PDA

View Full Version : Lão Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam Khai Thị



gioidinhhue
03-27-2009, 04:56 AM
hị Phương pháp công phu chánh cố nhiên là thẳng tắt nhanh chóng, nhưng chúng sinh từ vô thỉ kiếp đến nay phiền não tập khí sâu dày, vọng niệm lăng xăng. Nay muốn dùng một câu danh hiệu Phật bỗng chốc ép buộc khiến chẳng tạo nghiệp, không vọng tưởng, hoàn toàn chẳng phải trong thời gian ngắn mà có thể làm được, nên cần phải phụ vào công phu trợ hạnh. Nếu có thể hằng ngày tỉnh xét lầm lỗi của mình, thành tâm sám hối, khiến cho tiêu trừ nghiệp chướng; còn thấy người khác làm lành thì vui theo khen ngợi, để tăng phước đức. Sám hối, tùy hỷ, như thế đều hồi hướng vãng sinh Tây Phương, đó là phần thứ nhất trong trợ hạnh.

Cư sĩ Lý Bỉnh Nam
Người tu Tịnh độ đều biết “muôn người tu, muôn người vãng sinh”, đó là lời nói của Tổ sư quyết không sai lầm. “Tu” là y theo pháp của pháp môn Tịnh độ mà tu, chỉ cho phần chánh hạnh và trợ hạnh.
Chánh hạnh là công phu căn bản, chỉ niệm sáu chữ Hồng danh (Nam mô A di đà Phật). Ai cũng biết niệm, người không học Phật cũng biết niệm, nhưng chẳng biết ý nghĩa. Nay xin giải thích sơ lược:
1. Một câu Nam mô A di đà Phật là Pháp giới Tàng thân, bao quát cả chư Phật khắp mười phương ba đời.
2. Một câu Nam mô A di đà Phật, bao quát hết ba tạng và mười hai bộ kinh, ngay một chữ “A” đã gồm thâu pháp của toàn bộ Tam tạng.
3. Sáu chữ Hồng danh là vua trong các câu chú. Sáu chữ Nam mô A di đà Phật là bí mật không phiên dịch, đều chẳng phải văn tự Trung Hoa. Pháp này cao tột, hơn trì bất cứ lời chú nào.
4. Học Phật nên tu định. “Hoa Nghiêm Đại Định” tức là “Di đà Đại Định”. Nhất tâm không loạn tức là định, được nhất tâm là thành công, đó là chỗ tuyệt diệu của pháp môn Tịnh độ.
Niệm Phật là công phu chánh, có thể hiển bày Bản tánh Chân như. Niệm Phật được nhất tâm, tâm sáng tánh tỏ thì thành công. Sáu chữ Hồng danh Nam mô A di đà Phật tức là bản tánh của ông, bản tánh tức là tâm của ông, tâm ông chính là Phật, Phật chính là tâm ông. Tâm và Phật vốn là một, vì bị vô minh che đậy nên Phật là Phật, tâm là tâm, đem tâm và Phật phân làm hai đều do ông tự tạo. Nay ông niệm Phật, chính là hiển bày bản tánh của ông. “Phật mười phương ba đời cùng đồng một Pháp thân”, Phật quá khứ có Pháp thân, Phật vị lai cũng có Pháp thân, Phật vị lai chính là chúng ta, chúng ta và Pháp thân Phật Thích ca, Di đà là một chẳng phải hai. Niệm Phật là khai mở hiển bày bản tánh, là công phu chánh.
Tâm tánh chúng ta bị vô minh che lấp, không phải dễ hiểu rõ vô minh. Nói cách khác, vô minh chính là việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm, tham lam, nóng giận, si mê mà hằng ngày chúng ta làm. Tu là trừ bỏ vô minh này, chẳng gây tạo nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm; chẳng khởi tham lam, nóng giận, si mê, làm cho bản tánh tỏa sáng, đó là tu.
Người thường vừa niệm Phật vừa nhiễm vô minh, làm sao có thể rõ tâm thấy tánh? Cho nên, phải dùng trợ lực diệt trừ sát sinh, trộm cắp, tà dâm, tham lam, nóng giận, si mê. Trợ tu như thế nào? Tuy không rõ Phật pháp, chỉ cần phân biệt được thiện ác và hiểu rõ hai câu thì được. Hễ là việc xấu đừng làm, đó là “không làm các điều ác”, dù cho nhẫn không được cũng cắn răng quyết không làm điều ác. Tìm việc lành để làm, ban đầu phải gắng sức mà làm, đó là “thực hành các việc lành”. Làm lành bỏ dữ, giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt, đó là phương pháp trợ giúp công phu chánh để trừ bỏ vô minh, cho nên gọi là trợ hạnh. Trợ hạnh nói rộng ra là tu Sáu pháp Ba-la-mật, nhưng khó hiểu không cần nói. Hễ làm việc ác dù tặng ông mười muôn cân kim cương cũng không làm, đối với điều lành dù bị bất cứ trở ngại nào cũng phải làm, hai điều đó là “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, chẳng gây tai ương mới”. Thường ngày, gặp điều lành thì làm, gặp việc ác thì bỏ. Nếu khi niệm Phật thì buông bỏ muôn duyên, vừa khởi niệm ác liền dùng một câu Nam mô A di đà Phật đè bẹp chúng, thâu nhiếp ba nghiệp thân, miệng, ý an trụ. Y theo đó mà làm, lâu ngày có thể thành công, cho nên nói: “Muôn người tu, muôn người vãng sinh”Th
Kiết thất là ở chỗ hạn định thời gian để cầu chứng đắc. Tu pháp môn niệm Phật Tịnh độ phải được nhất tâm không loạn mới có thành tựu. Kiết thất niệm Phật bảy ngày, nếu công phu tốt, niệm một ngày liền được nhất tâm. Đây phải là người niệm Phật nhiều năm, còn phải hiểu rõ giáo lý mới có thể thành tựu. Hạng kế đó hai, ba, bốn, năm, sáu ngày không nhất định. Hạng sau nữa niệm đến bảy ngày mới chứng nhất tâm. Ở đây là từ việc vào thất tu Tịnh nghiệp bảy ngày mà nói, ngày đêm niệm Phật không ngừng, trong bảy ngày liền có thể trừ kiến hoặc và tư hoặc; chỉ có đoạn kiến hoặc, tư hoặc mới thật sự được nhất tâm. Song, đoạn trừ kiến hoặc tư hoặc rất khó, nên có phương pháp đặc biệt, trước mong điều phục vọng hoặc mà thôi. Ngay khi khởi hoặc, dùng danh hiệu Phật điều phục nó, công phu thuần thục hoặc khởi liền điều phục ngay. Như thế là được Tương tợ nhất tâm, cũng có thể còn nghiệp mà vãng sinh. Nay y theo thứ lớp nói sơ lược về pháp tu chánh và trợ của Tịnh độ.
* Trước tiên nói về công phu chánh:
Trong bảy ngày cần phải luôn luôn giữ lòng cung kính. Vừa vào cổng chùa liền xem đồng như thấy Phật. Nên biết Pháp thân Như Lai khắp cả chỗ nơi, không chỉ tượng Phật trên đại điện mới xem là Phật mà thật ra mỗi sắc mỗi hương đều là sắc vi diệu, tâm vi diệu của Phật. Như thế nơi mình ở, mỗi mỗi xem là Phật, vậy thì lời nói và hành động tự nhiên cung kính không còn lười biếng. Cung kính là bí quyết tiến đến Bồ đề. Đây là tầng công phu thứ nhất.
Đã ngồi yên định nên buông bỏ muôn duyên, quét sạch mọi vọng niệm tạp sự trong thường ngày, sau đó thâu nhiếp tâm một nơi, buộc vào một câu Hồng danh. Ví như ghe thuyền trên dòng nước chảy xiết, buộc vào cây cọc thì không bị trôi mất. Đây là tầng công phu thứ hai.
Khi trì danh cần phải đem sáu chữ Hồng danh này, từ tâm phát khởi, từ miệng niệm ra, từ tai nghe vào, ví như ba bánh xe xoay vần tới lui, cốt phải tâm tưởng rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng, tai nghe rành rẽ rõ ràng. Như thế, tự niệm tự nghe, mỗi chữ mỗi chữ thành khẩn, chớ để đánh mất một câu. Đó là tầng công phu thứ ba.
Vả lại, khi chúng ta niệm Phật, chẳng luận miệng niệm hay ý trì, nên khiến cho hoàn toàn không có xen tạp những âm thanh khác, chỉ còn tiếng Phật hiệu. Vì Pháp thân Phật Di-đà khắp tất cả chỗ nơi, ánh sáng của Phật cũng cùng khắp tất cả chỗ nơi, nên khi niệm Phật từ ta mà phát ra tiếng nơi tâm, tiếng nơi tâm vào trong ánh sáng của Phật, ánh sáng của Phật vào trong tiếng nơi tâm, như thế tiếng nơi tâm và ánh sáng của Phật giao dung thì ta tức là Phật A di đà, Phật A di đà tức là ta. Đó là tầng công phu thứ tư.
Y theo những điều nói trên tinh tấn tu hành, tiến vào từng tầng, khiến cho nghiệp lực tiêu mòn, đạo lực tăng trưởng, đợi đến tầng thứ tư tức là ngày thành công nhất tâm.
* Kế đến nói về công phu trợ:
Phương pháp công phu chánh cố nhiên là thẳng tắt nhanh chóng, nhưng chúng sinh từ vô thỉ kiếp đến nay phiền não tập khí sâu dày, vọng niệm lăng xăng. Nay muốn dùng một câu danh hiệu Phật bỗng chốc ép buộc khiến chẳng tạo nghiệp, không vọng tưởng, hoàn toàn chẳng phải trong thời gian ngắn mà có thể làm được, nên cần phải phụ vào công phu trợ hạnh. Nếu có thể hằng ngày tỉnh xét lầm lỗi của mình, thành tâm sám hối, khiến cho tiêu trừ nghiệp chướng; còn thấy người khác làm lành thì vui theo khen ngợi, để tăng phước đức. Sám hối, tùy hỷ, như thế đều hồi hướng vãng sinh Tây Phương, đó là phần thứ nhất trong trợ hạnh.
* Tiếp theo là pháp ưa thích và chán nản:
Trong sinh hoạt hằng ngày, chẳng luận ăn mặc, đi đứng, nói chung mọi thứ nơi Ta bà đồng loạt đều xem là ô uế, chán nản muốn xa lìa, mọi thứ vui cùng tột được nói trong ba kinh Tịnh độ đều xem là thanh tịnh mà ưa thích hâm mộ.Chán nản muốn xa lìa thì không có tâm tham luyến; ưa thích, hâm mộ tự nhiên tâm thêm nguyện cầu sinh. Đợi đến khi ưa thích và chán nản cùng cực thì thân tuy cư ngụ nơi Ta bà mà đã chẳng phải là kẻ khách ở lâu nơi Ta bà, tuy chưa lên Cực Lạc sớm đã dự vào hàng khách quý nơi Liên Bang. Đó là bí quyết vi diệu của Tịnh tông, là phần thứ hai trong trợ hạnh.
Hơn nữa, có pháp phương tiện điều phục vọng hoặc: phải biết người niệm Phật không được nhất tâm, là do vọng niệm làm rối loạn. Vọng niệm chính là hoặc, cũng chính là ma. Kinh Niết bàn nói: “Bậc Tu đà hoàn đoạn trừ kiến hoặc như ngăn chặn dòng sông bốn mươi dặm”, nên biết muốn mong cầu đoạn dứt ngay thật không phải dễ. Nay chính là phương pháp điều phục vọng hoặc tạm thời. Cổ đức nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, nếu có thể niệm khởi liền giác, vừa giác liền dùng danh hiệu Phật trấn áp. Như thế, ma đến thì Phật trấn áp, ví như lấy đá đè cỏ, lâu ngày vọng hoặc tự nhiên không còn khởi, cũng được phương tiện nhất tâm, đợi đến sau khi về Tây lại tiếp tục đoạn trừ vọng hoặc. Đó là phương pháp đặc biệt của Tịnh độ, là phần thứ ba trong trợ hạnh.

Trích dẫn "Phật học trong toàn tập"
của Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam

gioidinhhue
04-02-2009, 08:30 AM
Phần 8 : Tri Ân Báo Ân
Hôm nay có vị đồng tu đưa ra câu hỏi : « Làm cách nào để siêu độ thân bằng quyến thuộc của mình ? » Cho thấy đây là một vấn đề quan trọng, được nhiều người quan tâm đến. Những người đã chết, niềm mong mỏi tha thiết duy nhất của họ là trông nhờ vào sự giúp đỡ của con cháu. Do đó con cháu cần phải tu học Phật Pháp, theo đúng phương pháp của Phật đã dạy để tu hành, đây là cách thức giúp đỡ có hiệu quả nhất.

Nhưng trong Phật Pháp có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, mà pháp môn trì danh niệm Phật là phương pháp dễ tu và mau chóng đạt được kết quả nhất. Nếu chúng ta thật sự phát tâm muốn cứu thân bằng quyến thuộc vĩnh viễn xa lìa ác đạo, thì chúng ta phải mạnh dạn bước vào niệm Phật đường, chân thật niệm Phật, đồng thời phải có tâm kiên cố.

Trong cuộc sống dầu có nhiều bận rộn, một tuần chúng ta phải đến niệm Phật đường một ngày. Niệm Phật vì ai ? Vì giúp đỡ thân bằng quyến thuộc hiện kiếp, cũng như thân nhân nhiều đời kiếp đã qua. Công đức này thật to lớn vô cùng. Hiện nay trong niệm Phật đường của chúng ta, mỗi tuần niệm Phật một lần 24 giờ. Một ngày như vậy, chúng ta hãy buông xả thân tâm vạn duyên thế giới bên ngoài, dùng tấm lòng chân thành thanh tịnh từ bi, đồng thời với tâm niệm báo ân để đến niệm Phật. Được như thế, việc niệm Phật của chúng ta mới mong kết quả tốt, và nhất là đối với ông bà, tổ tiên, cha mẹ đã quá cố của chúng ta sẽ được vô cùng lợi lạc, và công đức của chúng ta cũng thật là to lớn. Trong đây có người thắc mắc : « Làm sao biết được thân bằng quyến thuộc lúc nào thoát khỏi ác đạo ? » . - Xin thưa rằng : Ngay lúc quý vị phát tâm chân thành niệm Phật, họ lập tức thoát khỏi ác đạo. Bởi vì việc làm của quý vị chân thật không giả dối, thì liền được cảm ứng, chứ không phải chờ đến khi quý vị niệm Phật đến lúc công phu của quý vị thành khối họ mới được siêu thoát. Tuy nhiên nếu công phu của quý vị thành khối, nghĩa là tâm không xen tạp, không gián đoạn, có thể gọi là chứng tiểu quả, thì phước báo của họ sẽ được sanh lên thượng thiên đạo, tức là trời, người, a tu la.

Trường hợp công phu niệm Phật của quý vị không ngừng nâng cao, thì thân bằng quyến thuộc của quý vị sẽ không bao giờ trở lại ác đạo. Đến đây quý vị đủ hiểu rõ hai mặt lý và sự của công đức niệm Phật, rồi từ đây quý vị sẽ tự biết mình nên làm thế nào.

Khi phát tâm đền công ơn sâu dày đối với cửu huyền thất tổ, thân bằng quyến thuộc, thì pháp môn niệm Phật là điều rất tốt, tuy nhiên nếu không có ngoại duyên hỗ trợ, và vì nghiệp chướng tập khí của mình, thì công phu không được đắc lực. Một niệm Phật đường chân chính là một tăng thượng duyên giúp chúng ta tu hành. Duyên này rất thù thắng. Hôm qua có một vị đồng tu người Mỹ đến nói với tôi rằng : « Tôi vào niệm Phật đường thấy chung quanh đều có hình Phật, tôi có cảm giác như chính mình cũng là Phật » . Cảm giác này thật không sai. Điểm thù thắng khác nữa là ở niệm Phật đường là được mỗi ngày nghe giảng kinh thuyết pháp. Sau khi nghe và hiểu được nghĩa lý trong kinh, rồi siêng năng tu hành, đây gọi là giải hành tương ưng. Nếu một niệm Phật đường hằng ngày không được giảng kinh thuyết pháp, người niệm Phật không thể nào giải hành tương ưng được thì đa số dễ lạc vào hình thức niệm Phật. Như vậy hiệu quả sẽ khác nhau lắm.

Hiện nay có một số đạo tràng ở những nơi khác đến tham dự ỡ Phật Thất ữ và áp dụng phương thức niệm Phật ở đây vào đạo tràng của họ, thật là quý hoá vô cùng. Tôi hy vọng mỗi đạo tràng ở những nơi khác đều có thể xây niệm Phật đường, hầu giúp mọi người cùng nhau niệm Phật. Tuy nhiên một nhân tố cần thiết không thể thiếu, đó là phải hiểu rõ lý lẽ. Muốn hiểu rõ lý phải có người giảng kinh thuyết pháp không gián đoạn. Nếu quý vị không tìm được người giảng pháp, có thể đến đạo tràng của chúng tôi lấy băng về nghe. Mỗi ngày nên mở băng nghe hai giờ đồng hồ, như vậy niệm Phật đường của quý vị đối với chúng tôi không có sai khác. Công phu niệm Phật của chúng ta một khi đã thành khối, không những thân bằng quyến thuộc của kiếp này, thậm chí đến nhiều đời nhiều kiếp trước của chúng ta mà chúng ta không biết hoặc không thể nhớ, họ vẫn được siêu độ.

Nghĩ đến việc này, nếu chúng ta không siêng năng nỗ lực tu hành, chúng ta thật có lỗi với ông bà tổ tiên, thân bằng quyến thuộc vậy.

Do đó khi vào niệm Phật đường, chúng ta phải mang tâm tri ân báo ân để niệm Phật. Chính cái tâm này là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta tinh tấn không ngừng. Hôm nay những chúng sanh này vẫn còn kẹt trong ác đạo, không có khả năng giải thoát, nên họ hoàn toàn trông cậy ở chúng ta. Những người hiểu Phật Pháp, hiểu giáo lý chân thật nên giáo phụng hành. Không những giúp họ ra khỏi cảnh khổ, mà mọi tai kiếp hiện nay trên thế giới đều có thể hoá giải, có thể đạt đến chỗ quốc thới dân an như lời Phật nói. Cho nên, niệm Phật không phải chỉ vì mình mà thôi, mà còn vì thân bằng quyến thuộc, và vì tất cả chúng sanh.
Phần 9 : Giữ chánh niệm phục ma vương
Đa số chúng ta đều biết Phật có tướng hảo quang minh ; ma cũng có tướng hảo quang minh. Phước báo của Phật vô cùng to lớn ; phước báo của ma cũng không kém. Phật có hào quang kim sắc ; ma cũng có hào quang kim sắc. Tuy nhiên hào quang của Phật nhu hoà, khiến cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc đến có cảm giác nhẹ nhàng tươi mát, an ổn, vui vẻ, tự tại. Ma cũng có hào quang kim sắc, nhưng với ánh sáng chói lọi của ma, con người sẽ thấy sợ hãi không yên.

Tóm lại hào quang của ma so sánh với hào quang của Phật không có khác về hình tướng, chỉ có khác ở chỗ, sau khi con người tiếp xúc rồi, có những cảm giác hoàn toàn trái ngược nhau. Làm thế nào để tránh khỏi ánh sáng của ma, không bị ma làm tổn hại ?

Điều này hết sức quan trọng, chúng ta không thể không hiểu rõ. Phương pháp hữu hiệu nhất để đối phó là : Chúng ta phải luôn luôn giữ chánh niệm. Khi giữ được chánh niệm, chẳng những Ma không làm tổn hại được ; ngược lại sanh lòng tôn kính và hộ pháp.

Khi xưa đức Phật Mâu Ni khéo thị hiện tám tướng thành đạo, ma Ba Tuần đến và dùng mọi thủ đoạn uy hiếp cản trở, Đức Thế Tôn chánh niệm phân minh, như như bất động, sau cùng ma không còn cách nào để phá hại nữa, nên sanh lòng tôn kính bái phục, nguyện làm hộ pháp cho Ngài. Do đó tâm niệm của chúng ta cần phải tương ứng với Giới, Định, Huệ, ba môn học. Đây là phương thức quan trọng nhất để đối trị với sức cản trở lay động của Ma. Những người nào dễ bị ma làm tổn thương nhất ?

Xã hội ngày nay, những người tu học Phật Pháp, đặc biệt là giới thanh niên bị ma nhập rất nhiều. Những ai thích có thần thông cảm ứng đều dễ bị kết duyên với ma. Ma sẽ lợi dụng nhược điểm đó của quý vị, mà đến lay động quấy phá. Cho nên người tu học Phật Pháp trong thời đại này, cần phải có cảnh giác cao độ : Khi niệm Phật phải giữ tâm cho chân thật. Không nên mong cầu cảm ứng.

Trong kinh điển Phật dạy chúng ta như thế nào, chúng ta ngoan ngoản làm theo. Điều gì Phật dạy chúng ta không nên làm, chúng ta quyết định không làm. Phật dạy chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, thì chúng ta cầu sanh Tịnh độ. Phật dạy chúng ta liễu sanh thoát tử, thoát khỏi luân hồi, chúng ta tuyệt đối không luyến tiếc với lục đạo.Thuậntheo lời chỉ dạy của Phật, ma sẽ không làm gì được chúng ta. Giới trẻ ngày nay đa số muốn có thần thông, muốn có cảm ứng, nhưng đâu ngờ đã tự mình làm hư hoại đến tương lai tốt đẹp của chính mình. Thật là điều đáng tiếc vô cùng !

Quý vị nên hết sức thận trọng, nhất là phải có sự cảnh tỉnh đối với con cháu, bà con quyến thuộc, bởi vì trong lúc quý vị khởi tâm mong cầu thần thông cảm ứng, Ma liền có dịp giả hình dáng Bồ Tát, giả Phật A Di Đà để mê hoặc và lừa gạt dắt quý vị đi theo. Nhiều vị đồng tu lo rằng : Lỡ khi lâm chung Ma giả Phật A Di Đà đến rước thì sao ? Nếu chúng ta không phân biệt được giữa Ma với Phật, thì công phu niệm Phật nỗ lực tu hành bấy lâu sẽ chẳng còn gì !

Đối với điều này, xin quý vị hãy yên tâm. Ma tuy lường gạt người, nhưng nhất quyết chúng không thể giả dạng Bổn Tôn, tức Phật A Di Đà. Bởi vì Phật có thần hộ pháp. Khi chúng ta phát tâm chân thật niệm Phật đều được các vị thần hộ pháp bảo hộ cho chúng ta. Thần hộ pháp nhất quyết không dung thứ cho các loài yêu, ma quái giả dạng Bổn Tôn. Nếu chúng dám giả mạo sẽ bị tội nặng. Ngược lại, nếu chúng giả dạng các vị Phật khác đến gạt quý vị, chúng không phạm tội. Cho nên quý vị niệm Phật A Di Đà, đến lúc lâm chung nhất định phải chờ Phật A Di Đà đến tiếp dẫn. Nếu thấy Phật Thích Ca, Phật Dược Sư đến rước, đó đều là ma giả dạng lường gạt. Trong tình trạng như vậy, quý vị phải tập trung tinh thần hướng niệm hồng danh A Di Đà Phật, và mặc nhiên không thèm để ý đến, tức thời những hình ảnh đó sẽ tự biến mất.

Những kiến thức này hết sức quan trọng, quý vị nên lưy ý. Người niệm Phật thỉnh thoảng mơ thấy Phật A Di Đà, như vậy là công phu niệm Phật được cảm ứng. Nếu thường xuyên thấy Phật thì không đúng, đó là công phu có vấn đề. Nhiều người hỏi : « Trong lúc niệm Phật tôi thường nghe, thấy Phật A Di Đà, nay niệm Phật đã nhiều năm rồi lại không hề thấy, như vậy có phải tôi bị thối chuyển so với lúc ban đầu hay không ? » Trả lời : Cũng có thể thối chuyển nếu không bị thối chuyển cũng không nên thường xuyên mơ thấy. Thường xuyên mơ thấy là ma cảnh. Cho dù quả thật mơ thấy Phật cảnh hiện ra, cũng không nên sanh tâm chấp trước, sanh tâm tham và vui mừng. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có chỗ chỉ dạy cho chúng ta một phương pháp đối phó với ma cảnh như sau : Khi gặp cảnh giới hiện ra phải giữ tâm không để ý đến, không tìm hiểu sâu vào. Vì sao ? Bởi vì khi ma hiện ra, có nghĩa là công phu của quý vị đã đạt tới mức khả quan. Nếu không, ma chẳng thèm tới để làm gì ! Mục đích của chúng đến là để chướng ngại phá, cho chúng ta tan mất công phu tu tập và đạo tâm của quý vị. Cho nên ý nghĩa hồng danh A Di Đà Phật giúp chúng ta giữ tâm như như bất động trước ma cảnh. Ma cảnh là rất quan trọng mật thiết với công phu tu tập của chúng ta.
Phần 10 : Phát tâm bồ đề
Nếu chúng ta muốn ngay trong một kiếp này thật sự thành tự được công phu niệm Phật, thì lúc sử thế tiếp xúc với người và vật, cái tâm duy nhứt mà chúng ta cần phải có đó là chân tâm.

Khi bị người khác lừa dối hiếp đáp, chúng ta phải nghĩ như vầy : Đó là chuyện của họ, không dính dáng gì tới tôi cả. Việc của tôi là phải dùng tâm chân thật để đối xử lại. Vì sao ? Bởi vì tôi quyết định trong một kiếp này cầu vãng sanh Tịnh độ. Làm thế nào để cầu sanh Tịnh độ ? Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ : « Phát bồ đề tâm nhất hướng niệm Phật ». Nếu chúng ta không phát bồ đề tâm, chỉ nương vào nhất hướng chuyên niệm, kết quả không vãng sanh. Điều này chúng ta nên thận trọng.

Ngài Lý Bỉnh Nam nói : « Một vạn người niệm Phật, thật sự vãng sanh chỉ có vài, ba người ». Vì sao số người vãng sanh quá ít như vậy ? Vì không phát tâm bồ đề, nên tâm không thanh tịnh. Bởi tâm không thanh tịnh nên còn thị phi, nhân ngã, tham, sân, si, mạn, nghi. Những thứ này không tương ứng với thế giới Cực Lạc một chút nào. Tây phương Cực Lạc là nơi tụ hội của chư thượng thiện nhân, tức là chỗ của những người thiện lành bậc nhất. Cho dù chúng ta niệm Phật rất siêng năng đến đâu, hoặc một ngày có thể niệm đến trăm ngàn lần, nhưng tâm của chúng ta không thiện, làm sao có thể lên Tây phương ở cùng chỗ của các bậc thượng thiện nhân ?

Do đó phát bồ đề tâm quan trọng hơn cả việc nhất tâm chuyên niệm là như vậy. Người thật sự phát bồ đề tâm, khi lâm chung một niệm hoặc mười (10) niệm, quyết định sẽ được vãng sanh. Vì sao ? Vì họ đã là thượng thiện nhân rồi, đầy đủ phước đức rồi, chỉ cần chợt khởi tâm muốn vãng sanh là được ngay.

Cho nên những lời nói trong kinh điển chúng ta phải hiểu lý, suy nghĩ kỹ lưỡng, tuyệt đối không nên tụng niệm một cách hàm hồ.

Đoạn văn trên, chúng ta nói đến chân tâm. Chân tâm là thể của bồ đề tâm. Kế tiếp nói đến thâm tín là dụng của bồ đề tâm. Tự dụng đối với chính mình là luôn giữ tâm hiền thiện hiếu đức, tức là thích làm điều thiện. Đối với chúng sanh thì đại từ đại bi, nhân từ hiền thiện. Hiếu đức là việc làm không thể miễn cưỡng, hoặc làm cho có hình thức bên ngoài, mà nó phải lưu xuất một cách tự nhiên từ bên trong. Cho nên người phát tâm bồ đề, mỗi khi khởi tâm động niệm đều nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng sanh. Nghĩ đến việc giúp đỡ phá mê khai ngộ, thoát khỏi cảnh khổ, được an vui, không hề có một niệm nghĩ đến lợi ích cho cá nhân mình, Nếu còn một niệm ích kỷ tự lợi là còn ngã chấp nặng nề. Ngã chấp là gốc rễ của lục đạo luân hồi. Không bứng sạch gốc rễ này thì không cách nào ra khỏi lục đạo. Cho nên ngay từ bây giờ, chúng ta cần phải buông xả. Phải nghĩ tới người khác, nghĩ tới chúng sanh, đến những người đang đau khổ, đang gặp nạn trên thế giới. Tuyệt đối không nên nghĩ đến chuyện lợi ích cho riêng cá nhân mình nữa.

Trong suốt thời gian thuyết pháp đã qua, tôi nhiều lần nhắc quý vị phải phát bồ đề tâm. Trong kinh điển, đức Thế Tôn cũng từng lập đi lập lại không biết bao nhiều ngàn lần, vì sao Thế Tôn không ngừng lập lại như vậy ? Bởi vì chúng sanh vẫn còn chưa thức tỉnh, vẫn còn u mê, cho nên Thế Tôn vẫn phải lập đi lập lại một cách không mệt mỏi để kêu gọi, thức tỉnh chúng ta. Một khi chúng ta phát khởi bồ đề tâm liền được chư Phật hộ trì, vì tâm của chư Phật là tâm bồ đề. Tóm lại, như vậy tâm của chúng ta, cùng tâm chư Phật, không hề khác nhau, và mục đích duy nhất của Ngài là mong chúng ta một đời có thể thành Phật.

Hôm nay thì giờ đã hết, tôi xin giảng đến đây.

A Di Đà Phật.

Hếta