PDA

View Full Version : M - Một Vị Tiền Nhiệm



Dan Lee
05-02-2011, 06:51 AM
Một Vị Tiền Nhiệm



Chúa Nhật thứ nhất sau Chúa Nhật Phục Sinh, từ năm 2001, được Giáo Hội cử hành Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, như được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thiết lập vào ngày 30/4/2000. Ngày 1/5/2011 là Chúa Nhật Phụng Vụ Kính Lòng Thương Xót Chúa, cũng là chính ngày hết sức ý nghĩa được Tòa Thánh chọn để tuyên phong chân phước cho Vị Giáo Hoàng Totus Tuus của Lòng Thương Xót Chúa Gioan Phaolô II này. Chính Đức Thánh Cha đường kim Biển Đức XVI sẽ là vị chủ phong cho vị giáo hoàng tiền nhiệm của mình, một biến cố chưa từng có trong lịch sử hơn 2000 năm của Giáo Hội và có lẽ sẽ là một biến cố vô tiền khoáng hậu.

Nói đến nhị vị giáo hoàng này, theo thiên duyên tiền định, chúng ta thấy hai vị có một liên hệ hết sức mật thiết với nhau trong sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô trong lịch sử Giáo Hội hiện đại, thời điểm kết thúc thiên kỷ thứ hai và mở màn cho thiên kỷ thứ ba Kitô giáo.

Trước hết, việc chuyển tiếp giữa vị giáo hoàng Balan và Đức Quốc hình như đã được le lói từ năm 1997 như thế này. Đó là sự kiện Đức Hồng Y Joachim Meisner, Tổng Giám Mục Cologne, nơi tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX năm 2005, đã tiết lộ trong cuộc họp báo tại Đài Phát Thanh Vatican 5/7/2005 rằng “Cologne đã làm việc cả 8 năm trời cho biến cố này”, vì vị hồng y Tổng Giám Mục Cologne tiết lộ Đức Gioan Phaolô II đã nói với ngài về việc tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Đức từ Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Pháp quốc năm 1997, tức 8 năm trước, nguyên văn lời vị hồng y như sau:

“Đức Giáo Hoàng đã nói với tôi rằng ngài cảm thấy một trong những Ngày Giới Trẻ Thế Giới đầu tiên trong ngàn năm mới cần phải được tổ chức ở Cologne, vì thế kỷ vừa qua Đức quốc đã chứng kiến thấy một số những thảm họa kinh hoàng cho nhân loại, và giờ đây nước này cần phải chứng kiến thấy một dấu hiệu hy vọng cả thể”.

Về việc chuyển tiếp kỳ lạ giữa hai vị giáo hoàng thuộc về 2 đất nước Balan rồi Đức quốc này, hai quốc gia đã từng là kẻ thù của nhau trong Thế Chiến Thứ Hai, cũng đã được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhận định trong Bài Nói về Cuốn Phim “Karol, Một Con Người đã Trở Thành Giáo Hoàng” ngày 19/5/2005 như sau:

”Chúng ta lại không thấy được hay sao dự án thần linh nơi sự kiện là trên Ngai Tòa Thánh Phêrô vị Giáo Hoàng Balan được kế vị bởi một người công dân Đức Quốc, nơi chế độ Nazi đã củng cố mình bằng tính chất cực kỳ độc hại, trước khi tấn công láng giềng của mình, nhất là Balan? Cả hai vị Giáo Hoàng này, trong thời còn trẻ, mặc dù ở hai bên khác nhau và ở hai trường hợp khác nhau, đều bị buộc phải trải qua cái dã man mọi rợ của Thế Chiến Thứ Hai cũng như của tình trạng bạo lực vô nghĩa được con người và các dân tộc sử dụng để phạm đến nhau”.

Phải chăng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được sai đến để làm sụp đổ chủ nghĩa và chế độ Cộng sản Âu Châu thì vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI được sai đến để giúp cho Âu Châu hiệp nhất nên một bằng việc hiện thực hóa vấn đề đại kết Kitô giáo?

Sau nữa, Đức Gioan Phaolô II được sai đến như một triết gia nhân bản, vị đã đặc biệt đóng góp vào 2 trong 4 Hiến Chế của Công Đồng Chung Vaticanô II, đó là Hiến Chế tín lý về Giáo Hội "Lumen Gentium" và Hiến Chế mục vụ về Giáo Hội "Gaudium et Spes", và trong giáo triều dài 26 năm rưỡi của mình ngài quả thực đã làm cho Giáo Hội là "Ánh Sáng Muôn Dân" mang "Vui Mừng và Hy Vọng" đến cho cả Giáo Hội hoàn vũ cũng như chung thế giới tân tiến qua 104 cuộc tông du của mình và 16 bức Thông Điệp bao gồm đủ mọi vấn đề thiết yếu hiện đại. Trong khi đó, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là một thần học gia thánh kinh và phụng vụ, vị cũng đã góp phần vào 2 trong 4 Hiến Chế còn lại của Công Đồng Chung Vaticanô II, đó là Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium và Hiến Chế về Lời Chúa Dei Verbum, và trong giáo triều của mình, ngài đã chủ tọa hai Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới, một về Thánh Thể năm 2005 và một về Lời Chúa năm 2008, ngoài ra, về Phụng Vụ ngài còn cho phép cử hành Lễ Latinh và về Lời Chúa ngài còn xuất bản bộ sách 3 cuốn về Chúa Giêsu Nazarét.

Sau hết, cả hai vị giáo hoàng, trong bài giảng cho lễ đăng quang khai triều của mình, đều kêu gọi thế giới "đừng sợ" mà hãy tin tưởng vào Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis. Trong tác phẩm “Tặng Ân và Mầu Nhiệm – Gift and Mystery”, ấn bản Anh Ngữ 1996, trang 82, Đức Gioan Phaolô II tiết lộ cho biết cốt lõi của giáo triều ngài là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần như sau:

“Chúa Kitô là một vị linh mục vì Người là Đấng Cứu Chuộc của thế giới. Chức linh mục của tất cả thành phần giáo sĩ thuộc về mầu nhiệm Cứu Chuộc. Sự thật này về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng Cứu Chuộc đã từng là những gì trọng yếu đối với tôi; sự thật ấy đã luôn tồn tại trong tôi qua tất cả những năm tháng ấy, nó đã thấm nhập vào tất cả mọi kinh nghiệm mục vụ của tôi, và nó đã tiếp tục cho tôi thấy những điều phong phú mới mẻ. Trong 50 năm làm linh mục này, tôi đã nhận thức được rằng, Việc Cứu Chuộc, cái giá phải trả cho tội lỗi, bao gồm cả một thứ phục hồi mới, một loại ‘tân tạo’ nơi toàn thể lãnh vực tạo sinh, ở chỗ, nó là những gì tái phục hồi con người là một ngôi vị, phục hồi con người được Thiên Chúa dựng nên có nam có nữ, một phục hồi của chân lý sâu xa nhất về tất cả mọi hoạt động của con người, về văn hóa và văn minh của con người, về tất cả những gì họ chiếm đạt cùng với các khả năng sáng tạo của họ. Sau khi tôi được bầu làm Giáo Hoàng, cái động lực thiêng liêng đầu tiên tôi cảm thấy đó là hướng về Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc. Đó là nguồn gốc của bức Thông Điệp ‘Redemptor Hominis – Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần’. Như tôi đã chia sẻ về tất cả những biến cố này, tôi thấy rõ hơn bao giờ hết cái liên hệ chặt chẽ giữa sứ điệp của bức Thông Điệp này với hết mọi sự ở trong tâm can của con người qua việc họ được thông dự vào chức linh mục của Chúa Kitô”.

Trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật VII Quanh Năm 19/2/2006, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã cảm nhận theo chiều hướng của vị tiền nhiệm mình như sau:

“Ngày nay nhân loại cũng mang những dấu hiệu tội lỗi là những gì ngăn trở họ nhanh chóng tiến bộ nơi những giá trị về huynh đệ, công lý và hòa bình, những giá trị cũng đã được ấn định nơi những bản tuyên ngôn trang trọng. Tại sao? Cái gì ngăn cản đường lối của họ? Cái gì làm tê liệt đi việc phát triển trọn vẹn này? Chúng ta quá rõ là, trên bình diện lịch sử, những nguyên nhân thì nhiều và vấn đề lại phức tạp. Thế nhưng, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng đức tin và hãy tin tưởng, như thành phần khiêng người bị bất toại, con người chỉ có thể được chữa lành bởi một mình Chúa Giêsu mà thôi. Ước muốn căn bản nơi các vị tiền nhiệm của tôi, nhất là của Đức Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta, đó là dẫn con người của thời đại chúng ta đến với Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc, nhờ đó, qua việc chuyển cầu của Mẹ Maria Vô Nhiễm, Người có thể chữa lành cho họ. Tôi cũng muốn tiến theo con đường này nữa. Nhất là, bằng bức thông điệp đầu tiên ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’, tôi muốn nói với tín hữu và toàn thế giới rằng Thiên Chúa là nguồn tình yêu chân thực. Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể canh tân lòng người, và chỉ khi nào con tim của nhân loại bị bất toại được chữa lành thì họ mới có thể đứng lên bước đi mà thôi. Tình yêu của Thiên Chúa thực sự là một quyền lực canh tân thế giới vậy”.

Trước biến cố Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đích thân chủ phong chân phước cho vị vừa tiền nhiệm của mình, không còn gì thích đáng và cần thiết bằng việc ôn lại những gì vị giáo hoàng đương kim cảm nhận về vị giáo hoàng tiền nhiệm của ngài dọc suốt thời gian làm giáo hoàng của mình mỗi khi có dịp. Sau đây là những trích dẫn tiêu biểu theo chủ đề được anh Cao Tấn Tĩnh theo dõi, chuyển dịch và phân loại.

Về gương sống Đức Tin của Vị Tiền Nhiệm

Trong bài Huấn Dụ Dân Chúng ở Wadowice, Rynek Square, Thứ Bảy 27/5/2006, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ôn lại đời sống Đức Tin của vị tiền nhiệm nơi quê hương của vị tiền nhiệm thế này:

“Tôi cảm thấy đầy xúc động ở nơi sinh trưởng này của Vị Đại Tiền Nhiệm tôi là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, nơi tỉnh mà ngài đã trải qua thời thơ ấu và thanh niên. Thật vậy, tôi không thể nào không tới Wadowice khi tôi hành hương đến Balan theo bước chân của ngài. Tôi muốn dừng lại chính địa điểm này, nơi ngài đã bắt đầu sống đức tin và trưởng thành đức tin, để cùng với tất cả anh chị em nguyện cầu cho ngài sớm được tôn vinh trên bàn thờ. Johann Wolfgang von Goethe, một đại thi hào người Đức, đã nói: ‘Ai muốn hiểu được một nhà thơ thì cần phải đến viếng thăm quê hương của nhà thơ ấy’. Điều này cũng đúng với những ai muốn hiểu được đời sống và thừa tác vụ của Đức Gioan Phaolô II; cần phải đến thành phố sinh trưởng của ngài đây. Chính ngài đã thú nhận rằng, ở nơi đây, ở Wadowice này, ‘mọi sự đã được bắt đầu: đời sống, học hành, khấu trường và linh mục’ (Wadowice, 16/6/1999).

“Đức Gioan Phaolô II, khi quay về với những thuở ban đầu của mình, thường đề cập tới một dấu hiệu, đó là dấu hiệu bể rửa tội, là dấu hiệu được chính ngài đặc biệt tôn kính nơi Giáo Hội ở Wadowice. Vào năm 1979, trong chuyến hành hương đầu tiên của ngài về Balan, ngài đã nói rằng: ‘Nơi bể rửa tội này đây, vào ngày 20/6/1920, tôi đã lãnh nhận ơn được làm con Thiên Chúa, cùng với đức tin vào Đấng Cứu Chuộc của tôi, và tôi đã được đón nhận vào cộng đồng Giáo Hội. Tôi đã trịnh trọng hôn bể rửa tội này vào năm mừng kỷ niệm đệ nhất thiên niên Balan được lãnh nhận Phép Rửa, vào lúc tôi làm Tổng Giám Mục Kraków hồi ấy. Tôi đã hôn bể rửa tội này một lần nữa vào dịp kỷ niệm 50 năm tôi được lãnh nhận bí tích thanh tẩy, lúc tôi làm Hồng Y, và hôm nay đây tôi hôn bể rửa tội này lần thứ ba, khi tôi từ Rôma trở về như Vị Thừa kế Thánh Phêrô’ (Wadowice, 7/6/1979). Dường như nơi những lời này của Đức Gioan Phaolô II có chất chứa cái then chốt để hiểu được tính cách nhất trí nơi đức tin của ngài, tính cách sâu xa nơi đời sống Kitô hữu của ngài, và ước vọng nên thánh được ngài liên tục bộc lộ. Ở đây, với ý thức sâu xa về ân sủng thần linh, về tình yêu vô tư của Thiên Chúa đối với loài người, mà thành phần Dự Tòng, nhờ nước và Thánh Linh được thuộc vào số muôn vàn con cái của Ngài, thành phần được Máu Chúa Kitô cứu chuộc. Đường lối của đời sống Kitô hữu chân chính là những gì tương đương với lòng trung thành thực hiện các lời hứa quyết của Phép Rửa thánh. Câu khẩu hiệu cho chuyến hành hương này là ‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’ ở nơi đây có một chiều kích cụ thể có thể được diễn đạt bằng lời huấn dụ như thế này: ‘Hãy cương quyết tuân giữ các lời hứa quyết của phép rửa’. Một chứng nhân của chính đức tin này là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, vị được nơi chốn này nói tới một cách rất đặc biệt.

“Vị đại Tiền Nhiệm của tôi đã xác nhận là Đền Thờ Wadowice, giáo xứ quê quán của ngài, là một địa điểm đặc biệt quan hệ tới việc phát triển đời sống thiêng liêng của ngài cũng như tới ơn gọi linh mục của ngài là ơn gọi tỏ hiện nơi ngài. Có lần ngài đã nói rằng: ‘Nơi nhà thờ này, tôi đã Xưng Tội lần đầu và đã Rước Lễ lần đầu. Ở nơi đây tôi đã là một chú giúp lễ. Ở nơi đây tôi tạ ơn Chúa về tặng ân linh mục, và là Tổng Giám Mục Kraków, tôi đã cử hành 25 năm lãnh nhận thiên chức linh mục. Chỉ có một mình Thiên Chúa, Đấng ban phát mọi ơn lành, mới biết được những gì là thiện hảo và đầy những ân huệ tôi đã nhận được nơi nhà thờ này cũng như nơi cộng đồng giáo xứ này. Hôm nay tôi xin tôn vinh Ngài, Vị Thiên Chúa Ba Ngôi, ở ngưỡng cửa của ngôi nhà thờ đây’ (Wadowice, 16/6/1979). Nhà thờ là dấu hiệu của mối hiệp thông của tín hữu được liên kết nhờ sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng ngự giữa họ. Cộng đồng này là Giáo Hội được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu. Tình ngài mến yêu Giáo Hội được xuất phát từ giáo xứ Wadowice đây. Nơi ngôi nhà thờ này, ngài đã cảm nghiệm được đời sống bí tích, việc truyền bá phúc âm hóa và việc hình thành một đức tin chín chắn trưởng thành. Đó là lý do, là một linh mục, là một giám mục và là một Giáo Hoàng, ngài đã hết sức chăm sóc cho các cộng đồng giáo xứ. Theo tinh thần của mối quan tâm ấy, trong cuộc viếng thăm ngũ niên Tòa Thánh, tôi đã xin các Vị Giám Mục Balan hãy làm tất cả những gì có thể để bảo đảm rằng giáo xứ Balan thực sự là một ‘cộng đồng giáo hội’ và là một ‘gia đình Giáo Hội’.

“Để kết luận, tôi muốn nhắc lại lần nữa một đặc tính về đức tin và về linh đạo của Đức Gioan Phaolô II, một đặc tính có liên hệ với nơi chốn này. Chính ngài đã nhớ đến nhiều lần việc dân sự ở Wadowice sâu xa gắn bó với tấm ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở địa phương này và thói lệ đọc kinh hằng ngày trước tượng Mẹ của các em học sinh. Việc hồi niệm ấy giúp chúng ta tiến tới nguồn mạch của niềm xác tín đã nuôi dưỡng Đức Gioan Phaolô II – niềm xác tín liên quan tới địa vị ngoại hạng của Người Mẹ Thiên Chúa trong cuộc đời của ngài, một niềm xác tín mà chính ngài, đầy lòng sùng mộ, đã bày tỏ qua khẩu hiệu ‘Totus tuus’. Cho đến giây phút cuối cùng trong cuộc hành trình trần thế của mình, ngài vẫn trung thành với việc hiến dâng này.

“Theo tinh thần của việc hiến dâng ấy, trước tấm ảnh này đây, tôi xin dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về Giáo Triều của Đức Gioan Phaolô II, và, cũng như ngài, tôi xin Đức Mẹ hãy trông coi Giáo Hội đã được Chúa muốn trao phó cho tôi hướng dẫn. Tôi cũng xin tất cả anh chị em, anh chị em thân mến, hãy nguyện cầu cho tôi như anh chị em đã nguyện cầu cho vị đồng hương cao cả ấy của anh chị em vậy. Tận đáy lòng của mình, tôi chúc lành cho tất cả anh chị em hiện diện nơi đây hôm nay cũng như cho tất cả những ai đến Wadowice để kín múc từ cái bể tinh thần đức tin của Đức Gioan Phaolô II”.

Về gương theo Chúa của Vị Tiền Nhiệm

Trong Bài Giảng cho Lễ An Táng ĐTC GPII 8/4/2005, ĐHY chủ tế Joseph Ratzinger, vị giáo hoàng kế nhiệm tương lai đã tưởng nhớ đến vị giáo hoàng ngài được tiếp tục mời gọi thân cận cộng tác lâu đời trong vai trò Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin như sau:

“Hãy theo Thày! Là một sinh viên trẻ, Karol Wojtyla say sưa với văn chương, kịch nghệ và thi ca. Làm việc ở một xưởng hóa chất, bị vây bủa và đe dọa bởi việc khủng bố của Nazi, ngài đã nghe thấy tiếng gọi của Chúa: Hãy theo Thày! Trong hoàn cảnh ngoại thường ấy, ngài đã bắt đầu đọc các sách về triết lý và thần học, rồi nhập chủng viện chui do ĐHY Sapieha thiết lập. Sau cuộc chiến, ngài đã hoàn tất việc học hành của mình theo phân khoa thần học ở Đại Học Jagiellonian ở Krakow. Nhiều lần, trong thư gửi cho các linh mục hằng năm cũng như trong các tác phẩm tự truyện của mình, ngài đã nói cho chúng ta biết về thiên chức linh mục của ngài, một thiên chức ngài đã được thụ phong ngày 1 tháng 11 năm 1946. Trong các bản văn này, ngài đã cắt nghĩa thiên chức linh mục của mình đặc biệt liên quan tới 3 câu nói của Chúa: ‘Không phải các con đã chọn Thày, song Thày đã chọn các con. Và Thày đã sai các con đi để sinh hoa kết trái, những hoa trái lâu bền’ (Jn 15:16). Câu thứ hai là ‘Vị mục tử nhân lành bỏ sự sống mình cho chiên’ (Jn 10:11). Rồi câu: ‘Như Cha đã yêu thương Thày thế nào Thày cũng yêu thương các con như vậy; hãy ở lại trong tình yêu của Thày’ (Jn 15:9). Nơi 3 câu nói này chúng ta thấy được tâm can và linh hồn Đức Thánh Cha của chúng ta. Ngài đã thực sự đi khắp nơi, không ngừng nghỉ, để sinh hoa trái, một thứ hoa trái lâu bền. ‘Hãy chỗi dậy, Nào chúng ta lên Đường!’ là nhan đề của cuốn sách áp cuối của ngài. ‘Hãy đứng dậy, nào chúng ta lên Đường!’ – với những lời này, ngài đã thức tỉnh chúng ta khỏi một thứ đức tin lim dim, khỏi một giấc ngủ của thành phần môn đệ hôm qua và hôm nay. ‘Hãy đứng dậy, nào chúng ta lên đường!’ ngài tiếp tục nói với chúng ta cho đến cả hôm nay đây. Đức Thánh Cha là một vị linh mục cho tới cùng, vì ngài đã hiến dâng sự sống của mình cho Thiên Chúa vì đàn chiên của mình cũng như vì toàn thể nhân loại, bằng một cuộc tự hiến hằng ngày để phục vụ Giáo Hội, nhất là giữa những đớn đau của các tháng cuối đời. Nhờ đó, ngài được nên một với Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành đã yêu thương chiên của Người. Sau hết, ‘hãy ở lại trong tình yêu của Thày’: Vị Giáo Hoàng này đã cố gắng gặp gỡ hết mọi người, vị đã có khả năng tha thứ và cởi mở tâm hồn với tất cả mọi người, bằng những lời của Chúa ấy, nói với chúng ta hôm nay đây một lần nữa rằng, nhờ việc ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô chúng ta học được, nơi học đường của Chúa Kitô, nghệ thuật yêu thương chân thật.

”Hãy theo Thày! Vào tháng 7 năm 1958, vị linh mục trẻ Karol Wojtyla đã bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc hành trình của ngài với Chúa và bước theo vết chân của Chúa. Karol đã đi đến hồ Masuri để nghỉ hè như thường lệ, cùng với một nhóm giới trẻ yêu thích chèo thuyền. Thế nhưng, ngài đã mang theo bên mình một bức thư mời ngài gặp vị Giáo Chủ Balan là ĐHY Wyszynski. Ngài có thể đoán được mục đích của cuộc gặp gỡ này: đó là ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục phụ tá ở Krakow. Rời bỏ thế giới văn học, rời bỏ việc dấn thân thách đố với giới trẻ này, rời bỏ nỗ lực về tri thức trong việc cố gắng hiểu biết và giải thích mầu nhiệm về tạo vật là con người cũng như về việc truyền đạt cho thế giới ngày nay vấn đề dẫn giải của Kitô giáo đối với con người của chúng ta – tất cả những điều ấy đối với ngài, phải nói rằng, như mất đi chính bản thân ngài vậy, mất đi những gì đã trở thành chính căn tính con người của vị linh mục trẻ này. Hãy theo Thày – Karol Wojtyla đã chấp nhận việc bổ nhiệm ấy, vì ngài đã nghe thấy nơi tiếng Giáo Hội mời gọi tiếng của Chúa Kitô. Và rồi ngài đã nhận thức những lời của Chúa chân thực biết bao: ‘Những ai cố giữ sự sống mình sẽ mất nó, còn những ai mất sự sống mình sẽ giữ được nó’ (Lk 17:33). Vị Giáo Hoàng của chúng ta – như tất cả chúng ta đều biết điều này là – không bao giờ muốn giữ lấy sự sống của ngài, giữ lấy nó cho bản thân của ngài; ngài muốn hoàn toàn trao tặng bản thân mình, cho đến giây phút cuối cùng, vì Chúa Kitô và do đó cũng vì chúng ta nữa. Nhờ đó, ngài đã cảm thấy được rằng hết những gì ngài đã hiến dâng vào bàn tay Chúa đã trở về với ngài như thế nào một cách mới mẻ. Lòng ngài mộ mến ngôn từ, thi ca, văn chương, đã trở nên một phần chính yếu của sứ vụ mục vụ của ngài và cống hiến cho việc giảng dạy Phúc Âm tính cách sinh động mới, thôi thúc mới, thu hút mới, cho dù có là một dấu hiệu phản khắc chăng nữa.

”Hãy theo Thày! Vào tháng 10/1978, ĐHY Wojtyla, một lần nữa, đã nghe thấy tiếng Chúa gọi. Một lần nữa, lại xẩy ra cuộc đối thoại với Thánh Phêrô được trình thuật trong bài Phúc Âm Thánh Lễ hôm nay: ‘Simon, con Jonah, con có yêu mến Thày hay chăng?’ Hãy chăn các chiên mẹ của Thày!’ Trước câu hỏi Chúa hỏi ‘Karol, con có yêu mến Thày hay chăng?’, ĐTGM Krakow đã đáp lại tận đáy lòng mình rằng: ‘Chúa biết hết mọi sự; Chúa biết rằng con yêu mến Chúa’. Tình yêu Chúa Kitô đã động lực chính yếu nơi đời sống Đức Thánh Cha thân yêu của chúng ta. Bất cứ ai đã từng thấy ngài cầu nguyện, những ai đã từng nghe ngài giảng, đều biết được điều ấy. Nhờ việc ngài sống sâu xa thân mật với Chúa Kitô như thế, ngài đã có thể mang vác một gánh nặng vượt trên khả năng thuần túy của phàm nhân: gánh nặng làm mục tử của đàn chiên Chúa Kitô, của Giáo Hội hoàn vũ của mình. Đây không phải là lúc nói về những gì đặc biệt của giáo triều phong phú này. Tôi chỉ xin đọc hai đoạn phụng vụ hôm nay nói lên những yếu tố chính yếu nơi sứ điệp của ngài. Trong bài đọc thứ nhất, Thánh Phêrô – và cùng với Thánh Phêrô cả vị Giáo Hoàng này nữa – nói rằng ‘Tôi thực sự hiểu được rằng Thiên Chúa đã không tỏ ra thiên vị, thế nhưng, nơi hết mọi dân nước, ai kính sợ Ngài và làm những gì chân thực đều đáng được Ngài chấp nhận. Anh em biết rằng sứ điệp Ngài đã gửi đến cho dân Do Thái, đó là việc rao giảng hòa bình của Chúa Giêsu Kitô – Người là Chúa của tất cả mọi người’ (Acts 10:34-36). Và trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô – và cùng với Thánh Phaolô, vị cố Giáo Hoàng của chúng ta, đã kêu gọi chúng ta khi kêu lên rằng: ‘Anh chị em thân mến, những người tôi yêu thương và mong đợi, là niềm vui và là vinh dự của tôi, anh chị em hãy đứng vững như thế trong Chúa, hỡi những người tôi quí mến’ (Phil 4:1).

”Hãy theo Thày! Kèm theo lệnh truyền chăm sóc cho đàn chiên của Người, Chúa Kitô còn báo cho Phêrô rằng thánh nhân sẽ phải chịu một cái chết tử đạo. Bằng những lời này, những lời kết thúc và tóm tắt cuộc đối thoại về lòng mến yêu cũng như về lệnh truyền làm chủ chiên hoàn vũ, Chúa Kitô đã nhắc lại một cuộc đối thoại khác đã diễn ra trong Bữa Tiệc Ly. Bấy giờ Chúa Giêsu đã phán: ‘Nơi Thày đi các con không thể nào tới được’ Thánh Phêrô thưa Người rằng: ‘Lạy Thày, Thày đi đâu thế?’ Chúa Giêsu đáp: ‘Nơi Thày đi hiện nay con không thể nào theo Thày nổi đâu; nhưng sau này con sẽ theo Thày’ (Jn 13:33,36). Từ Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã tiến tới Thập Giá, tiến tới cuộc phục sinh của Người – Người đã đi vào cuộc vượt qua của Người; và Thánh Phêrô chưa thể nào theo được Người. Giờ đây, sau cuộc phục sinh, thời giờ ấy đã đến, thời điểm ‘sau này’ đã đến. Bằng việc chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô, Thánh Phêrô đã đi vào mầu nhiệm vượt qua, thánh nhân đã tiến về phía thập tự giá và về cuộc phục sinh. Chúa Kitô đã nói về điều này bằng những lời: ‘… khi con còn trẻ, con thường tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý con muốn’ (Jn 21:18). Trong những năm đầu của giáo triều mình, những năm còn trẻ trung và đầy nhiệt huyết, Đức Thánh Cha đã đi đến tận cùng trái đất theo sự dẫn dắt của Chúa Kitô. Thế nhưng sau đó, ngài càng ngày càng đi sâu vào cuộc hiệp thông khổ đau với Chúa Kitô; càng hiểu được sự thật của những lời này: ‘Người ta sẽ thắt lưng cho con’. Và trong chính cuộc hiệp thông đau khổ này với Chúa Kitô một cách liên tục và càng gia tăng hơn, ngài đã loan báo Phúc Âm, loan báo mầu nhiệm về một tình yêu thương cho đến cùng tận (x Jn 13:1)”.

Về Linh Đạo Của Vị Tiền Nhiệm

Trong Bài Giảng Lễ Giỗ 3 năm cho Đức Gioan Phaolô II, ĐTC Biển Đức XVI chia sẻ cảm nhận của mình như sau:

"Giống như 3 năm trước đây, cả đến ngày hôm nay nữa, mới chỉ sau một thời gian ngắn sau Phục Sinh. Trung tâm điểm của Giáo Hội đây lại cảm thấy mình chìm đắm trong mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô. Thật vậy, chúng ta có thể giải thích cả cuộc đời của vị tiền nhiện thân yêu của tôi, đặc biệt là thừa tác vụ thừa kế Thánh Phêrô của ngài, theo dấu hiệu của Chúa Kitô đã được phục sinh. Ngài đã cảm thấy một đức tin phi thường nơi Người, và cùng với Người, ngài đã giữ được một cuộc trao đổi thân tình, đặc biệt và liên lỉ. Trong số nhiều những tính chất nhân loại và siêu nhiên của mình, ngài có một cảm quan đặc biệt về tu đức và thần bí.

"Chỉ cần thấy ngài cầu nguyện là đủ: Bề ngoài ngài chìm đắm trong Chúa và dường như mọi sự khác trong lúc ấy đều ở ngoài cuộc. Trong khi cử hành phụng vụ, ngài đã chú tâm tới mầu nhiệm đang diễn tiến, bằng một khả năng nhận định một cách nhậy bén cái tính chất sống động của lời Chúa tiến triển qua giòng lịch sử, khi tiến sâu vào dự án của Thiên Chúa. Như ngài thường hay nói, đối với ngài Thánh Lễ là tâm điểm của ngày sống và cả cuộc đời của ngài – thực tại 'sống động và thánh hảo' Thánh Thể này đã hiến cho ngài nghị lực thiêng liêng trong việc hướng dẫn dân Chúa tiến bước trên con đường lịch sử.

"Đức Gioan Phaolô II đã qua đời vào thời điểm vọng Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh, 'ngày Chúa làm nên'. Những quằn quại của cái chết đã xẩy ra vào 'ngày' này, theo cái thời-không mới thì đó là 'ngày thứ tám', ngày được Ba Ngôi muốn qua công cuộc của Lời nhập thế, tử nạn và phục sinh. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào những trường hợp khác nhau đã cho thấy rằng, một cách nào đó, ngài đã chìm sâu vào chiều kích linh thiêng này trước đó, trong đời sống của ngài, nhất là trong việc làm trọn sứ vụ là Vị Giáo Chủ Tối Cao.

"Giáo triều của ngài, nếu được tổng hợp lại và qua nhiều thời khắc đặc biệt, cho chúng ta thấy như là một dấu hiệu và chứng từ của việc Chúa Kitô phục sinh. Chiều kích vượt qua ấy, một chiều kích làm cho cuộc sống của Đức Gioan Phaolô trở thành một đáp ứng hoàn toàn cho tiếng gọi của Chúa, không thể được tỏ hiện mà không tham phần vào những khổ đau và cái chết của Vị Sư Phụ thần linh và là Đấng Cứu Chuộc. Tông Đồ Phaolô đã nói: 'Đây là điều đáng tin tưởng, đó là nếu chúng ta đã chết với Người thì chúng ta sẽ sống với Người; nếu chúng ta kiên trì chúng ta cũng sẽ hiển trị với Người' (2Tim 2:11-12).

"Từ thuở nhỏ, Đức Karol Wojtyla đã cảm nghiệm được chân lý của những lời ấy, khi thấy được thập tự giá trên con đường của mình, trong gia đình của mình, với dân tộc của mình. Ngài đã sớm quyết định vác thập giá bên Chúa Giêsu, theo bước chân của Người. Ngài muốn là người tôi tớ trung thành của Người cho đến độ tiếp nhận ơn gọi làm linh mục như là một tặng ấn và là một cuộc dấn thân suốt cuộc đời của ngài. Với Người, ngài đã sống, và cùng với Người ngài đã muốn được chết đi. Ngài đã làm tất cả những điều này nhờ trung gian đặc thù của Mẹ Maria rất thánh là Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, người Mẹ đã sâu xa và thực sự liên kết với mầu nhiệm cứu độ nơi việc tử nạn và phục sinh của Người".



Trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Lá 30/3/2008 về Đức Gioan Phaolô II và Lòng Thương Xót Chúa, ĐTC Biển Đức XVI còn thêm về một khía cạnh thiết yếu nữa trong linh đạo của vị tiền nhiệm thế này:

"Như Thánh Faustina, Đức Gioan Phaolô II cũng đã trở thành một vị tông đồ của lòng thương xót thần linh. Vào đêm Thứ Bảy 2/4/2005 không thể quên được ấy, khi ngài vĩnh viễn lìa đời thì chính là thời điểm lễ vọng Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh đã được cử hành, và nhiều người nhận định thấy sự trùng hợp đặc thù này, một sự trùng hợp giữa chiều kích Thánh Mẫu là ngày Thứ Bảy Đầu Tháng và chiều kích lòng thương xót thần linh. Thật vậy, giáo triều lâu dài và muôn mặt của ngài là ở cái cốt lõi chính yếu này; tất cả sứ vụ của ngài trong việc phục vụ chân lý về Thiên Chúa, về con người và về hòa bình trên thế giới đều được tóm gọn trong lời tuyên bố này, như chính ngài đã nói ở Krakow-Lagiewniki năm 2002, khi khánh thành Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa: 'Ngoài tình thương của Thiên Chúa sẽ không có một nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại hết'. Sứ điệp của ngài, như sứ điệp của Thánh Faustina, cho thấy dung nhan của Chúa Kitô, mạc khải tối hậu của tình thương Thiên Chúa. Hãy liên lỉ chiêm ngưỡng dung nhan này: Đó là gia sản ngài đã để lại cho chúng ta mà chúng ta hân hoan đón nhận làm của mình".

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL