Dan Lee
03-28-2011, 11:01 PM
Hạnh các Thánh 1-5/4
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image002.jpg
1/4 – Thánh Hugh Grenoble, Giám mục (1052-1132)
Thánh Hugh Grenoble có thể là bổn mạng của nhưng người có quá nhiều vấn đề đè nặng mà không biết bắt đầu từ đâu. Ngài phục vụ trong chức vụ giám mục ở Pháp suốt 52 years. Sự suy đồi có vẻ xuất hiện trong mọi chiều hướng: Mua bán chức quyền trong giáo hội, vi phạm luật độc thân giáo sĩ, người đời cai quản tài sản giáo hội, dửng dưng và làm ngơ tôn giáo. Sau khi làm giám mục 2 năm, ngài đã làm đầy đủ trách nhiệm. Ngài ẩn mình vào một tu viện, nhưng ĐGH gọi ngài trở lại tiếp tục công việc cải cách.
Ngài làm việc tương đối hiệu quả trong cương vị nhà cải cách – chắc hẳn nhờ lòng nhiệt thành với giáo hội, và cũng nhờ cá tính mạnh mẽ của ngài nữa. Trong những cuộc xung đột giữa giáo hội và nhà nước, ngài cương quyết bảo vệ giáo hội tới cùng và bảo vệ giáo hoàng. Ngài giảng đạo như nhà hùng biện. Ngài khôi phục nhà thờ chính tòa, cải thiện đô thị và và bị đi đày một thời gian ngắn.
Ngài được biết nhiều là thánh bổn mạng và nhà hảo tâm của thánh Bruno, vị sáng lập dòng Carthusian (Carthusian Order0. Ngài qua đời năm 1132, và được phong thánh chỉ 2 sau đó.
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image004.jpg
2/4 – Thánh Phanxicô Paola, Ẩn tu (1416-1507)
Phanxicô sinh tại Paola, Calabria (Ý), và được học tại dòng Phanxicô ở San Marco (Thánh Mác-cô). Cha mẹ ngài có tiếng là đạo đức, ngài sống ẩn dật tại Paola từ khi 15 tuổi. Năm 1436, ngài cùng hai người bạn lập cộng đoàn được coi là nền tảng của dòng Minim (Minim Friars). Ngài xây một tu viện và sống ẩn tu ở đây khoảng 15 năm. Ngài soạn luật dòng chú trọng việc hành xác, bác ái và khiêm nhường, đồng thời thêm 3 lời khấn dòng, có lời khấn ăn chay và kiêng thịt. Ngài còn viết luật dòng ba và dòng nữ.
Ngài được tin là làm nhiều phép lạ, nói tiên tri và thấu hiểu lòng người. Dòng được ĐGH Sixtô IV phê chuẩn năm 1474 với tên gọi là Dòng Ẩn tu Thánh Phanxicô Assisi (năm 1492 đổi thành Dòng Minim). Phanxicô các cơ sở ở Nam Ý và Sicily, danh tiếng ngài được biết đến nhiều đến nỗi Vua Louis XI của Pháp quốc cho mời ngài vì lúc đó nhà vua đang thập tử nhất sinh, ĐGH Sixtô II truyền cho ngài sang Pháp, nhà vua cảm thấy mình được Phanxicô chữa khỏi. Nhà vua không khỏi, but was so comnhưng vẫn vui mừng, chính hoàng tử của vua Louis XI, sau là vua Charles VIII, trở thành bạn của Phanxicô và tài trợ cho Phanxicô xây vài tu viện. Phanxicô sống phần đời còn lại tại tu viện Plessis, Pháp, nơi mà vua Charles VIII xây cho ngài. Phanxicô qua đời ngày 2/4/1507 và được phong thánh năm 1519.
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image006.jpg
3/4 – Thánh Bênêđictô, người Phi châu (1526-1589)
Bênêđictô giữ những cương vị quan trọng trong dòng Phanxicô và khéo léo thích nghi với công việc khác khi hết nhiệm kỳ. Cha mẹ ngài bị bán làm nô lệ ở Messina, Sicily. Được trả tự do lúc 18 tuổi, Bênêđictô làm nông nghiệp để có lương và đủ tiền mua cặp bò. Ngài rất hảnh diện với cặp bò này. Khi sống với nhóm ẩn tu tại Palermo, ngài được đề cử làm lãnh đạo. Vì nhóm ẩn tu này sống theo tu luật của Thánh Phanxicô Khó nghèo, ĐGH Piô IV truyền cho họ gia nhập Dòng Nhất. Bênêđictô làm giáo tập (novice master) và rồi là quản lý dòng ở Palermo – các vị trí này thời đó hiếm khi được giao cho một tu sĩ. Thật vậy, Bênêđictô buộc phải chấp nhận việc bầu cử mình làm quản lý. Khi hết nhiệm kỳ, ngài vui mừng được trở lại làm bếp. Bênêđictô sửa lỗi anh em với lòng khiêm ngường và bác ái. Có lần ngài sửa lỗi một tập sinh và giao làm việc đền tội và rồi biết rằng tập sinh đó không phạm lỗi. Ngài lập tức quỳ trước mặt tập sinh đó và xin tha thứ.
Cuối đời, Bênêđictô không sở hữu thứ gì cho mình dùng. Ngài không bao giờ nói là “của tôi” mà luôn nói là “của chúng ta”. Ngài có tiếng là chuyên cần cầu nguyện và có biệt tài hướng dẫn các linh hồn khiến khắp vùng Sicily đều biết sự thánh thiện của ngài. Theo gương thánh Phanxicô Assisi, Bênêđictô ăn chay quanh năm, mỗi đêm chỉ ngủ vài giờ. Trong dòng Phanxicô thời đó, cương vị lãnh đạo được hạn chế về thời gian. Khi hết nhiệm kỳ, các cựu lãnh đạo đôi khi gặp khó khăn để thích nghi với vị trí mới. Giáo hội cần các nam nữ tu sĩ sẵn sàng cố gắng trong cương vị lãnh đạo – nhưng họ lại không sẵn sàng ở cương vị khác khi mãn nhiệm kỳ lãnh đạo. Sau khi ngài qua đời, vua Philip III của Tây Ban Nha xây cho ngài một ngôi mộ đặc biệt. Ngài được phong thánh năm 1807, và được người Mỹ gốc Phi tôn kính là thánh bổn mạng.
Chúa Giêsu nói: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ” (x. Mt 20:28). Thánh Phanxicô Assisi viết trong Lời Khuyên IV (Admonition IV): “Những người được đặt trên những người khác nên vinh dự làm việc đó chỉ khi nào họ nhận trách nhiệm rửa chân cho anh em. Họ càng buồn vì mất chức vụ thì họ càng mất nhiệm vụ rửa chân, và họ càng tích lũy kho tàng những mối hiểm họa cho linh hồn (x. Ga 12:6)”.
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image008.jpg
4/4 – Thánh Isiđôrô Seville, Giám mục Tiến sĩ (560?-636)
Cuộc đời 76 năm của thánh Isiđôrô là thời gian xung đột và phát triển đối với giáo hội tại Tây Ban Nha. Người Visigoth đã xâm lăng suốt 150 năm, họ đã lập thủ đô ngay trước khi thánh nhân sinh ra. Họ là những người theo tà thuyết Arian (không tin Chúa Kitô là Thiên Chúa). Do đó, Tây Ban Nha bị phạn chia làm đôi: Một bên là những người theo Công giáo La mã chiến đấu chống lại bên kia là những người Gô-tích theo tà thuyết Arian (Arian Goths).
Isiđôrô đã thống nhất Tây Ban Nha, làm cho nước này trở thành trung tâm văn hóa và học tập, là thầy dạy và là người hướng dẫn các nước thuộc Âu châu có nền văn hóa bị những kẻ xâm lăng man rợ đe dọa.
Ngài sinh tại Cartagena, trong một gia đình có 3 vị thánh, ngài được người anh nghiêm khắc giáo dục, người anh này cũ trở thành giám mục giáo phận Seville.
Ngài là người giỏi cực kỳ, đôi khi người ta gọi ngài là “Hiệu trưởng thời Trung cổ” (The Schoolmaster of the Middle Ages), vì bộ bách khoa ngài viết được dùng làm sách giáo khoa suốt 9 thế kỷ. Ngài cho xây chủng viện ở mỗi giáo phận, soạn tu luật cho các nhà dòng và mở trường học dạy các môn. Ngài viết nhiều sách, kể cả một tự điển, một bộ bách khoa toàn thư, một sách lịch sử Gô-tích và một sách lịch sử thế giới – bắt đầu bằng sự tạo thành! Ngài hoàn tất phụng vụ Mozarabic, vẫn được dùng ở Toledo, Tây Ban Nha. Vì các lẽ đó mà ngài (và vài vị thánh khác) được coi là thánh bổn mạng của internet.
Ngài tiếp tục sống khổ hạnh dù đã ngoài 70 tuổi. Trong 6 tháng cuối đời, ngài gia tăng làm việc bác ái nhiều đến độ nhà của ngài đầy người nghèo từ sáng tới khuya.
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image010.jpg
5/4 – Thánh Vincentê Ferriô, Linh mục (1350?-1419)
Động thái phân biệt trong giáo hội ngày nay chỉ là “cơ gió thoảng” so với “cơn lốc xoáy” phá tan giáo hội trong thời thánh Vincentê Ferriô. Nếu có vị thánh nào là thánh bổn mạng hòa giải thì đó là thánh Vincentê Ferriô.
Mặc dù bị cha mẹ ngăn cản, ngài vẫn vào dòng Đa Minh tại Tây Ban Nha lúc 19 tuổi. Sau khi học hành xuất sắc, ngài được ĐHY Peter de Luna phong chức linh mục. Với bản chất nhiệt thành, ngài ngài hăng hái sống khổ hạnh theo luật dòng. Sau khi thụ phong linh mục không lâu, ngài được bầu làm bề trên dòng ở Valencia.
Cuộc ly giáo Tây phương đã phân chia Kitô giáo thành 2 phe, rồi 3 phe, có các giáo hoàng. Giáo hoàng Clêmentô VII ở Avignon (Pháp), giáo hoàng Urbanô VI ở Rôma. Vincentê tin rằng việc bầu chọn giáo hoàng Urbanô là vô hiệu (thánh Catarina Siena chỉ ủng hộ giáo hoàng ở Rôma). Vâng lời ĐHY de Luna, ngài thuyết phục người Tây Ban Nha theo giáo hoàng Clêmentô. Khi giáo hoàng Clêmentô qua đời, Hồng y de Luna được bầu chọn tại Avignon và trở thành giáo hoàng Bênêđictô XIII.
Vincentê là thầy dạy của Tòa thánh. Nhưng giáo hoàng mới không từ chức tại mật nghị (conclave) như đã thề hứa. Ngài vẫn nhất quyết dù vua nước Pháp và đa số hồng y phản đối.
Vincentê Ferriô thất vọng và bị bệnh nặng, nhưng cuối cùng ngài “đi khắp thế gian giảng về Chúa Kitô”, dù ngài cảm thấy có sự canh tân nào đó trong giáo hội tùy thuộc vào việc hàn gắn ly giáo. Ngài giảng sôi nổi và lưu loát, ngài dành 20 năm cuối đời đi loan truyền Tân ước khắp Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Sĩ, các nước nhược tiểu và Lombardy, nhấn mạnh nhu cầu sám hối và sợ sự phán xét. Ngài nổi tiếng là Thiên thần Xét xử (Angel of the Judgment).
Những năm 1408 tới 1415, ngài cố gắng thuyết phục người bạn cũ từ chức nhưng không thành công. Cuối cùng ngài kết luận rằng Bênêđictô không là giáo hoàng thật. Dù rất bệnh, ngài vẫn lên bục giảng trước một hội nghị mà giáo hoàng Bênêđictô XIII chủ tọa và lớn tiếng tố cáo chính người đã truyền chức linh mục cho ngài. Bênêđictô XIII trốn mất vĩnh viễn, những người trước theo nay cũng bỏ. Lạ thay, Vincentê không tham dự Công đồng Constance – Công đồng này chấm dứt cuộc ly giáo đã kéo dài 36 năm. Lúc đó, giáo hội có ĐGH Martin V. Ngài qua đời ngày 5/4/1419.
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org, Saints.sqpn.com, Catholic.org và Vatican.va)
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image002.jpg
1/4 – Thánh Hugh Grenoble, Giám mục (1052-1132)
Thánh Hugh Grenoble có thể là bổn mạng của nhưng người có quá nhiều vấn đề đè nặng mà không biết bắt đầu từ đâu. Ngài phục vụ trong chức vụ giám mục ở Pháp suốt 52 years. Sự suy đồi có vẻ xuất hiện trong mọi chiều hướng: Mua bán chức quyền trong giáo hội, vi phạm luật độc thân giáo sĩ, người đời cai quản tài sản giáo hội, dửng dưng và làm ngơ tôn giáo. Sau khi làm giám mục 2 năm, ngài đã làm đầy đủ trách nhiệm. Ngài ẩn mình vào một tu viện, nhưng ĐGH gọi ngài trở lại tiếp tục công việc cải cách.
Ngài làm việc tương đối hiệu quả trong cương vị nhà cải cách – chắc hẳn nhờ lòng nhiệt thành với giáo hội, và cũng nhờ cá tính mạnh mẽ của ngài nữa. Trong những cuộc xung đột giữa giáo hội và nhà nước, ngài cương quyết bảo vệ giáo hội tới cùng và bảo vệ giáo hoàng. Ngài giảng đạo như nhà hùng biện. Ngài khôi phục nhà thờ chính tòa, cải thiện đô thị và và bị đi đày một thời gian ngắn.
Ngài được biết nhiều là thánh bổn mạng và nhà hảo tâm của thánh Bruno, vị sáng lập dòng Carthusian (Carthusian Order0. Ngài qua đời năm 1132, và được phong thánh chỉ 2 sau đó.
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image004.jpg
2/4 – Thánh Phanxicô Paola, Ẩn tu (1416-1507)
Phanxicô sinh tại Paola, Calabria (Ý), và được học tại dòng Phanxicô ở San Marco (Thánh Mác-cô). Cha mẹ ngài có tiếng là đạo đức, ngài sống ẩn dật tại Paola từ khi 15 tuổi. Năm 1436, ngài cùng hai người bạn lập cộng đoàn được coi là nền tảng của dòng Minim (Minim Friars). Ngài xây một tu viện và sống ẩn tu ở đây khoảng 15 năm. Ngài soạn luật dòng chú trọng việc hành xác, bác ái và khiêm nhường, đồng thời thêm 3 lời khấn dòng, có lời khấn ăn chay và kiêng thịt. Ngài còn viết luật dòng ba và dòng nữ.
Ngài được tin là làm nhiều phép lạ, nói tiên tri và thấu hiểu lòng người. Dòng được ĐGH Sixtô IV phê chuẩn năm 1474 với tên gọi là Dòng Ẩn tu Thánh Phanxicô Assisi (năm 1492 đổi thành Dòng Minim). Phanxicô các cơ sở ở Nam Ý và Sicily, danh tiếng ngài được biết đến nhiều đến nỗi Vua Louis XI của Pháp quốc cho mời ngài vì lúc đó nhà vua đang thập tử nhất sinh, ĐGH Sixtô II truyền cho ngài sang Pháp, nhà vua cảm thấy mình được Phanxicô chữa khỏi. Nhà vua không khỏi, but was so comnhưng vẫn vui mừng, chính hoàng tử của vua Louis XI, sau là vua Charles VIII, trở thành bạn của Phanxicô và tài trợ cho Phanxicô xây vài tu viện. Phanxicô sống phần đời còn lại tại tu viện Plessis, Pháp, nơi mà vua Charles VIII xây cho ngài. Phanxicô qua đời ngày 2/4/1507 và được phong thánh năm 1519.
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image006.jpg
3/4 – Thánh Bênêđictô, người Phi châu (1526-1589)
Bênêđictô giữ những cương vị quan trọng trong dòng Phanxicô và khéo léo thích nghi với công việc khác khi hết nhiệm kỳ. Cha mẹ ngài bị bán làm nô lệ ở Messina, Sicily. Được trả tự do lúc 18 tuổi, Bênêđictô làm nông nghiệp để có lương và đủ tiền mua cặp bò. Ngài rất hảnh diện với cặp bò này. Khi sống với nhóm ẩn tu tại Palermo, ngài được đề cử làm lãnh đạo. Vì nhóm ẩn tu này sống theo tu luật của Thánh Phanxicô Khó nghèo, ĐGH Piô IV truyền cho họ gia nhập Dòng Nhất. Bênêđictô làm giáo tập (novice master) và rồi là quản lý dòng ở Palermo – các vị trí này thời đó hiếm khi được giao cho một tu sĩ. Thật vậy, Bênêđictô buộc phải chấp nhận việc bầu cử mình làm quản lý. Khi hết nhiệm kỳ, ngài vui mừng được trở lại làm bếp. Bênêđictô sửa lỗi anh em với lòng khiêm ngường và bác ái. Có lần ngài sửa lỗi một tập sinh và giao làm việc đền tội và rồi biết rằng tập sinh đó không phạm lỗi. Ngài lập tức quỳ trước mặt tập sinh đó và xin tha thứ.
Cuối đời, Bênêđictô không sở hữu thứ gì cho mình dùng. Ngài không bao giờ nói là “của tôi” mà luôn nói là “của chúng ta”. Ngài có tiếng là chuyên cần cầu nguyện và có biệt tài hướng dẫn các linh hồn khiến khắp vùng Sicily đều biết sự thánh thiện của ngài. Theo gương thánh Phanxicô Assisi, Bênêđictô ăn chay quanh năm, mỗi đêm chỉ ngủ vài giờ. Trong dòng Phanxicô thời đó, cương vị lãnh đạo được hạn chế về thời gian. Khi hết nhiệm kỳ, các cựu lãnh đạo đôi khi gặp khó khăn để thích nghi với vị trí mới. Giáo hội cần các nam nữ tu sĩ sẵn sàng cố gắng trong cương vị lãnh đạo – nhưng họ lại không sẵn sàng ở cương vị khác khi mãn nhiệm kỳ lãnh đạo. Sau khi ngài qua đời, vua Philip III của Tây Ban Nha xây cho ngài một ngôi mộ đặc biệt. Ngài được phong thánh năm 1807, và được người Mỹ gốc Phi tôn kính là thánh bổn mạng.
Chúa Giêsu nói: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ” (x. Mt 20:28). Thánh Phanxicô Assisi viết trong Lời Khuyên IV (Admonition IV): “Những người được đặt trên những người khác nên vinh dự làm việc đó chỉ khi nào họ nhận trách nhiệm rửa chân cho anh em. Họ càng buồn vì mất chức vụ thì họ càng mất nhiệm vụ rửa chân, và họ càng tích lũy kho tàng những mối hiểm họa cho linh hồn (x. Ga 12:6)”.
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image008.jpg
4/4 – Thánh Isiđôrô Seville, Giám mục Tiến sĩ (560?-636)
Cuộc đời 76 năm của thánh Isiđôrô là thời gian xung đột và phát triển đối với giáo hội tại Tây Ban Nha. Người Visigoth đã xâm lăng suốt 150 năm, họ đã lập thủ đô ngay trước khi thánh nhân sinh ra. Họ là những người theo tà thuyết Arian (không tin Chúa Kitô là Thiên Chúa). Do đó, Tây Ban Nha bị phạn chia làm đôi: Một bên là những người theo Công giáo La mã chiến đấu chống lại bên kia là những người Gô-tích theo tà thuyết Arian (Arian Goths).
Isiđôrô đã thống nhất Tây Ban Nha, làm cho nước này trở thành trung tâm văn hóa và học tập, là thầy dạy và là người hướng dẫn các nước thuộc Âu châu có nền văn hóa bị những kẻ xâm lăng man rợ đe dọa.
Ngài sinh tại Cartagena, trong một gia đình có 3 vị thánh, ngài được người anh nghiêm khắc giáo dục, người anh này cũ trở thành giám mục giáo phận Seville.
Ngài là người giỏi cực kỳ, đôi khi người ta gọi ngài là “Hiệu trưởng thời Trung cổ” (The Schoolmaster of the Middle Ages), vì bộ bách khoa ngài viết được dùng làm sách giáo khoa suốt 9 thế kỷ. Ngài cho xây chủng viện ở mỗi giáo phận, soạn tu luật cho các nhà dòng và mở trường học dạy các môn. Ngài viết nhiều sách, kể cả một tự điển, một bộ bách khoa toàn thư, một sách lịch sử Gô-tích và một sách lịch sử thế giới – bắt đầu bằng sự tạo thành! Ngài hoàn tất phụng vụ Mozarabic, vẫn được dùng ở Toledo, Tây Ban Nha. Vì các lẽ đó mà ngài (và vài vị thánh khác) được coi là thánh bổn mạng của internet.
Ngài tiếp tục sống khổ hạnh dù đã ngoài 70 tuổi. Trong 6 tháng cuối đời, ngài gia tăng làm việc bác ái nhiều đến độ nhà của ngài đầy người nghèo từ sáng tới khuya.
http://thanhlinh.net/baivo/2011/images/HanhCacThanh_6_clip_image010.jpg
5/4 – Thánh Vincentê Ferriô, Linh mục (1350?-1419)
Động thái phân biệt trong giáo hội ngày nay chỉ là “cơ gió thoảng” so với “cơn lốc xoáy” phá tan giáo hội trong thời thánh Vincentê Ferriô. Nếu có vị thánh nào là thánh bổn mạng hòa giải thì đó là thánh Vincentê Ferriô.
Mặc dù bị cha mẹ ngăn cản, ngài vẫn vào dòng Đa Minh tại Tây Ban Nha lúc 19 tuổi. Sau khi học hành xuất sắc, ngài được ĐHY Peter de Luna phong chức linh mục. Với bản chất nhiệt thành, ngài ngài hăng hái sống khổ hạnh theo luật dòng. Sau khi thụ phong linh mục không lâu, ngài được bầu làm bề trên dòng ở Valencia.
Cuộc ly giáo Tây phương đã phân chia Kitô giáo thành 2 phe, rồi 3 phe, có các giáo hoàng. Giáo hoàng Clêmentô VII ở Avignon (Pháp), giáo hoàng Urbanô VI ở Rôma. Vincentê tin rằng việc bầu chọn giáo hoàng Urbanô là vô hiệu (thánh Catarina Siena chỉ ủng hộ giáo hoàng ở Rôma). Vâng lời ĐHY de Luna, ngài thuyết phục người Tây Ban Nha theo giáo hoàng Clêmentô. Khi giáo hoàng Clêmentô qua đời, Hồng y de Luna được bầu chọn tại Avignon và trở thành giáo hoàng Bênêđictô XIII.
Vincentê là thầy dạy của Tòa thánh. Nhưng giáo hoàng mới không từ chức tại mật nghị (conclave) như đã thề hứa. Ngài vẫn nhất quyết dù vua nước Pháp và đa số hồng y phản đối.
Vincentê Ferriô thất vọng và bị bệnh nặng, nhưng cuối cùng ngài “đi khắp thế gian giảng về Chúa Kitô”, dù ngài cảm thấy có sự canh tân nào đó trong giáo hội tùy thuộc vào việc hàn gắn ly giáo. Ngài giảng sôi nổi và lưu loát, ngài dành 20 năm cuối đời đi loan truyền Tân ước khắp Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Sĩ, các nước nhược tiểu và Lombardy, nhấn mạnh nhu cầu sám hối và sợ sự phán xét. Ngài nổi tiếng là Thiên thần Xét xử (Angel of the Judgment).
Những năm 1408 tới 1415, ngài cố gắng thuyết phục người bạn cũ từ chức nhưng không thành công. Cuối cùng ngài kết luận rằng Bênêđictô không là giáo hoàng thật. Dù rất bệnh, ngài vẫn lên bục giảng trước một hội nghị mà giáo hoàng Bênêđictô XIII chủ tọa và lớn tiếng tố cáo chính người đã truyền chức linh mục cho ngài. Bênêđictô XIII trốn mất vĩnh viễn, những người trước theo nay cũng bỏ. Lạ thay, Vincentê không tham dự Công đồng Constance – Công đồng này chấm dứt cuộc ly giáo đã kéo dài 36 năm. Lúc đó, giáo hội có ĐGH Martin V. Ngài qua đời ngày 5/4/1419.
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ AmericanCatholic.org, Saints.sqpn.com, Catholic.org và Vatican.va)