Sông Xanh
03-02-2009, 12:33 PM
Niềm thương vỡ suốt hương chiều
Để con chim mộng hót nhiều làm sao...
------------------------------------------
"Trong số những người có mặt tại pháp hội vào năm 1921 là Kyabje Trijang Dorje Chang (1901-1981) một trong những đệ tử thân cận Pabongka Rinpoche, về sau là thầy giáo đạo cho đức Dalai Lama thứ 14 và là bổn sư của nhiều lạt ma thuộc phái mũ vàng (Gelug) đào thoát khỏi Tây Tạng vào năm 1959."
"Năm 1921, khoảng bẩy trăm tăng ni cư sĩ tụ họp tại am thất Chuzang gần Lhasa để nghe pháp tu Lam-rim do bậc thầy Kyabie Pabongka Rinpoche giảng. Suốt ba tuần lễ kế tiếp họ được hấp thụ những thời pháp nổi tiếng nhất đã từng được giảng ở Tây Tạng."
VÀO ĐỊA NGỤC nhưng MAU THÀNH PHẬT
http://farm2.static.flickr.com/1412/1229892626_960cecea5e.jpg
Paradise for lotus by Keiko
Giọng đọc Phạm Thùy Dương
Audio: http://www.supload.com/listen?s=oM9ATG
Khi bạn đặt nỗ lực chính của mình vào ba môn học tăng thượng thì bạn chỉ có thành tựu được trạng thái giải thoát cho riêng mình, và chỉ chấm dứt được sinh tử riêng mình. Điều này chưa đủ tốt lành: bạn mới chỉ được một phần tự lợi và lợi tha, vì bạn chưa từ bỏ tất cả những gì cần phải từ bỏ và cũng chưa đạt đến tất cả những đức tính cần đạt. Về sau, bạn còn phải vào Đại thừa ở mức căn bản nhất. Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã nói:
Luôn luôn từ bỏ nhị thừa
Không thể làm lợi ích cho thế gian
Và đi vào Cỗ xe Thiến thắng
Giáo lý đầy từ mẫn
Mà bản chất chính là lợi tha.
Geshe Potowa nói:
Đừng quay về lối cũ trên đường dài!
Hãy đi ngay từ đầu vào Đại thừa đạo.
Điều ấy cũng như phải qua sông hai lần. Nhưng còn hơn thế nữa. Những bậc la hán kinh quá một hỉ lạc bất khả tư nghì khi họ nhập vào cõi thanh tịnh đến nỗi họ ở mãi trong định an chỉ ấy trong nhiều kiếp không bao giờ muốn từ bỏ nó. Trong lúc ấy, có người đã từng sống ở địa ngục có thể đạt được thân người thuận lợi, đi vào đạo lộ đại thừa và dùng cùng một số lượng thời gian ấy để giác ngộ. Như vậy những vị La hán tự đặt mình cách xa một khoảng rất lớn với quả vị Phật. Giả sử có người đã học đại thừa, phát sinh tâm ưa thích, nhưng lại bị tái sinh vào địa ngục vì có tà kiến. Một người như vậy sẽ thành Phật mau lẹ hơn một người lúc đầu có khuynh hướng đại thừa, nhưng về sau lại đi vào đạo lộ tiểu thừa rồi chứng A la hán quả. Vậy tốt hơn nên làm hạng người thứ nhất.
Ví dụ, khi bậc thanh văn Ca Diếp đang giảng dạy về Pháp Tiểu thừa, có sáu mươi tỷ kheo đáng lẽ sẽ đắc quả A la hán, nhưng Đức Văn Thù liền đi đến nơi họ và dạy cho họ pháp Đại thừa. Giáo lý này quá sức họ, họ phát sinh tà kiến và rơi vào địa ngục. Ca Diếp hỏi đấng Đạo sư chúng ta về việc ấy, và Phật trả lời: “Đấy là phương tiện khéo của Văn Thù! Thật là một giáo lý tuyệt hảo.”
Cũng thế, khi chư Phật dạy các vị A la hán thuộc các đạo lộ Thanh văn và Duyên giác ra khỏi định an chỉ đầy hỉ lạc của họ, họ không nỗ lực phát triển những đức như bồ đề tâm trong dòng tâm thức vì họ đã quen thuộc với hỷ lạc của trạng thái an chỉ. Dù nổ lực, họ cũng khó thấy lòng bi mẫn, vân vân, vì họ đã thoát khỏi nỗi khổ riêng của họ.
Hai đại đệ tử của Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên nói: “Đấng đạo sư đã dạy về đạo lộ Đại thừa và quả báo Đại thừa. Những điều này thực kỳ diệu, nhưng chúng ta giống như những khúc gỗ đang cháy: chúng ta đã không thể làm nhiều hơn. “Nhưng hãy để ý: điều này không thực áp dụng cho những người như bậc thánh Xá Lợi Phất, vì đấy là những hóa thân của chư Phật dưới dạng Thanh văn. Lời nói này ám chỉ những hạng Thanh văn thực thụ, những người quả có chướng ngại lớn cho sự đắc quả vô thượng bồ đề.
Bởi thế, khi ta đã đạt vài tuệ giác đi sâu vào sự từ bỏ, thì phải mau mau quyết định bước vào đạo lộ đại thừa.
Trích @: http://www.thuvienhoasen.org/giaithoattronglongtay-00.htm
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
Pabongka Rinpoche
Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải
Để con chim mộng hót nhiều làm sao...
------------------------------------------
"Trong số những người có mặt tại pháp hội vào năm 1921 là Kyabje Trijang Dorje Chang (1901-1981) một trong những đệ tử thân cận Pabongka Rinpoche, về sau là thầy giáo đạo cho đức Dalai Lama thứ 14 và là bổn sư của nhiều lạt ma thuộc phái mũ vàng (Gelug) đào thoát khỏi Tây Tạng vào năm 1959."
"Năm 1921, khoảng bẩy trăm tăng ni cư sĩ tụ họp tại am thất Chuzang gần Lhasa để nghe pháp tu Lam-rim do bậc thầy Kyabie Pabongka Rinpoche giảng. Suốt ba tuần lễ kế tiếp họ được hấp thụ những thời pháp nổi tiếng nhất đã từng được giảng ở Tây Tạng."
VÀO ĐỊA NGỤC nhưng MAU THÀNH PHẬT
http://farm2.static.flickr.com/1412/1229892626_960cecea5e.jpg
Paradise for lotus by Keiko
Giọng đọc Phạm Thùy Dương
Audio: http://www.supload.com/listen?s=oM9ATG
Khi bạn đặt nỗ lực chính của mình vào ba môn học tăng thượng thì bạn chỉ có thành tựu được trạng thái giải thoát cho riêng mình, và chỉ chấm dứt được sinh tử riêng mình. Điều này chưa đủ tốt lành: bạn mới chỉ được một phần tự lợi và lợi tha, vì bạn chưa từ bỏ tất cả những gì cần phải từ bỏ và cũng chưa đạt đến tất cả những đức tính cần đạt. Về sau, bạn còn phải vào Đại thừa ở mức căn bản nhất. Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã nói:
Luôn luôn từ bỏ nhị thừa
Không thể làm lợi ích cho thế gian
Và đi vào Cỗ xe Thiến thắng
Giáo lý đầy từ mẫn
Mà bản chất chính là lợi tha.
Geshe Potowa nói:
Đừng quay về lối cũ trên đường dài!
Hãy đi ngay từ đầu vào Đại thừa đạo.
Điều ấy cũng như phải qua sông hai lần. Nhưng còn hơn thế nữa. Những bậc la hán kinh quá một hỉ lạc bất khả tư nghì khi họ nhập vào cõi thanh tịnh đến nỗi họ ở mãi trong định an chỉ ấy trong nhiều kiếp không bao giờ muốn từ bỏ nó. Trong lúc ấy, có người đã từng sống ở địa ngục có thể đạt được thân người thuận lợi, đi vào đạo lộ đại thừa và dùng cùng một số lượng thời gian ấy để giác ngộ. Như vậy những vị La hán tự đặt mình cách xa một khoảng rất lớn với quả vị Phật. Giả sử có người đã học đại thừa, phát sinh tâm ưa thích, nhưng lại bị tái sinh vào địa ngục vì có tà kiến. Một người như vậy sẽ thành Phật mau lẹ hơn một người lúc đầu có khuynh hướng đại thừa, nhưng về sau lại đi vào đạo lộ tiểu thừa rồi chứng A la hán quả. Vậy tốt hơn nên làm hạng người thứ nhất.
Ví dụ, khi bậc thanh văn Ca Diếp đang giảng dạy về Pháp Tiểu thừa, có sáu mươi tỷ kheo đáng lẽ sẽ đắc quả A la hán, nhưng Đức Văn Thù liền đi đến nơi họ và dạy cho họ pháp Đại thừa. Giáo lý này quá sức họ, họ phát sinh tà kiến và rơi vào địa ngục. Ca Diếp hỏi đấng Đạo sư chúng ta về việc ấy, và Phật trả lời: “Đấy là phương tiện khéo của Văn Thù! Thật là một giáo lý tuyệt hảo.”
Cũng thế, khi chư Phật dạy các vị A la hán thuộc các đạo lộ Thanh văn và Duyên giác ra khỏi định an chỉ đầy hỉ lạc của họ, họ không nỗ lực phát triển những đức như bồ đề tâm trong dòng tâm thức vì họ đã quen thuộc với hỷ lạc của trạng thái an chỉ. Dù nổ lực, họ cũng khó thấy lòng bi mẫn, vân vân, vì họ đã thoát khỏi nỗi khổ riêng của họ.
Hai đại đệ tử của Phật là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên nói: “Đấng đạo sư đã dạy về đạo lộ Đại thừa và quả báo Đại thừa. Những điều này thực kỳ diệu, nhưng chúng ta giống như những khúc gỗ đang cháy: chúng ta đã không thể làm nhiều hơn. “Nhưng hãy để ý: điều này không thực áp dụng cho những người như bậc thánh Xá Lợi Phất, vì đấy là những hóa thân của chư Phật dưới dạng Thanh văn. Lời nói này ám chỉ những hạng Thanh văn thực thụ, những người quả có chướng ngại lớn cho sự đắc quả vô thượng bồ đề.
Bởi thế, khi ta đã đạt vài tuệ giác đi sâu vào sự từ bỏ, thì phải mau mau quyết định bước vào đạo lộ đại thừa.
Trích @: http://www.thuvienhoasen.org/giaithoattronglongtay-00.htm
GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
Pabongka Rinpoche
Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải