm trai:
Có 3 cang: Nghĩa Vua tôi. Tình-Nghĩa cha mẹ & thầy cô. Tình-nghĩa chồng vợ.
5 thường là: Nhân, nghĩa. lể, trí, tín.
-Tam tòng, tứ đức của đạo làm gái:
Có 3 tòng: Nội gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. (Chồng chết theo con, không phải chết theo chồng).
4 đức là : Công, dung, ngôn, hạnh.
Trong Tang Phục Truyện của Nghi Lễ có ghi rõ như trên. Nếu phân tích ra tỉ-mỉ để áp dụng cho đời sống thì 98% là tốt, đúng. Chỉ có thiệt cho phái nữ cái câu tam tòng, có thiệt thòi một ít, nhưng thấy cũng không đến nỗi như phụ-nữ đạo-Hồi, phong-tục nầy của luật Manu Ấn-Độ đã có từ thời xa xưa.
Nho-GiáoTrung-Hoa truyền sang với dân tộc ta học chữ, học đạo từ thời cổ-đại trước Phật lịch, trước Công-Nguyên, cả hàng mấy nghìn năm nay, thấm sâu vào máu thịt, tâm khãm của người Việt đã thành truyền thống văn hoá dân tộc từ bao giờ”.
Nếu có ai đó phủ nhận bây giờ thời văn-minh khoa học hiện đại của thế kỷ 21 con người đã lên đến mặt trăng và sao hoả, đi áp dụng từ ngữ xa xưa của thời phong kiến, huỷ bỏ không thèm dùng một từ nào của Đức Khổng-Tử nêu trên để thực hành với cuộc sống đối nhân xử thế hàng ngày trong xã hội văn-minh hiện đại, thì thử hỏi có còn là con người văn minh nhân-bản nữa không? Hay là trở thành bản-năng sinh-tồn của loài thú vật một lủ Vượn, Khỉ đi cấu xé lẫn nhau để tranh dành vật chất và sự sống còn. Hi-sinh đời bố củng cố đời con.
Người xưa cũng có cái hay, cái dở.
Đặc biệt là: “Văn-Hoá Đạo-Đức của Người Xưa thì hết chỗ chê.”
Câu văn trên Tiến-Sĩ Giáo-Sư Triết học Hoàng-Chí-Bảo giảng tại trường Đại-Học Lạc-Hồng Đ.N ngày 12-4-2008.
Thời nay cũng có cái đúng, cái sai, những cái tinh hoa văn-hoá, đúng ta đem ra học tập để áp dụng trong cuộc sống hàng ngày, cái gì ta thấy sai trái lỗi thời thì bỏ, nên noi gương các nước văn minh. Chớ nên xoá bỏ, huỷ hoại hoàn toàn văn-hoá nghệ thuật đạo-đức người xưa là không đúng. Những nước văn minh và nhiều cá nhân họ còn đi sưu tầm văn hoá, nghệ thuât, bão tồn cổ vật.
Có câu: “Vô cổ bất thành kim”. Tạm dịch: (Không có củ làm sao có mới). Thời nào cũng phải sống theo cổ kim hoà điệu.
Chúng ta được làm người thời hiện đại nên có đạo, không đạo Công-Giáo thì đạo Phật. v.v.
Con người mà vô đạo-đức xã-hội văn-minh hôm nay và cả Thế-Giới không ai chấp nhận.
“Thời xưa mấy ông Vua gian ác, tham dục người ta ám chỉ đồ hôn quân vô đạo”.
Đạo Nho-Học đã bị lu mờ nửa thế-kỷ 19, vì luồng gió của văn-minh, khoa-học bên Âu, Tây thổi sang quá mạnh, Thánh-Hiền bay mất về trời. Nên người Việt ít học chữ Nho, chuyển sang phần nhiều học chữ Quốc-Ngữ, chỉ còn cúng bái Tổ-Tiên theo văn hoá truyền thống mà thôi.
Đạo-Giáo là con đường ngay thẳng đi đến chân-lý, sống chung hoà-bình. Nói chung tôi tìm hiểu giáo-lý của các đạo đều có trùng lặp, đạo luật gần giống nhau, chỉ có khác danh-từ xưng hô mà thôi.
Có câu :” Nhân hư Đạo bất hư”. (Người xấu, Đạo là tốt).
Đạo Khổng-Giáo Nhân Học văn-hoá Cổ rất cao siêu, gốc TQ mà cũng bị lu mờ bởi Chủ-Nghỉa Mác-Lê và phát minh khoa học bên phương Tây bay sang. Hiện nay họ đang cho phục-hồi trở lại.
b.- Đã có đạo chúng ta phải học và hành cho đúng.
Tôi xin chứng minh vài câu đại khái, chứ triết lý của đạo giáo thì cao, sâu, rộng, lớn vô cùng, vô tận. Không có giấy bút nào tả hết được. Giáo lý dạy sơ đẳng: bỏ ác làm thiện, biết sống yêu thương nhân loại, có lòng từ-bi hỉ-xã giúp đỡ lẫn nhau những khi gặp khó khăn, bệnh tật, tai-nạn, thiên tai. v.v. Sống phải hiền lành, thật-thà không dối trá, không tham lam làm những việc bất chính, phải luôn luôn có tinh thần đoàn kết.
“Bán bà con xa,
mua láng giềng gần”.
Tục ngữ
-Sống phải tuân theo pháp-luật, không nên hành động gian ác trộm cướp, đánh đập giết chóc, ỷ mạnh hiếp yếu, lấy thịt đè người. Phi văn-hoá đạo đức, gây cho xã hội xáo trộn, đất nước mất an-ninh trật-tự, bị chiến-tranh. Kinh-tế không phát triển lên được, nghèo nàn lạc hậu.
Cứ nhìn về lịch-sử cả thế giới và của nước ta thời Vua Chúa xa xưa thì thấy rõ. Ông vua nào hôn quân vô đạo, hành-động sai đường lối, độc tài tham dục bạo tàn, làm cho dân tình điêu đứng nghèo khổ dốt nát, ngăn cấm tác phẩm các nhà văn, thâu hồi sách báo đốt bỏ, trù dập người trí thức giống vua Tần-Thuỷ-Hoàng, trước sau cũng bị lật đổ, còn lưu lại tiếng xấu xa.
Ông nào minh quân văn võ song toàn, đạo đức chân chính, biết thương đân giảm bớt sưu cao thuế nặng, quan tâm về dân sinh dân trí, trị vì đưa đất nứơc đi lên giàu mạnh, được tự do ngôn luận, mới là cường quốc làm bá vương, bá chủ nước nhà thịnh trị truyền ngôi cho tử tôn lâu dài lưu lại tiếng thơm muôn đời muôn thuở. Nên lấy đó làm gương, xưa sao thi nay cũng vậy.
Ví dụ: Nói chung làm ông bà cha mẹ trong một gia-dình cũng phải mẩu mực, làm cấp lãnh đạo đứng đầu một cơ-quan đoàn thể, các bộ ngành, xí nghiệp công tư, từ cấp hạ tầng cơ-sở trở lên toàn cã nước. Phải sống lương tâm trong sáng, công việc theo khoá biểu thời gian nghiêm túc, thưởng phạt phân minh để làm gương cho thuộc hạ.
Có câu: “Thượng bất chính hạ tác loạn”. (Trên ở chẳng kỹ cương dưới lập đường mây mưa). Làm cấp lãnh đạo mẩu mực có tài đức vẹn toàn là rất khó. “ Bị lãnh đạo là điều may mắn, làm lãnh đạo người khác là điều cay đắng”.
Tinh Vân
Có câu: “Nhân vô thập toàn” (Tạm dịch: Làm người ‘lãnh đạo” không ai mười phân vẹn mười được). Nếu có lở bị sai sót nhân dân phê phán, nên sáng suốt thận trọng xem lại để sửa chửa.
Sống và làm việc đúng với hiến pháp, pháp luật của Quốc-Hội đề ra.
Chớ tự ái bão thủ, ỷ có quyền lực chụp mủ bắt bớ, tù tội gây sự đối đầu oán hận trong lòng quần chúng là không tốt.
-Bản thân của mình không làm gương trước thì khó mà bão thuộc hạ, dân chúng tuân theo.
Chương IV.- MUỐN CÓ ĐẠO CẦN PHẢI GIA-NHẬP MỘT TÔN-GIÁO THỊNH-HÀNH NHẤT V.N HỌC HỎI CHO THÔNG HIỂU GIÁO-LÝ, RỒI THỰC-HÀNH ĐÚNG ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẠO. MỚI LÀM ĐƯỢC LÃNH ĐẠO TÀI-BA TRONG TƯƠNG LAI.
a.- Người có đạo cần phải học hỏi nhiều mới thấu hiểu đạo-lý.
Triết học về đạo đức không thể học thuộc lòng vài câu rồi nói suông thao thao bất tuyệt, đĩ-thoã đầu môi chót lưỡi như vẹt để lừa gạt lòng người. Lời nói phải song hành với việc làm mới có giá trị. Nếu muốn hiểu về Đạo-Giáo cần phải học hỏi suốt đời cho đến khi quả tim ngưng đặp mà vẩn chưa hiểu hết.
Học Đạo không phải để trị bệnh cho người, mà trước tiên trị cái bệnh tham, sân, si, của chính tâm-hồn bản thân mình. Để biết cách đối xử với đân chúng và làm việc cho đúng đường lối đạo đức.
Những người thấu hiểu đạo lý, ăn ở hiền hoà nhân hậu, con mắt người tầm thường tiểu nhân nhìn thiển cận, bão họ hiền lành không dám làm gi? Nhưng không có việc gì mà họ không làm. Từ bi mà dũng, trí, không thể lặng thinh sợ thằng ăn cước trả thù, khi nhìn thấy nó móc túi cái ví tiền của bạn mình, họ còn viết ra sách sử, văn học nghệ thuật và kinh điển, để lưu truyền cho hậu thế học tập noi gương. Cách ăn ở giao tiếp ai cũng kính mến. Còn ra giúp nước thì dũng-cãm, anh-hùng, công-minh, chính-trực.
-Lời bác Hồ : Đạo đức cách-mạng không phải trên trời rơi xuống
còn sống phải chiến-đấu học tập suốt đời.
-Ngọc càng dủa càng sáng, vàng càng luyện càng xanh.
Theo ý của Bác dạy chúng ta sống chiến-đấu (*), lao-động, học-tập để noi gương Bác. Phải cần, kiệm, liêm, chính. Chí công vô tư. Mới là người lãnh đạo có đạo đức.
-Tôi thấy hiện nay mới thi đua học về tư-tưởng đạo-đức của Bác, thì hơi muộn. Muốn học đạo đức của Bác Hồ phải nghiên cứu kỹ về phong cách của bác sống và làm việc. Rồi học bắt đầu từ A đến Z như học chữ quốc ngữ vậy, mới hiểu đạo đức của Bác được. Chứ đóng khung thời gian lịch-sử lại một đoạn ngắn mà học thì chẵng có ai hiểu đầu đuôi ra làm sao? Học cho mất công tốn của không ai hiểu, chẵng có kết quả ích lợi gì.
Bác Hồ là người làm chính-trị, muốn được lòng mọi người bác sinh hoạt giao tiếp với đồng-bào và thuộc hạ dùng phong-cách phương tiện của triết-lý Tam Giáo Đông phương (Lão, Khổng, Phật) và kinh nghiệm về Nhân học trên đời, sống giản dị hoà đồng, cách ăn mặc, nói năng, ứng xử, đạo-đức, lễ-phép, chân chính, rất thân mật, yêu thương toàn dân từ già đến trẻ, đối xử với quần chúng Bác hiền lành như Bụt. Dân họ mới kính yêu lại Bác nghe lời mà phục vụ, quên mình vì Tổ-Quốc.
-Bởi vậy Bác nói: Dễ trăm lẩn không Dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong.
-Đối với quân thù. Bác có vũ-khí sắt bén và tinh thần sáng suốt, anh-dũng vô song, hành-động khôn ngoan, lừa gạt địch.
Bác dùng vũ-khí để đánh đúng đối tượng theo thời thế. Mới dành thắng lợi hoàn toàn, thành công rực rỡ.
Binh-Pháp & Vủ-Khí: Bác sử-dụng để thắng Pháp, Mỹ trong hai cuộc chiến V.N. cuối thế kỷ 20.
Có 4.- Sức mạnh tối tân nhất theo thời cuộc là:
1.- Đ.C.S. Sức mạnh Lãnh-Đạo Chỉ-Huy.
2.- Chủ-Thuyết Mác Lê. Sức mạnh Tinh-Thần theo thời-thế.
3.- Nhân-Lực, nội-lực. Sức Mạnh đoàn kết của toàn đân V.N. yêu nước, căm thù quân địch xâm lăng.
4.- Ngoại viện: Sức mạnh các nước bạn Đồng-Minh viện-trợ vũ-khí tối tân, lương-thực. (Khoa-học kỹ-thuật, tinh thần lẫn vật chất v.v.).
Bác cũng suy nghĩ nghiên cứu binh-thư, binh pháp đắn đo trước, tuỳ cơ ứng-biến, theo binh-pháp Tôn-Tử, “tri bỉ tri kỷ” (biết mình biết địch) và lợi dụng thiên-thời, địa-lợi, nhân-hoà. v.v. Dùng vũ-khí nào thật là lợi hại mà phù hợp theo tình thế, theo từng giai đoạn của cuộc chiến, nhờ có sách luợc mới chiến thắng hai Đế-Quốc bạo cường. Đáng tiếc là Bác tuổi cao sức yếu phải quy Tiên giửa đường, khi chưa đạt ý nguyện đi đến mục tiêu Nam Bắc một nhà.
-Nhưng kết cuộc chiến thắng, thống-nhất, độc-lập mà cũng phải trả giá quá đắt bằng xương máu nhân dân mới có. “Số người tham gia chiến tranh hai phe Tả Hửu nói chung, dù có chính nghĩa hay phi chính nghĩa, phần nhiều oan uổng cho lớp binh sĩ còn thơ ngay, non trẻ, cắt ké, phải đi khinh binh trước đầu tên mủi đạn. Một lớp dân đen chân lấm tay bùn, hai vai trỉu nặng, ở nhằm những vùng xôi đậu, bị bên này bắt bên kia lôi làm công tác phục vụ chiến tranh, do bom rơi đạn lạc cũng phải bỏ mạng sa trường hoặc bị tàn phế không ít. Thành phần dân đen này chẳng có ai cho họ một lời an ủi.
Còn các vị lãnh-đạo cao cấp, khi thi hành công tác thì có cận vệ hộ tống giử an-ninh, còn ở tại căn-cứ làm việc trong thành cao hào sâu, xui xẻo lắm, tới số mới chết một người.
-Một số lớn Lãnh-Đạo Việt-Nam Cọng-Hoà miền Nam tai to mặt bự, ăn trên ngồi trốc phè phởn, là con cưng hoặc cọng tác CIA của Mỹ, biết đã bị thua tại bàn đàm phán Ba-Ri “1971-1973” tìm dường cao chạy xa bay trước ngày miên Nam sắp sụp đổ. Giao lại một số Lãnh-Đạo thứ con rơi, con ghẻ thuộc loại cắt ké, hoặc già nua nói không ra tiếng sắp xuống lổ. Để ra lệnh đầu hàng, di tản chiến thuật, giảm thiểu đổ máu cho đôi bên, hy sinh vô lối. Bên miền Nam bị Mỹ bỏ rơi thua chạy vắt dò lên cổ. “Quân vô Tướng, như Hổ vô đầu”. (Linh không chỉ huy, như cọp bị chặt đầu). Cả một dám tàn quân phải tự lo lấy mà thoát thân, hồn ai nấy giử. “Hàng sống chống chết”. Là câu khẩu lệnh của quân giải phóng kêu lính nguỵ quy hàng. Bị thương không cứu chửa, chết không chôn, bỏ xác như hươu nai trong rừng, thật thê thãm trong những ngày tàn cuộc chiến mùa xuân Ất-Mão 1975. Địch thì mặc kệ chẳng kể làm chi. Vì lòng nhân đạo, tình ruột thịt Đồng-Bào không ai làm ngơ mà không lên án người Lãnh-Đạo.
Một số phe ta hy sinh vì chính-nghĩa Cách-Mạng dài dài trong suốt cuộc chiến, đến hôm nay vẫn còn mất tích chưa tìm ra mồ mã, đừng nói chi đến quyền lợi chính sách. Địa phương nào mà chẳng cố người bị thiệt thòi, coi như huề cả làng. Bác đã yên nghỉ nghìn thu. Nay ai là người thừa kế, nối nghiệp, đang hưởng thụ, dám đứng ra chịu trách nhiệm với gia-đình nạn nhân, với Lịch-Sử.
Bất cứ một cuộc chiến tranh nào xẩy ra với các nước trên Thế-giới cũng gây chết chóc tang thương, nhà tan cửa nát không thể tưởng tượng, tội ác tày trời, máu đổ thành sông, xương chất chồng như núi. Thế kỷ hôm nay chúng ta nên cùng nhau bắt tay sống hoà đồng, hoà hợp, đã là đồng-bào chớ nên bất hoà, thù hận mới là thượng sách, để toàn dân được sống an lành, sinh sống làm ăn và kiến thiết lại đất nước.
-Những cư-sỹ học cao, hiểu rộng trí thức, họ thấy xã hội bất bình, Tổ-Quốc lâm nguy, đứng ra góp ý, giúp sức làm chính-trị thì rất thành công và thắng lợi tốt đẹp. Phải tìm hiểu kỹ càng mà trân dụng nhân tài, đừng có thành-kiến, đa nghi, đố kỵ như Tào-Tháo là thất bại về sau.
-Nếu làm ngược lại thì toàn Thế-giới và nhân dân V.N chẵng có ai tán-thành và chấp nhận.
-Có hai Tôn-Giáo lớn: Phật và Công-Giáo có từ trên 2000 năm. Phật-giáo Ấn-Độ đi theo đường tơ lụa truyền sang Trung-Hoa rồi qua Việt-Nam vào thế kỷ thứ II. Công-Giáo gốc ở Do-Thái. Bởi người Tây-Ban-Nha, Bồ-Đào-Nha đi theo đoàn thám hiễm Thế-giới truyền sang V.N. thế kỷ XV. Thời xa xưa V.N ít có người theo học hai Đạo-Giáo này.
Có câu : “vạn sự khởi đầu nan”. ( Tạm dịch: việc gì lúc đầu cũng khó). Một mặt ngôn ngữ bất đồng. Vì thời cổ-đại đân trí còn thấp kém, phần nhiều cấy trồng lúa nước nên thờ cúng Thần-Linh như: Thần Sông, T.Núi, T.Mây, T.Gió và T.Sấm-Sét v.v. theo truyền thuyết huyền bí, họ hay cầu-khẩn Trời mưa thuận gió hoà, để mùa màng được bội thu. Một phần mê tín dị đoan, ma quỷ, đồng bóng, bùa phép, thầy bói nói đui, sống dương-gian lo chuyện âm-phủ v.v. không đúng với đạo-giáo nào cả. Mà cứ ngã chấp, nên ít học theo hai Tôn-giáo này.
Lại còn Triều-đình vua Minh-Mạng cấm ngặt toàn dân không cho theo đạo Công-Giáo, nên đất nước xẩy ra chiến tranh gây tang tóc, bởi nguyên nhân từ đó.
-Nhưng thời nay hoà-bình, đã văn minh hiện đại của thế kỷ 21, hai Tôn-Giáo này được bành trướng thịnh hành nhất, lang toả khắp thế-giới công nhận cùng V.N. tôn thờ và tu học.
Còn một đạo truyền thống từ thời Cổ-Đại là Nho-Giáo Trung-Hoa truyền sang theo chữ Hán. Vì thời xa xưa Việt-Nam chưa có chữ Nôm, chữ Quốc-Ngữ. Nên Tổ-Tiên ta phải học chữ Nho để làm việc, viết văn-thư các loại chánh-trị, quân-sự, kinh-tế, văn tế, thư từ văn-bản dân-sự thay cho lời nói v.v. Một mặt cũng theo Nho-Phong Lễ-Giáo để an sinh xã hội và thờ Vua, cúng bái Tổ-Tiên, Ông Bà, kính yêu Cha Mẹ. Thời Quân-Chủ phong-kiến Đạo Nho-Học có thể được phổ biến khắp đất nước của chúng ta. (Lệ thuộc văn-hoá Trung-Hoa). Đạo nầy thời văn minh hiện đại không còn thích hợp mấy cho V.N.
Lịch-Sử VN có bốn nghìn năm văn-hiến. Mất một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây. Bác Hồ ra đời hơn 100 năm nay thôi. Ta đi học gương Bác-Hồ thì ta chỉ có hiểu về bản thân và hành động đánh giặc của bác mà thôi. Làm sao ta hiểu cao, sâu, rộng, lớn về khoa-học đạo-học văn-minh lịch-sử của Bác học. Mà sống đứng đắn như Bác được. Học đúng theo Đạo-Đức của Bác là chữ Hán khó học hơn chữ Quốc-Ngữ, phải học lâu lắm mới viết ra chữ, hiểu được nghĩa. Chúng ta nên học Phật-Giáo, hiện nay kinh sách dịch ra toàn chữ Quôc-Ngữ dễ học, dễ hiểu, mà giáo-lý Phật-Giáo đa số trùng lặp triết-lý Nho-Giáo, học viên dể hiểu thấu đáo đạo-đức của Bác chín chắn hơn. Nếu ra ứng cử làm lãnh-đạo, thì phải có đạo-đức. “Vô đạo không thể làm lãnh-đạo được, vì nhân dân thế kỷ 21 họ khôn và kinh nghiệm lắm rồi, không ai dám bầu những người không có đạo-đức lên làm lãnh đạo là nguy to”.
(Con cháu của tôi theo Thiên-Chúa Giáo tôi cũng dạy bão phải học cho hiểu giáo lý tối thiểu để biết ăn, biết ở, có hiếu, có nghĩa, đối đãi với bà con xóm giềng cho đúng lễ độ, mới đẹp đời tốt đạo).
-Thời gian luôn-luôn biến chuyễn hôm nay thế này ngày mai thế khác, nếu ai đó thủ cựu, bảo thủ không tiến bước theo thời gian, sẽ bị bánh xe tiến hoá nghiền nát cuộc đời. Những gì thấy văn-minh hiện đại ta nên học theo, để nâng cao kiến thức mà làm theo, mới tiến lên kịp các cường quốc giàu mạnh trên thế giới.
Có câu: “con hơn cha nhà có phúc”. Nếu muốn có phúc và tìm hiểu đạo-đức Bác-Hồ dể hiểu hơn, ta phải luôn chuyễn đổi cải-cách giáo-dục học hành.
Riêng tôi cảm nhận xin góp ý thì như vậy. Quyền là của quý vị, muốn dạy sao cứ dạy, muốn học sao cứ học.
Nhưng nhớ rằng:
Cái học cũng phải đổi mới, học sâu hiểu rộng mới có tiến bộ. Noi gương các nước văn minh nhất, khuyến-khích con em học theo Mỹ, Liên-Xô, Ấn-Độ, Nhật-Bản v.v. Nhưng cũng phải bảo vệ gìn giử bản sắc văn-hoá dân-tộc của mình. Trung-Quốc cũng văn-minh, sinh-viên chớ nên du học.
(Lý do: “Để đề phòng lây nhiễm bản tánh hay đút lót tham lam bất chính, lập lờ lật lọng”. Còn về chữ Hán của Thánh-Hiền cứ học càng nhiều càng tốt Việt-Nam thiếu gì thầy dạy chữ Hán. Trước ngày giải-phóng miền Nam T.Q lợi dụng tình hình chiến tranh lộn xộn, đã đánh chiếm đảo Hoàng-Sa của nước ta, sau ngày giải phóng đánh lấn biên giới nước ta phía bắc, gây tang tóc, bị quân đội ta đẩy lùi.
-Tôi thấy trên đài, báo cách nay không lâu vẫn còn tranh chấp Hoàng-Sa. Tình bạn bè, láng giềng, đồng minh mà đi tranh chấp với nhau từng tấc đất, mất đoàn kết là không tốt, để thế giới khinh thường. Cho nên gây nhân hưởng quả, những người có lòng tham lam gieo gió thì gặt bão, đó là lẽ đương nhiên theo tín ngưỡng của Phật-Giáo. Còn ai gian ác Bị Chúa phạt là lòng tin của đạo Công-Giáo, chúng ta đang chứng kiến hiện trường trước mắt. Còn chuyện xưa thì lắm, cả ngàn năm.
Lịch-sử, quá khứ cố nhiên không cho xoá hết, nhưng cứ tìm xét mãi chỉ khiến hận thâm sâu, chúng ta nên vùi lấp kín lại, dĩ vãng cho về quá khứ chẳng bới móc ra làm gì, các ngài hiền-nhân quân-tử họ hay lấy ân báo oán).
Chỉ bắt tay giao tiếp về kinh-tế, buôn bán với nhau mà thôi, đây là đường lối lâu dài, hoà-bình an ổn, chớ có mặn mà làm chi.
Vui thời vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai
Nguyễn Du
Tôi lấy ví dụ câu văn: “Dụng nhân như dụng mộc”. (Chúng ta có cây gỗ lớn, quý mà bị hư một lổ nhỏ, không có ông thợ lành nghề khéo tay làm ra tủ, bàn đẹp để dùng, thì cây gỗ ấy cũng vô dụng).
Cho nên con người chúng ta sinh ra khi còn bé chưa biết gì, phải tìm thầy thông-minh, trí-tuệ, những trường lớp có tiếng tăm, để học chữ, học đạo, khi khôn lớn vừa làm vừa học, liên tục, cho đến già cũng phải học trong kinh sách. Học ngoài đời, ông 70 học ông 71, ông 71 học cậu 15 mới thấu hiểu được văn minh khoa-học đạo lý cao sâu thời cổ đại và thời hiện-đại. Để biết cách làm việc và ăn ở hoà-đồng với xã-hội mới tiến bộ.
“Có câu: Hậu sinh khả uý”. (Tạm dich: Tuổi trẻ có tài-năng thông-minh). Nếu họ đúng, giỏi thì mình cũng tán thành và học theo. Có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Người già, mồm đừng già, cứ cãi bướng cho rằng: trẻ người non dạ là không đúng, để cho họ buồn mất tin tưởng thì chớ nên. Có chuyện gì bất đồng nên xét lại cho kỹ.
Có câu: “Tiên trách kỹ hậu trách nhân”. (Tạm dịch: Trước trách mình sau mới trách người).
Có câu: “Kỹ sở bất dục, vật thi ư nhân”. (Tạm dịch: việc gì mình không thích, chớ đem làm cho người khác buồn).
Người đời xưa họ đối với mình thì nghiêm khắc, đối với người thì khoan-dung độ-lượng nên ít khi chạm lòng tự ái với bạn bè.
-“Tôi suy nghỉ bản thân tôi cứ ngã chấp, không chịu học hỏi tuổi trẻ và bạn bè, xem sách báo hàng ngày thì làm sao cập nhật tin tức, biết sử dụng vi tính để viết văn được. VN mới có Vi-Tính mấy chục năm nay, sử dụng nhiều chỉ mới mấy năm nay thôi.”
Khi học hiểu rồi, hành cho đúng đường lối thì viẹc gì cũng có kết quả tốt đẹp, thành công mỹ-mãn.
b.- Những kẻ hay tự kiêu tự đại bị thất bại mọi mặt.
Những kẻ lười học dốt nát hay tham lam, còn trịch thượng, nâng cái tôi của mình lên, không chịu nghe lời dạy dỗ cha mẹ, học tập nghe lời phê phán bạn-bè, để cải-thiện tánh nết, ăn nói lỗ mãng làm việc thường bị sai trái, nếu làm chỉ huy quân-đội thì nguy hiểm cho tính mạng binh-sĩ, làm cán bộ hành-chánh sự-nghiệp thì thất thoát công quỹ nhà nước, gây phiền hà cho nhân dân. Hay ăn hối-lộ và biển-thủ công quỹ.
Nếu ai muốn nổi tiếng danh-nhân, anh-hùng thì phải phấn-đấu nuôi hoài-bão, có chí lớn xoay trời, mữa đất lập công to.
Đem lại cuộc sống ấm no hạnh-phúc cho nhân-dân, ích lợi cho nước nhà. Phải chịu học hỏi suốt đời. Khi hiểu rồi có thời-cơ thuận lợi đứng ra khởi sự, dựng cơ-nghiệp được kết quả mới nổi tiếng. Đừng lợi dụng thời-thế phe cánh con ông cháu cha. “Nam nhân chi chí, nhỏ không học lớn làm Đại-Uý thì hỏng việc”. Anh hùng tạo thời thế mới hay, mới tài giỏi, chứ thời thế tạo anh hùng, theo đóm để ăn tàn thì dở ẹc. Những kẻ cơ hội bất chính gây nhiều tội ác, trước sau cũng bị tán gia bại sản, con cái hư hỏng gây tai hoạ, có khi bị cách chức tù tội, mất mạng nữa là khác. Đó là luật đương-nhiên gây nhân hưởng quả, chứ chẵng phải Trời phạt, Phật quở gì cả. Tôi đã chứng kiến rất nhiều vụ. Mong rằng quý vị độc giả nên tư-duy mới thấy rõ và đúng.
Khi đã quán-triệt thì giữ tâm mình trong sáng, ngay thật là tuyệt chiêu. Làm việc gì cũng tốt, cấp trên tín nhiệm, được bạn bè yêu quý mến thương.
c.- Nói về học tập gương đạo đức của bác Hồ một chút :
Bác Hồ thời còn bé rất thông-minh học chữ Nho thuộc hết tứ thư, ngũ kinh của Đức Khổng-Phu-Tử, cho nên thơ của bác nói chung phần nhiều viết bằng Hán tự. Học Quốc-Ngữ, Pháp văn rồi làm thầy giáo. Hiểu sơ qua thân thế sinh hoạt của Bác thời còn trẻ một vài điểm như trên. Người ta thường nói đạo-đức Bác Hồ, mà chẳng biết Bác theo đạo nào? Có đạo hay không? Xin bật mí: Đương nhiên Bác là người có Đạo Nho-Giáo truyền thống bản-sắc văn hoá dân tộc thờ kính Tổ-Tiên Ông-Bà Cha Mẹ.
Khi còn thơ ấu chịu học tập cho đến trưởng thành, không cần đi thi cử với cái chế độ bị trị mà đi dạy học trò. Bác nhận thấy đất nước ta bọn thực dân phong kiến đè đầu cỡi cổ, bắt nhân-dân làm nô lệ, kìm kẹp, xiềng xích, sưu cao thuế nặng bóc lột đói khổ. Nên bác phải ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước. Bác đi năm châu bốn bể, các nước văn minh đệ nhất, đệ nhị trên toàn cầu. Như: Ấn-Độ, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Trung-Hoa. v.v. Bác học hỏi thêm về triết học đạo-lý Đông, Tây vừa viết báo, đấu tranh chính trị, làm việc kiếm tiền để sống và học hỏi, thời gian hai phần ba đời người, tiếp-nhận những cái hay cái đẹp về khoa học, kỹ thuật, tinh hoa văn-hoá, ngôn ngữ và Quân-sự, chính-trị v.v. trên thế giới. Bác đem về Việt-Nam áp dụng đúng đường lối để lãnh đạo đất nước làm Cách-Mạng mới có ngày hôm nay.
Những người xưa học rộng tài cao đạo đức uyên-bác. Họ không có lòng tham vô đáy làm lợi lộc cho cá nhân họ. Mà họ làm vì mọi người. Cứu nhân độ thế, các người theo đạo Phật có thể họ hoằng pháp lợi sinh. Người có đạo Nho-Giáo, Công-Giáo mà thấu hiểu sâu xa giáo-lý. Số người trí thức này họ làm bất cứ việc gì cũng đạt kết quả tốt, an sinh xã hội, đẹp lòng người.
Bác hồ khi còn sinh tiền bác sống giản-dị, hết lòng lo cho dân cho nước, việc làm của Bác bất cứ nơi nào, hoàn-cảnh nào cũng đều nghĩ đến ích quốc lợi đân. Chúng ta nên lấy đó làm gương để mà học hành như Bác.
Chương V.- CUỘC SỐNG VÀ HÀNH ĐỘNG CHIẾN TRANH, HOÀ-BÌNH.
a.- Hành-động thời gian chiến-tranh.
Khi đất nước đang còn chiến tranh nghèo khó, hạt gạo cắn làm đôi để tiếp tế đánh Mỹ, thế hệ cha bác, đoàn kết một lòng, muôn người như một, trẻ già, trai gái ùn ra chiến trường như vũ bão cá mè một lứa, ai có khả năng trình độ chuyên môn năng khiếu, ủng hộ hết mình cho Tổ-Quốc, không sợ chết chẵng tiếc thân, hy sinh xương máu không thể biết số lượng bao nhiêu mà kể, yêu nhau như ruột thịt, trường kỳ kháng chiến, lớp này ngã xuống có lớp khác xung lên chịu đựng gian khổ, ăn khoai lang, củ mì, gạo hẩm cơm nguội mà chiến đấu, Bác còn ở hang Bắc-Bó ăn cháo bẹ để dệt Sử Đảng trên chiến trường Việt-Bắc. Mất người, tốn của, nợ nần bạn bè từ vật chất đến ơn-nghĩa, thời gian chiến đấu 30 năm mới đánh đuổi được quân thù hoàn toàn ra khỏi đất nước.
b.- Thời kỳ hoà-bình.
Sau ngày 30-04-1975 lúc giao thời im tiếng súng, ôi thôi lắm chuyện rắc rối tồi tệ cã đôi bên thắng, bại, bên chiến thăng lên làm Vua, hân hoan tự mản, việc nước đã tạm ổn, lo củng cố bản thân gia đình và hưởng thụ. Bên thua như rắn mất đàu, như cua gẩy càn, như cá nằm trên thớt. Đa số là cắt ké, con rơi còn lại, cho là ngụy, phải tập trung học tập cải tạo để biết đường lối chính ghĩa của Cách-Mạng, ai sức lực yếu kém không chịu đựng thử thách gian khổ thì “đay” (chết). Ai có sức chịu được thời gian cải tạo và mười năm bao cấp nó cũng trôi qua nhanh như nước chảy xuôi giòng. Khi đất nước mở cửa ai muốn đi diện HO hay con lai Mẽo v.v. cứ việc làm thủ tục xin đi. Nhưng phải có lắm “cây” (vàng) mới hợp lệ đi được, vì tôi có hai ông anh đi diện HO nên tôi quá rỏ chuyện này. Có số liều mạng vượt biên theo Mỹ bằng đường biển bị cá xực cũng nhiều. Ai nghèo phải chịu, hoặc yêu mến quê hương không muốn đi thì ở lại siêng năng lao động nuôi con xây dựng gia đình, đóng góp với xã hội đất nước. Nay già yếu con cái khôn lớn làm nuôi lại, không giàu có hơn ai nhưng hàng ngày dùng đủ, cũng cơm no, rượu say như ông Hai Lúa vậy thôi. Sau một cơn mưa trời lại sáng, đối với dân nhà nông chúng tôi quen chịu khó chịu khổ thấy chẳng xi-nhê gì cã. Sơ qua vài nét, không nên kể rỏ chi li làm gì thêm sinh tội.
Bây giờ đã được hoà-bình thống-nhất độc-lập hơn 30 năm.
Nhờ chính sách ông N.V.L đổi mới mở cửa giao lưu với Thế-giới năm 1986 nhân dân mới đỡ khổ. Nay đang phát triển nhà nước giàu có mọi mặt, cũng nhờ phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào, tiền viện trợ của các nước Tư-Bản để kiến thiết lại đất nước bị tàn phá vì chiến tranh. “Thế gian có người tốt kẻ xấu, không phải vơ đủa cả nắm”.
Có một số cán bộ lớn tranh quyền cố vị giữ ghế lâu dài, vô đạo đức tham lam thoái hoá biến chất lợi dụng kẻ hở pháp-luật, làm những việc sai trái đường lối vi phạm luật-pháp, mất lòng tin của nhân dân.
Nhận thấy như vụ giao thông vận tải mới đây do ông Ngũ-Vị-Tiền gây ra, ông Bùng-Tí-Dũ GĐ. PMU.18 cơ quan Q.L vốn viện-trợ phát-triển đất nước và biết bao nhiêu vụ nửa có từ trước, bị tổn thất công quỹ nhà nước hàng tỷ tỷ bạc, làm nghèo đất nước, những việc nầy cứ tái đi tái lại mãi. Tại sao các vị lãnh đạo Luật-Pháp không dùng biện pháp mạnh để loại bỏ thành phần sâu dân mọt nước làm băng hoại đạo đức Cách-Mạng, tham-ô công quỹ để làm gương.
Mấy ông cán bộ tham-nhũng của cải nhà nước, mấy ông làm như của tư riêng, cứ tiêu xài tiền bạc, tài-sản dùng cho bản thân và gia đình thoải mái. Xây nhà lầu, mua xe máy loại cao cấp, xe hơi đời mới, bao gái đẹp, nhậu nhẹt, cờ bạc, tệ nạn xã hội, ăn chơi trác-táng, vinh thân phì da.
Thêm có các công ty ma. Mệnh danh công ty mẹ công ty con xuất khẩu lao-động bằng cách trá hình làm những việc phi nhân-bản đạo đức để thu lợi nhuận. Bằng cách buôn bán ma-tuý mại dâm buôn lậu hàng gian hàng giả trốn thuế nhà nước, cũng như đem phụ-nữ trẻ em bán ra nước ngoài số lượng lên đến hàng ngàn người. Gây hoang-mang bức xúc, nhức nhối và đau khổ cho gia-đình bị hại, và còn nhiều chuyện khác v.v. không thể kể ra hết được.
-Nông đân chất phác như chúng tôi và tất cả toàn đân nghe nhìn trên đài báo thấy rất buồn, mất hết lòng tin.
Những đối tượng nguy hiểm trên đây làm băng hoại xã-hội, nghèo nàn đất nước. Gây tội lổi lên tận mây xanh.
Công quỹ nhà nước là bởi mồ hôi, xương máu, nước mắt của nhân-dân, nông-dân đóng góp lâu dài mới có. Khi bị C.A. phát-giác, hoặc thuộc hạ tố cáo việc sai phạm đổ bể, một số có thân-thế họ hạ cánh an-toàn, một vài vụ xui quá mới bị pháp luật xử án phạt tù mười năm, hai nươi năm, hoặc có chung thân đi nữa, qua một thời gian ngắn rồi các vị lãnh đạo cấp cao làm việc trong chính phủ năm năm, mười năm già yếu cũng phải mãn nhiệm kỳ về hưu. Khi mãn nhiệm, hết quyền lực. Đồng-Chí khác lên thay thế cũng hô hào đổi mới, chống tiêu cực tham nhũng, có lòng trung với Đảng, hiếu với dân, cũng yêu quý tôn thờ Bác càng nhiều càng tốt. Tội phạm lặng lẽ, êm đềm, đêm tối vượt ngục, đem gia-đình đi tìm nơi xa lạ lánh mặt sinh sống vương giả hợp lệ hợp pháp, trong bản địa chẳng ai hay. Sự việc đã năm bảy năm phôi-phai đi rồi, chỉ có trời mới biết. Dân chúng lo làm ăn sinh sống, ai còn để ý làm gì ba chuyện hôi nách ấy.
Thành ra cứ nhìn mặt nhau mà tham nhũng liên tục, nên tệ hại nầy cứ vẩn tồn tại mãi mãi. Miệng thì hô hào bài trừ tham-nhũng, bài trừ buôn lậu, ma túy v.v. mà thấy các cơ quan chức năng có tích cực bài trừ tối đa để giảm bớt gì đâu. Hàng ngày thấy càng nổi cộm. Có thể kẻ gian họ dựa vào một thế lực nào đó tầm cỡ quyền lực ngang T.T.BUS. Rât tinh-vi, xảo quyệt bí mật bao che kẻ xấu ngang nhiên hành động vô tội vạ. Nên cơ quan chức năng con mắt thịt khó phát hiện để tiểu trừ. Kiểu này phải mời đến Lão Tôn học trò Đường-Tăng dùng phép thần thông biến hoá và thiết trượng đập vở gáo, hay là ông Thiên-Lôi của Ngọc-Hoàng Thượng-Đế xách búa tài-xồi xuống trần gian ra tay một phen trừ khử để cứu độ toàn dân và nhà nước. May ra mới yên ổn. Còn để lũ Yêu Quái này khoáy động nhũng nhiễu mãi, thử hỏi làm sao đất nước phát triển nhanh chóng lên được.
Chương VI.- HÀNH ĐỘNG VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA CÁC VỊ LÃNH ĐẠO TRUNG ƯƠNG ĐẾN ĐỊA PHƯƠNG CỦA THẾ HỆ TƯƠNG LAI.
a.- Lãnh đạo trung-ương.
Làm lãnh-đạo cao cấp của Trung-Ương tương lai. Muốn được nhân dân ủng-hộ, thế-giới kính nể. Tâm phải trong sáng, không tham vọng bất chính, cuộc sống giản-dị, bao-dung mà dũng-cảm, biết hy-sinh quên mình, hành động theo đạo-đức, chân-lý có chính-nghĩa đường lối cách mạng, hết lòng vì dân, vì Tổ-Quốc. Thưởng phạt phân minh. Tranh đấu cho nước nhà được độc-lập tự do toàn vẹn lâu dài, đưa đến văn-minh, phú cường.
Người làm vị nguyên thủ lãnh-đạo cấp cao, phải học hỏi suốt đời về văn hoá, ngoại ngữ, khoa-học, đạo-đức, triết lý Đông,Tây, cho đến bốn năm chục tuổi, thấu hiểu cao sâu, nhìn xa trông rộng có kinh nghiệm, bản-tính nhân-hoà . Có bằng cử-nhân hay Tiến-sỹ, Thạc-Sỹ cao-học chính-quy. Khi ra ứng cử làm lãnh đạo, mới là vị lãnh-đạo tài-ba, sáng-suốt, lý-tưởng và chân-chính. Mới là con cháu của Bác Hồ giống như Bác.
b.- Lãnh đạo địa phương.
Làm việc lãnh đạo cấp thủ trưởng từ cơ quan, ban ngành trở lên cấp Tỉnh và Thành-Phố, có quyền lực trong tay là rất khó. Phải có văn hoá, tài, đức. Tâm trong sáng, sống giản-dị bao-dung, luôn luôn nghĩ ra sáng kiến mới, có giá-trị mà phù hợp với thời thế, đệ trình lên thượng cấp cùng nhau thực-hành.
Quan tâm công việc hàng ngày, đời sống và gia-đình của thuộc hạ, để thưởng phạt phân minh, nên thường tìm hiểu tâm-tư nguyện-vọng của toàn dân, để cập nhật thực thi đúng đường lối Cách-Mạng, có tinh thần nâng đỡ, bớt gây phiền hà cho dân. Tiếp tục đổi mới, đưa cơ-quan làm việc theo công nghệ thông tin khoa-học văn-minh hiện đại, công việc hoàn thành nhanh chóng có chất lượng. Xã hội của địa phương mình và đất nước tiến lên giàu mạnh.
Người có đảng, ít học hành, lo lót tiền bạc mua bằng cấp dổm, thiếu tài đức, tâm không trong sáng, ra làm lãnh-đạo lại càng nguy hiểm hơn. Tôi nhìn thấy như cha con V.C.T ở xã B. Huyện T. Tỉnh Đ. Không nên bổ-nhiệm hoặc bầu cho các mgười dốt nát tham lam lên làm cán bộ. L. Đạo là hư bột hư đường.
c.- Khả năng người làm cấp lãnh đạo, nói chung từ Trung-ương đến hạ tầng cơ-sở địa phương.
Ví dụ: 1.- Như người lèo lái một con thuyền chở hàng hoá nặng, đang đi lên ngược giòng, phải có tâm trong sáng, trí-tụê siêu- việt, nghị-lực dũng-cảm và chuyên-môn giỏi, luôn luôn có tư-tưởng đạo-đức cách-mạng. Mới đưa con thuyền lên tầm cao mới một cách an toàn, đến nơi đến chốn. Nếu ai không đủ yếu tố trên, thì làm nhân viên, công nhân cũng tốt. Tham lam danh lợi mà làm lãnh-đạo, có khi thuyền không đi lên được, bị dừng tại chổ rồi trôi lui ra biển Đông chìm đắm thì nguy to, thật là hại dân hại nước, có thể gây hậu quả khôn lường. Cái gương của Lãnh-Đạo chế độ củ miền Nam vẫn còn trơ trơ ra đó.
2.- Làm lãnh-đạo tài ba cũng như người làm nghệ-thuật giỏi.
Trong phim tuyện vua Càn-Long của Trung-Quốc có ba nhân vật tiêu biểu. Vua Càn-Long, Tể-Tướng Lưu-Dung, trung thần. Quan Cận-Thần Hòa-Thân, nịnh thần là thật. Những người nghệ-sỹ nhập vai thì giả, mà diển xuất giống như thật, thế mới hay, mới tài.
Cổ nhân thường dạy:
- (Làm cái gì phải giống cái đó).
Làm người thì phải giống người. Làm Lãnh-Đạo phải giống cấp Lãnh-Đạo tài ba như Bác. Nhân vì diễn xuất “giống” do đó được sự hưởng ứng của người xem. Đây là không phải một sự cảm ứng đó sao? Có người nói “cuộc đời như sân khấu”. Quả thật là như thế. Chúng ta cũng tuỳ sự biến đổi trên vũ-đài không gian thời gian mà làm. “Cái gì phải giống cái đó” rất cần thiết chớ vì sự không tròn trách nhiệm của mình, mà làm hư hết bầu không khí của sân khấu để mình, người đều thất vọng ảo não thở than.
d.- Nên tự kiễm.
Các vị cán bộ lãnh đạo tài ba trung với đảng, hiếu với dân, chưa mắc phải khuyết điểm nên luôn luôn kiểm tra tâm mình thấy có ý nghĩ sai, nên mạnh mẽ chỉnh đốn giữ tâm từ-bi, trong sạch luôn học hỏi nâng cao kiến-thức, tài đức. Để phục-vụ cùng nhau đưa đất nứơc đến vinh-quang.
Chương VII.- Đoạn kết: Tôi viết tác phẩm này nói lên những lời tâm-đắc, tâm-nguyện và tâm-huyết của Nông Dân chất-phác ước mong có ba mục đich:
1.- Để dóng lên một hồi chuông thức tỉnh hoàn toàn người đang lãnh-đạo và người sắp được bầu hoặc bổ nhiệm làm lãnh đạo trong tương lai của các Bộ Ngành. Từ Trung-Ương cho đến địa phương. Nói chung phải luôn giữ tâm trong sáng, bão vệ Tổ-Quốc, phục-vụ nhân-dân hết lòng, sống giản-dị đạo-đức chân-chính noi gương Bác Hồ, đưa đất nước lên tầm cao mới. Xã hội chúng ta được sống công bằng giàu sang. Mới được toàn dân cãm ứng tấn phong Danh-Hiệu vị Lãnh-Đạo Chân-Chính, Anh-Minh, Tài-Ba, Đạo-Đức.
2.- Khuyến-khích con cháu Sinh-Viên tuổi trẻ đang học, hay đã thành đạt ra đời tự lập trên toàn quốc, noi gương các bậc danh nhân tiền bối đạo đức tài ba, cố gắng tiếp tục học hỏi thêm văn-hoá, khoa-học, đạo-đức, học bạn, học đời rút kinh nghiệm nâng cao sự hiểu biết để làm việc. Theo sự biến chuyển của thời gian, tre tàn măng mọc.
Có câu: “Quan nhất thời dân vạn đại”. Sớm muộn cũng đến lớp Thanh-Niên các anh các chị đứng ra phục vụ xã-hội, Tổ-Quốc sống có kiến thức văn hoá đạo-đức, hành mới ích Quốc lợi Dân.
-Những thành phần Thiếu-Niên còn đang tuổi ăn học nhờ vã bố mẹ. Chớ nên mê ăn, mê chơi đua đòi theo kẻ xấu thoái-hoá đạo đức. Làm lu mờ truyền-thống bản-sắc văn-hoá của Dân-Tộc V.N
Đất nước chúng ta tương-lai được phát triển lên giàu mạnh ngang hàng với cường quốc năm châu hay không? Cũng hy vọng vào sự thông minh học hành tuổi trẻ của các em, các cháu. Khi đã lớn khôn thành đạt, biết sống trong sạch, đẹp đời tốt đạo, mới làm cho dân giàu nước mạnh xã hội thật sự công-bằng dân-chủ văn-minh.
3.- Có thể xin tất cả quý vị độc giả cho phép tôi đóng góp văn học một tí bằng hạt bụi, để xây dựng đất nước và làm chuyển-hoá lòng tham sân si. Thành trong sạch, hiền lương và sáng suốt. Để xoa dịu nỗi khổ trầm-luân của con người. Cùng nhau sống hoà-thuận, đoàn kết đại doàn kết, chung sức đưa đất nước chúng ta đến giàu mạnh vinh quang, ngang tầm cỡ quốc tế. Sống xã-hội văn-minh, thịnh-vượng, hoà-bình trường cửu và toàn dân được sung-sướng hạnh-phúc lâu dài.
Làm đẹp cho đời là điều không phải khó khăn xa xôi. Nên chung tay vì cộng đồng, cần có tâm, có chí, chịu học hỏi, trau dồi tài, đức mọi người nam, nữ chúng ta đều có quyền bình đẳng, tinh-thần khả-năng, tự do đi bầu cử, ra ứng cử, nhân dân tín nhiệm thì được làm Nguyên-Thủ Lãnh-Đạo đất nước như thường.
(*)-Chiến đấu có hai cách, chiến đấu với địch, chiến đấu bản thân. “Tu tâm sửa tánh”.
HẾT
Tác giả Phan-Vinh.
Viết xong bản thảo ngày 29-06-2008.
MUC LUC
1Hồi ký
2Ông Ba cang
3Truyện con rồng
4Tình yêu hôn nhân
5Tình nghĩa bạn bè
6Bài điếu văn
7Mối tình chung thủy Cô Hòan
8 Hạnh phúc gia đình
9 Những lời tâm huyết