Dan Lee
05-28-2010, 11:27 PM
Cành Hồng Trên Đồi Tuyết (Tiếp Theo )
http://www.dunglac.org/upload/article/1187969741.jpg
truyện ngắvTrích trong tuyển tập truyện ngắn ĐƯỜNG VỀ THƯỢNG TRÍ của Nguyễn Tầm Thường
Người thanh niên ngồi yên. Lời nói trong hồn thăm thẳm sâu. Nhẹ nhàng như lời mời, thách đố như lệnh truyền. Phải đi. Phải đến. Đấy là ý nghĩa đời chàng. Một thoáng lại hiện về trong trí nhớ. Nhà tù, vòng sắt, quan tòa. Chàng biết gian dối, bất công có sức mạnh của nó, kẻ dám đương đầu với bất công là kẻ phải can đảm chấp nhận tù đầy, khổ đau. Chàng nghĩ tới thân mình. Một thoáng lo âu ngần ngại lướt qua như lời nói khẽ cho chàng hay đời chàng sẽ còn nhiều giông tố phũ phàng vì chàng dám sống cho sự thật. Ý nghĩ ấy làm chàng băn khoăn. Nhưng chàng đứng dậy, xách theo túi vải, nói với lòng mình:
- Thức ăn của ta là làm theo Đấng đã sai ta.
Người đàn bà bên kia đường trông thấy, vội rời hè phố, băng qua lộ, bước qua hàng rào công viên, đến trước mặt chàng:
- Ông có lửa không?
Người phụ nữ vừa nói vừa đưa điếu thuốc lên môi. Móng tay nàng dài, sơn mầu huyết dụ. Cặp môi đỏ mướt như vừa mới thoa son xong. Chàng đưa tay lên túi áo ngực:
- Xin lỗi, tôi không có bật lửa.
Người đàn bà chờ đợi thêm, hắn chỉ nói có thế. Nàng thất vọng, hơi bực mình, nhưng người đàn bà kiên nhẫn thêm. Bây giờ nàng đứng sát bên hắn. Gã bối rối vì mùi nước hoa làm chàng xao xuyến. Và dường như ngực người đàn bà cũng vừa chạm vào da thịt chàng. Dưới vùng sáng của ngọn đèn néon ở góc công viên, chàng thấy chiếc cúc áo ngực của người đàn bà đã mở rộng. Da thịt nàng căng tròn. Chưa biết phản ứng, người đàn bà đến sát chàng thêm nữa. Chiếc quần bó chẽn, mùi nước hoa đẩy đưa người đàn bà vào dáng dấp cám dỗ. Giọng nói phụ nữ đuổi đi cái im lặng ngập ngừng:
- Năm mươi đồng?
Hắn không hiểu gì. Người đàn bà nói thẳng:
- Năm mươi đồng một đêm!
Nàng đợi chờ phản ứng của gã. Hắn có hiểu ý? Hắn nghe không rõ? Im lặng. Hắn không dám hỏi lại. Người đàn bà chỉ tay vào túi vải hắn đang đeo, hỏi thăm rồi bảo chàng:
- Bán cho tôi ít dâu và mấy trái dưa đi, bao nhiêu?
Hắn không biết trả lời thế nào. Cuộc gặp gỡ bất ngờ. Đã mấy năm trong tù, chẳng biết gì ngoài xã hội. Từ chiều đến giờ mà đã gặp bao nhiêu chuyện bất ngờ. Cúi mở chiếc túi thì người đàn bà đặt tay lên vai ra hiệu cho chàng hãy đem ra chỗ có ánh sáng. Hắn xách túi vải theo sau người đàn bà. Nhưng họ đã không dừng lại ở ngọn đèn nơi đầu công viên. Họ tiếp tục đi với nhau dọc dẫy phố. Họ nói chuyện với nhau nhiều hơn. Đã có một cánh cửa nào đó mở ngõ cho những câu chuyện có lối đi về. Khi chàng biết được nàng là một gái đêm đang tìm khách, và người khách hàng nàng đang muốn ngủ đêm nay lại là chính chàng, chàng cảm thấy lo âu hồi hộp, nhưng cũng có phiêu lưu. Chàng chưa bao giờ gần gũi đàn, đêm nay là đêm đầu tiên chàng ngửi thấy mùi nước hoa ngay bên, da thịt căng đầy trước mặt, Chàng bối rối, rồi tự nhủ chắc chắn phần thắng sẽ về chàng. Chàng nhớ lại lời nói ban nẫy khi chàng cầu nguyện:
- Nơi nào có bóng tối thì con hãy đốt lên một que diêm. Đêm nay chàng đã gặp bóng tối. Thầm nghĩ nhất định chàng phải đem tâm hồn nàng về với ánh sáng. Chàng sẽ đốt lên một que diêm. Ý nghĩ ấy cho chàng can đảm, bình tĩnh theo nàng về căn gác trọ.
Vị chánh án hỏi bị can:
- Ông có quả bị bắt trong đêm ngày mồng 5 tháng 4 ở căn nhà số 103 không?
- Thưa quan tòa đúng.
- Ông đến đó làm gì?
- Tôi đến để thắp lên một ánh lửa trong bóng đêm.
Ở một góc nọ người đàn bà béo phị vừa cười ngặt nghẽo vừa lớn tiếng trong giọng nói pha trò:
- Ông ấy là thánh đấy!
Mọi người cười ồ. Riêng người phụ nữ bị kết án là gái điếm cúi đầu khóc. Vị quan tòa hỏi nàng:
- Còn cô, cô muốn nói gì không?
Người đàn bà tức giận, không ngần ngại nhìn thẳng vào ông chánh án trả lời:
- Biết bao nhiêu người đàn ông đã đến với tôi, trí thức có, đạo mạo có, họ là những kẻ kết án tôi ban ngày nhưng lại cần tôi ban đêm...
Người đàn bà còn đang nói, có tiếng đập bàn phản đối của người đàn ông phía sau. Ông chánh án đập chiếc búa gỗ ra lệnh cho tất cả giữ trật tự. Mặt ông đỏ như gấc, tức tối vì câu nói của người đàn bà, như ông thấy trong số những người đàn ông mà bà ám chỉ đã có cả ông:
- Yêu cầu bà chỉ trả lời vào câu hỏi. Bà có muốn khiếu nại gì không?
Người đàn bà chỉ tay về phía gã đàn ông nói:
- Tôi không khiếu nại gì cho tôi, nhưng riêng người này vô tội. Ông không tìm tôi như nhiều người đàn ông ông khác, nhưng tôi tìm ông. Ông nghèo. Ông chỉ có một tâm hồn là giàu có. Ông đã đốt lên một que diêm trong bóng đêm. Ông chỉ cho tôi con đường về nhà cũ mà tôi đã bỏ đi. Ông chính là đấng thánh như lời các người vừa nói!
Cả phòng xử án phá lên cười. Vị quan tòa không đập búa nữa nhưng đợi cho mọi người cười xong, ông mở tập hồ sơ rồi tuyên bố vắn gọn:
- Tất cả đã rõ. Những mụn ghẻ trên da thịt xã hội phải được cắt đứt!
Cả phòng xử im lặng vì giọng nói cứng rắn bực tức của ông. Người đàn ông bị kết án đứng xuôi tay nhớ lại lời từ trời cao đã nói với hắn trong khi cầu nguyện:
- Nơi nào có ngổn ngang thì con hãy sống trong sự thật. Nơi nào phức tạp thì con hãy giữ trái tim đơn sơ. Nơi nào có gian dối thì Cha gọi con tới. Nơi nào có bất công thì Cha bảo con đến.Chàng cúi đầu chấp nhận tất cả. Riêng người đàn bà bị kết tội là điếm ôm mặt khóc nức nở. Nàng không sợ hãi cho đời nàng nhưng nàng thương người đàn ông vô tội đang đứng trước mặt nàng. Chính nàng là người hiểu rõ đâu là sự thật, đâu là công lí của xã hội. Cả phòng xử đông người nhưng chỉ có hai kẻ bị kết án là biết sự thật và cùng đau khổ cho sự thật.
SAU NHỮNG NGÀY TÙ
Tất cả trắng bát ngát. Tuyết phủ kín cánh đồng. Hàng táo đứng trơ cành khô khẳng khiu. Gió ào ào như muốn xô ngã tên tù. Hắn ôm túi vải vào ngực, đứng nhìn cánh đồng tuyết lạnh mà thấy cô đơn về mênh mông.
Hắn đã được thả tù sớm hơn bản án cay nghiệt vì sức khỏe hao mòn. Đã nhiều đêm hắn muốn tắt thở vì cơn ho. Vào những tháng gần đây sức khỏe của hắn giảm sút một cách thảm hại. Gió rét về từng cơn. Hắn đi không vững. Mặt hốc hác, chỉ còn đôi mắt vẫn huyền nhiệm.
Ra tù lần này khác với những năm về trước. Bây giờ là mùa đông băng giá. Chàng xiêu vẹo cầm cự với những cơn gió vô tình nghiệt ngã. Thỉnh thoảng hắn lại ngồi xuống ôm ngực ho. Mỗi lúc gió một nhiều. Dường như có một trận bão ở đâu đó. Hắn tìm lối xuống đồi nhưng tất cả mọi lối mòn đã bị tuyết phủ kín. Hắn chỉ còn căn cứ vào những hàng cây bên đường mà phỏng đoán lối đi. Hắn nhớ lại kì ra tù lần trước có hàng cây anh đào, nhưng hôm nay đã biến mất. Chúng đã bị chặt từ thuở nào? Gió lật ngược tấm vải khoác, chàng phải ngồi xuống tránh gió. Đi đâu bây giờ? Chàng thấy vũ trụ mà Thượng Đế đã dựng nên lớn quá, nhưng chàng không có chỗ nghỉ chân. Chàng thấy Thượng Đế đã trang điểm vũ trụ bằng vàng bạc châu báu mà chàng thì không có bữa ăn chiều nay.
Trời về tối gió càng lạnh. Đi được một quãng xa, đến gần ngọn đồi năm xưa mà bác nông phu đã cho chàng bánh, dâu thơm, trời chuyển mây, tuyết rơi. Chàng nhớ về những kỉ niệm năm xưa ở khúc đường này, muốn ứa lệ. Giờ này các bác nông phu ở đâu? Tuyết rơi rất nhanh. Cố gắng bước vội. Đã thấy ánh đèn phố xa tít dưới thung lũng. Chàng nhớ tới ngôi nhà thờ đã ngồi nghỉ năm xưa. Chàng thầm nghĩ sẽ cố gắng về tới nơi để xin một chỗ trọ đêm nay. Trên đồi tuyết lạnh mà những tưởng tượng ra mùi hương trầm nồng ấm của nhà thờ, lòng chàng nhẹ nở một an ủi êm đềm.
Nhưng chàng đã chẳng bao giờ tới nơi. Tuyết rơi dầy hơn, nhanh hơn. Mỗi lúc tuyết một phủ kín thêm cánh đồng đã trắng lạnh. Trên ngọn đồi, một đống tuyết nhỏ nổi bật lên cao phủ kín tên tù nhân xấu số. Hắn đã ngã chết vì đói trong trời tuyết lạnh.
Xế chiều, mặt trời mù mờ trong sương. Từ dưới thung lũng đi lên, người ta thấy một bóng người trong chiếc áo khoác màu đen. Đầu, cổ choàng khăn kín mít. Cánh đồng trắng như một biển muối. Rải rác đây đó những bụi cây nhỏ đứng chơ vơ. Hàng táo ở ven đường càng về chiều càng đen sẫm. Cơn bão tuyết đã dứt từ mấy hôm nay. Gió thổi bay những hạt tuyết đọng trên cành, bây giờ chỉ còn những cành cây trơ trọi, đen đủi, thỉnh thoảng rung rinh khi con gió đến.
Khi đi tới ngọn đồi, người đàn ông ngó về phía đồi tuyết. Ông tần ngần đi chậm lại, băng qua ruộng lúa bị tuyết phủ ngập, đi dần lên gò tuyết cao. Tuyết phủ mịn màng như một bãi cát đồng trinh. Bước đi của người đàn ông in từng vết chân thành một vệt ngoằn ngoèo dài. Tới gần đồi tuyết, ông không thể hồ nghi được nữa. Trước mặt ông là cụm hoa hồng!
Vì sao lại có cây hồng giữa mùa đông băng giá? Đây có phải là cây hồng thật? Ngạc nhiên quá đỗi. Ông cúi xuống, ngồi sát bên cây hồng. Màu lá xanh ngát thỉnh thoảng rung lên theo nhịp gió đẩy. Một bông hồng lớn bằng trái cam, đỏ thẫm. Cánh hồng mướt như nhung. Sương ướt còn long lanh trên những cánh hồng mềm. Người đàn ông đứng ngó sững sờ. Ông lại thắc mắc một mình. Giữa đồi tuyết lạnh sao lại có cành hồng? Tất cả cây cối đều rũ bã chết khô sao lại có cây hồng xanh tươi? Cả rừng cây đứng thua trận mùa đông sao lại có cành hồng thản nhiên? Người đàn ông giơ tay vuốt những cánh hồng xinh. Một cơn gió nhẹ, cánh hồng lao chao nghiêng ngả. Người đàn ông với tay đỡ, che cho bông hồng. Cánh gai nhọn làm tay ông rướm máu, bấy giờ ông mới nhận thấy một điều khác lạ: Những mũi gai nhọn. Gai hồng này không giống những loại hồng khác. Người đàn ông nhìn kĩ, chưa bao giờ thấy những chiếc gai lạ như thế. Dài gấp ba, bốn lấn gai hồng thường, nhọn hoắt như lưỡi dao sắc bén. Người đàn ông băn khoăn vì cây hồng ngoại lệ trong mùa đông, không biết giải thích ra sao. Ông định hái bông hoa nhưng rồi lại đổi ý. Gạt tuyết ở gốc hồng, ông tìm cách bứng cả cụm hồng về nhà trồng. Gạt được một mớ tuyết, ông thấy sồn sột của móng tay cào trên nền vải. Ông bới mạnh hơn, dưới lớp tuyết phủ, một tấm vải màu vàng ngà. Ngạc nhiên, hồi hộp, ông tiếp tục lần theo chiều vải, cào tuyết. Ló ra một khoảng lớn. Ông cầm miếng vải kéo mạnh. Tuyết bay mù mịt. Hoảng hốt giật bắn người: Một đôi chân! Ông vội lui về phía sau. Một đôi chân người! Ông quay mặt nhìn chung quanh, muốn cầu cứu, cánh đồng hoang vu vắng lặng. Chênh chếch về phía tây, mặt trời mù đặc trong sương ẩm.
Người đàn ông tháo chiếc túi vải đeo ở vai để xuống bên cạnh. Chiếc túi da màu đen có in hình thánh giá mạ vàng. Túi da nhắc nhở ông đến một sứ mạng thiêng liêng. Ông ngó quanh như mong có người đang đi đường để ông bớt lẻ loi. Đây là nạn nhân bão tuyết? Có thể bị cướp đánh? Còn nhiều cái có thể đặt ra trong đầu ông. Có thể họ đã chết? Có thể còn sống? Nếu sống, ông phải làm gì? Câu hỏi làm ông liên tưởng đến túi da bên cạnh có in hình thánh giá ở ngoài. Cây thánh giá ấy cho ông thêm can đảm bới nạn nhân ra khỏi tuyết.
Hai tay lạnh cóng, ông rút chiếc khăn đang đeo cổ cuốn lấy bàn tay phải làm chiếc găng tay cho đỡ lạnh. Bấy giờ mới ló ra cổ áo dòng đen có chiếc collar màu trắng. Ông là một linh mục đang trên đường đi làm việc mục vụ.
Nạn nhân nằm co quắp, người vẫn còn mềm. Linh mục bới sạch tuyết trên mặt nạn nhân, ông nhăn mặt nghĩ ngợi. Trên khuôn mặt như có nét quen thuộc mà vị linh mục hình như gặp nạn nhân ở đâu đó. Có thể là bộ râu? Mái tóc? Hay là sống mũi? Linh mục cố moi móc trong cái trí nhớ bắt đầu già nua theo tuổi tác. Đôi mắt nạn nhân nhắm nghiền như đang ngủ say. Càng nhìn kĩ, linh mục càng xác tín là đã gặp nạn nhân rồi. Xác định nhưng vẫn mơ hồ, lãng đãng chưa tìm được chứng cớ rõ ràng. Đang cố gắng lục lọi các ngăn tủ của trí nhớ, ngài lại nhìn thấy một đầu miếng vải khác nữa nhô lên khỏi tuyết ở cách đó không xa, chừng vài bước chân. Vị linh mục kéo mạnh miếng vải, cả chiếc túi bật lên. Ngài ngó đăm đăm vào chiếc áo choàng lớn mà nạn nhân đang mặc. Màu vải của chiếc túi và của chiếc áo khoác giống y như nhau. Thêm một tia sáng soi vào vùng tối của trí nhớ, quay ngược thời gian về khoảng 7 năm trước đây. Chính chiếc áo này, gã đàn ông đã mặc, với túi vải này hắn đã xách theo đứng trước tòa án khi bị tố cáo là ăn cắp quả chuông của nhà thờ.
Linh mục nhìn kĩ hơn vào khuôn mặt nạn nhân, càng nhìn kĩ càng thấy điều đó đúng. Chính nạn nhân là kẻ ăn cắp quả chuông của giáo xứ, năm nào!
Nạn nhân không còn dấu hiệu của sự sống. Linh mục ngần ngại lấy chiếc túi da đen, mở nắp tìm cuốn kinh và lọ dầu thánh, thứ dầu để xức cho bệnh nhân. Biết đâu nạn nhân chưa chết hẳn, nghĩ thế, ngài mở một cuốn sách nhỏ, tìm lời kinh nguyện cho kẻ đang hấp hối rồi đọc:
- Lạy Chúa, xin xót thương tôi tớ Chúa đây, vì lòng nhân từ, xin Chúa ban ơn trợ giúp để người tôi tớ Chúa được mạnh sức trung thành với Chúa đến cùng. Xin dấu thánh của Người là ân sủng xóa hết tội khiên...
Linh mục vừa đọc vừa xức dầu lên trán nạn nhân. Trên vừng trán, khi linh mục vén mớ tóc lên cao, ngài thấy những vết sẹo đã lành lâu ngày nhưng còn trông rõ như những vết gai nhọn đâm chằng chịt. Lúc xức dầu vào lòng bàn tay nạn nhân, ngài thấy bàn tay mềm như người còn sống dù giữa trời tuyết giá băng. Ở lòng bàn tay ưng ửng đỏ rồi máu từ từ rớt xuống nền tuyết trắng tinh. Lòng bàn tay mở ra một lỗ bị đâm thật lớn như dấu bị đóng đinh. Linh mục ngỡ rằng nạn nhân đã bị kẻ cướp đánh. Thế nhưng còn dấu đinh ở bàn tay? Nếu bị cướp giết thì sao lại để lại chiếc túi? Nạn nhân đã bị tuyết phủ sao vẫn còn máu tươi đỏ? Mà những gì đựng trong túi vải kia? Linh mục lại bắt đầu băn khoăn, linh tính báo cho ngài biết một sự gì khác thường, nhưng ngài không thể xác định được.
Linh mục đổ tất cả mọi thứ trong chiếc túi vải xuống tuyết. Một mớ quần áo cũ. Tất cả chỉ có thế. Chính những quần áo mà ngài đã nhìn thấy mấy năm trước đây khi quan tòa ra lệnh cho hắn lấy ra khỏi chiếc túi trong ngày hắn bị xử án. Linh mục lục lọi kĩ nhưng không có gì. Riêng có một gói nhỏ, bọc kính cẩn bằng miếng vải màu đỏ thẫm. Khi mở xong lớp vải sau cùng, linh mục thất vọng, đây không phải là gói tiền hay nột thứ gì quý, chỉ là cuốn sách cũ: Một cuốn Kinh Thánh.
Cuốn Thánh Kinh, bìa da bị cong và rách, những mép trang nhàu nát vì bị mở quá nhiều lần. Vị linh mục mở qua, mở lại nhưng cũng chẳng có một thứ giấy tờ gì nói cho rõ nạn nhân là ai.
Riêng ở trang đầu tiên, khi linh mục mở tờ bìa, ở góc phải, phía trên cao có mấy chữ viết như học sinh vẫn đề tên vào góc sách để biết sách nào là của ai. Nét chữ không đẹp, nét mực cũng nhòe, phải nhìn kĩ người ta mới có thể đọc được: Giêsu, Nazareth.
Lời cuối:
Tôi có thể kết ở đây. Lối kết hơi đột ngột.
Đọc được tên Đức Kitô trong những nghịch cảnh, dưới hình dáng những người khốn cùng là một thách đố can đảm. Người ta hay đọc lộn tên Ngài bởi những thế lực, quyền quý, lòng tự phụ, thánh thiện độc đoán. Hai nghìn năm trước, các thầy thượng phẩm cũng nhân danh Yavê mà kết án Đức Kitô. Con người thích nhân danh công lí mà kết án công lí. Trên đường Jerusalem, những giọt nước mắt khóc thương Chúa thì Chúa bảo hãy khóc thương chính mình.
Kẻ thắc mắc thì cho rằng người viết không đề cao điều thiện. Sao tác giả không minh oan cho nạn nhân mà lại để chết đơn côi trong chiều tuyết lạnh? Có phải trong lối kết cấu tác giả đã đề cao điều ác? Đức Kitô cũng đã chết trên đồi máu, vậy sự ác có toàn thắng?
Tác giả: Nguyễn Tầm Thường, sj.
( Xem lại trang đầu Xin bấp vào đây (http://www.vietnhim.com/dongnhim/showthread.php/35509-C-C%C3%A0nh-H%E1%BB%93ng-Tr%C3%AAn-%C4%90%E1%BB%93i-Tuy%E1%BA%BFt) )
http://www.dunglac.org/upload/article/1187969741.jpg
truyện ngắvTrích trong tuyển tập truyện ngắn ĐƯỜNG VỀ THƯỢNG TRÍ của Nguyễn Tầm Thường
Người thanh niên ngồi yên. Lời nói trong hồn thăm thẳm sâu. Nhẹ nhàng như lời mời, thách đố như lệnh truyền. Phải đi. Phải đến. Đấy là ý nghĩa đời chàng. Một thoáng lại hiện về trong trí nhớ. Nhà tù, vòng sắt, quan tòa. Chàng biết gian dối, bất công có sức mạnh của nó, kẻ dám đương đầu với bất công là kẻ phải can đảm chấp nhận tù đầy, khổ đau. Chàng nghĩ tới thân mình. Một thoáng lo âu ngần ngại lướt qua như lời nói khẽ cho chàng hay đời chàng sẽ còn nhiều giông tố phũ phàng vì chàng dám sống cho sự thật. Ý nghĩ ấy làm chàng băn khoăn. Nhưng chàng đứng dậy, xách theo túi vải, nói với lòng mình:
- Thức ăn của ta là làm theo Đấng đã sai ta.
Người đàn bà bên kia đường trông thấy, vội rời hè phố, băng qua lộ, bước qua hàng rào công viên, đến trước mặt chàng:
- Ông có lửa không?
Người phụ nữ vừa nói vừa đưa điếu thuốc lên môi. Móng tay nàng dài, sơn mầu huyết dụ. Cặp môi đỏ mướt như vừa mới thoa son xong. Chàng đưa tay lên túi áo ngực:
- Xin lỗi, tôi không có bật lửa.
Người đàn bà chờ đợi thêm, hắn chỉ nói có thế. Nàng thất vọng, hơi bực mình, nhưng người đàn bà kiên nhẫn thêm. Bây giờ nàng đứng sát bên hắn. Gã bối rối vì mùi nước hoa làm chàng xao xuyến. Và dường như ngực người đàn bà cũng vừa chạm vào da thịt chàng. Dưới vùng sáng của ngọn đèn néon ở góc công viên, chàng thấy chiếc cúc áo ngực của người đàn bà đã mở rộng. Da thịt nàng căng tròn. Chưa biết phản ứng, người đàn bà đến sát chàng thêm nữa. Chiếc quần bó chẽn, mùi nước hoa đẩy đưa người đàn bà vào dáng dấp cám dỗ. Giọng nói phụ nữ đuổi đi cái im lặng ngập ngừng:
- Năm mươi đồng?
Hắn không hiểu gì. Người đàn bà nói thẳng:
- Năm mươi đồng một đêm!
Nàng đợi chờ phản ứng của gã. Hắn có hiểu ý? Hắn nghe không rõ? Im lặng. Hắn không dám hỏi lại. Người đàn bà chỉ tay vào túi vải hắn đang đeo, hỏi thăm rồi bảo chàng:
- Bán cho tôi ít dâu và mấy trái dưa đi, bao nhiêu?
Hắn không biết trả lời thế nào. Cuộc gặp gỡ bất ngờ. Đã mấy năm trong tù, chẳng biết gì ngoài xã hội. Từ chiều đến giờ mà đã gặp bao nhiêu chuyện bất ngờ. Cúi mở chiếc túi thì người đàn bà đặt tay lên vai ra hiệu cho chàng hãy đem ra chỗ có ánh sáng. Hắn xách túi vải theo sau người đàn bà. Nhưng họ đã không dừng lại ở ngọn đèn nơi đầu công viên. Họ tiếp tục đi với nhau dọc dẫy phố. Họ nói chuyện với nhau nhiều hơn. Đã có một cánh cửa nào đó mở ngõ cho những câu chuyện có lối đi về. Khi chàng biết được nàng là một gái đêm đang tìm khách, và người khách hàng nàng đang muốn ngủ đêm nay lại là chính chàng, chàng cảm thấy lo âu hồi hộp, nhưng cũng có phiêu lưu. Chàng chưa bao giờ gần gũi đàn, đêm nay là đêm đầu tiên chàng ngửi thấy mùi nước hoa ngay bên, da thịt căng đầy trước mặt, Chàng bối rối, rồi tự nhủ chắc chắn phần thắng sẽ về chàng. Chàng nhớ lại lời nói ban nẫy khi chàng cầu nguyện:
- Nơi nào có bóng tối thì con hãy đốt lên một que diêm. Đêm nay chàng đã gặp bóng tối. Thầm nghĩ nhất định chàng phải đem tâm hồn nàng về với ánh sáng. Chàng sẽ đốt lên một que diêm. Ý nghĩ ấy cho chàng can đảm, bình tĩnh theo nàng về căn gác trọ.
Vị chánh án hỏi bị can:
- Ông có quả bị bắt trong đêm ngày mồng 5 tháng 4 ở căn nhà số 103 không?
- Thưa quan tòa đúng.
- Ông đến đó làm gì?
- Tôi đến để thắp lên một ánh lửa trong bóng đêm.
Ở một góc nọ người đàn bà béo phị vừa cười ngặt nghẽo vừa lớn tiếng trong giọng nói pha trò:
- Ông ấy là thánh đấy!
Mọi người cười ồ. Riêng người phụ nữ bị kết án là gái điếm cúi đầu khóc. Vị quan tòa hỏi nàng:
- Còn cô, cô muốn nói gì không?
Người đàn bà tức giận, không ngần ngại nhìn thẳng vào ông chánh án trả lời:
- Biết bao nhiêu người đàn ông đã đến với tôi, trí thức có, đạo mạo có, họ là những kẻ kết án tôi ban ngày nhưng lại cần tôi ban đêm...
Người đàn bà còn đang nói, có tiếng đập bàn phản đối của người đàn ông phía sau. Ông chánh án đập chiếc búa gỗ ra lệnh cho tất cả giữ trật tự. Mặt ông đỏ như gấc, tức tối vì câu nói của người đàn bà, như ông thấy trong số những người đàn ông mà bà ám chỉ đã có cả ông:
- Yêu cầu bà chỉ trả lời vào câu hỏi. Bà có muốn khiếu nại gì không?
Người đàn bà chỉ tay về phía gã đàn ông nói:
- Tôi không khiếu nại gì cho tôi, nhưng riêng người này vô tội. Ông không tìm tôi như nhiều người đàn ông ông khác, nhưng tôi tìm ông. Ông nghèo. Ông chỉ có một tâm hồn là giàu có. Ông đã đốt lên một que diêm trong bóng đêm. Ông chỉ cho tôi con đường về nhà cũ mà tôi đã bỏ đi. Ông chính là đấng thánh như lời các người vừa nói!
Cả phòng xử án phá lên cười. Vị quan tòa không đập búa nữa nhưng đợi cho mọi người cười xong, ông mở tập hồ sơ rồi tuyên bố vắn gọn:
- Tất cả đã rõ. Những mụn ghẻ trên da thịt xã hội phải được cắt đứt!
Cả phòng xử im lặng vì giọng nói cứng rắn bực tức của ông. Người đàn ông bị kết án đứng xuôi tay nhớ lại lời từ trời cao đã nói với hắn trong khi cầu nguyện:
- Nơi nào có ngổn ngang thì con hãy sống trong sự thật. Nơi nào phức tạp thì con hãy giữ trái tim đơn sơ. Nơi nào có gian dối thì Cha gọi con tới. Nơi nào có bất công thì Cha bảo con đến.Chàng cúi đầu chấp nhận tất cả. Riêng người đàn bà bị kết tội là điếm ôm mặt khóc nức nở. Nàng không sợ hãi cho đời nàng nhưng nàng thương người đàn ông vô tội đang đứng trước mặt nàng. Chính nàng là người hiểu rõ đâu là sự thật, đâu là công lí của xã hội. Cả phòng xử đông người nhưng chỉ có hai kẻ bị kết án là biết sự thật và cùng đau khổ cho sự thật.
SAU NHỮNG NGÀY TÙ
Tất cả trắng bát ngát. Tuyết phủ kín cánh đồng. Hàng táo đứng trơ cành khô khẳng khiu. Gió ào ào như muốn xô ngã tên tù. Hắn ôm túi vải vào ngực, đứng nhìn cánh đồng tuyết lạnh mà thấy cô đơn về mênh mông.
Hắn đã được thả tù sớm hơn bản án cay nghiệt vì sức khỏe hao mòn. Đã nhiều đêm hắn muốn tắt thở vì cơn ho. Vào những tháng gần đây sức khỏe của hắn giảm sút một cách thảm hại. Gió rét về từng cơn. Hắn đi không vững. Mặt hốc hác, chỉ còn đôi mắt vẫn huyền nhiệm.
Ra tù lần này khác với những năm về trước. Bây giờ là mùa đông băng giá. Chàng xiêu vẹo cầm cự với những cơn gió vô tình nghiệt ngã. Thỉnh thoảng hắn lại ngồi xuống ôm ngực ho. Mỗi lúc gió một nhiều. Dường như có một trận bão ở đâu đó. Hắn tìm lối xuống đồi nhưng tất cả mọi lối mòn đã bị tuyết phủ kín. Hắn chỉ còn căn cứ vào những hàng cây bên đường mà phỏng đoán lối đi. Hắn nhớ lại kì ra tù lần trước có hàng cây anh đào, nhưng hôm nay đã biến mất. Chúng đã bị chặt từ thuở nào? Gió lật ngược tấm vải khoác, chàng phải ngồi xuống tránh gió. Đi đâu bây giờ? Chàng thấy vũ trụ mà Thượng Đế đã dựng nên lớn quá, nhưng chàng không có chỗ nghỉ chân. Chàng thấy Thượng Đế đã trang điểm vũ trụ bằng vàng bạc châu báu mà chàng thì không có bữa ăn chiều nay.
Trời về tối gió càng lạnh. Đi được một quãng xa, đến gần ngọn đồi năm xưa mà bác nông phu đã cho chàng bánh, dâu thơm, trời chuyển mây, tuyết rơi. Chàng nhớ về những kỉ niệm năm xưa ở khúc đường này, muốn ứa lệ. Giờ này các bác nông phu ở đâu? Tuyết rơi rất nhanh. Cố gắng bước vội. Đã thấy ánh đèn phố xa tít dưới thung lũng. Chàng nhớ tới ngôi nhà thờ đã ngồi nghỉ năm xưa. Chàng thầm nghĩ sẽ cố gắng về tới nơi để xin một chỗ trọ đêm nay. Trên đồi tuyết lạnh mà những tưởng tượng ra mùi hương trầm nồng ấm của nhà thờ, lòng chàng nhẹ nở một an ủi êm đềm.
Nhưng chàng đã chẳng bao giờ tới nơi. Tuyết rơi dầy hơn, nhanh hơn. Mỗi lúc tuyết một phủ kín thêm cánh đồng đã trắng lạnh. Trên ngọn đồi, một đống tuyết nhỏ nổi bật lên cao phủ kín tên tù nhân xấu số. Hắn đã ngã chết vì đói trong trời tuyết lạnh.
Xế chiều, mặt trời mù mờ trong sương. Từ dưới thung lũng đi lên, người ta thấy một bóng người trong chiếc áo khoác màu đen. Đầu, cổ choàng khăn kín mít. Cánh đồng trắng như một biển muối. Rải rác đây đó những bụi cây nhỏ đứng chơ vơ. Hàng táo ở ven đường càng về chiều càng đen sẫm. Cơn bão tuyết đã dứt từ mấy hôm nay. Gió thổi bay những hạt tuyết đọng trên cành, bây giờ chỉ còn những cành cây trơ trọi, đen đủi, thỉnh thoảng rung rinh khi con gió đến.
Khi đi tới ngọn đồi, người đàn ông ngó về phía đồi tuyết. Ông tần ngần đi chậm lại, băng qua ruộng lúa bị tuyết phủ ngập, đi dần lên gò tuyết cao. Tuyết phủ mịn màng như một bãi cát đồng trinh. Bước đi của người đàn ông in từng vết chân thành một vệt ngoằn ngoèo dài. Tới gần đồi tuyết, ông không thể hồ nghi được nữa. Trước mặt ông là cụm hoa hồng!
Vì sao lại có cây hồng giữa mùa đông băng giá? Đây có phải là cây hồng thật? Ngạc nhiên quá đỗi. Ông cúi xuống, ngồi sát bên cây hồng. Màu lá xanh ngát thỉnh thoảng rung lên theo nhịp gió đẩy. Một bông hồng lớn bằng trái cam, đỏ thẫm. Cánh hồng mướt như nhung. Sương ướt còn long lanh trên những cánh hồng mềm. Người đàn ông đứng ngó sững sờ. Ông lại thắc mắc một mình. Giữa đồi tuyết lạnh sao lại có cành hồng? Tất cả cây cối đều rũ bã chết khô sao lại có cây hồng xanh tươi? Cả rừng cây đứng thua trận mùa đông sao lại có cành hồng thản nhiên? Người đàn ông giơ tay vuốt những cánh hồng xinh. Một cơn gió nhẹ, cánh hồng lao chao nghiêng ngả. Người đàn ông với tay đỡ, che cho bông hồng. Cánh gai nhọn làm tay ông rướm máu, bấy giờ ông mới nhận thấy một điều khác lạ: Những mũi gai nhọn. Gai hồng này không giống những loại hồng khác. Người đàn ông nhìn kĩ, chưa bao giờ thấy những chiếc gai lạ như thế. Dài gấp ba, bốn lấn gai hồng thường, nhọn hoắt như lưỡi dao sắc bén. Người đàn ông băn khoăn vì cây hồng ngoại lệ trong mùa đông, không biết giải thích ra sao. Ông định hái bông hoa nhưng rồi lại đổi ý. Gạt tuyết ở gốc hồng, ông tìm cách bứng cả cụm hồng về nhà trồng. Gạt được một mớ tuyết, ông thấy sồn sột của móng tay cào trên nền vải. Ông bới mạnh hơn, dưới lớp tuyết phủ, một tấm vải màu vàng ngà. Ngạc nhiên, hồi hộp, ông tiếp tục lần theo chiều vải, cào tuyết. Ló ra một khoảng lớn. Ông cầm miếng vải kéo mạnh. Tuyết bay mù mịt. Hoảng hốt giật bắn người: Một đôi chân! Ông vội lui về phía sau. Một đôi chân người! Ông quay mặt nhìn chung quanh, muốn cầu cứu, cánh đồng hoang vu vắng lặng. Chênh chếch về phía tây, mặt trời mù đặc trong sương ẩm.
Người đàn ông tháo chiếc túi vải đeo ở vai để xuống bên cạnh. Chiếc túi da màu đen có in hình thánh giá mạ vàng. Túi da nhắc nhở ông đến một sứ mạng thiêng liêng. Ông ngó quanh như mong có người đang đi đường để ông bớt lẻ loi. Đây là nạn nhân bão tuyết? Có thể bị cướp đánh? Còn nhiều cái có thể đặt ra trong đầu ông. Có thể họ đã chết? Có thể còn sống? Nếu sống, ông phải làm gì? Câu hỏi làm ông liên tưởng đến túi da bên cạnh có in hình thánh giá ở ngoài. Cây thánh giá ấy cho ông thêm can đảm bới nạn nhân ra khỏi tuyết.
Hai tay lạnh cóng, ông rút chiếc khăn đang đeo cổ cuốn lấy bàn tay phải làm chiếc găng tay cho đỡ lạnh. Bấy giờ mới ló ra cổ áo dòng đen có chiếc collar màu trắng. Ông là một linh mục đang trên đường đi làm việc mục vụ.
Nạn nhân nằm co quắp, người vẫn còn mềm. Linh mục bới sạch tuyết trên mặt nạn nhân, ông nhăn mặt nghĩ ngợi. Trên khuôn mặt như có nét quen thuộc mà vị linh mục hình như gặp nạn nhân ở đâu đó. Có thể là bộ râu? Mái tóc? Hay là sống mũi? Linh mục cố moi móc trong cái trí nhớ bắt đầu già nua theo tuổi tác. Đôi mắt nạn nhân nhắm nghiền như đang ngủ say. Càng nhìn kĩ, linh mục càng xác tín là đã gặp nạn nhân rồi. Xác định nhưng vẫn mơ hồ, lãng đãng chưa tìm được chứng cớ rõ ràng. Đang cố gắng lục lọi các ngăn tủ của trí nhớ, ngài lại nhìn thấy một đầu miếng vải khác nữa nhô lên khỏi tuyết ở cách đó không xa, chừng vài bước chân. Vị linh mục kéo mạnh miếng vải, cả chiếc túi bật lên. Ngài ngó đăm đăm vào chiếc áo choàng lớn mà nạn nhân đang mặc. Màu vải của chiếc túi và của chiếc áo khoác giống y như nhau. Thêm một tia sáng soi vào vùng tối của trí nhớ, quay ngược thời gian về khoảng 7 năm trước đây. Chính chiếc áo này, gã đàn ông đã mặc, với túi vải này hắn đã xách theo đứng trước tòa án khi bị tố cáo là ăn cắp quả chuông của nhà thờ.
Linh mục nhìn kĩ hơn vào khuôn mặt nạn nhân, càng nhìn kĩ càng thấy điều đó đúng. Chính nạn nhân là kẻ ăn cắp quả chuông của giáo xứ, năm nào!
Nạn nhân không còn dấu hiệu của sự sống. Linh mục ngần ngại lấy chiếc túi da đen, mở nắp tìm cuốn kinh và lọ dầu thánh, thứ dầu để xức cho bệnh nhân. Biết đâu nạn nhân chưa chết hẳn, nghĩ thế, ngài mở một cuốn sách nhỏ, tìm lời kinh nguyện cho kẻ đang hấp hối rồi đọc:
- Lạy Chúa, xin xót thương tôi tớ Chúa đây, vì lòng nhân từ, xin Chúa ban ơn trợ giúp để người tôi tớ Chúa được mạnh sức trung thành với Chúa đến cùng. Xin dấu thánh của Người là ân sủng xóa hết tội khiên...
Linh mục vừa đọc vừa xức dầu lên trán nạn nhân. Trên vừng trán, khi linh mục vén mớ tóc lên cao, ngài thấy những vết sẹo đã lành lâu ngày nhưng còn trông rõ như những vết gai nhọn đâm chằng chịt. Lúc xức dầu vào lòng bàn tay nạn nhân, ngài thấy bàn tay mềm như người còn sống dù giữa trời tuyết giá băng. Ở lòng bàn tay ưng ửng đỏ rồi máu từ từ rớt xuống nền tuyết trắng tinh. Lòng bàn tay mở ra một lỗ bị đâm thật lớn như dấu bị đóng đinh. Linh mục ngỡ rằng nạn nhân đã bị kẻ cướp đánh. Thế nhưng còn dấu đinh ở bàn tay? Nếu bị cướp giết thì sao lại để lại chiếc túi? Nạn nhân đã bị tuyết phủ sao vẫn còn máu tươi đỏ? Mà những gì đựng trong túi vải kia? Linh mục lại bắt đầu băn khoăn, linh tính báo cho ngài biết một sự gì khác thường, nhưng ngài không thể xác định được.
Linh mục đổ tất cả mọi thứ trong chiếc túi vải xuống tuyết. Một mớ quần áo cũ. Tất cả chỉ có thế. Chính những quần áo mà ngài đã nhìn thấy mấy năm trước đây khi quan tòa ra lệnh cho hắn lấy ra khỏi chiếc túi trong ngày hắn bị xử án. Linh mục lục lọi kĩ nhưng không có gì. Riêng có một gói nhỏ, bọc kính cẩn bằng miếng vải màu đỏ thẫm. Khi mở xong lớp vải sau cùng, linh mục thất vọng, đây không phải là gói tiền hay nột thứ gì quý, chỉ là cuốn sách cũ: Một cuốn Kinh Thánh.
Cuốn Thánh Kinh, bìa da bị cong và rách, những mép trang nhàu nát vì bị mở quá nhiều lần. Vị linh mục mở qua, mở lại nhưng cũng chẳng có một thứ giấy tờ gì nói cho rõ nạn nhân là ai.
Riêng ở trang đầu tiên, khi linh mục mở tờ bìa, ở góc phải, phía trên cao có mấy chữ viết như học sinh vẫn đề tên vào góc sách để biết sách nào là của ai. Nét chữ không đẹp, nét mực cũng nhòe, phải nhìn kĩ người ta mới có thể đọc được: Giêsu, Nazareth.
Lời cuối:
Tôi có thể kết ở đây. Lối kết hơi đột ngột.
Đọc được tên Đức Kitô trong những nghịch cảnh, dưới hình dáng những người khốn cùng là một thách đố can đảm. Người ta hay đọc lộn tên Ngài bởi những thế lực, quyền quý, lòng tự phụ, thánh thiện độc đoán. Hai nghìn năm trước, các thầy thượng phẩm cũng nhân danh Yavê mà kết án Đức Kitô. Con người thích nhân danh công lí mà kết án công lí. Trên đường Jerusalem, những giọt nước mắt khóc thương Chúa thì Chúa bảo hãy khóc thương chính mình.
Kẻ thắc mắc thì cho rằng người viết không đề cao điều thiện. Sao tác giả không minh oan cho nạn nhân mà lại để chết đơn côi trong chiều tuyết lạnh? Có phải trong lối kết cấu tác giả đã đề cao điều ác? Đức Kitô cũng đã chết trên đồi máu, vậy sự ác có toàn thắng?
Tác giả: Nguyễn Tầm Thường, sj.
( Xem lại trang đầu Xin bấp vào đây (http://www.vietnhim.com/dongnhim/showthread.php/35509-C-C%C3%A0nh-H%E1%BB%93ng-Tr%C3%AAn-%C4%90%E1%BB%93i-Tuy%E1%BA%BFt) )