Dan Lee
07-26-2011, 11:27 PM
Đức Mẹ ban phép lạ tại trà cú sóc trăng vn
Lạy Chúa con là người ngoại đạo, Nhưng tin có Chúa ngự trên cao. Ngay từ khi còn nhỏ tôi đã thích hai câu thơ trên, vì tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo đạo Phật, bố mẹ tôi rất sùng đạo. Nhưng không hiểu vì một sự mầu nhiệm nào khiến tôi lại thích đạo công giáo. Khi mới bốn tuổi tôi đã được theo chị vú nuôi đi nhà thờ vào mỗi chiều Chúa Nhật. Hình ảnh ngôi giáo đường cổ kính, hình ảnh Chúa Giêsu đóng đinh trên thập giá và hình ảnh Đức Mẹ đẹp dịu hiền, tay lúc nào cũng cầm sâu chuỗi đã in sâu vào tiềm thức của tôi.
Càng lớn lên tôi lại càng thích tìm hiểu về đạo Chúa nhiều hơn, vì thế tôi thích quen thân với những người bạn có đạo. Tôi say mê nghe tiếng chuông giáo đường ngân vang mỗi buổi chiều, thích đeo ảnh tượng Chúa và Đức Mẹ, thích đọc kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và thích nhất là mỗi lần được tham dự thánh lễ hôn phối trong nhà thờ. Hình ảnh cô dâu chú rể nắm tay nhau, trao nhẫn cưới cho nhau, nói lên những lời thề nguyền sắt son trước cung thánh, đối với tôi thật tuyệt đẹp và tôi bắt đầu có những mơ ước thầm kín.
Rồi như có sự sắp đặt của Thiên Chúa, lớn lên tôi đã gặp và yêu một người có đạo. Nhưng tình yêu của chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trở ngại về vấn đề tôn giáo, vì bố mẹ tôi không chấp thuận và đã nhiều lần ép gả tôi cho người ngoại đạo. Tôi chỉ còn biết liên lỉ cầu nguyện đêm ngày, trông cậy vào tình thương của Chúa và Mẹ Maria.
Sau hơn sáu năm chờ đợi, tôi đã được Chúa Mẹ nhậm lời nên bố mẹ tôi đã chấp thuận cho tôi được kết hôn với người mình yêu, nhưng với điều kiện tôi không được rửa tội theo đạo cũng như không được làm phép hôn phối trong nhà thờ, phải đợi đến ngày bố tôi khuất bóng.
Cuối năm 1974 bố tôi qua đời và trong khi tôi đang học đạo để chuẩn bị rửa tội thì biến cố 30-4 1975 ập đến. Chúng tôi theo lời khuyên của một người bạn, di chuyển về quê của anh tại họ đạo Trà cú, thuộc tỉnh Sóc Trăng, với hy vọng không ai biết được lý lịch của mình.
Họ đạo Trà Cú từ trước nổi tiếng là một họ đạo chống Cộng triệt để, vì thế mặc dù đã bị Việt cộng tiếp quản nhưng họ rất e ngại không giám dùng biện pháp mạnh đối với họ đạo này.
Về đến nơi, chúng tôi xuất trình giấy tờ với nhà cầm quyền địa phương, và đã được họ cho dạy học tại trường trung học Long Tân. Trường toạ lạc ngay trong khuôn viên nhà thờ thuộc họ đạo Trà Cú.
Sau khi đời sống đã tạm ổn định, chúng tôi đã xin cha sở để tôi được học đạo chuẩn bị rửa tội và chúng tôi được làm phép hôn phối. Nhưng nhiều lần cha sở khuyên chúng tôi hãy thong thả vì giữa buổi giao thời giữa hai chế độ và nhất là chế độ Công Sản không có cảm tình với đạo Thiên Chúa, nếu tôi rửa tội và làm phép hôn phối ngay lúc đó thì e rằng gia đình chúng tôi sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhưng tôi quyết tâm xin cha chánh xứ cho tôi được học đạo và rửa tội rồi việc gì xảy đến tôi cũng xin chấp nhận.
Hằng tuần đi nhà thờ và nhất là mỗi buổi sáng được nghe tiếng chuông vang vọng từ một ngôi thánh đường cổ kính, lòng tôi lại nôn nao mong chóng đến ngày được rửa tội.
Niềm mơ ước của tôi đã được thực hiện. Đêm Phục Sinh 1976 tôi đã được rửa tội, lãnh phép thêm sức và chúng tôi đã được làm phép hôn phối trước sự tham dự của cả ngàn giáo dân trong họ đạo.
Hai tuần sau khi được rửa tội thì Việt Cộng đến gặp chúng tôi, yêu cầu chúng tôi phải bỏ đạo vì chúng tôi là giáo chức, tức là công nhân viên của nhà nước thì phải theo thuyết duy vật, không được theo thuyết duy tâm.
Sau nhiều lần thuyết phục chúng tôi không được, nên gần hai tháng sau thì Việt cộng ập vào nhà chúng tôi, đọc án lệnh kết tội chồng tôi là C.I.A cho Mỹ, trà trộn vào họ đạo để tổ chức và móc nối đưa người vào bưng chống phá cách mạng, rồi chúng trói bắt chồng tôi đem đi.
Hoàn cảnh của tôi lúc bấy giờ thật bi đát. Lúc đó tôi đang bị bệnh, trong nhà chỉ còn vỏn vẹn mười lăm đồng bạc. Ba đứa con của tôi thì còn quá nhỏ dại: đứa lớn nhất mười tuổi, đứa thứ nhì bảy tuổi, thứ ba ba tuổi. Sống giữa nơi xứ lạ quê người, không bà con ruột thịt để nương tựa, tôi lại không có tin tức gì của chồng tôi, thật tôi không chết được mà phải sống.
Tôi chỉ còn biết trông cậy và phó thác vào Chúa và Mẹ Maria. Hình ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá đã an ủi và nuôi dưỡng tôi rất nhiều vì tôi nghĩ rằng: Chúa mà còn chịu đau khổ, nhục nhã và cuối cùng còn bị đóng đinh và chết trên thập giá để chuộc tôi cho nhân loại, trong đó có tội của tôi và gia đình tôi, thì tôi là con cái của Chúa lại không thể vác thánh giá ở đời này hay sao ? Tôi nhớ lời Chúa đã phán: ‘’Ai muốn theo Ta thì vác thánh giá mà theo Ta.’’( Luca 14:27) Hơn nữa, tôi nghĩ theo Chúa không phải là là theo con đường vinh quang hạnh phúc mà phải còn theo con đường khổ nạn của Chúa nữa. Nhờ vậy tôi đã có đủ nghị lực và can đảm để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Chúa Mẹ đã thương tôi nên đã cho tôi có một cuộc sống khá đầy đủ để tôi có thể tiếp tế cho chồng tôi ở trong tù và nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.
Trong thời gian chồng tôi ở tù, tôi vẫn được tiếp tục dạy học tại trường trung học Long Tân và tôi đã được chứng kiến một biến cố vô cùng quan trọng đã xảy ra tại họ đạo Trà Cú. Đó là: Đức Mẹ ban phép lạ chữa cho một cô bé tật nguyền được trở lại đi đứng bình thường.
Hàng tuần đi dự lễ ngày Chúa Nhật, tôi thường thấy một cô bé khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, da ngâm đen, tóc ngang vai, dáng cục mịch quê mùa. Em bị liệt hai chân vì bị sốt tê liệt hồi em lên hai tuổi. Em phải đi nạng, mỗi lần lên rước lễ mẹ em và chị của em phải dìu em đi rất vất vả khó khăn.
Tôi thấy cô bé tật nguyền đi lại khó khăn như vậy nhưng vẫn chịu khó đi nhà thờ, không hề vắng mặt một tuần nào. Tôi tìm hiểu về em và được biết tên em là Trần thị Hữu. Cha em là một người ngoại đạo, đã rửa tội để được cưới mẹ em, nhưng sau đó vài năm ông bỏ đạo. Nhiều lần cha em định đem em đi chữa bằng phương pháp bùa phép nhưng em phản đối và nói với cha mẹ em rằng: Đức Mẹ đã hiện về với em và hứa sẽ chữa cho em đi được, vì thế em chỉ cần ở nhà cầu nguyện, nhất định không chịu chữa trị bằng phương pháp nào khác.
Bẵng đi một thời gian tôi không thấy em đến nhà thờ nữa, tôi được chị hàng xóm cho biết em đã bị đau, không ngồi dạy được, tê liệt hoàn toàn, suốt đêm ngày chỉ nằm trên giường, em ăn rất ít mà chỉ uống nước phép của đền thờ Đức Mẹ Lộ Đức, nhưng em vẫn tươi tỉnh hồng hào.
Hằng ngày bà con lối xóm và bạn bè đến thăm đều được em thuật lại cho nghe những lần Đức Mẹ hiện ra với em. Điều làm mọi người chú ý và nhớ nhất là Đức Mẹ hứa sẽ chữa cho em đi được vào dịp Lễ Phục Sinh 1977. Tin này được loan đi rất nhanh khắp mọi nơi và người đến thăm em càng ngày càng đông.
Riêng tôi vì cuộc sống quá khó khăn, hơn nữa nhà tôi và nhà em cách xa nhau cả hai cây số nên tôi không đến thăm em được.
Ngày tháng cứ đều đặn trôi qua và Mùa Phục sinh nữa lại đến, mọi người nôn nao chờ đợi. Tuy sống trong chế độ Cộng Sản nhưng họ đạo Trà Cú vẫn tổ chức Lễ Phục Sinh rất rầm rộ. Các cổng chào đều được dựng lên trước một tuần lễ, từ cổng nhà thờ đến nhà thờ đèn điện sáng chưng, bông hoa rực rỡ, người người lũ lượt đi dự lễ, quần áo đủ mầu sắc, quang cảnh thật tưng bừng náo nhiệt, khiến mọi người có cảm tưởng như đang sống trong chế độ cũ.
Tất cả mọi người không ai bảo ai đều chú ý tìm kiếm xem trong đám người đi dự lễ có em Hữu hay không. Nhưng ai nấy đều hết sức thất vọng vì được mẹ em Hữu cho biết em vẫn nằm trơ như một cây gỗ. Sau lễ, một số người về nhà em để thăm em và em vẫn nằm trên giường tiếp chuyện mọi người như thường lệ. Trong số những người đến thăm em có chị Nhan là người đã may tặng em chiếc áo dài soa Pháp màu xanh như màu áo của Đức Mẹ và một chiếc quần trắng để nếu Đức Mẹ chữa cho em khỏi chân, em sẽ mặc áo đó đi dự lễ Phục Sinh. Qua lễ rồi em vẫn còn nằm trên giường, chị Nhan hỏi em:
- Đức Mẹ hứa với em đến Lễ Phục Sinh sẽ ban phép lạ cho em và em sẽ đi được, sao bây giờ em vẫn còn nằm thế này ?
Em Hữu chỉ mỉm cười không nói gì. Khoảng hai giờ sáng một số người nản lòng đã bỏ ra về, chỉ còn chị Nhan và một vài người ở lại. Khi đang nói chuyện với nhau, bỗng dưng em Hữu ngồi phắt dạy, chỉ lên bàn thờ và nói:
-Thắp đèn cầy lên, Đức Mẹ đã hiện ra đó.
Em vừa nói vừa bước ra khỏi giường, đến bàn thờ, tự em thắp đèn nến. Mọi người thấy vậy sợ quá chạy toán loạn, kẻ chạy ra sau bếp, người chạy đi loan báo cho bà con hàng xóm. Có người chạy vội vàng trật cả mắt cá chân.
Em đòi mời mẹ đỡ đầu của em đến, viết tên thánh vào người em và mời cha mẹ của em đến để nghe Đức Mẹ dạy.
Đức Mẹ hỏi cha mẹ em có bằng lòng dâng con cho Đức Mẹ không ? Với giọng run run vì quá cảm động và sợ hãi, cha em thưa với Đức mẹ:
- Kính Đức Mẹ, con phải dâng con của con như thế nào, con sẽ cho con của con đi tu dòng con Đức Mẹ hay như thế nào, xin Đức Mẹ chỉ dạy.
Đức Mẹ phán:
- Bất cứ lúc nào và bất cứ cách nào khi Đức Mẹ cần đến.
Và Đức Mẹ cũng nói với những người có mặt tại đó:
- Các con phải chịu khó đi đọc kinh và lần hạt Mân Côi.
Chỉ chưa đầy một giờ sau nhà em Hữu đã chật ních người, đứng vòng trong, vòng ngoài.
Đêm hôm đó vì ở xa, tôi không được biết để đến nhà em Hữu chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ban phép lạ cho em. Nhưng sáng hôm sau thì tôi gặp em trên đường đi đến nhà thờ. Sau hơn một năm gặp lại em, tôi hết sức ngạc nhiên vì em xinh đẹp hơn trước nhiều, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Em không còn là cô bé Hữu quê mùa của một năm về trước. Không những em đi đứng bình thường như mọi người, em còn thay đổi hẳn vóc dáng; khuôn mặt bầu bĩnh với cặp mắt đen lánh, da trắng tươi, hai má ửng hồng, môi mọng đỏ, mái tóc huyền phủ kín bờ vai. Dáng người thon thon trong chiếc áo dài xanh tha thướt uyển chuyển. Vẻ đẹp của em bây giờ là vẻ đẹp của một thiếu nữ tỉnh thành sang trọng quí phái.
Tôi đi bên em và hỏi em về việc Đức Mẹ ban phép lạ cho em đêm hôm trước. Với giọng hết sức nhỏ nhẹ, em nắm tay tôi kể cho tôi nghe và dặn tôi:
- Chị nhớ cầu nguyện cho em nhé !
Như có một sự sắp đặt của Thiên Chúa, buổi lễ hôm đó có ba cha đồng tế, và em Hữu là người lên rước lễ đầu tiên. Cha sở Nguyễn Mạnh Đồng trao mình Thánh Chúa cho em mà vẫn không biết đó là cô bé Hữu đã từng chống nạng mỗi khi lên rước lễ trước đây.
Sau thánh lễ, em và gia đình em vào thăm cha sở, khi đó các cha mới hay. Cả ba cha đều hỏi chuyện em và nhìn nhau với ánh mắt chan hoà niềm vui.
Ba tháng sau, em Hữu đã được Chúa gọi về một cách đột ngột như Đức Mẹ đã bất ngờ hiện ra ban phép lạ cho em, trước sự bàng hoàng của mọi người.
Được tin đó tôi đã đến viếng em. Lại một lần nữa tôi vô cùng ngạc nhiên vì khi em đã tắt thở một ngày một đêm nhưng nét mặt vẫn tươi đẹp như hồi em còn sống, không nhợt nhạt như nét mặt của một người đã chết.
Đám tang em Hữu được tổ chức vô cùng trọng thể và thi hài em được an táng vào phần đất đặc biệt ngay sau nhà thờ Trà Cú. Tiếng chuông nhà thờ Trà Cú đã ngân vang hồi vĩnh biệt để tiễn đưa linh hồn Maria Trần thị Hữu về Nước Chúa.
Riêng gia đình tôi sau sáu năm thử thách, Chúa Mẹ lại ban cho một phép lạ nữa là cả gia đình tôi đã đến được bến bờ tự do, không tốn một đồng bạc.
Giờ đây gia đình chúng tôi đã có được một đời sống ổn định. Chúng tôi muôn vàn cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Maria.
(Dziễm Hoàn ghi lại)
Lạy Chúa con là người ngoại đạo, Nhưng tin có Chúa ngự trên cao. Ngay từ khi còn nhỏ tôi đã thích hai câu thơ trên, vì tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo đạo Phật, bố mẹ tôi rất sùng đạo. Nhưng không hiểu vì một sự mầu nhiệm nào khiến tôi lại thích đạo công giáo. Khi mới bốn tuổi tôi đã được theo chị vú nuôi đi nhà thờ vào mỗi chiều Chúa Nhật. Hình ảnh ngôi giáo đường cổ kính, hình ảnh Chúa Giêsu đóng đinh trên thập giá và hình ảnh Đức Mẹ đẹp dịu hiền, tay lúc nào cũng cầm sâu chuỗi đã in sâu vào tiềm thức của tôi.
Càng lớn lên tôi lại càng thích tìm hiểu về đạo Chúa nhiều hơn, vì thế tôi thích quen thân với những người bạn có đạo. Tôi say mê nghe tiếng chuông giáo đường ngân vang mỗi buổi chiều, thích đeo ảnh tượng Chúa và Đức Mẹ, thích đọc kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và thích nhất là mỗi lần được tham dự thánh lễ hôn phối trong nhà thờ. Hình ảnh cô dâu chú rể nắm tay nhau, trao nhẫn cưới cho nhau, nói lên những lời thề nguyền sắt son trước cung thánh, đối với tôi thật tuyệt đẹp và tôi bắt đầu có những mơ ước thầm kín.
Rồi như có sự sắp đặt của Thiên Chúa, lớn lên tôi đã gặp và yêu một người có đạo. Nhưng tình yêu của chúng tôi đã gặp rất nhiều khó khăn trở ngại về vấn đề tôn giáo, vì bố mẹ tôi không chấp thuận và đã nhiều lần ép gả tôi cho người ngoại đạo. Tôi chỉ còn biết liên lỉ cầu nguyện đêm ngày, trông cậy vào tình thương của Chúa và Mẹ Maria.
Sau hơn sáu năm chờ đợi, tôi đã được Chúa Mẹ nhậm lời nên bố mẹ tôi đã chấp thuận cho tôi được kết hôn với người mình yêu, nhưng với điều kiện tôi không được rửa tội theo đạo cũng như không được làm phép hôn phối trong nhà thờ, phải đợi đến ngày bố tôi khuất bóng.
Cuối năm 1974 bố tôi qua đời và trong khi tôi đang học đạo để chuẩn bị rửa tội thì biến cố 30-4 1975 ập đến. Chúng tôi theo lời khuyên của một người bạn, di chuyển về quê của anh tại họ đạo Trà cú, thuộc tỉnh Sóc Trăng, với hy vọng không ai biết được lý lịch của mình.
Họ đạo Trà Cú từ trước nổi tiếng là một họ đạo chống Cộng triệt để, vì thế mặc dù đã bị Việt cộng tiếp quản nhưng họ rất e ngại không giám dùng biện pháp mạnh đối với họ đạo này.
Về đến nơi, chúng tôi xuất trình giấy tờ với nhà cầm quyền địa phương, và đã được họ cho dạy học tại trường trung học Long Tân. Trường toạ lạc ngay trong khuôn viên nhà thờ thuộc họ đạo Trà Cú.
Sau khi đời sống đã tạm ổn định, chúng tôi đã xin cha sở để tôi được học đạo chuẩn bị rửa tội và chúng tôi được làm phép hôn phối. Nhưng nhiều lần cha sở khuyên chúng tôi hãy thong thả vì giữa buổi giao thời giữa hai chế độ và nhất là chế độ Công Sản không có cảm tình với đạo Thiên Chúa, nếu tôi rửa tội và làm phép hôn phối ngay lúc đó thì e rằng gia đình chúng tôi sẽ gặp nhiều khó khăn. Nhưng tôi quyết tâm xin cha chánh xứ cho tôi được học đạo và rửa tội rồi việc gì xảy đến tôi cũng xin chấp nhận.
Hằng tuần đi nhà thờ và nhất là mỗi buổi sáng được nghe tiếng chuông vang vọng từ một ngôi thánh đường cổ kính, lòng tôi lại nôn nao mong chóng đến ngày được rửa tội.
Niềm mơ ước của tôi đã được thực hiện. Đêm Phục Sinh 1976 tôi đã được rửa tội, lãnh phép thêm sức và chúng tôi đã được làm phép hôn phối trước sự tham dự của cả ngàn giáo dân trong họ đạo.
Hai tuần sau khi được rửa tội thì Việt Cộng đến gặp chúng tôi, yêu cầu chúng tôi phải bỏ đạo vì chúng tôi là giáo chức, tức là công nhân viên của nhà nước thì phải theo thuyết duy vật, không được theo thuyết duy tâm.
Sau nhiều lần thuyết phục chúng tôi không được, nên gần hai tháng sau thì Việt cộng ập vào nhà chúng tôi, đọc án lệnh kết tội chồng tôi là C.I.A cho Mỹ, trà trộn vào họ đạo để tổ chức và móc nối đưa người vào bưng chống phá cách mạng, rồi chúng trói bắt chồng tôi đem đi.
Hoàn cảnh của tôi lúc bấy giờ thật bi đát. Lúc đó tôi đang bị bệnh, trong nhà chỉ còn vỏn vẹn mười lăm đồng bạc. Ba đứa con của tôi thì còn quá nhỏ dại: đứa lớn nhất mười tuổi, đứa thứ nhì bảy tuổi, thứ ba ba tuổi. Sống giữa nơi xứ lạ quê người, không bà con ruột thịt để nương tựa, tôi lại không có tin tức gì của chồng tôi, thật tôi không chết được mà phải sống.
Tôi chỉ còn biết trông cậy và phó thác vào Chúa và Mẹ Maria. Hình ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá đã an ủi và nuôi dưỡng tôi rất nhiều vì tôi nghĩ rằng: Chúa mà còn chịu đau khổ, nhục nhã và cuối cùng còn bị đóng đinh và chết trên thập giá để chuộc tôi cho nhân loại, trong đó có tội của tôi và gia đình tôi, thì tôi là con cái của Chúa lại không thể vác thánh giá ở đời này hay sao ? Tôi nhớ lời Chúa đã phán: ‘’Ai muốn theo Ta thì vác thánh giá mà theo Ta.’’( Luca 14:27) Hơn nữa, tôi nghĩ theo Chúa không phải là là theo con đường vinh quang hạnh phúc mà phải còn theo con đường khổ nạn của Chúa nữa. Nhờ vậy tôi đã có đủ nghị lực và can đảm để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Chúa Mẹ đã thương tôi nên đã cho tôi có một cuộc sống khá đầy đủ để tôi có thể tiếp tế cho chồng tôi ở trong tù và nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.
Trong thời gian chồng tôi ở tù, tôi vẫn được tiếp tục dạy học tại trường trung học Long Tân và tôi đã được chứng kiến một biến cố vô cùng quan trọng đã xảy ra tại họ đạo Trà Cú. Đó là: Đức Mẹ ban phép lạ chữa cho một cô bé tật nguyền được trở lại đi đứng bình thường.
Hàng tuần đi dự lễ ngày Chúa Nhật, tôi thường thấy một cô bé khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, da ngâm đen, tóc ngang vai, dáng cục mịch quê mùa. Em bị liệt hai chân vì bị sốt tê liệt hồi em lên hai tuổi. Em phải đi nạng, mỗi lần lên rước lễ mẹ em và chị của em phải dìu em đi rất vất vả khó khăn.
Tôi thấy cô bé tật nguyền đi lại khó khăn như vậy nhưng vẫn chịu khó đi nhà thờ, không hề vắng mặt một tuần nào. Tôi tìm hiểu về em và được biết tên em là Trần thị Hữu. Cha em là một người ngoại đạo, đã rửa tội để được cưới mẹ em, nhưng sau đó vài năm ông bỏ đạo. Nhiều lần cha em định đem em đi chữa bằng phương pháp bùa phép nhưng em phản đối và nói với cha mẹ em rằng: Đức Mẹ đã hiện về với em và hứa sẽ chữa cho em đi được, vì thế em chỉ cần ở nhà cầu nguyện, nhất định không chịu chữa trị bằng phương pháp nào khác.
Bẵng đi một thời gian tôi không thấy em đến nhà thờ nữa, tôi được chị hàng xóm cho biết em đã bị đau, không ngồi dạy được, tê liệt hoàn toàn, suốt đêm ngày chỉ nằm trên giường, em ăn rất ít mà chỉ uống nước phép của đền thờ Đức Mẹ Lộ Đức, nhưng em vẫn tươi tỉnh hồng hào.
Hằng ngày bà con lối xóm và bạn bè đến thăm đều được em thuật lại cho nghe những lần Đức Mẹ hiện ra với em. Điều làm mọi người chú ý và nhớ nhất là Đức Mẹ hứa sẽ chữa cho em đi được vào dịp Lễ Phục Sinh 1977. Tin này được loan đi rất nhanh khắp mọi nơi và người đến thăm em càng ngày càng đông.
Riêng tôi vì cuộc sống quá khó khăn, hơn nữa nhà tôi và nhà em cách xa nhau cả hai cây số nên tôi không đến thăm em được.
Ngày tháng cứ đều đặn trôi qua và Mùa Phục sinh nữa lại đến, mọi người nôn nao chờ đợi. Tuy sống trong chế độ Cộng Sản nhưng họ đạo Trà Cú vẫn tổ chức Lễ Phục Sinh rất rầm rộ. Các cổng chào đều được dựng lên trước một tuần lễ, từ cổng nhà thờ đến nhà thờ đèn điện sáng chưng, bông hoa rực rỡ, người người lũ lượt đi dự lễ, quần áo đủ mầu sắc, quang cảnh thật tưng bừng náo nhiệt, khiến mọi người có cảm tưởng như đang sống trong chế độ cũ.
Tất cả mọi người không ai bảo ai đều chú ý tìm kiếm xem trong đám người đi dự lễ có em Hữu hay không. Nhưng ai nấy đều hết sức thất vọng vì được mẹ em Hữu cho biết em vẫn nằm trơ như một cây gỗ. Sau lễ, một số người về nhà em để thăm em và em vẫn nằm trên giường tiếp chuyện mọi người như thường lệ. Trong số những người đến thăm em có chị Nhan là người đã may tặng em chiếc áo dài soa Pháp màu xanh như màu áo của Đức Mẹ và một chiếc quần trắng để nếu Đức Mẹ chữa cho em khỏi chân, em sẽ mặc áo đó đi dự lễ Phục Sinh. Qua lễ rồi em vẫn còn nằm trên giường, chị Nhan hỏi em:
- Đức Mẹ hứa với em đến Lễ Phục Sinh sẽ ban phép lạ cho em và em sẽ đi được, sao bây giờ em vẫn còn nằm thế này ?
Em Hữu chỉ mỉm cười không nói gì. Khoảng hai giờ sáng một số người nản lòng đã bỏ ra về, chỉ còn chị Nhan và một vài người ở lại. Khi đang nói chuyện với nhau, bỗng dưng em Hữu ngồi phắt dạy, chỉ lên bàn thờ và nói:
-Thắp đèn cầy lên, Đức Mẹ đã hiện ra đó.
Em vừa nói vừa bước ra khỏi giường, đến bàn thờ, tự em thắp đèn nến. Mọi người thấy vậy sợ quá chạy toán loạn, kẻ chạy ra sau bếp, người chạy đi loan báo cho bà con hàng xóm. Có người chạy vội vàng trật cả mắt cá chân.
Em đòi mời mẹ đỡ đầu của em đến, viết tên thánh vào người em và mời cha mẹ của em đến để nghe Đức Mẹ dạy.
Đức Mẹ hỏi cha mẹ em có bằng lòng dâng con cho Đức Mẹ không ? Với giọng run run vì quá cảm động và sợ hãi, cha em thưa với Đức mẹ:
- Kính Đức Mẹ, con phải dâng con của con như thế nào, con sẽ cho con của con đi tu dòng con Đức Mẹ hay như thế nào, xin Đức Mẹ chỉ dạy.
Đức Mẹ phán:
- Bất cứ lúc nào và bất cứ cách nào khi Đức Mẹ cần đến.
Và Đức Mẹ cũng nói với những người có mặt tại đó:
- Các con phải chịu khó đi đọc kinh và lần hạt Mân Côi.
Chỉ chưa đầy một giờ sau nhà em Hữu đã chật ních người, đứng vòng trong, vòng ngoài.
Đêm hôm đó vì ở xa, tôi không được biết để đến nhà em Hữu chứng kiến Đức Mẹ hiện ra ban phép lạ cho em. Nhưng sáng hôm sau thì tôi gặp em trên đường đi đến nhà thờ. Sau hơn một năm gặp lại em, tôi hết sức ngạc nhiên vì em xinh đẹp hơn trước nhiều, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Em không còn là cô bé Hữu quê mùa của một năm về trước. Không những em đi đứng bình thường như mọi người, em còn thay đổi hẳn vóc dáng; khuôn mặt bầu bĩnh với cặp mắt đen lánh, da trắng tươi, hai má ửng hồng, môi mọng đỏ, mái tóc huyền phủ kín bờ vai. Dáng người thon thon trong chiếc áo dài xanh tha thướt uyển chuyển. Vẻ đẹp của em bây giờ là vẻ đẹp của một thiếu nữ tỉnh thành sang trọng quí phái.
Tôi đi bên em và hỏi em về việc Đức Mẹ ban phép lạ cho em đêm hôm trước. Với giọng hết sức nhỏ nhẹ, em nắm tay tôi kể cho tôi nghe và dặn tôi:
- Chị nhớ cầu nguyện cho em nhé !
Như có một sự sắp đặt của Thiên Chúa, buổi lễ hôm đó có ba cha đồng tế, và em Hữu là người lên rước lễ đầu tiên. Cha sở Nguyễn Mạnh Đồng trao mình Thánh Chúa cho em mà vẫn không biết đó là cô bé Hữu đã từng chống nạng mỗi khi lên rước lễ trước đây.
Sau thánh lễ, em và gia đình em vào thăm cha sở, khi đó các cha mới hay. Cả ba cha đều hỏi chuyện em và nhìn nhau với ánh mắt chan hoà niềm vui.
Ba tháng sau, em Hữu đã được Chúa gọi về một cách đột ngột như Đức Mẹ đã bất ngờ hiện ra ban phép lạ cho em, trước sự bàng hoàng của mọi người.
Được tin đó tôi đã đến viếng em. Lại một lần nữa tôi vô cùng ngạc nhiên vì khi em đã tắt thở một ngày một đêm nhưng nét mặt vẫn tươi đẹp như hồi em còn sống, không nhợt nhạt như nét mặt của một người đã chết.
Đám tang em Hữu được tổ chức vô cùng trọng thể và thi hài em được an táng vào phần đất đặc biệt ngay sau nhà thờ Trà Cú. Tiếng chuông nhà thờ Trà Cú đã ngân vang hồi vĩnh biệt để tiễn đưa linh hồn Maria Trần thị Hữu về Nước Chúa.
Riêng gia đình tôi sau sáu năm thử thách, Chúa Mẹ lại ban cho một phép lạ nữa là cả gia đình tôi đã đến được bến bờ tự do, không tốn một đồng bạc.
Giờ đây gia đình chúng tôi đã có được một đời sống ổn định. Chúng tôi muôn vàn cảm tạ Thiên Chúa và Mẹ Maria.
(Dziễm Hoàn ghi lại)