Dan Lee
04-16-2009, 09:30 PM
Lộ Đức - Nevers và Bernadette
Lộ Đức (Lourdes) là một địa danh hành hương nổi tiếng của nước Pháp. Địa danh này gắn liền với một thiếu nữ mang tên Bernadette Soubirous. Đa số khách hành hương chỉ biết đến người thiếu nữ này qua những lần chị được Đức Mẹ hiện ra, quãng đời còn lại, đặc biệt là chị từ khi trở thành nữ tu dòng Các Nữ Tu Bác Ái Nevers (Sœurs de la Charité de Nevers), hầu như không được biết tới. Nhân kỉ niệm tròn 130 năm ngày chị được vào hưởng vinh quang cùng Đấng mà chị yêu mến, xin gửi tới độc giả vài suy nghĩ cùng đôi nét về cuộc đời chị.
“Phận nữ tì hèn mọn” (Lc 1,48)
Trước khi diễn ra những cuộc hiện ra của Đức Mẹ, cuộc đời Bernadette là một số không tròn trĩnh. Năm 1856, việc làm ăn của gia đình sa sút, ông François Soubirous bị thất nghiệp. Cả gia đình buộc phải rời Le Moulin de Boly, lang thang nay đây mai đó với một tương lai bất định, rồi được một người họ hàng, ông André Sajous, đưa tới tá túc tại nhà tù bỏ hoang của thành phố, tức “le Cachot”.
Cho tới năm 14 tuổi, khi được Đức Mẹ hiện ra, Bernadette vẫn chưa được rước lễ lần đầu, đơn giản chỉ vì chị không biết tiếng Pháp, chỉ nói được một loại thổ ngữ (patois). Ở Lộ Đức không có các lớp giáo lí bằng thổ ngữ. Năm 1857, Bernadette từng tới ở Barthès cùng người họ hàng là Marie Laguës, vừa trông trẻ, vừa giúp chăn cừu với hi vọng sẽ được học để rước lễ lần đầu, vì tại Barthès có linh mục dạy giáo lí bằng thổ ngữ. Cũng tại Barthès, nhiều lần chị bị la mắng là vô tích sự, ngu dốt và sẽ chẳng bao giờ được rước lễ lần đầu, rằng những gì chị làm chẳng xứng với tấm bánh chị ăn hàng ngày.
Sau khi đã được Đức Mẹ hiện ra, khi được hỏi là theo chị tại sao Đức Mẹ lại hiện ra với chị, chị đã trả lời rằng: “Vì tôi là kẻ nghèo hèn và dốt nát nhất nên Đức Trinh Nữ đã chọn tôi” (“C'est parce que j'étais la plus pauvre et la plus ignorante que la Sainte Vierge m'a choisie”), rằng nếu Đức Mẹ tìm được một người nhỏ bé và dốt nát hơn chị thì chắc chắn Mẹ sẽ chọn người đó.
“Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1,48)
Và từ ngày 11/02/1858 tới ngày 16/07/1858, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra 18 lần với chị Bernadette. Độc giả hẳn cũng hiểu rằng những lần hiện ra này đã ghi dấu ấn rất sâu đậm trong cuộc đời chị, nhưng có lẽ ít người biết được rằng những lần gặp gỡ với Đức Mẹ đã giúp Bernadette khám phá ra phẩm giá của chị.
Khi kể lại kinh nghiệm sâu đậm này, chị Bernadette nói: “Ngài nhìn tôi như một con người nói với một con người” (“Elle me regardait comme une personne parle à une personne”). Có thể nói những cuộc gặp gỡ với Đức Mẹ đã giúp Bernadette xác tín được phẩm giá cao quí của chị. Dù chỉ là một thiếu nữ quê mùa nghèo hèn và dốt nát, trước mặt Đấng Tối Cao chị vẫn là “một con người” được yêu thương và trân trọng. Lời mà Đức Trinh Nữ ngỏ cùng chị cũng cho thấy thái độ kính trọng rất tinh tế: “Con có thể làm ơn tới đây trong mười lăm ngày được không?” (“Voulez-vous me faire plaisir de venir pendant quinze jours ?”).
Khởi đi từ xác tín căn bản này, Bernadette đã can đảm sống đúng ơn gọi của mình, chấp nhận tất cả mọi đớn đau thử thách, không kiêu căng ảo tưởng, nhưng bằng một đức tin sống động và sâu sắc xây dựng trên tình yêu như lời chị nói: “Tôi không sống một giây phút nào mà không yêu mến” ("Je ne vivrai pas un instant que je ne le passe en aimant")
“Từ nay hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48)
Được Đức Mẹ hiện ra là một phép lạ vĩ đại, nhưng điều căn bản nơi chị Bernadette là việc chị đã vượt bao thử thách và kiên trì khám phá và sống đúng ơn gọi của mình.
Ngay từ ban đầu, sứ mạng của chị không hề dễ dàng. Hầu như không ai dám tin rằng Đức Mẹ lại hiện ra với một thiếu nữ thấp kém như thế, rồi lại còn nói với chị: « Con hãy đi nói với các linh mục là xây dựng tại đây một ngôi nhà nguyện » (« Vous irez dire aux prêtres de faire bâtir ici une chapelle »). Đáp lại thái độ nghi ngờ, chị đã trả lời cha Fonteneau một cách thật đơn giản, nhưng cũng thật thuyết phục: “Con đâu có buộc Cha phải tin con, con chỉ trả lời cho Cha về những gì con đã thấy và đã nghe » (« Je ne vous oblige pas à me croire; mais je ne peux que répondre en vous disant ce que j’ai vu et entendu »).
Sau đó, để tránh những cuộc thăm viếng của những kẻ hiếu kì, Bernadette tới sống trong tu viện của Các Nữ Tu Bác Ái Nevers tại Lộ Đức. Tại đây, chị giúp những việc lặt vặt và bắt đầu được học hành. Chị đã trải qua một thời gian dài tìm kiếm ơn gọi của chính mình để rồi khám phá ra ơn gọi tu trì. Sau khi tìm hiểu nhiều dòng khác nhau, chị quyết định xin vào dòng Các Nữ Tu Bác Ái Nevers, vì như lời chị nói: « Tôi tới Nevers, vì các xơ đã không lôi kéo tôi » (« Je vais à Nevers, parce qu’on ne m’y a pas attirée »), rằng: « Tôi tới đây để ẩn mình » (« Je suis venue ici pour me cacher »).
Ngày 07/07/1866, Bernadette tới Nevers sau ba ngày đi xe lửa và ngày 30/10/1867, chị tuyên khấn với tên dòng là Sœur Marie-Bernard. Vì sức khoẻ của chị rất kém và cũng để tránh cho chị những cuộc thăm viếng hiếu kì, bề trên đã để chị ở lại nhà mẹ, tu viện thánh Gildard, thành phố Nevers. Bị hành hạ bởi nhiều chứng bệnh khác nhau: dạ dày, hen suyễn, lao khớp gối, lao phổi, ít nhất chị đã chịu phép xức dầu bệnh nhân tới ba lần, và là cư dân thường xuyên của bệnh xá. Sœur đã nói về chị như sau: « Thường thường chị ấy phải chịu đau đớn nhiều đêm, nhưng mỗi buổi sáng, chị ấy vẫn dễ thương y như buổi tối hôm trước » (« Souvent, elle passait des nuits à souffrir et, le matin, elle était aussi aimable que la veille »). Chị nữ tu nhỏ bé, chỉ cao 1,42 m, luôn sống an vui và là chỗ nương tựa tinh thần cho nhiều người: « Từ biệt chị, người ta luôn thấy mạnh mẽ và chắc chắn hơn » ("On la quitte plus fort et plus assuré qu'on est venu"). Những ai từng có dịp tiếp xúc hoặc sống với chị đều nhìn nhận rằng chính cuộc sống của chị là bằng chứng xác thực nhất về phép lạ Lộ Đức.
http://www.vietcatholic.org/pics/90416Bernadette.jpg
Hồi 15 giờ 15 phút ngày 16/04/1879, sau những cơn ho dữ dội, Sœur Marie-Bernard đã trút hơi thở sau cùng. Thi hài chị được an táng ngày 30/04/1879 trong ngôi nhà nguyện dâng kính thánh Giuse.
Ngày 22/09/1909, khi xúc tiến thủ tục nâng Sœur Marie-Bernard lên hàng tôi tớ Chúa, các vị hữu trách đã cho mở mộ phần của chị. Sau 30 năm nằm trong lòng đất ẩm ướt, thân thể chị vẫn còn nguyên vẹn. Các vị hữu trách đạo đời đã lập hồ sơ với những bản tường trình của các luật sư và các bác sĩ hiện diện từ đầu tới cuối theo đúng giáo luật. Xác chị được tắm rửa, đặt vào quan tài mới và lại được chôn cất vào chỗ cũ. Các vị hữu trách cho biết xác Sœur Marie-Bernard còn nguyên vẹn, ngược lại với quá trình phân huỷ thông thường, nhưng không khẳng định đó là một phép lạ.
Ngày 03/04/1919, mộ phần của Sœur Marie-Bernard được mở lần thứ hai để tiến hành thủ tục phong chân phước, trước sự chứng kiến của các vị hữu trách đạo đời, các luật sư và ba bác sĩ. Xác chị vẫn còn nguyên vẹn. Người ta lại tắm rửa, thay quan tài và lại chôn cất vào chỗ cũ.
Sau cùng, ngày 18/4/1925, theo thủ tục phong thánh, mộ phần lại được mở lần thứ ba cũng với tất cả sự cẩn trọng như những lần trước. Xác chị vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, sau những lần tiếp xúc lâu giờ với không khí, vài nơi trên thân thể chị bị xạm đen. Các vị hữu trách quyết định phủ lên mặt và tay chị một lớp sáp mỏng và đặt thi hài trong nhà nguyện tu viện để tín hữu khắp nơi tới kính viếng.
Ngày 08/12/1933, Đức Piô XI đã long trọng xác nhận sự thánh thiện của chị Bernadette qua việc sống các nhân đức Kitô giáo một cách anh hùng. Hội Thánh đã không tuyên bố Bernadette là một vị thánh vì chị đã được Đức Mẹ hiện ra, nhưng vì chị đã kiên trì và can đảm thực hành các nhân đức.
Ngày 18/02 hàng năm được chọn là ngày để toàn thế giới Công giáo mừng lễ chị thánh, vì đó là ngày kỉ niệm lần thứ ba Đức Mẹ hiện ra với chị. Ngày đó năm 1858, lần đầu tiên Đức Mẹ đã ngỏ lời cùng chị với một thái độ hết sức kính trọng. Ngày đó đã ghi dấu sâu đậm trong cuộc đời chị, vì chị hiểu rằng vượt trên tất cả ranh giới sang hay hèn, giầu hay nghèo, dốt nát hay giỏi giang, chị là « một con người », « một nhân vị » được Đấng Tối Cao yêu thương và kính trọng.
Không phải mọi Kitô hữu đều có diễm phúc được Đức Trinh Nữ hiện ra, nhưng tất cả mọi người đều cao cả trước mặt Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương vì là hình ảnh của Ngài. Cuộc đời của chị Bernadette minh chứng rằng sự thánh thiện không quá xa vời, nhưng ở trong tầm tay của tất cả mọi người khi họ biết đến với Thiên Chúa ngay cả với hành trang là sự dốt nát, bệnh tật hay tất cả những khiếm khuyết lỗi lầm khác của kiếp người.
Kim Ân
Lộ Đức (Lourdes) là một địa danh hành hương nổi tiếng của nước Pháp. Địa danh này gắn liền với một thiếu nữ mang tên Bernadette Soubirous. Đa số khách hành hương chỉ biết đến người thiếu nữ này qua những lần chị được Đức Mẹ hiện ra, quãng đời còn lại, đặc biệt là chị từ khi trở thành nữ tu dòng Các Nữ Tu Bác Ái Nevers (Sœurs de la Charité de Nevers), hầu như không được biết tới. Nhân kỉ niệm tròn 130 năm ngày chị được vào hưởng vinh quang cùng Đấng mà chị yêu mến, xin gửi tới độc giả vài suy nghĩ cùng đôi nét về cuộc đời chị.
“Phận nữ tì hèn mọn” (Lc 1,48)
Trước khi diễn ra những cuộc hiện ra của Đức Mẹ, cuộc đời Bernadette là một số không tròn trĩnh. Năm 1856, việc làm ăn của gia đình sa sút, ông François Soubirous bị thất nghiệp. Cả gia đình buộc phải rời Le Moulin de Boly, lang thang nay đây mai đó với một tương lai bất định, rồi được một người họ hàng, ông André Sajous, đưa tới tá túc tại nhà tù bỏ hoang của thành phố, tức “le Cachot”.
Cho tới năm 14 tuổi, khi được Đức Mẹ hiện ra, Bernadette vẫn chưa được rước lễ lần đầu, đơn giản chỉ vì chị không biết tiếng Pháp, chỉ nói được một loại thổ ngữ (patois). Ở Lộ Đức không có các lớp giáo lí bằng thổ ngữ. Năm 1857, Bernadette từng tới ở Barthès cùng người họ hàng là Marie Laguës, vừa trông trẻ, vừa giúp chăn cừu với hi vọng sẽ được học để rước lễ lần đầu, vì tại Barthès có linh mục dạy giáo lí bằng thổ ngữ. Cũng tại Barthès, nhiều lần chị bị la mắng là vô tích sự, ngu dốt và sẽ chẳng bao giờ được rước lễ lần đầu, rằng những gì chị làm chẳng xứng với tấm bánh chị ăn hàng ngày.
Sau khi đã được Đức Mẹ hiện ra, khi được hỏi là theo chị tại sao Đức Mẹ lại hiện ra với chị, chị đã trả lời rằng: “Vì tôi là kẻ nghèo hèn và dốt nát nhất nên Đức Trinh Nữ đã chọn tôi” (“C'est parce que j'étais la plus pauvre et la plus ignorante que la Sainte Vierge m'a choisie”), rằng nếu Đức Mẹ tìm được một người nhỏ bé và dốt nát hơn chị thì chắc chắn Mẹ sẽ chọn người đó.
“Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1,48)
Và từ ngày 11/02/1858 tới ngày 16/07/1858, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra 18 lần với chị Bernadette. Độc giả hẳn cũng hiểu rằng những lần hiện ra này đã ghi dấu ấn rất sâu đậm trong cuộc đời chị, nhưng có lẽ ít người biết được rằng những lần gặp gỡ với Đức Mẹ đã giúp Bernadette khám phá ra phẩm giá của chị.
Khi kể lại kinh nghiệm sâu đậm này, chị Bernadette nói: “Ngài nhìn tôi như một con người nói với một con người” (“Elle me regardait comme une personne parle à une personne”). Có thể nói những cuộc gặp gỡ với Đức Mẹ đã giúp Bernadette xác tín được phẩm giá cao quí của chị. Dù chỉ là một thiếu nữ quê mùa nghèo hèn và dốt nát, trước mặt Đấng Tối Cao chị vẫn là “một con người” được yêu thương và trân trọng. Lời mà Đức Trinh Nữ ngỏ cùng chị cũng cho thấy thái độ kính trọng rất tinh tế: “Con có thể làm ơn tới đây trong mười lăm ngày được không?” (“Voulez-vous me faire plaisir de venir pendant quinze jours ?”).
Khởi đi từ xác tín căn bản này, Bernadette đã can đảm sống đúng ơn gọi của mình, chấp nhận tất cả mọi đớn đau thử thách, không kiêu căng ảo tưởng, nhưng bằng một đức tin sống động và sâu sắc xây dựng trên tình yêu như lời chị nói: “Tôi không sống một giây phút nào mà không yêu mến” ("Je ne vivrai pas un instant que je ne le passe en aimant")
“Từ nay hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48)
Được Đức Mẹ hiện ra là một phép lạ vĩ đại, nhưng điều căn bản nơi chị Bernadette là việc chị đã vượt bao thử thách và kiên trì khám phá và sống đúng ơn gọi của mình.
Ngay từ ban đầu, sứ mạng của chị không hề dễ dàng. Hầu như không ai dám tin rằng Đức Mẹ lại hiện ra với một thiếu nữ thấp kém như thế, rồi lại còn nói với chị: « Con hãy đi nói với các linh mục là xây dựng tại đây một ngôi nhà nguyện » (« Vous irez dire aux prêtres de faire bâtir ici une chapelle »). Đáp lại thái độ nghi ngờ, chị đã trả lời cha Fonteneau một cách thật đơn giản, nhưng cũng thật thuyết phục: “Con đâu có buộc Cha phải tin con, con chỉ trả lời cho Cha về những gì con đã thấy và đã nghe » (« Je ne vous oblige pas à me croire; mais je ne peux que répondre en vous disant ce que j’ai vu et entendu »).
Sau đó, để tránh những cuộc thăm viếng của những kẻ hiếu kì, Bernadette tới sống trong tu viện của Các Nữ Tu Bác Ái Nevers tại Lộ Đức. Tại đây, chị giúp những việc lặt vặt và bắt đầu được học hành. Chị đã trải qua một thời gian dài tìm kiếm ơn gọi của chính mình để rồi khám phá ra ơn gọi tu trì. Sau khi tìm hiểu nhiều dòng khác nhau, chị quyết định xin vào dòng Các Nữ Tu Bác Ái Nevers, vì như lời chị nói: « Tôi tới Nevers, vì các xơ đã không lôi kéo tôi » (« Je vais à Nevers, parce qu’on ne m’y a pas attirée »), rằng: « Tôi tới đây để ẩn mình » (« Je suis venue ici pour me cacher »).
Ngày 07/07/1866, Bernadette tới Nevers sau ba ngày đi xe lửa và ngày 30/10/1867, chị tuyên khấn với tên dòng là Sœur Marie-Bernard. Vì sức khoẻ của chị rất kém và cũng để tránh cho chị những cuộc thăm viếng hiếu kì, bề trên đã để chị ở lại nhà mẹ, tu viện thánh Gildard, thành phố Nevers. Bị hành hạ bởi nhiều chứng bệnh khác nhau: dạ dày, hen suyễn, lao khớp gối, lao phổi, ít nhất chị đã chịu phép xức dầu bệnh nhân tới ba lần, và là cư dân thường xuyên của bệnh xá. Sœur đã nói về chị như sau: « Thường thường chị ấy phải chịu đau đớn nhiều đêm, nhưng mỗi buổi sáng, chị ấy vẫn dễ thương y như buổi tối hôm trước » (« Souvent, elle passait des nuits à souffrir et, le matin, elle était aussi aimable que la veille »). Chị nữ tu nhỏ bé, chỉ cao 1,42 m, luôn sống an vui và là chỗ nương tựa tinh thần cho nhiều người: « Từ biệt chị, người ta luôn thấy mạnh mẽ và chắc chắn hơn » ("On la quitte plus fort et plus assuré qu'on est venu"). Những ai từng có dịp tiếp xúc hoặc sống với chị đều nhìn nhận rằng chính cuộc sống của chị là bằng chứng xác thực nhất về phép lạ Lộ Đức.
http://www.vietcatholic.org/pics/90416Bernadette.jpg
Hồi 15 giờ 15 phút ngày 16/04/1879, sau những cơn ho dữ dội, Sœur Marie-Bernard đã trút hơi thở sau cùng. Thi hài chị được an táng ngày 30/04/1879 trong ngôi nhà nguyện dâng kính thánh Giuse.
Ngày 22/09/1909, khi xúc tiến thủ tục nâng Sœur Marie-Bernard lên hàng tôi tớ Chúa, các vị hữu trách đã cho mở mộ phần của chị. Sau 30 năm nằm trong lòng đất ẩm ướt, thân thể chị vẫn còn nguyên vẹn. Các vị hữu trách đạo đời đã lập hồ sơ với những bản tường trình của các luật sư và các bác sĩ hiện diện từ đầu tới cuối theo đúng giáo luật. Xác chị được tắm rửa, đặt vào quan tài mới và lại được chôn cất vào chỗ cũ. Các vị hữu trách cho biết xác Sœur Marie-Bernard còn nguyên vẹn, ngược lại với quá trình phân huỷ thông thường, nhưng không khẳng định đó là một phép lạ.
Ngày 03/04/1919, mộ phần của Sœur Marie-Bernard được mở lần thứ hai để tiến hành thủ tục phong chân phước, trước sự chứng kiến của các vị hữu trách đạo đời, các luật sư và ba bác sĩ. Xác chị vẫn còn nguyên vẹn. Người ta lại tắm rửa, thay quan tài và lại chôn cất vào chỗ cũ.
Sau cùng, ngày 18/4/1925, theo thủ tục phong thánh, mộ phần lại được mở lần thứ ba cũng với tất cả sự cẩn trọng như những lần trước. Xác chị vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, sau những lần tiếp xúc lâu giờ với không khí, vài nơi trên thân thể chị bị xạm đen. Các vị hữu trách quyết định phủ lên mặt và tay chị một lớp sáp mỏng và đặt thi hài trong nhà nguyện tu viện để tín hữu khắp nơi tới kính viếng.
Ngày 08/12/1933, Đức Piô XI đã long trọng xác nhận sự thánh thiện của chị Bernadette qua việc sống các nhân đức Kitô giáo một cách anh hùng. Hội Thánh đã không tuyên bố Bernadette là một vị thánh vì chị đã được Đức Mẹ hiện ra, nhưng vì chị đã kiên trì và can đảm thực hành các nhân đức.
Ngày 18/02 hàng năm được chọn là ngày để toàn thế giới Công giáo mừng lễ chị thánh, vì đó là ngày kỉ niệm lần thứ ba Đức Mẹ hiện ra với chị. Ngày đó năm 1858, lần đầu tiên Đức Mẹ đã ngỏ lời cùng chị với một thái độ hết sức kính trọng. Ngày đó đã ghi dấu sâu đậm trong cuộc đời chị, vì chị hiểu rằng vượt trên tất cả ranh giới sang hay hèn, giầu hay nghèo, dốt nát hay giỏi giang, chị là « một con người », « một nhân vị » được Đấng Tối Cao yêu thương và kính trọng.
Không phải mọi Kitô hữu đều có diễm phúc được Đức Trinh Nữ hiện ra, nhưng tất cả mọi người đều cao cả trước mặt Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương vì là hình ảnh của Ngài. Cuộc đời của chị Bernadette minh chứng rằng sự thánh thiện không quá xa vời, nhưng ở trong tầm tay của tất cả mọi người khi họ biết đến với Thiên Chúa ngay cả với hành trang là sự dốt nát, bệnh tật hay tất cả những khiếm khuyết lỗi lầm khác của kiếp người.
Kim Ân