Dan Lee
07-23-2010, 11:59 PM
Chúa Nhật Thứ 17 Mùa Thường Niên, Năm C
Đẹp thay lời nguyện xin
St 19, 2-32; Cl 2, 12-14; Lc 11, 1-13
Không ai là một hòn đảo ! Sống trên đời này, mọi người đều có một mối liên hệ này hay liên hệ khác với nhau để rồi nay người này nhờ người kia và mai người kia nhờ người này. Con người, dù muốn dù không vẫn chỉ giúp cho anh chị em đồng loại của mình ở một mức độ cho phép mà thôi.
Khi con người đối diện với những vấn đề ngoài tầm tay thì con người lại chạy đến với những vị thần linh, thần thánh mà mình tôn thờ. Chúa Giêsu khi mặc lấy phận người Ngài cũng phải đương đầu, đối diện với tất cả những khó khăn, những hạn chế của phận người để rồi Ngài lại chạy đến với Chúa Cha mà cầu nguyện.
Với thánh Luca, Ngài thường dành một vị trí hết sức đặc biệt cho lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Thánh Luca thường mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ "không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ".
Để ghi dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu, Thánh Luca đã ghi lại lời cầu nguyện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.
Lời nguyện xin hết sức đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ khi thốt lên: "Abba", nghĩa là: "Lạy Cha".
Các môn đệ đã chứng kiến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe. Các môn đệ đã phải nghe Chúa Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu đã muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người rõ muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người.
Thánh Matthêu lại khác với Luca, Mátthêu thuật việc truyền lại kinh Lạy Cha.
Thánh Luca trong khuôn khổ Bài Giảng trên núi thì lại đặt chữ "Lạy Cha" trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà nơi đó, Chúa Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Chúa Giêsu, "ở một nơi nào đó", "đang cầu nguyện", và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: "Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện". Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái, sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức - mà chúng ta không biết - mà "Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông". Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu nguyện kiểu mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh "Lạy Cha".
Những hoàn cảnh, trong đó lời cầu nguyện kiểu mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Chúa Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh…Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi, đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Chúa Giêsu đồng ý, bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các kitô hữu cầu nguyện như Chúa Giêsu: "Nhờ Người, với Người, trong Người" là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý".
"Kinh Lạy Cha" của thánh Luca ngắn hơn của thánh Matthêu, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Chúa Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: "Lạy Cha" ("Lạy Cha chúng con" trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện kitô giáo, giúp môn đệ Chúa Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: "Lạy Cha" (Gl. 4, 6; Rm 8,15 ). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diển tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các kitô hữu với Thiên Chúa."
Với hai ước nguyện cùng hiện diện song song trong lời nguyện của người Do Thái.
Sự thánh hóa Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong Người được mọi người nhận biết!
Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của ngài !
"Lạy Cha, xin ngự đến" đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là "đối tượng" duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa"
Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: "Con", nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: "Chúng con", các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
Để tiếp tục cuộc hành trình lữ thứ trần gian, lời xin ơn thứ nhất hướng về "cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày". "Trước hết ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ Xuất Hành, và, theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày"
"Sự tha thứ tội lỗi của chúng con" đó là điều hai mà lời xin nhắm đến. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Nếu đã trót phạm tội với Chúa mà không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với Thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ chẳng có gì để mà trả được cả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiên Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
Với con người, vốn mỏng dòn yếu đuối, luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thì lời xin ơn thứ ba, lời xin sau cùng liên hệ đến sự trợ giúp trong "cơn cám dỗ". Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Chúa Giêsu đã được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ trước khi lên đường thực thi sứ vụ công khai loan báo Tin mừng của Ngài. Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong chương 22 câu 32: "Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin". Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quị, cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
Với lời nguyện tin tưởng và kiên trì. Chúa Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa cho dụ ngôn được rõ hơn.
Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay "lúc giữa đêm", và không ngại nằn nỉ đến độ "sỗ sàng", để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến.
Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: "Chúa Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con..."
Vốn dĩ là một người cha nhân hậu, người cha tốt lành, Thiên Chúa chẳng lẽ không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần.
Các nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường này là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là "con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động".
Xin cho mỗi người chúng ta học nơi gương của Chúa Giêsu luôn kiên trì, luôn khiêm tốn chạy đến với Cha là Thiên Chúa giàu lòng thương xót để Ngài ban những ơn lành cần thiết cho chúng ta để chúng ta vượt qua tất cả những khó khăn thử thách của cuộc đời.
Lm Anmai, DCCT
Đẹp thay lời nguyện xin
St 19, 2-32; Cl 2, 12-14; Lc 11, 1-13
Không ai là một hòn đảo ! Sống trên đời này, mọi người đều có một mối liên hệ này hay liên hệ khác với nhau để rồi nay người này nhờ người kia và mai người kia nhờ người này. Con người, dù muốn dù không vẫn chỉ giúp cho anh chị em đồng loại của mình ở một mức độ cho phép mà thôi.
Khi con người đối diện với những vấn đề ngoài tầm tay thì con người lại chạy đến với những vị thần linh, thần thánh mà mình tôn thờ. Chúa Giêsu khi mặc lấy phận người Ngài cũng phải đương đầu, đối diện với tất cả những khó khăn, những hạn chế của phận người để rồi Ngài lại chạy đến với Chúa Cha mà cầu nguyện.
Với thánh Luca, Ngài thường dành một vị trí hết sức đặc biệt cho lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Thánh Luca thường mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ "không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ".
Để ghi dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu, Thánh Luca đã ghi lại lời cầu nguyện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.
Lời nguyện xin hết sức đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ khi thốt lên: "Abba", nghĩa là: "Lạy Cha".
Các môn đệ đã chứng kiến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe. Các môn đệ đã phải nghe Chúa Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu đã muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người rõ muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người.
Thánh Matthêu lại khác với Luca, Mátthêu thuật việc truyền lại kinh Lạy Cha.
Thánh Luca trong khuôn khổ Bài Giảng trên núi thì lại đặt chữ "Lạy Cha" trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà nơi đó, Chúa Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Chúa Giêsu, "ở một nơi nào đó", "đang cầu nguyện", và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: "Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện". Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái, sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức - mà chúng ta không biết - mà "Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông". Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.
Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu nguyện kiểu mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh "Lạy Cha".
Những hoàn cảnh, trong đó lời cầu nguyện kiểu mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Chúa Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh…Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi, đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Chúa Giêsu đồng ý, bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các kitô hữu cầu nguyện như Chúa Giêsu: "Nhờ Người, với Người, trong Người" là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý".
"Kinh Lạy Cha" của thánh Luca ngắn hơn của thánh Matthêu, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.
Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Chúa Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: "Lạy Cha" ("Lạy Cha chúng con" trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện kitô giáo, giúp môn đệ Chúa Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: "Lạy Cha" (Gl. 4, 6; Rm 8,15 ). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diển tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các kitô hữu với Thiên Chúa."
Với hai ước nguyện cùng hiện diện song song trong lời nguyện của người Do Thái.
Sự thánh hóa Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong Người được mọi người nhận biết!
Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của ngài !
"Lạy Cha, xin ngự đến" đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là "đối tượng" duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa"
Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: "Con", nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: "Chúng con", các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.
Để tiếp tục cuộc hành trình lữ thứ trần gian, lời xin ơn thứ nhất hướng về "cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày". "Trước hết ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ Xuất Hành, và, theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày"
"Sự tha thứ tội lỗi của chúng con" đó là điều hai mà lời xin nhắm đến. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Nếu đã trót phạm tội với Chúa mà không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với Thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ chẳng có gì để mà trả được cả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiên Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.
Với con người, vốn mỏng dòn yếu đuối, luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thì lời xin ơn thứ ba, lời xin sau cùng liên hệ đến sự trợ giúp trong "cơn cám dỗ". Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Chúa Giêsu đã được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ trước khi lên đường thực thi sứ vụ công khai loan báo Tin mừng của Ngài. Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong chương 22 câu 32: "Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin". Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quị, cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.
Với lời nguyện tin tưởng và kiên trì. Chúa Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa cho dụ ngôn được rõ hơn.
Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay "lúc giữa đêm", và không ngại nằn nỉ đến độ "sỗ sàng", để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến.
Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: "Chúa Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con..."
Vốn dĩ là một người cha nhân hậu, người cha tốt lành, Thiên Chúa chẳng lẽ không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần.
Các nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường này là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là "con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động".
Xin cho mỗi người chúng ta học nơi gương của Chúa Giêsu luôn kiên trì, luôn khiêm tốn chạy đến với Cha là Thiên Chúa giàu lòng thương xót để Ngài ban những ơn lành cần thiết cho chúng ta để chúng ta vượt qua tất cả những khó khăn thử thách của cuộc đời.
Lm Anmai, DCCT