Dan Lee
10-28-2010, 10:42 PM
"ĐỪNG NGƯNG CẦU NGUYỆN"
Trong những ngày đầu năm 1937, hàng ngàn người Gia Nã Đại lo lắng chờ đợi bên cạnh chiếc rađiô để nghe tin tức về một con người nhỏ bé, tóc muối tiêu đang nằm hấp hối trong một bệnh viện ở Montreal. Bệnh nhân này không phải là một viên chức chính phủ hay một siêu sao điện ảnh, nhưng là một thầy dòng khiêm tốn của Tu Hội Thánh Giá mà hầu như cả đời thầy chỉ làm công việc gác dan của trường Notre Dame.
Trong hai ngày trước khi từ trần, thầy bị hôn mê, không biết gì về cả một hàng dài các ông, các bà cũng như trẻ em đi ngang qua giường bệnh của thầy. Nhiều người trong họ cũng đang bị bệnh hoặc tàn tật, và tất cả đều chạm đến tay thầy một tượng ảnh hay vật gì đó thiêng liêng.
Giả như Thầy André biết điều đó xảy ra, có lẽ thầy không hài lòng, vì thầy luôn phản ứng một cách khó chịu khi biết là người ta coi thầy như một thánh sống. Trong những năm cuối đời, thầy lớn tiếng than phiền khi thấy một số thầy dòng khác đã cất giấu chiếc áo chùng thâm cũ kỹ của thầy như là một thánh tích. Từ đó trở đi, thầy đếm quần áo thật kỹ!
Dù Thầy André có là thánh hay không, Giáo Hội sẽ quyết định khi đến lúc--thầy được phong chân phước năm 1982. Sự thật không thể chối cãi là trong hơn bốn mươi năm, đám đông những người bệnh hoạn và tật nguyền đã đến căn phòng nhỏ bé của thầy để được chữa bệnh, và nhiều người đã khỏi. Ngay cả không có những phép lạ hiển nhiên này, sự thánh thiện thâm trầm của thầy cũng đã là một yếu tố để được phong thánh.
Thầy André hưởng thọ chín mươi mốt tuổi khi từ trần, nhưng khi bé Alfred Bessette được sinh hạ vào ngày 9 tháng Tám 1845, ít người dám tiên đoán bé sẽ sống lâu như vậy. Từ khi mới sinh thầy là một đứa bé hay bệnh hoạn khiến bà mẹ Clothilde luôn phải lo âu.
Ông Isaac Bessette, một thợ mộc nghèo sống với gánh nặng gia đình đông con ở Saint Gregoire d'Iberville trong khu rừng hẻo lánh của Quebec. Căn nhà của họ không lớn hơn cái lều.
Khi Alfred lên ba, người cha tử thương vì bị cây đè. Chín năm sau, bà mẹ từ trần vì bệnh lao. Những người con côi cút được phân tán sống với các thân nhân. Alfred thì sống với cô chú ở Saint-Césaire.
Đầu tiên học nghề đóng giầy, sau đó là nghề làm bánh, Alfred quá yếu ớt để có thể theo đuổi bất cứ nghề nào. Trong những đêm lo lắng canh thức bên nôi con, bà Clothilde Bessette thường cầu nguyện với Thánh Giuse, là quan thầy đầu tiên của Quebec, cho đứa con mình. Giờ đây chính Alfred cũng cầu xin Thánh Giuse tìm cho mình một công việc thích hợp để làm.
Ngay khi còn nhỏ, Alfred là một đứa trẻ ngoại lệ: các anh chị em không thể nào không thấy sự cầu nguyện lâu giờ và sốt sắng của Alfred. Khi lớn lên, cậu Alfred lại tự gây nên hình phạt đền tội cho chính mình. Bà cô hoảng sợ khi thấy cậu thường đeo ngang thắt lưng một xích sắt bên trong quần áo. Thay vì ngủ trên giường, cậu ngủ trên sàn nhà.
Cũng như nhiều thanh niên Gia Nã Đại thời bấy giờ, Alfred kinh ngạc khi nghe biết về thị trường việc làm đầy dẫy với lương cao ở dọc theo biên giới Hoa Kỳ. Khi một người bạn tìm cho Alfred một công việc trong xưởng bông gòn ở Plainfield, Connecticut, dường như Thánh Giuse đã đáp lời cầu xin. Nhưng chỉ sau ba năm, Alfred lại phải trở về nhà. Một lần nữa, sức khỏe yếu kém đã khiến anh thất bại.
http://www.nguoitinhuu.com/sachtruyen/truyengan/Br-Andre.jpg
Trước khi rời Connecticut một ít lâu, Alfred có một giấc mơ kỳ lạ, trong đó anh thấy Thánh Giuse và rồi một thánh đường lộng lẫy trong một khung cảnh mà anh không thể nhận ra được. Giờ đây, khi về lại Saint-Césaire, anh bắt đầu nghĩ đến việc đi tu.
Thoạt nhìn qua, điều đó dường như là một tham vọng điên rồ. Vì sức khỏe yếu kém, Alfred đã không thích hợp với bất cứ công việc nào ở ngoài đời, và các dòng tu thì không muốn nhận những người mà rất có thể trở nên phế tật.
Nhưng khi người thanh niên này giãi bầy tâm sự với cha sở họ đạo Saint Césaire thì anh không bị nản lòng. Cha Provencal biết rằng đây là một con người với những đức tính ngoại lệ. Vì bệnh hoạn làm gián đoạn việc học, Alfred chưa bao giờ biết đọc và biết viết, vì thế chính cha sở mới viết thư cho các Thầy Dòng Thánh Giá. "Tôi gửi đến các bạn một vị thánh cho tu hội," ngài công bố như vậy.
Bất kể lời giới thiệu đầy kinh ngạc, các thầy rất hoài nghi. Một thanh niên hai mươi lăm tuổi ốm yếu, mù chữ--coi anh là một tập sinh thì dường như là điều nực cười. Hai thầy đi xuống Saint-Césaire với ý định từ chối anh một cách nhẹ nhàng. Nhưng khi họ đối diện với người thanh niên nhỏ bé, đầy nhiệt huyết, họ bị đảo ngược--nhất là sự sùng kính Thánh Giuse một cách mãnh liệt. "Tôi tin chắc là nếu tôi được phép phục vụ thánh nhân, sức khỏe tôi sẽ thăng tiến," anh tuyên bố như vậy. Vì sự kinh ngạc cách nào đó, chính hai thầy lại là người đề nghị chấp nhận Alfred.
Và vì vậy, vào mùa thu 1870, Alfred Bessette đến tu viện Thánh Giá ở Côte-des-Neiges, trên sườn núi Royal--là ngọn núi mà thành phố Montreal lấy tên của nó. Bất kể sức khỏe yếu kém, Alfred luôn luôn là một con người vui vẻ, và giờ đây chưa bao giờ anh vui như thế. Các công việc hèn hạ, buồn bã lại đem cho anh niềm vui: cọ sàn nhà, sửa chữa, rửa chén bát, tất cả những việc ấy anh thi hành với nụ cười phấn khởi. Trong vòng nhiều tháng anh được mặc áo dòng mà anh hằng ao ước từ lâu và trở nên một tập sinh, Thầy André.
Không phải đợi hai năm nữa thì thầy mới thực sự là một phần tử đủ bản lãnh của tu hội. Năm kế đó không thấy dấu hiệu nào là thầy mạnh khỏe hơn. Vị bề trên bắt đầu bâng khuâng tự hỏi không biết có lầm lẫn không. Vì Thiên Chúa đã không ban cho André sức khỏe cần thiết, nói cho cùng có lẽ thầy không nên đi tu.
Khi Đức Giám Mục Bourget đến thăm tu hội, Thầy André đã không bỏ lỡ cơ hội để thỉnh cầu trực tiếp. Một lần nữa nhiệt huyết của thầy đã thắng. Thầy được phép khấn tạm và sau đó, năm 1872, thầy khấn trọn. Vị giám đốc nhà tập tuyên bố, "Nói cho cùng, ngay cả khi thầy ấy không thể làm việc được thì tối thiểu thầy ấy có thể cầu nguyện cho chúng ta."
Vị thầy "ốm yếu" này đã làm việc và cầu nguyện với sự hăng hái mà với một người to lớn cũng phải vất vả--và thầy đã tiếp tục làm việc như vậy trong sáu mươi năm kế tiếp. Đôi khi thầy thức suốt đêm để cầu nguyện và để chu toàn các công việc, vì ngoài các nhiệm vụ bình thường, thầy còn phải rời trường Notre Dame để đi thăm những người đau ốm hay gặp khó khăn. Ngài ăn rất ít; một miếng bánh mì chấm sữa và nước lạnh được coi là bữa ăn đầy đủ của thầy.
Vào lúc này thầy không còn mù chữ: Các thầy khác đã dậy ngài biết đọc và biết viết. Thầy không thể nào trở thành một giáo chức--học vấn của thầy không bao giờ lên tới cao độ đó--tuy nhiên cá tính của thầy lại thu hút các học sinh như đá nam châm. Các em mới đến trường và khóc vì nhớ nhà được mời vào "văn phòng" nhỏ bé của thầy để trò chuyện, không lâu sau đó đã bước ra với nụ cười.
http://www.nguoitinhuu.com/sachtruyen/truyengan/AndreBessette.jpg
Hai biến cố nhỏ đã gia tăng sự nổi tiếng của thầy và tạo nên sự kinh ngạc lớn lao nơi các học sinh. Khi đến lúc cần một trái banh mới, lúc đầu các em học sinh bị từ chối. Thầy André bảo các em đến xin nữa và kìa, chúng lại được ban cho một trái banh mới. Khi một cuộc du ngoạn ngoài trời được xẩy ra một cách lạ lùng trong sự tuyệt vọng của mọi học sinh, một cách tự nhiên các học sinh cũng nóng lòng muốn biết thầy làm thế nào mà được như vậy.
"Đừng cám ơn tôi, hãy cám ơn Thánh Giuse," là câu trả lời thường kèm theo một nụ cười khó hiểu.
Không bao lâu nhiều câu chuyện được lan truyền trong và ngoài thành phố. Người ta nói rằng khi Thầy André đến thăm, người bệnh được khỏi. Một ngày kia, có bà bị què được hai người dìu đến trường. Bà gặp một thầy dòng đang lau chùi hành lang và xin gặp Thầy André.
"Tôi đây," thầy trả lời và đứng lên.
Bà nói, "Tôi nghe nói thầy có thể chữa bệnh. Làm ơn thầy giúp tôi được không?"
Thầy André mỉm cười một cách kỳ quặc.
"Bà có chắc là bị què không?" thầy hỏi. "Tôi tin là bà có thể bước đi một mình nếu cố gắng. Sao bà không thử đi đến nhà nguyện xem sao?"
Hai người bạn đang đỡ bà thận trọng buông tay ra. Chậm chạp và đau đớn, bà khập khiễng đi đến nhà nguyện. Khi trở lại, bà bước đi bình thường.
"Khi họ nói với tôi là thầy có thể chữa lành, tôi không biết có nên tin hay không," người phụ nữ nói, nước mắt dàn dụa. "Bây giờ tôi biết đó là sự thật."
"Không phải tôi là người chữa lành," Thầy André nói với bà. "Đó là Thánh Giuse."
Vẫn tràn ngập lòng biết ơn, bà hỏi xem có thể làm gì cho vị ân nhân. Câu trả lời thật ngạc nhiên.
"Bà có thể cầu xin để một ngày nào đó Thánh Giuse sẽ có một ngôi nhà thật đẹp cho Con của người ở trên núi kia," thầy mỉm cười.
Nhiều lần trong ngày, từ nơi làm việc Thầy André liếc mắt nhìn lên đám cây mọc ngổn ngang và các bụi cây rậm rạp bao phủ ngọn núi. Thường vào buổi tối, thầy leo lên đó để cầu nguyện.
Tuy nhiên ước mơ của thầy về một thánh đường cung hiến cho Thánh Giuse dường như không thực tế. Cả giáo phận cũng như tu hội không dự định xây trên một ngọn núi, và dầu gì đi nữa có ai đó đã làm chủ miếng đất ấy rồi.
Tuy nhiên, Thầy André tiếp tục cầu xin cho một thánh đường. Thầy không chỉ cầu nguyện mà còn bắt đầu để dành tiền. Khi các học sinh xin thầy cắt tóc, như trước đây chúng thường làm, thầy tính tiền công 5 xu và bỏ vào cái hộp nhỏ, sẵn sàng chờ đến ngày khởi công.
Một ngày kia, thầy chôn một ảnh Thánh Giuse dưới một cái cây, là chỗ mà thầy tin tưởng chắc chắn rằng một ngày kia, ngôi thánh đường sẽ mọc lên ở chỗ đó. Trong những năm kế tiếp, nhiều ảnh khác cũng được chôn ở đó--là các món quà đền ơn của dân chúng được chữa lành qua lời cầu nguyện của thầy.
Vì sự nổi tiếng là một người làm phép lạ ngày càng gia tăng, một số thầy thực sự lưu tâm đến số người hành hương đổ về tìm sự giúp đỡ của Thầy André. Người què đi thẳng, các chi thể được lành lặn không phải cắt bỏ, người mù được thấy.
Điều không tránh được là báo chí để ý đến thầy dòng khiêm tốn này là người dường như có thể làm được phép lạ, và việc quảng bá lại gây nhiều khó khăn. Nhiều phụ huynh đe dọa sẽ rút con ra khỏi trường vì họ nghĩ đến mánh khoé của việc kiện tụng. Họ là những người công khai gọi Thầy André là lang băm.
Bất kể thái độ thù hằn này, cả đức tổng và vị bề trên từ chối không can thiệp vào công việc chữa bệnh của thầy. Cả hai đều tin rằng thầy thực sự là một người thánh thiện, và sự khiêm tốn cũng như sự khôn ngoan phấn khởi đủ là câu trả lời cho những người phê bình.
Nếu những người hay nói xấu này biết được sự bách hại độc ác mà thầy dòng nhỏ bé kia phải chịu thì có lẽ họ đã biết kềm chế miệng lưỡi. Vì thường khi thầy cầu nguyện, một con vật đen đúa như con báo đen hiện ra bên cạnh thầy. Các sách vở, chén đĩa, và các đồ vật khác bị ném quanh phòng. Một dịp kia tiếng động kinh khiếp đến độ một thầy dòng phải bỏ chạy. Thầy André buộc phải thú nhận rằng, khi cầu nguyện thầy thường bị tấn công bởi các sức lực của tối tăm.
Khi Thầy André là một thanh niên, Satan đã tấn công thầy với sự cám dỗ xác thịt kinh khủng--thầy phải lăn mình trong tuyết và thi hành các việc phạt xác khác để chế ngự chúng. Sau này, các cám dỗ nhẹ hơn. "Thầy André, sao thầy lại được chọn để chữa lành bệnh tật?" một tiếng nói thì thầm. "Chắc thầy phải tin rằng mình là một vị thánh chứ."
Dĩ nhiên, Thầy André không tin vào điều đó. Thầy tiếp tục nhấn mạnh, những việc chữa lành thì nói cho cùng không thực sự là của thầy: Chúng bị ảnh hưởng bởi Thiên Chúa qua sự cầu bầu của Thánh Giuse. Tuy nhiên, trong những năm đầu, thái độ thù nghịch vẫn liên lỉ. Trước hết, có những lời buộc tội về sự thiếu đoan trang khi sờ đến người bệnh. Ngay cả họ gài bẫy thầy. Những việc này đều thất bại, thầy bị phúc trình lên Ban Y Tế, họ không thấy thầy có lỗi gì và còn ca ngợi trực giác của thầy. Vào năm 1910 một thẩm quyền cao hơn đứng về phía thầy: Đức Giáo Hoàng Piô X (bây giờ là thánh) đã gửi một chúc lành. Sau cùng những người phê bình phải im tiếng.
Đám đông những người đau khổ đến núi Royal thấy một người nhỏ bé tử tế nhưng hoạt bát mà đơn thuốc của thầy, bất cứ bệnh gì, đều giống nhau: "Hãy xoa lên người với dầu và ảnh Thánh Giuse. Hãy làm tuần cửu nhật và luôn cầu xin với thánh nhân."
Khi thầy đứng sau bàn giấy trong chiếc áo chùng cũ kỹ, ít khi thầy nhìn thẳng vào người đang nói chuyện. Thay vào đó, thầy nhìn đâu đó bên ngoài, như thể nhìn thấy sự đau khổ của cả thế giới. Dầu mà thầy cho được lấy từ các bình đèn dầu đốt sáng trước tượng Thánh Giuse.
Nếu việc chữa lành chỉ một phần, như đôi khi xảy ra, Thầy André không bối rối chút nào. "Đừng ngưng cầu nguyện," thầy lên tiếng, "nếu không bạn sẽ mất những gì bạn đã được."
Có lần một phụ nữ xin thầy giúp đỡ vì bà quá mệt. Thầy hỏi lại, "Vậy bà cầu nguyện cho tôi đi, vì tôi cũng quá mệt."
Khi sự mệt mỏi lấn lướt, thầy có thể dễ đụng chạm. Một phụ nữ Tin Lành bực mình vì thái độ của thầy đến độ bà ra về trong nước mắt. Mãi vài phút sau bà mới biết là sự què quặt của bà đã được khỏi.
Thầy không kiên nhẫn với những ai đòi hỏi phải được chữa lành. Với những người nói, "Thầy phải giúp tôi", thì thầy trả lời: "Tại sao tôi phải giúp? Chúa có mắc nợ bạn điều gì không? Nếu bạn nghĩ như vậy, tốt hơn bạn hãy tự dàn xếp với Người đi."
Nếu biết mình đã nặng lời, sau đó thầy luôn luôn xin lỗi. "Nhưng tối thiểu thì chính mắt họ đã thấy tôi chỉ là một người tội lỗi bình thường," thầy tự an ủi như vậy. "Và một khi họ biết rằng chính Thánh Giuse là người chữa lành thì tôi không cần phải để ý khi họ nghĩ tôi là một người cáu kỉnh."
Thỉnh thoảng có những biến cố cho thấy sự hóm hỉnh nhà quê của thầy. Một bà mà thầy thấy ăn cắp cây trái của trường và sau đó đến thầy xin chữa bệnh đau bụng. Thầy nói một cách cộc lốc, "Hãy xoa dầu Thánh Giuse và đừng ăn nhiều táo xanh."
Thầy thật cảm động khi một thiếu phụ đến xin giúp đỡ cho cô em, đang đau nặng. Tuy không được cho biết, thầy cũng biết là chính thiếu phụ này bị đau tim nặng.
"Sau bà không xin giúp đỡ cho chính bà?" thầy ôn tồn hỏi.
"Con có sao đâu," bà trả lời. "Chính vì em con mà con mới tới đây."
Cả hai đều được chữa lành sau đó không lâu.
Tuy thầy dành cả cuộc đời để giúp người đau khổ, thầy không coi sự đau khổ là sự dữ. Thầy nói, "Chúng ta không nên luôn cầu xin để bớt đau khổ. Đôi khi chúng ta phải cầu xin cho có sức mạnh để chịu đựng cách tốt đẹp hơn."
Như chúng ta thấy, nhiều khi thầy có thể không tử tế. Tuy nhiên với một loại bệnh nhân nào đó, thầy cho thấy sự kiên nhẫn không cùng và dành cả một giờ hay hơn cho họ. Những ai mất đức tin, hay là tội nhân cứng lòng, thường ra về như được tái sinh. "Ôi phải chi bạn yêu Chúa như Chúa yêu bạn," thầy nói trong nước mắt dàn dụa. "Phải chi bạn biết tội lỗi của bạn lại đóng đinh Chúa một lần nữa!"
Công thức cầu nguyện của thầy thật đơn giản. "Để cầu nguyện sốt sắng bạn phải nghĩ đến Chúa Giêsu trên thập giá. Chắc chắn là không thể nào bạn chia trí được khi nghĩ đến Anh của mình trên thập giá."
Mỗi đêm, bất kể mệt mỏi đến đâu, thầy thường ngắm Đàng Thánh Giá, thật chậm rãi và với tất cả lòng sùng kính.
Khi tiếng tăm chữa bệnh của thầy lan tràn, người ta đến càng đông để cầu nguyện với thầy trên núi. Bất kể những trở ngại xẩy đến, Thầy André không bao giờ hồ nghi rằng sẽ có một nhà thờ được xây trên đó, là nơi Thiên Chúa được cảm thấy gần gũi hơn. Thật vậy, lần lượt các trở ngại được vượt qua.
Trước hết, bất ngờ người chủ đất xuống giá, và Tu Hội Thánh Giá chụp ngay cơ hội. Tuy nhiên, người ta do dự không muốn dùng đó để xây nhà thờ, như thể công nhận đó là một "giáo phái" chưa được Rôma chuẩn nhận.
Một ngày trong năm 1904, Thầy André thấy mình là một bệnh nhân trong bệnh xá nhà trường. Cạnh đó là một bệnh nhân khác--vị bề trên tu hội. Không bỏ lỡ cơ hội, Thầy André đạt được điều quyết tâm là thay thế nhà nguyện nhỏ xíu mà thầy đã xây trên đó bằng một thánh đường to hơn.
Như thường lệ, sự hăng hái của thầy lại thắng. Công việc được bắt đầu vào tháng Bẩy. Một thợ nề trước đây bị què đã đến làm việc không công để đền ơn. Ở cuối chỗ xây cất là một cái hộp để nhận tiền dâng cúng. Không biết làm sao, trong hộp ấy luôn luôn có đủ tiền để trả thêm công thợ.
Vào tháng Mười Một nhà thờ được khánh thành; không bao lâu, trong nhà thờ ấy có biết bao các nạng của những người được chữa lành. Tuy đã được nới rộng ra nhiều trong vài năm kế đó, nhà thờ vẫn còn nhỏ. Vào Giáng Sinh 1916, Nhà Thờ Thánh Giuse được khánh thành, với một ngàn chỗ ngồi để cầu nguyện và rất nhiều chỗ đứng.
Một lần, khi số tiền dâng cúng thật lớn được gửi đến, vị thầy bé nhỏ xoa tay hân hoan và nói lớn: "Bây giờ chúng ta có thể xây một nhà thờ lớn hơn."
Vị bề trên, là người cảm thấy hơi khó chịu hôm đó, ngắt lời: "Chắc thầy muốn một vương cung thánh đường kế tiếp."
Sau đó ngài nhìn lên, và thấy cái nhìn xa xăm trong mắt của Thầy André.
Vào năm 1922 các kế hoạch xây dựng vương cung thánh đường được bắt đầu--đó là vương cung thánh đường trên núi Royal ngày nay. Đây là công trình xây cất mà Thầy André đã thấy trong giấc mơ trước đây từ lâu. Thầy không bao giờ được thấy nó hoàn tất, vì nó vẫn chưa có nóc cho đến khi thầy từ trần. Nhưng điều đó không làm thầy lo ngại, như một người bạn ở Nữu Ước đã nói: "Thầy sẽ thả cái nóc từ trời xuống với lời cầu xin của thầy."
Trong những năm cuối đời thầy đi nhiều nơi ở Hoa Kỳ, là quốc gia thầy sống khi thanh niên mà thầy không ngừng yêu quý. Danh tiếng của thầy luôn đi trước, dù thầy không bao giờ biết được điều đó. Có một lần thầy nói với người bạn: "Tôi đến thành phố Jersey ngay khi người ta có một đám rước thật lớn--chắc là một buổi lễ lớn ở địa phương." Thầy không biết rằng cuộc rước đó là để vinh danh thầy.
Vào mùa thu năm 1931, thầy được thị kiến Thánh Tâm Chúa, và sau đó là Đức Mẹ bế Hài Nhi Giêsu. Các đấng hiện ra với thầy vào ban đêm, khi thầy nằm trên giường.
Sau đó không lâu, khi thầy cầu nguyện trong nhà thờ, một công nhân rõ ràng thấy tượng Thánh Giuse rực sáng trong bóng tối. Rồi tượng ấy tiến về phía Thầy André như thể trên một đám mây, và đứng trước thầy khoảng ba phút. Người công nhân kêu lớn "Thầy! Thầy!" nhưng dường như Thầy André không nghe thấy gì. Sau này thầy quả quyết rằng thầy không thấy gì khác thường cả; thầy bị ngất khi cầu nguyện.
Cho đến khi bị bệnh lần sau cùng, Thầy André tiếp tục sự khổ hạnh mãnh liệt, chỉ sống bằng bánh khô và cà phê đậm. "Ăn càng ít nếu có thể và cầu nguyện càng nhiều nếu được" là công thức sống lâu của thầy. Tuy nhiên khi thầy được đãi ăn tối ở Nữu Ước, thầy làm mọi người ngạc nhiên khi ăn đủ mọi món một cách ngon lành.
Khi càng già đi, thầy phàn nàn về điều mà thầy thấy là thiếu đoan trang nơi y phục của phụ nữ, và thầy không do dự nói lên quan điểm này. Người vi phạm chắc chắn sẽ bị hỏi là có phải bà quá vội vàng khi đến đây, vì hiển nhiên là bà quên mặc váy dài.
Sau những lúc đầu do dự, sau cùng rađiô được thầy chúc lành, chỉ vì nó là một phương tiện để truyền thanh các chương trình tôn giáo. Nhưng các món quà vĩ đại mới mẻ của Thiên Chúa, trong con mắt của Thầy André, là chiếc xe hơi. Thầy rất thích cưỡi bộ máy kỳ cục này, nó đi nhanh hơn ngựa và xe độc mã trong thời niên thiếu. Nhiều người chở thầy đi chơi dễ thấy mình vi phạm luật đi đường chỉ vì vị hành khách đặc biệt ấy thường thúc giục họ chạy nhanh hơn tốc độ giới hạn. Tuy vậy, thường là không gì trở ngại khi viên chức cảnh sát nhận ra khuôn mặt nhỏ bé mỉm cười hối lỗi ở ghế đằng sau.
http://www.nguoitinhuu.com/sachtruyen/truyengan/oratoirestjoseph.jpg
Ngày nay Thầy André được chôn trong hầm mộ của vương cung thánh đường trên núi Royal, trong một ngôi mộ đá đơn sơ chỉ khắc tên của thầy. Vẫn còn những người bị bệnh tật thể xác cũng như tinh thần đến thăm viếng, và cũng như khi thầy còn sống, nhiều người đã được chữa lành.
LEO KNOWLES
Phyllis chuyển dịch
Trong những ngày đầu năm 1937, hàng ngàn người Gia Nã Đại lo lắng chờ đợi bên cạnh chiếc rađiô để nghe tin tức về một con người nhỏ bé, tóc muối tiêu đang nằm hấp hối trong một bệnh viện ở Montreal. Bệnh nhân này không phải là một viên chức chính phủ hay một siêu sao điện ảnh, nhưng là một thầy dòng khiêm tốn của Tu Hội Thánh Giá mà hầu như cả đời thầy chỉ làm công việc gác dan của trường Notre Dame.
Trong hai ngày trước khi từ trần, thầy bị hôn mê, không biết gì về cả một hàng dài các ông, các bà cũng như trẻ em đi ngang qua giường bệnh của thầy. Nhiều người trong họ cũng đang bị bệnh hoặc tàn tật, và tất cả đều chạm đến tay thầy một tượng ảnh hay vật gì đó thiêng liêng.
Giả như Thầy André biết điều đó xảy ra, có lẽ thầy không hài lòng, vì thầy luôn phản ứng một cách khó chịu khi biết là người ta coi thầy như một thánh sống. Trong những năm cuối đời, thầy lớn tiếng than phiền khi thấy một số thầy dòng khác đã cất giấu chiếc áo chùng thâm cũ kỹ của thầy như là một thánh tích. Từ đó trở đi, thầy đếm quần áo thật kỹ!
Dù Thầy André có là thánh hay không, Giáo Hội sẽ quyết định khi đến lúc--thầy được phong chân phước năm 1982. Sự thật không thể chối cãi là trong hơn bốn mươi năm, đám đông những người bệnh hoạn và tật nguyền đã đến căn phòng nhỏ bé của thầy để được chữa bệnh, và nhiều người đã khỏi. Ngay cả không có những phép lạ hiển nhiên này, sự thánh thiện thâm trầm của thầy cũng đã là một yếu tố để được phong thánh.
Thầy André hưởng thọ chín mươi mốt tuổi khi từ trần, nhưng khi bé Alfred Bessette được sinh hạ vào ngày 9 tháng Tám 1845, ít người dám tiên đoán bé sẽ sống lâu như vậy. Từ khi mới sinh thầy là một đứa bé hay bệnh hoạn khiến bà mẹ Clothilde luôn phải lo âu.
Ông Isaac Bessette, một thợ mộc nghèo sống với gánh nặng gia đình đông con ở Saint Gregoire d'Iberville trong khu rừng hẻo lánh của Quebec. Căn nhà của họ không lớn hơn cái lều.
Khi Alfred lên ba, người cha tử thương vì bị cây đè. Chín năm sau, bà mẹ từ trần vì bệnh lao. Những người con côi cút được phân tán sống với các thân nhân. Alfred thì sống với cô chú ở Saint-Césaire.
Đầu tiên học nghề đóng giầy, sau đó là nghề làm bánh, Alfred quá yếu ớt để có thể theo đuổi bất cứ nghề nào. Trong những đêm lo lắng canh thức bên nôi con, bà Clothilde Bessette thường cầu nguyện với Thánh Giuse, là quan thầy đầu tiên của Quebec, cho đứa con mình. Giờ đây chính Alfred cũng cầu xin Thánh Giuse tìm cho mình một công việc thích hợp để làm.
Ngay khi còn nhỏ, Alfred là một đứa trẻ ngoại lệ: các anh chị em không thể nào không thấy sự cầu nguyện lâu giờ và sốt sắng của Alfred. Khi lớn lên, cậu Alfred lại tự gây nên hình phạt đền tội cho chính mình. Bà cô hoảng sợ khi thấy cậu thường đeo ngang thắt lưng một xích sắt bên trong quần áo. Thay vì ngủ trên giường, cậu ngủ trên sàn nhà.
Cũng như nhiều thanh niên Gia Nã Đại thời bấy giờ, Alfred kinh ngạc khi nghe biết về thị trường việc làm đầy dẫy với lương cao ở dọc theo biên giới Hoa Kỳ. Khi một người bạn tìm cho Alfred một công việc trong xưởng bông gòn ở Plainfield, Connecticut, dường như Thánh Giuse đã đáp lời cầu xin. Nhưng chỉ sau ba năm, Alfred lại phải trở về nhà. Một lần nữa, sức khỏe yếu kém đã khiến anh thất bại.
http://www.nguoitinhuu.com/sachtruyen/truyengan/Br-Andre.jpg
Trước khi rời Connecticut một ít lâu, Alfred có một giấc mơ kỳ lạ, trong đó anh thấy Thánh Giuse và rồi một thánh đường lộng lẫy trong một khung cảnh mà anh không thể nhận ra được. Giờ đây, khi về lại Saint-Césaire, anh bắt đầu nghĩ đến việc đi tu.
Thoạt nhìn qua, điều đó dường như là một tham vọng điên rồ. Vì sức khỏe yếu kém, Alfred đã không thích hợp với bất cứ công việc nào ở ngoài đời, và các dòng tu thì không muốn nhận những người mà rất có thể trở nên phế tật.
Nhưng khi người thanh niên này giãi bầy tâm sự với cha sở họ đạo Saint Césaire thì anh không bị nản lòng. Cha Provencal biết rằng đây là một con người với những đức tính ngoại lệ. Vì bệnh hoạn làm gián đoạn việc học, Alfred chưa bao giờ biết đọc và biết viết, vì thế chính cha sở mới viết thư cho các Thầy Dòng Thánh Giá. "Tôi gửi đến các bạn một vị thánh cho tu hội," ngài công bố như vậy.
Bất kể lời giới thiệu đầy kinh ngạc, các thầy rất hoài nghi. Một thanh niên hai mươi lăm tuổi ốm yếu, mù chữ--coi anh là một tập sinh thì dường như là điều nực cười. Hai thầy đi xuống Saint-Césaire với ý định từ chối anh một cách nhẹ nhàng. Nhưng khi họ đối diện với người thanh niên nhỏ bé, đầy nhiệt huyết, họ bị đảo ngược--nhất là sự sùng kính Thánh Giuse một cách mãnh liệt. "Tôi tin chắc là nếu tôi được phép phục vụ thánh nhân, sức khỏe tôi sẽ thăng tiến," anh tuyên bố như vậy. Vì sự kinh ngạc cách nào đó, chính hai thầy lại là người đề nghị chấp nhận Alfred.
Và vì vậy, vào mùa thu 1870, Alfred Bessette đến tu viện Thánh Giá ở Côte-des-Neiges, trên sườn núi Royal--là ngọn núi mà thành phố Montreal lấy tên của nó. Bất kể sức khỏe yếu kém, Alfred luôn luôn là một con người vui vẻ, và giờ đây chưa bao giờ anh vui như thế. Các công việc hèn hạ, buồn bã lại đem cho anh niềm vui: cọ sàn nhà, sửa chữa, rửa chén bát, tất cả những việc ấy anh thi hành với nụ cười phấn khởi. Trong vòng nhiều tháng anh được mặc áo dòng mà anh hằng ao ước từ lâu và trở nên một tập sinh, Thầy André.
Không phải đợi hai năm nữa thì thầy mới thực sự là một phần tử đủ bản lãnh của tu hội. Năm kế đó không thấy dấu hiệu nào là thầy mạnh khỏe hơn. Vị bề trên bắt đầu bâng khuâng tự hỏi không biết có lầm lẫn không. Vì Thiên Chúa đã không ban cho André sức khỏe cần thiết, nói cho cùng có lẽ thầy không nên đi tu.
Khi Đức Giám Mục Bourget đến thăm tu hội, Thầy André đã không bỏ lỡ cơ hội để thỉnh cầu trực tiếp. Một lần nữa nhiệt huyết của thầy đã thắng. Thầy được phép khấn tạm và sau đó, năm 1872, thầy khấn trọn. Vị giám đốc nhà tập tuyên bố, "Nói cho cùng, ngay cả khi thầy ấy không thể làm việc được thì tối thiểu thầy ấy có thể cầu nguyện cho chúng ta."
Vị thầy "ốm yếu" này đã làm việc và cầu nguyện với sự hăng hái mà với một người to lớn cũng phải vất vả--và thầy đã tiếp tục làm việc như vậy trong sáu mươi năm kế tiếp. Đôi khi thầy thức suốt đêm để cầu nguyện và để chu toàn các công việc, vì ngoài các nhiệm vụ bình thường, thầy còn phải rời trường Notre Dame để đi thăm những người đau ốm hay gặp khó khăn. Ngài ăn rất ít; một miếng bánh mì chấm sữa và nước lạnh được coi là bữa ăn đầy đủ của thầy.
Vào lúc này thầy không còn mù chữ: Các thầy khác đã dậy ngài biết đọc và biết viết. Thầy không thể nào trở thành một giáo chức--học vấn của thầy không bao giờ lên tới cao độ đó--tuy nhiên cá tính của thầy lại thu hút các học sinh như đá nam châm. Các em mới đến trường và khóc vì nhớ nhà được mời vào "văn phòng" nhỏ bé của thầy để trò chuyện, không lâu sau đó đã bước ra với nụ cười.
http://www.nguoitinhuu.com/sachtruyen/truyengan/AndreBessette.jpg
Hai biến cố nhỏ đã gia tăng sự nổi tiếng của thầy và tạo nên sự kinh ngạc lớn lao nơi các học sinh. Khi đến lúc cần một trái banh mới, lúc đầu các em học sinh bị từ chối. Thầy André bảo các em đến xin nữa và kìa, chúng lại được ban cho một trái banh mới. Khi một cuộc du ngoạn ngoài trời được xẩy ra một cách lạ lùng trong sự tuyệt vọng của mọi học sinh, một cách tự nhiên các học sinh cũng nóng lòng muốn biết thầy làm thế nào mà được như vậy.
"Đừng cám ơn tôi, hãy cám ơn Thánh Giuse," là câu trả lời thường kèm theo một nụ cười khó hiểu.
Không bao lâu nhiều câu chuyện được lan truyền trong và ngoài thành phố. Người ta nói rằng khi Thầy André đến thăm, người bệnh được khỏi. Một ngày kia, có bà bị què được hai người dìu đến trường. Bà gặp một thầy dòng đang lau chùi hành lang và xin gặp Thầy André.
"Tôi đây," thầy trả lời và đứng lên.
Bà nói, "Tôi nghe nói thầy có thể chữa bệnh. Làm ơn thầy giúp tôi được không?"
Thầy André mỉm cười một cách kỳ quặc.
"Bà có chắc là bị què không?" thầy hỏi. "Tôi tin là bà có thể bước đi một mình nếu cố gắng. Sao bà không thử đi đến nhà nguyện xem sao?"
Hai người bạn đang đỡ bà thận trọng buông tay ra. Chậm chạp và đau đớn, bà khập khiễng đi đến nhà nguyện. Khi trở lại, bà bước đi bình thường.
"Khi họ nói với tôi là thầy có thể chữa lành, tôi không biết có nên tin hay không," người phụ nữ nói, nước mắt dàn dụa. "Bây giờ tôi biết đó là sự thật."
"Không phải tôi là người chữa lành," Thầy André nói với bà. "Đó là Thánh Giuse."
Vẫn tràn ngập lòng biết ơn, bà hỏi xem có thể làm gì cho vị ân nhân. Câu trả lời thật ngạc nhiên.
"Bà có thể cầu xin để một ngày nào đó Thánh Giuse sẽ có một ngôi nhà thật đẹp cho Con của người ở trên núi kia," thầy mỉm cười.
Nhiều lần trong ngày, từ nơi làm việc Thầy André liếc mắt nhìn lên đám cây mọc ngổn ngang và các bụi cây rậm rạp bao phủ ngọn núi. Thường vào buổi tối, thầy leo lên đó để cầu nguyện.
Tuy nhiên ước mơ của thầy về một thánh đường cung hiến cho Thánh Giuse dường như không thực tế. Cả giáo phận cũng như tu hội không dự định xây trên một ngọn núi, và dầu gì đi nữa có ai đó đã làm chủ miếng đất ấy rồi.
Tuy nhiên, Thầy André tiếp tục cầu xin cho một thánh đường. Thầy không chỉ cầu nguyện mà còn bắt đầu để dành tiền. Khi các học sinh xin thầy cắt tóc, như trước đây chúng thường làm, thầy tính tiền công 5 xu và bỏ vào cái hộp nhỏ, sẵn sàng chờ đến ngày khởi công.
Một ngày kia, thầy chôn một ảnh Thánh Giuse dưới một cái cây, là chỗ mà thầy tin tưởng chắc chắn rằng một ngày kia, ngôi thánh đường sẽ mọc lên ở chỗ đó. Trong những năm kế tiếp, nhiều ảnh khác cũng được chôn ở đó--là các món quà đền ơn của dân chúng được chữa lành qua lời cầu nguyện của thầy.
Vì sự nổi tiếng là một người làm phép lạ ngày càng gia tăng, một số thầy thực sự lưu tâm đến số người hành hương đổ về tìm sự giúp đỡ của Thầy André. Người què đi thẳng, các chi thể được lành lặn không phải cắt bỏ, người mù được thấy.
Điều không tránh được là báo chí để ý đến thầy dòng khiêm tốn này là người dường như có thể làm được phép lạ, và việc quảng bá lại gây nhiều khó khăn. Nhiều phụ huynh đe dọa sẽ rút con ra khỏi trường vì họ nghĩ đến mánh khoé của việc kiện tụng. Họ là những người công khai gọi Thầy André là lang băm.
Bất kể thái độ thù hằn này, cả đức tổng và vị bề trên từ chối không can thiệp vào công việc chữa bệnh của thầy. Cả hai đều tin rằng thầy thực sự là một người thánh thiện, và sự khiêm tốn cũng như sự khôn ngoan phấn khởi đủ là câu trả lời cho những người phê bình.
Nếu những người hay nói xấu này biết được sự bách hại độc ác mà thầy dòng nhỏ bé kia phải chịu thì có lẽ họ đã biết kềm chế miệng lưỡi. Vì thường khi thầy cầu nguyện, một con vật đen đúa như con báo đen hiện ra bên cạnh thầy. Các sách vở, chén đĩa, và các đồ vật khác bị ném quanh phòng. Một dịp kia tiếng động kinh khiếp đến độ một thầy dòng phải bỏ chạy. Thầy André buộc phải thú nhận rằng, khi cầu nguyện thầy thường bị tấn công bởi các sức lực của tối tăm.
Khi Thầy André là một thanh niên, Satan đã tấn công thầy với sự cám dỗ xác thịt kinh khủng--thầy phải lăn mình trong tuyết và thi hành các việc phạt xác khác để chế ngự chúng. Sau này, các cám dỗ nhẹ hơn. "Thầy André, sao thầy lại được chọn để chữa lành bệnh tật?" một tiếng nói thì thầm. "Chắc thầy phải tin rằng mình là một vị thánh chứ."
Dĩ nhiên, Thầy André không tin vào điều đó. Thầy tiếp tục nhấn mạnh, những việc chữa lành thì nói cho cùng không thực sự là của thầy: Chúng bị ảnh hưởng bởi Thiên Chúa qua sự cầu bầu của Thánh Giuse. Tuy nhiên, trong những năm đầu, thái độ thù nghịch vẫn liên lỉ. Trước hết, có những lời buộc tội về sự thiếu đoan trang khi sờ đến người bệnh. Ngay cả họ gài bẫy thầy. Những việc này đều thất bại, thầy bị phúc trình lên Ban Y Tế, họ không thấy thầy có lỗi gì và còn ca ngợi trực giác của thầy. Vào năm 1910 một thẩm quyền cao hơn đứng về phía thầy: Đức Giáo Hoàng Piô X (bây giờ là thánh) đã gửi một chúc lành. Sau cùng những người phê bình phải im tiếng.
Đám đông những người đau khổ đến núi Royal thấy một người nhỏ bé tử tế nhưng hoạt bát mà đơn thuốc của thầy, bất cứ bệnh gì, đều giống nhau: "Hãy xoa lên người với dầu và ảnh Thánh Giuse. Hãy làm tuần cửu nhật và luôn cầu xin với thánh nhân."
Khi thầy đứng sau bàn giấy trong chiếc áo chùng cũ kỹ, ít khi thầy nhìn thẳng vào người đang nói chuyện. Thay vào đó, thầy nhìn đâu đó bên ngoài, như thể nhìn thấy sự đau khổ của cả thế giới. Dầu mà thầy cho được lấy từ các bình đèn dầu đốt sáng trước tượng Thánh Giuse.
Nếu việc chữa lành chỉ một phần, như đôi khi xảy ra, Thầy André không bối rối chút nào. "Đừng ngưng cầu nguyện," thầy lên tiếng, "nếu không bạn sẽ mất những gì bạn đã được."
Có lần một phụ nữ xin thầy giúp đỡ vì bà quá mệt. Thầy hỏi lại, "Vậy bà cầu nguyện cho tôi đi, vì tôi cũng quá mệt."
Khi sự mệt mỏi lấn lướt, thầy có thể dễ đụng chạm. Một phụ nữ Tin Lành bực mình vì thái độ của thầy đến độ bà ra về trong nước mắt. Mãi vài phút sau bà mới biết là sự què quặt của bà đã được khỏi.
Thầy không kiên nhẫn với những ai đòi hỏi phải được chữa lành. Với những người nói, "Thầy phải giúp tôi", thì thầy trả lời: "Tại sao tôi phải giúp? Chúa có mắc nợ bạn điều gì không? Nếu bạn nghĩ như vậy, tốt hơn bạn hãy tự dàn xếp với Người đi."
Nếu biết mình đã nặng lời, sau đó thầy luôn luôn xin lỗi. "Nhưng tối thiểu thì chính mắt họ đã thấy tôi chỉ là một người tội lỗi bình thường," thầy tự an ủi như vậy. "Và một khi họ biết rằng chính Thánh Giuse là người chữa lành thì tôi không cần phải để ý khi họ nghĩ tôi là một người cáu kỉnh."
Thỉnh thoảng có những biến cố cho thấy sự hóm hỉnh nhà quê của thầy. Một bà mà thầy thấy ăn cắp cây trái của trường và sau đó đến thầy xin chữa bệnh đau bụng. Thầy nói một cách cộc lốc, "Hãy xoa dầu Thánh Giuse và đừng ăn nhiều táo xanh."
Thầy thật cảm động khi một thiếu phụ đến xin giúp đỡ cho cô em, đang đau nặng. Tuy không được cho biết, thầy cũng biết là chính thiếu phụ này bị đau tim nặng.
"Sau bà không xin giúp đỡ cho chính bà?" thầy ôn tồn hỏi.
"Con có sao đâu," bà trả lời. "Chính vì em con mà con mới tới đây."
Cả hai đều được chữa lành sau đó không lâu.
Tuy thầy dành cả cuộc đời để giúp người đau khổ, thầy không coi sự đau khổ là sự dữ. Thầy nói, "Chúng ta không nên luôn cầu xin để bớt đau khổ. Đôi khi chúng ta phải cầu xin cho có sức mạnh để chịu đựng cách tốt đẹp hơn."
Như chúng ta thấy, nhiều khi thầy có thể không tử tế. Tuy nhiên với một loại bệnh nhân nào đó, thầy cho thấy sự kiên nhẫn không cùng và dành cả một giờ hay hơn cho họ. Những ai mất đức tin, hay là tội nhân cứng lòng, thường ra về như được tái sinh. "Ôi phải chi bạn yêu Chúa như Chúa yêu bạn," thầy nói trong nước mắt dàn dụa. "Phải chi bạn biết tội lỗi của bạn lại đóng đinh Chúa một lần nữa!"
Công thức cầu nguyện của thầy thật đơn giản. "Để cầu nguyện sốt sắng bạn phải nghĩ đến Chúa Giêsu trên thập giá. Chắc chắn là không thể nào bạn chia trí được khi nghĩ đến Anh của mình trên thập giá."
Mỗi đêm, bất kể mệt mỏi đến đâu, thầy thường ngắm Đàng Thánh Giá, thật chậm rãi và với tất cả lòng sùng kính.
Khi tiếng tăm chữa bệnh của thầy lan tràn, người ta đến càng đông để cầu nguyện với thầy trên núi. Bất kể những trở ngại xẩy đến, Thầy André không bao giờ hồ nghi rằng sẽ có một nhà thờ được xây trên đó, là nơi Thiên Chúa được cảm thấy gần gũi hơn. Thật vậy, lần lượt các trở ngại được vượt qua.
Trước hết, bất ngờ người chủ đất xuống giá, và Tu Hội Thánh Giá chụp ngay cơ hội. Tuy nhiên, người ta do dự không muốn dùng đó để xây nhà thờ, như thể công nhận đó là một "giáo phái" chưa được Rôma chuẩn nhận.
Một ngày trong năm 1904, Thầy André thấy mình là một bệnh nhân trong bệnh xá nhà trường. Cạnh đó là một bệnh nhân khác--vị bề trên tu hội. Không bỏ lỡ cơ hội, Thầy André đạt được điều quyết tâm là thay thế nhà nguyện nhỏ xíu mà thầy đã xây trên đó bằng một thánh đường to hơn.
Như thường lệ, sự hăng hái của thầy lại thắng. Công việc được bắt đầu vào tháng Bẩy. Một thợ nề trước đây bị què đã đến làm việc không công để đền ơn. Ở cuối chỗ xây cất là một cái hộp để nhận tiền dâng cúng. Không biết làm sao, trong hộp ấy luôn luôn có đủ tiền để trả thêm công thợ.
Vào tháng Mười Một nhà thờ được khánh thành; không bao lâu, trong nhà thờ ấy có biết bao các nạng của những người được chữa lành. Tuy đã được nới rộng ra nhiều trong vài năm kế đó, nhà thờ vẫn còn nhỏ. Vào Giáng Sinh 1916, Nhà Thờ Thánh Giuse được khánh thành, với một ngàn chỗ ngồi để cầu nguyện và rất nhiều chỗ đứng.
Một lần, khi số tiền dâng cúng thật lớn được gửi đến, vị thầy bé nhỏ xoa tay hân hoan và nói lớn: "Bây giờ chúng ta có thể xây một nhà thờ lớn hơn."
Vị bề trên, là người cảm thấy hơi khó chịu hôm đó, ngắt lời: "Chắc thầy muốn một vương cung thánh đường kế tiếp."
Sau đó ngài nhìn lên, và thấy cái nhìn xa xăm trong mắt của Thầy André.
Vào năm 1922 các kế hoạch xây dựng vương cung thánh đường được bắt đầu--đó là vương cung thánh đường trên núi Royal ngày nay. Đây là công trình xây cất mà Thầy André đã thấy trong giấc mơ trước đây từ lâu. Thầy không bao giờ được thấy nó hoàn tất, vì nó vẫn chưa có nóc cho đến khi thầy từ trần. Nhưng điều đó không làm thầy lo ngại, như một người bạn ở Nữu Ước đã nói: "Thầy sẽ thả cái nóc từ trời xuống với lời cầu xin của thầy."
Trong những năm cuối đời thầy đi nhiều nơi ở Hoa Kỳ, là quốc gia thầy sống khi thanh niên mà thầy không ngừng yêu quý. Danh tiếng của thầy luôn đi trước, dù thầy không bao giờ biết được điều đó. Có một lần thầy nói với người bạn: "Tôi đến thành phố Jersey ngay khi người ta có một đám rước thật lớn--chắc là một buổi lễ lớn ở địa phương." Thầy không biết rằng cuộc rước đó là để vinh danh thầy.
Vào mùa thu năm 1931, thầy được thị kiến Thánh Tâm Chúa, và sau đó là Đức Mẹ bế Hài Nhi Giêsu. Các đấng hiện ra với thầy vào ban đêm, khi thầy nằm trên giường.
Sau đó không lâu, khi thầy cầu nguyện trong nhà thờ, một công nhân rõ ràng thấy tượng Thánh Giuse rực sáng trong bóng tối. Rồi tượng ấy tiến về phía Thầy André như thể trên một đám mây, và đứng trước thầy khoảng ba phút. Người công nhân kêu lớn "Thầy! Thầy!" nhưng dường như Thầy André không nghe thấy gì. Sau này thầy quả quyết rằng thầy không thấy gì khác thường cả; thầy bị ngất khi cầu nguyện.
Cho đến khi bị bệnh lần sau cùng, Thầy André tiếp tục sự khổ hạnh mãnh liệt, chỉ sống bằng bánh khô và cà phê đậm. "Ăn càng ít nếu có thể và cầu nguyện càng nhiều nếu được" là công thức sống lâu của thầy. Tuy nhiên khi thầy được đãi ăn tối ở Nữu Ước, thầy làm mọi người ngạc nhiên khi ăn đủ mọi món một cách ngon lành.
Khi càng già đi, thầy phàn nàn về điều mà thầy thấy là thiếu đoan trang nơi y phục của phụ nữ, và thầy không do dự nói lên quan điểm này. Người vi phạm chắc chắn sẽ bị hỏi là có phải bà quá vội vàng khi đến đây, vì hiển nhiên là bà quên mặc váy dài.
Sau những lúc đầu do dự, sau cùng rađiô được thầy chúc lành, chỉ vì nó là một phương tiện để truyền thanh các chương trình tôn giáo. Nhưng các món quà vĩ đại mới mẻ của Thiên Chúa, trong con mắt của Thầy André, là chiếc xe hơi. Thầy rất thích cưỡi bộ máy kỳ cục này, nó đi nhanh hơn ngựa và xe độc mã trong thời niên thiếu. Nhiều người chở thầy đi chơi dễ thấy mình vi phạm luật đi đường chỉ vì vị hành khách đặc biệt ấy thường thúc giục họ chạy nhanh hơn tốc độ giới hạn. Tuy vậy, thường là không gì trở ngại khi viên chức cảnh sát nhận ra khuôn mặt nhỏ bé mỉm cười hối lỗi ở ghế đằng sau.
http://www.nguoitinhuu.com/sachtruyen/truyengan/oratoirestjoseph.jpg
Ngày nay Thầy André được chôn trong hầm mộ của vương cung thánh đường trên núi Royal, trong một ngôi mộ đá đơn sơ chỉ khắc tên của thầy. Vẫn còn những người bị bệnh tật thể xác cũng như tinh thần đến thăm viếng, và cũng như khi thầy còn sống, nhiều người đã được chữa lành.
LEO KNOWLES
Phyllis chuyển dịch