gioidinhhue
09-18-2009, 10:28 PM
NGÀY ĐÊM THÀNH TÂM CHUYÊN TRÌ NIỆM
Một câu Di Đà vua muôn pháp
Năm thời tám giáo bao hàm cả
Hành giả chỉ nên chuyên trì niệm
Sẽ vào nhà bất động Như Lai
“Một câu Di Đà vua muôn pháp” Câu niệm danh hiệu Phật Di Đà này là vua của muôn pháp. “Năm thời tám giáo bao hàm cả”. Tám
giáo là Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo, Tiệm giáo, Đốn giáo, Bí mật giáo, Bất định giáo. Năm thời là thời Hoa-nghiêm,
thời A-hàm, thời Phương-đẳng, thời Bát-nhã, thời Pháp-hoa Niết-bàn. Đem năm thời tám giáo này hợp lại thì tất cả đều được bao hàm
trong câu niệm danh hiệu A Di Đà Phật này vậy. “Hành giả chỉ nên chuyên trì niệm”, chúng ta, bất luận là ai, nếu chuyên tâm niệm
Phật thì sẽ vào được ngôi “Nhà bất động của Như Lai”, nhứt định sẽ vãng sanh về cõi Thường tịch quang Tịnh độ, về thế giới Cực
lạc. Chúng ta là những chúng sanh, sanh nhằm thời mạt pháp thì phải dùng câu niệm Phật để được độ thoát. Nếu ai muốn được giải
thoát mọi khổ đau, người ấy nên niệm danh hiệu của đức phật này vậy.
Bớt lại một câu nói
Niệm Phật thêm một lời
Đập tan mối đầu niệm
Sẽ sống với Pháp thân
Vì vậy, chúng ta không nên bỏ sót câu niệm Phật này.
THỜI KHẮC QUÁN TƯỞNG TƯ LƯƠNG TỐT
Pháp môn niệm Phật này, gồm có bốn phương pháp quán niệm.
1. Trì danh niệm phật, chính là hành giả chú tâm vào câu Nam Mô A Di Đà Phật.
2. Quán tưởng niệm Phật, nghĩa là nghĩ tưởng đến đức Phật A Di Đà. Tưởng nghĩ như sau:
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
Năm tu di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Đó là phương pháp quán tưởng niệm Phật
3.Quán Tướng niệm Phật, nghĩa là đối trước hình tượng của đức Phật A Di Đà để niệm danh hiệu của ngài. Phương pháp này đòi hỏi
hành giả nhìn thẳng vào hình tượng của đức phật A Di Đà một cách rõ ràng, miệng niệm rõ từng tiếng, tai nghe rõ từng tiếng, tâm chỉ
nghĩ tưởng đến hình tướng của ngài. Đây gọi là quán tướng niệm Phật.
4. Thật tướng niệm Phật, chính là phương pháp tham thiền. Hành giả tham công án: “Niệm Phật là ai?”, cứ chuyên tìm câu niệm Phật
là ai? như thế đến hai tuần lễ niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đợi khóa niệm Phật xong, chúng ta mới có thể tìm ra câu “Niệm Phật là
ai” này. Nhất định hành giả phải tìm cho ra, không nên tìm nửa chừng rồi bỏ. Nếu nửa chừng bỏ đi, bạn sẽ lạc đường, không tìm về
nhà được. Như thế là bạn không thấy được đức Phật A Di Đà.
CHÁNH TÍN CHÁNH NGUYỆN CHÁNH HẠNH
Tín, Nguyện, Hạnh, đây là ba món tư lương của hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ.
Thế nào gọi là tư lương? Giống như bạn muốn đi du lịch nơi nào đó thì bạn phải chuẩn bị các thức ăn, đây gọi là Lương. Chuẩn bị tiền
bạc, các thứ cần dùng, gọi là Tư.
Tư lương là thức ăn, là tiền bạc, là các thứ cần dùng của bạn. Cũng vậy, người hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, muốn vãng sanh về
thế giới Cực lạc thì cũng phải đầy đủ ba món tư lương. Ba món tư lương này chính là lòng tin, phát nguyện và thực hành. Ban đầu,
hành giả nhứt định phải phát khởi tín tâm. Nếu như bạn chưa có lòng tin, đó là bạn chưa có duyên với thế giới Cực lạc của Phật A Di
Đà. Nếu bạn đã có lòng tin, nghĩa là bạn đã có duyên. Cho nên, đầu tiên đòi hỏi bạn phải có lòng tin chân thật. Lòng tin ấy là tin vào
chính bản thân mình và tin đối tượng mà mình hướng đến, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý.
Vì sao gọi là tin vào bản thân mình? Hành giả tu tập phải tin vào bản thân mình, quyết định rằng, mình có khả năng sanh về thế giới
Cực lạc ở Tây phương. Bạn không nên xem nhẹ bản thân mình rằng: “Ôi! Tôi đã tạo ra quá nhiều tội lỗi, tôi không có khả năng sanh
về thế giới Cực lạc được!”. Như vậy, tức là bạn không tin vào chính khả năng của mình. Bạn tạo ra nhiều tội lỗi phải không? Nếu tu
tập pháp môn này, bạn sẽ gặp nhiều cơ hội tốt đấy! Cơ hội tốt là gì? Đó là có thể mang nghiệp vãng sanh. Những tội lỗi gì mà bạn đã
tạo ra đều có thể mang theo đến thế giới Cực lạc, như vậy gọi là mang nghiệp vãng sanh. Thế nhưng mang nghiệp, bạn phải biết rằng
nghiệp ấy là Túc-nghiệp, tức là những hành động bạn đã gieo tạo trong quá khứ, chứ không phải mang theo nghiệp mới tạo. “Túc” là
túc thế, tức là mang theo nghiệp khi bạn còn sanh tiền. Tân nghiệp là những nghiệp tạo ra trong tương lai. Mang theo Túc-nghiệp
không mang theo tân nghiệp, chính là mang theo những tội lỗi trong quá khứ bạn đã gây nên mà không mang theo những tội nghiệp
trong tương lai. Từ những việc làm, những hành vi, những suy nghĩ của bạn, bất luận là đã tạo ra những tội lỗi gì, giờ đây bạn phải sửa
đổi những lỗi lầm trong quá khứ của mình, làm lại những việc làm mới, bỏ ác hướng thiện. Như vậy, những tội lỗi của bạn đã gây tạo
trước đây, bạn có thể mang theo qua thế giới Cực lạc nhưng không mang theo nghiệp tương lai.
Tin Tha, tức là tin vào đối tượng của mình hướng đến. Bạn tin ở Tây phương có thế giới Cực lạc, thế giới đó cách xa cõi ta bà chúng
ta đang sống khoảng mười vạn ức cõi Phật. Trước đây, khi đức A Di Đà chưa thành Phật,ngài làm một vị tỳ kheo tên là Pháp-tạng.
Bấy giờ, ngài phát nguyện trong tương lai sẽ xây dựng một thế giới Cực lạc. Nếu có chúng sanh trong mười phương phát nguyện muốn
sanh về, sống trong cõi nước của ngài thì không cần gì khác, chỉ cần niệm danh hiệu của ngài sẽ được vãng sanh. Những công việc
khác đều không bị hao phí, đã không phí tiền, lại không phí sức. Có thể nói, pháp môn này là pháp môn cao nhất, pháp môn tối
thượng. Bạn chỉ cần niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì có thể vãng sanh đến nước Cực lạc. Đây chính là tin tha.
Vã lại, hành giả phải tin vào nhân quả. Tin Nhân là sao? Tức là tin vào bản thân mình từ xưa đã gieo trồng thiện căn, vì vậy mới có thể
gặp được pháp môn này. Giả sử bạn không có thiện căn thì làm sao có thể gặp được nó, cũng không thể gặp được tất cả pháp môn của
đức Phật nói ra. Bởi vì bạn có được thiện căn do xưa bạn đã gieo trồng nhân hạnh lành, cho nên đời này gặp được pháp môn Tịnh độ.
Tín, nguyện, trì danh này, nếu bạn không tiếp tục vun bồi căn lành thì trong tương lai bạn sẽ không thành tựu được quả vị Bồ-đề. Cho
nên, bắt buộc bạn phải tin vào nhân quả, tin vào bản thân của bạn xưa nay đã gieo trồng hạt giống Bồ-đề, trong tương lai nhất định sẽ
gặt được quả giải thoát. Giống như trồng lúa, khi gieo hạt giống vào trong đất rồi, bạn phải chăm bón, tưới nước, hạt giống đó mới có
khả năng sanh trưởng.
Hơn nữa, phải tin Sự, tin Lý. Thế nào gọi là tin Sự, tin Lý? Bạn nên biết, đức Phật A Di Đà có nhân duyên lớn đối với hàng chúng ta,
ngài nhất định sẽ dẫn dắt chúng ta đến khi thành Phật. Đây là tin vào sự.
Tin vào lý, vì sao chúng ta có nhân duyên lớn với đức Phật A Di Đà? Nếu không có nhân duyên thì chúng ta sẽ không gặp được pháp
môn Tịnh độ này. Đức Phật A Di Đà cũng chính là hết thảy chúng sanh, hết thảy chúng sanh cũng chính là đức Phật A Di Đà. Ngài do
niệm Phật mà được thành Phật. Vì vậy, hết thảy chúng sanh chúng ta, nếu như có niệm Phật thì cũng có thể thành Phật A Di Đà. Đây
là đứng trên lý mà nói.
Có lý, có sự, như vậy chúng ta nương theo lý sự đó để tu hành. Trong kinh Hoa-Nghiêm, đức Phật từng thuyết: “Sự vô ngại pháp giới,
lý vô ngại pháp giới,lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới”. Chúng ta có những pháp giới này rồi, đứng trên căn bản tự tánh
mà nói thì cùng đức Phật A Di Đà chỉ là một. Do đó, chúng ta có đủ tư cách để thành Phật.
Đức Phật A Di Đà, ngài ở ngay trong tâm của chúng sanh. vì vậy chúng sanh cũng nằm trong tâm của đức Phật A Di Đà. Bởi do mối
quan hệ này mà có sự có lý, nhưng đạo lý ấy nhứt định bạn phải tin tưởng, phải hành trì, bạn không thể biếng nhác. Ví như bản thân
tôi đây, niệm phật mỗi ngày một tăng, chứ không phải ngày càng giảm.
Trên đã nói về lòng tin, đến đây chúng ta tìm hiểu về Nguyện. Thế nào gọi là Nguyện? Nguyện là lòng mong muốn, tâm nguyện và ý
chí hướng tới của bạn. Tâm tưởng của bạn phải như thế mới phát nguyện. Trong kinh thường hay nhắc đến bốn lời nguyện, đó là:
Chúng sanh vô số lượng thề nguyện đều độ khắp
Phiền não không cùng tận thề ngyuện đều dứt sạch
Pháp môn không kể xiết thề nguyện đều tu tập
Phật đạo không gì hơn thề nguyện sẽ chứng lên.
Đây là bốn lời thệ nguyện rộng lớn mà hết thảy chư phật, chư vị Bồ tát trong quá khứ đều y theo bốn lời nguyện này mà thành được
quả vị Phật Đà, thành tựu hạnh nguyện của Bồ tát. Hết thảy chư Phật, chư vị Bồ tát trong đời hiện tại cùng tận đời vị lai cũng căn cứ
theo bốn lời thệ nguyện này mà chứng thành đạo quả. Nhưng việc phát nguyện, điều đầu tiên đòi hỏi bạn phải có lòng tin kiên cố. Tin
có thế giới Cực lạc, tin có Phật Adi Đà, tin vào bản thân mình nhứt định có nhân duyên lớn với đức Phật A Di Đà, vì vậy chúng ta ắt
sẽ vãng sanh qua thế giới Cực lạc. Nếu có được tín tâm này rồi, sau đó bạn nên phát nguyện. Khi đã phát nguyện, ắt sẽ được vãng
sanh. cho nên mới nói “Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung”. Đây là do lòng mong muốn của chúng ta, muốn sanh về thế giới
Tịnh độ chứ không phải do một ai miễn cưỡng gọi ta đi, không phải có người đến nhất định bắt ta đi cho bằng được. Tuy nhiên, nói
đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chúng ta thì cũng do chính bản thân chúng ta mong muốn được đi, mong muốn được gần gũi với đức
Phật A Di Đà, được sanh qua thế giới Cực lạc nên ngài mới đến tiếp dẫn. Hoa nở thấy Phật, là mong đến thế giới cực lạc để được thấy
Phật nghe pháp. Nếu có được tâm nguyện ấy rồi, sau đó bạn phải thực hành. Thực hành bằng cách nào? Đó chính là niệm Phật, niệm
Nam Mô A Di Đà Phật…giống như cứu lửa cháy đầu, bởi chiếc đầu của mình sắp mất. Có người muốn chặt đầu, do đó phải cấp tốc
bảo vệ chiếc đầu của mình.
Niệm Phật chính là thực hiện ba món tư lương Tín, Nguyện, Hạnh này. Đây chính là tư lương, là lộ phí trên hành trình vãng sanh về
thế giới Cực lạc. Tư lương chính là lộ phí đi đường, là tiền bạc cần dùng. Ba món tư lương trên, là tiền bạc, là hành trang du lịch, là vé
đi đường đến thế giới Cực lạc. Vì vậy, chúng ta cần phải có.
XƯỚNG TỤNG NIỆM PHẬT, NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG
Hiện tại, chúng ta đang niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Câu niệm Phật ấy, chính là tự chúng ta đang kiến tạo cho mình một thế giới Tịnh
độ, mỗi người tự trang nghiêm thế giới Cực lạc, thành tựu thế giới cực lạc cho bản thân mình. Thế giới Cực lạc không hoàn toàn cách
xa chúng ta mười vạn ức cõi Phật, nhưng nó cũng thật sự cách xa cả mười vạn ức cõi Phật. Bởi vì, tuy nó cách xa mười vạn ức cõi
phật như thế, nhưng không ra ngoài một niệm hiện tiền của chúng ta. Vì không ra khỏi một niệm hiện tiền nên nói: không hoàn toàn xa
chúng ta mười vạn ức cõi Phật mà chính là ở ngay tâm lý chúng ta. Thế giới Cực lạc, chính là bổn tâm xưa nay của hết thảy chúng
sanh chúng ta. Nếu như bạn nhận ra chơn tâm xưa nay của mình thì bạn đã sanh về thế giới Cực lạc, còn bạn chưa nhận ra nó thì bạn
không thể sanh về thế giới Cực lạc. Đức Phật A Di Đà và chúng sanh chúng ta không thể phân biệt bỉ thử. Một niệm hồi quang của
chúng sanh sẽ nhận biết được xưa nay mình là Phật, biết được xưa nay mình là Phật, đó là thế giới cực lạc. Cho nên nói thế giới cực
lạc không hoàn toàn xa như thế.
Do vậy, bạn có thể mang theo tâm ô nhiễm của mình vãng sanh về Cực lạc. Bấy giờ, những tâm lý tư lợi, những tạp niệm, tâm đố kị,
tâm chướng ngại, tâm ích kỉ, tâm chỉ biết lợi riêng cho mình không còn nữa. Bạn sẽ học hạnh lợi tha của Bồ tát, giác ngộ cho tất cả
chúng sanh. Đấy chính là thế giới Cực lạc hiện tiền. Khi tâm không còn tạp niệm, không còn vọng tưởng, bạn thử nghĩ xem, đây chẳng
phải là thế giới Cực lạc hay sao? Nếu đây không phải thế giới Cực lạc thì bạn nói đây là cái gì?
Cho nên chúng ta không thể tìm bên ngoài mà có được thế giới Cực lạc. Đối với các bậc thiện tri thức, các vị đều là những người có
được kiến thức sâu rộng, thông minh hơn tôi. Trong tương lai, quý vị giảng phật pháp đều sẽ hay hơn tôi giảng nhiều. Hiện tại ở đây,
chẳng qua các vị là người bản xứ, không hiểu được tiếng của nước khác mà thôi! Tôi giới thiệu cùng quý vị bằng những lời cũ rích, lời
nói quá xưa này, chẳng phải mới mẻ gì. Nhưng trong tương lai, các bạn là những bậc thần kỳ, biến hoá vô song. Điều ấy vi diệu không
thể nói được.
Tiện đây, tôi hát tặng quý vị một bài:
Phật A Di Đà
Bậc đại thánh chúa
Đoan nghiêm tuyệt diệu không ai bằng
Hồ trân bảy báu
Hoa sen bốn màu
Tuyệt diệu thay!
Trào dâng sóng vàng
Đây là nói đến hoa sen bốn màu. Bậc đại thánh chúa là ai? Đó là đức Phật A Di Đà. Cho nên nói:
Bậc đại thánh chúa A Di Đà
Đoan nghiêm tuyệt diệu, ai sánh bằng?
Ngài ngồi đó vẻ uy nghiêm
Ôi! tướng hảo Phật A Di Đà.
Tuyệt diệu thay! Chẳng ai sánh bằng ngài, tướng hảo ấy thật rạng rở! Ao trân bảo là ao được làm bằng bảy báu, trong đó có hoa sen
bốn màu, cho nên gọi là “Ao trân bảy báu, hoa sen bốn màu”. “Trào dâng sóng vàng” là làn sóng gợn lăn tăn trên mặt nước ao, được
phản chiếu lên ánh sáng sắc vàng.
Một câu Di Đà vua muôn pháp
Năm thời tám giáo bao hàm cả
Hành giả chỉ nên chuyên trì niệm
Sẽ vào nhà bất động Như Lai
“Một câu Di Đà vua muôn pháp” Câu niệm danh hiệu Phật Di Đà này là vua của muôn pháp. “Năm thời tám giáo bao hàm cả”. Tám
giáo là Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo, Tiệm giáo, Đốn giáo, Bí mật giáo, Bất định giáo. Năm thời là thời Hoa-nghiêm,
thời A-hàm, thời Phương-đẳng, thời Bát-nhã, thời Pháp-hoa Niết-bàn. Đem năm thời tám giáo này hợp lại thì tất cả đều được bao hàm
trong câu niệm danh hiệu A Di Đà Phật này vậy. “Hành giả chỉ nên chuyên trì niệm”, chúng ta, bất luận là ai, nếu chuyên tâm niệm
Phật thì sẽ vào được ngôi “Nhà bất động của Như Lai”, nhứt định sẽ vãng sanh về cõi Thường tịch quang Tịnh độ, về thế giới Cực
lạc. Chúng ta là những chúng sanh, sanh nhằm thời mạt pháp thì phải dùng câu niệm Phật để được độ thoát. Nếu ai muốn được giải
thoát mọi khổ đau, người ấy nên niệm danh hiệu của đức phật này vậy.
Bớt lại một câu nói
Niệm Phật thêm một lời
Đập tan mối đầu niệm
Sẽ sống với Pháp thân
Vì vậy, chúng ta không nên bỏ sót câu niệm Phật này.
THỜI KHẮC QUÁN TƯỞNG TƯ LƯƠNG TỐT
Pháp môn niệm Phật này, gồm có bốn phương pháp quán niệm.
1. Trì danh niệm phật, chính là hành giả chú tâm vào câu Nam Mô A Di Đà Phật.
2. Quán tưởng niệm Phật, nghĩa là nghĩ tưởng đến đức Phật A Di Đà. Tưởng nghĩ như sau:
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
Năm tu di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Đó là phương pháp quán tưởng niệm Phật
3.Quán Tướng niệm Phật, nghĩa là đối trước hình tượng của đức Phật A Di Đà để niệm danh hiệu của ngài. Phương pháp này đòi hỏi
hành giả nhìn thẳng vào hình tượng của đức phật A Di Đà một cách rõ ràng, miệng niệm rõ từng tiếng, tai nghe rõ từng tiếng, tâm chỉ
nghĩ tưởng đến hình tướng của ngài. Đây gọi là quán tướng niệm Phật.
4. Thật tướng niệm Phật, chính là phương pháp tham thiền. Hành giả tham công án: “Niệm Phật là ai?”, cứ chuyên tìm câu niệm Phật
là ai? như thế đến hai tuần lễ niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đợi khóa niệm Phật xong, chúng ta mới có thể tìm ra câu “Niệm Phật là
ai” này. Nhất định hành giả phải tìm cho ra, không nên tìm nửa chừng rồi bỏ. Nếu nửa chừng bỏ đi, bạn sẽ lạc đường, không tìm về
nhà được. Như thế là bạn không thấy được đức Phật A Di Đà.
CHÁNH TÍN CHÁNH NGUYỆN CHÁNH HẠNH
Tín, Nguyện, Hạnh, đây là ba món tư lương của hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ.
Thế nào gọi là tư lương? Giống như bạn muốn đi du lịch nơi nào đó thì bạn phải chuẩn bị các thức ăn, đây gọi là Lương. Chuẩn bị tiền
bạc, các thứ cần dùng, gọi là Tư.
Tư lương là thức ăn, là tiền bạc, là các thứ cần dùng của bạn. Cũng vậy, người hành giả tu tập pháp môn Tịnh độ, muốn vãng sanh về
thế giới Cực lạc thì cũng phải đầy đủ ba món tư lương. Ba món tư lương này chính là lòng tin, phát nguyện và thực hành. Ban đầu,
hành giả nhứt định phải phát khởi tín tâm. Nếu như bạn chưa có lòng tin, đó là bạn chưa có duyên với thế giới Cực lạc của Phật A Di
Đà. Nếu bạn đã có lòng tin, nghĩa là bạn đã có duyên. Cho nên, đầu tiên đòi hỏi bạn phải có lòng tin chân thật. Lòng tin ấy là tin vào
chính bản thân mình và tin đối tượng mà mình hướng đến, tin nhân, tin quả, tin sự, tin lý.
Vì sao gọi là tin vào bản thân mình? Hành giả tu tập phải tin vào bản thân mình, quyết định rằng, mình có khả năng sanh về thế giới
Cực lạc ở Tây phương. Bạn không nên xem nhẹ bản thân mình rằng: “Ôi! Tôi đã tạo ra quá nhiều tội lỗi, tôi không có khả năng sanh
về thế giới Cực lạc được!”. Như vậy, tức là bạn không tin vào chính khả năng của mình. Bạn tạo ra nhiều tội lỗi phải không? Nếu tu
tập pháp môn này, bạn sẽ gặp nhiều cơ hội tốt đấy! Cơ hội tốt là gì? Đó là có thể mang nghiệp vãng sanh. Những tội lỗi gì mà bạn đã
tạo ra đều có thể mang theo đến thế giới Cực lạc, như vậy gọi là mang nghiệp vãng sanh. Thế nhưng mang nghiệp, bạn phải biết rằng
nghiệp ấy là Túc-nghiệp, tức là những hành động bạn đã gieo tạo trong quá khứ, chứ không phải mang theo nghiệp mới tạo. “Túc” là
túc thế, tức là mang theo nghiệp khi bạn còn sanh tiền. Tân nghiệp là những nghiệp tạo ra trong tương lai. Mang theo Túc-nghiệp
không mang theo tân nghiệp, chính là mang theo những tội lỗi trong quá khứ bạn đã gây nên mà không mang theo những tội nghiệp
trong tương lai. Từ những việc làm, những hành vi, những suy nghĩ của bạn, bất luận là đã tạo ra những tội lỗi gì, giờ đây bạn phải sửa
đổi những lỗi lầm trong quá khứ của mình, làm lại những việc làm mới, bỏ ác hướng thiện. Như vậy, những tội lỗi của bạn đã gây tạo
trước đây, bạn có thể mang theo qua thế giới Cực lạc nhưng không mang theo nghiệp tương lai.
Tin Tha, tức là tin vào đối tượng của mình hướng đến. Bạn tin ở Tây phương có thế giới Cực lạc, thế giới đó cách xa cõi ta bà chúng
ta đang sống khoảng mười vạn ức cõi Phật. Trước đây, khi đức A Di Đà chưa thành Phật,ngài làm một vị tỳ kheo tên là Pháp-tạng.
Bấy giờ, ngài phát nguyện trong tương lai sẽ xây dựng một thế giới Cực lạc. Nếu có chúng sanh trong mười phương phát nguyện muốn
sanh về, sống trong cõi nước của ngài thì không cần gì khác, chỉ cần niệm danh hiệu của ngài sẽ được vãng sanh. Những công việc
khác đều không bị hao phí, đã không phí tiền, lại không phí sức. Có thể nói, pháp môn này là pháp môn cao nhất, pháp môn tối
thượng. Bạn chỉ cần niệm Nam Mô A Di Đà Phật thì có thể vãng sanh đến nước Cực lạc. Đây chính là tin tha.
Vã lại, hành giả phải tin vào nhân quả. Tin Nhân là sao? Tức là tin vào bản thân mình từ xưa đã gieo trồng thiện căn, vì vậy mới có thể
gặp được pháp môn này. Giả sử bạn không có thiện căn thì làm sao có thể gặp được nó, cũng không thể gặp được tất cả pháp môn của
đức Phật nói ra. Bởi vì bạn có được thiện căn do xưa bạn đã gieo trồng nhân hạnh lành, cho nên đời này gặp được pháp môn Tịnh độ.
Tín, nguyện, trì danh này, nếu bạn không tiếp tục vun bồi căn lành thì trong tương lai bạn sẽ không thành tựu được quả vị Bồ-đề. Cho
nên, bắt buộc bạn phải tin vào nhân quả, tin vào bản thân của bạn xưa nay đã gieo trồng hạt giống Bồ-đề, trong tương lai nhất định sẽ
gặt được quả giải thoát. Giống như trồng lúa, khi gieo hạt giống vào trong đất rồi, bạn phải chăm bón, tưới nước, hạt giống đó mới có
khả năng sanh trưởng.
Hơn nữa, phải tin Sự, tin Lý. Thế nào gọi là tin Sự, tin Lý? Bạn nên biết, đức Phật A Di Đà có nhân duyên lớn đối với hàng chúng ta,
ngài nhất định sẽ dẫn dắt chúng ta đến khi thành Phật. Đây là tin vào sự.
Tin vào lý, vì sao chúng ta có nhân duyên lớn với đức Phật A Di Đà? Nếu không có nhân duyên thì chúng ta sẽ không gặp được pháp
môn Tịnh độ này. Đức Phật A Di Đà cũng chính là hết thảy chúng sanh, hết thảy chúng sanh cũng chính là đức Phật A Di Đà. Ngài do
niệm Phật mà được thành Phật. Vì vậy, hết thảy chúng sanh chúng ta, nếu như có niệm Phật thì cũng có thể thành Phật A Di Đà. Đây
là đứng trên lý mà nói.
Có lý, có sự, như vậy chúng ta nương theo lý sự đó để tu hành. Trong kinh Hoa-Nghiêm, đức Phật từng thuyết: “Sự vô ngại pháp giới,
lý vô ngại pháp giới,lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới”. Chúng ta có những pháp giới này rồi, đứng trên căn bản tự tánh
mà nói thì cùng đức Phật A Di Đà chỉ là một. Do đó, chúng ta có đủ tư cách để thành Phật.
Đức Phật A Di Đà, ngài ở ngay trong tâm của chúng sanh. vì vậy chúng sanh cũng nằm trong tâm của đức Phật A Di Đà. Bởi do mối
quan hệ này mà có sự có lý, nhưng đạo lý ấy nhứt định bạn phải tin tưởng, phải hành trì, bạn không thể biếng nhác. Ví như bản thân
tôi đây, niệm phật mỗi ngày một tăng, chứ không phải ngày càng giảm.
Trên đã nói về lòng tin, đến đây chúng ta tìm hiểu về Nguyện. Thế nào gọi là Nguyện? Nguyện là lòng mong muốn, tâm nguyện và ý
chí hướng tới của bạn. Tâm tưởng của bạn phải như thế mới phát nguyện. Trong kinh thường hay nhắc đến bốn lời nguyện, đó là:
Chúng sanh vô số lượng thề nguyện đều độ khắp
Phiền não không cùng tận thề ngyuện đều dứt sạch
Pháp môn không kể xiết thề nguyện đều tu tập
Phật đạo không gì hơn thề nguyện sẽ chứng lên.
Đây là bốn lời thệ nguyện rộng lớn mà hết thảy chư phật, chư vị Bồ tát trong quá khứ đều y theo bốn lời nguyện này mà thành được
quả vị Phật Đà, thành tựu hạnh nguyện của Bồ tát. Hết thảy chư Phật, chư vị Bồ tát trong đời hiện tại cùng tận đời vị lai cũng căn cứ
theo bốn lời thệ nguyện này mà chứng thành đạo quả. Nhưng việc phát nguyện, điều đầu tiên đòi hỏi bạn phải có lòng tin kiên cố. Tin
có thế giới Cực lạc, tin có Phật Adi Đà, tin vào bản thân mình nhứt định có nhân duyên lớn với đức Phật A Di Đà, vì vậy chúng ta ắt
sẽ vãng sanh qua thế giới Cực lạc. Nếu có được tín tâm này rồi, sau đó bạn nên phát nguyện. Khi đã phát nguyện, ắt sẽ được vãng
sanh. cho nên mới nói “Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung”. Đây là do lòng mong muốn của chúng ta, muốn sanh về thế giới
Tịnh độ chứ không phải do một ai miễn cưỡng gọi ta đi, không phải có người đến nhất định bắt ta đi cho bằng được. Tuy nhiên, nói
đức Phật A Di Đà đến tiếp dẫn chúng ta thì cũng do chính bản thân chúng ta mong muốn được đi, mong muốn được gần gũi với đức
Phật A Di Đà, được sanh qua thế giới Cực lạc nên ngài mới đến tiếp dẫn. Hoa nở thấy Phật, là mong đến thế giới cực lạc để được thấy
Phật nghe pháp. Nếu có được tâm nguyện ấy rồi, sau đó bạn phải thực hành. Thực hành bằng cách nào? Đó chính là niệm Phật, niệm
Nam Mô A Di Đà Phật…giống như cứu lửa cháy đầu, bởi chiếc đầu của mình sắp mất. Có người muốn chặt đầu, do đó phải cấp tốc
bảo vệ chiếc đầu của mình.
Niệm Phật chính là thực hiện ba món tư lương Tín, Nguyện, Hạnh này. Đây chính là tư lương, là lộ phí trên hành trình vãng sanh về
thế giới Cực lạc. Tư lương chính là lộ phí đi đường, là tiền bạc cần dùng. Ba món tư lương trên, là tiền bạc, là hành trang du lịch, là vé
đi đường đến thế giới Cực lạc. Vì vậy, chúng ta cần phải có.
XƯỚNG TỤNG NIỆM PHẬT, NIỆM PHÁP, NIỆM TĂNG
Hiện tại, chúng ta đang niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Câu niệm Phật ấy, chính là tự chúng ta đang kiến tạo cho mình một thế giới Tịnh
độ, mỗi người tự trang nghiêm thế giới Cực lạc, thành tựu thế giới cực lạc cho bản thân mình. Thế giới Cực lạc không hoàn toàn cách
xa chúng ta mười vạn ức cõi Phật, nhưng nó cũng thật sự cách xa cả mười vạn ức cõi Phật. Bởi vì, tuy nó cách xa mười vạn ức cõi
phật như thế, nhưng không ra ngoài một niệm hiện tiền của chúng ta. Vì không ra khỏi một niệm hiện tiền nên nói: không hoàn toàn xa
chúng ta mười vạn ức cõi Phật mà chính là ở ngay tâm lý chúng ta. Thế giới Cực lạc, chính là bổn tâm xưa nay của hết thảy chúng
sanh chúng ta. Nếu như bạn nhận ra chơn tâm xưa nay của mình thì bạn đã sanh về thế giới Cực lạc, còn bạn chưa nhận ra nó thì bạn
không thể sanh về thế giới Cực lạc. Đức Phật A Di Đà và chúng sanh chúng ta không thể phân biệt bỉ thử. Một niệm hồi quang của
chúng sanh sẽ nhận biết được xưa nay mình là Phật, biết được xưa nay mình là Phật, đó là thế giới cực lạc. Cho nên nói thế giới cực
lạc không hoàn toàn xa như thế.
Do vậy, bạn có thể mang theo tâm ô nhiễm của mình vãng sanh về Cực lạc. Bấy giờ, những tâm lý tư lợi, những tạp niệm, tâm đố kị,
tâm chướng ngại, tâm ích kỉ, tâm chỉ biết lợi riêng cho mình không còn nữa. Bạn sẽ học hạnh lợi tha của Bồ tát, giác ngộ cho tất cả
chúng sanh. Đấy chính là thế giới Cực lạc hiện tiền. Khi tâm không còn tạp niệm, không còn vọng tưởng, bạn thử nghĩ xem, đây chẳng
phải là thế giới Cực lạc hay sao? Nếu đây không phải thế giới Cực lạc thì bạn nói đây là cái gì?
Cho nên chúng ta không thể tìm bên ngoài mà có được thế giới Cực lạc. Đối với các bậc thiện tri thức, các vị đều là những người có
được kiến thức sâu rộng, thông minh hơn tôi. Trong tương lai, quý vị giảng phật pháp đều sẽ hay hơn tôi giảng nhiều. Hiện tại ở đây,
chẳng qua các vị là người bản xứ, không hiểu được tiếng của nước khác mà thôi! Tôi giới thiệu cùng quý vị bằng những lời cũ rích, lời
nói quá xưa này, chẳng phải mới mẻ gì. Nhưng trong tương lai, các bạn là những bậc thần kỳ, biến hoá vô song. Điều ấy vi diệu không
thể nói được.
Tiện đây, tôi hát tặng quý vị một bài:
Phật A Di Đà
Bậc đại thánh chúa
Đoan nghiêm tuyệt diệu không ai bằng
Hồ trân bảy báu
Hoa sen bốn màu
Tuyệt diệu thay!
Trào dâng sóng vàng
Đây là nói đến hoa sen bốn màu. Bậc đại thánh chúa là ai? Đó là đức Phật A Di Đà. Cho nên nói:
Bậc đại thánh chúa A Di Đà
Đoan nghiêm tuyệt diệu, ai sánh bằng?
Ngài ngồi đó vẻ uy nghiêm
Ôi! tướng hảo Phật A Di Đà.
Tuyệt diệu thay! Chẳng ai sánh bằng ngài, tướng hảo ấy thật rạng rở! Ao trân bảo là ao được làm bằng bảy báu, trong đó có hoa sen
bốn màu, cho nên gọi là “Ao trân bảy báu, hoa sen bốn màu”. “Trào dâng sóng vàng” là làn sóng gợn lăn tăn trên mặt nước ao, được
phản chiếu lên ánh sáng sắc vàng.