Vang Trang Dem
10-04-2005, 08:30 AM
Một Ngư?i Gia-Nã-?ại và Nghệ Thuật của Phạm Duy
Georges Etienne Gauthier, Võ Phiến dịch (Tạp chí Bách Khoa 1970-1972)
Bài 5
Bản Chất
Sáng tạo, đưa ra một cái gì đang ngủ yên trong thế giới vô cùng của các khả thể vào trong thế giới mong manh của các thực thể... đó phải chăng là cứu cánh tối thượng và là cái đẹp tối thượng của m?i tác phẩm nghệ thuật.
G. Gabory.
1951, Phạm Duy, giã từ Việt Bắc, phóng thân lên đư?ng tự do, vốn là nghệ sĩ trong m?i ý nghĩa của danh từ, vốn yêu không gian rộng lớn, chàng biết rằng nghệ thuật của mình chỉ có thể phát huy ở nơi nào mà sự tự do diễn đạt được tôn tr?ng, sự tự do mà thiếu nó thì không có một nghệ thuật chân chính nào có thể sống được.
Năm 1952, chàng nhạc sĩ của chúng ta -- bấy gi? cũng vừa là một ngư?i chồng trẻ -- đã vào mi?n Nam nước Việt. Sự nghiệp tiếp tục được xây dựng, vì thế vào các năm 1952-53 đã xuất hiện liên tiếp những bản Nụ Tầm Xuân, Tiếng Sáo Thiên Thai, Tình Hoài Hương, Lữ Hành, Thuy?n Viễn Xứ, Bà Mẹ Quê, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Dạ Lai Hương, Tình Ca, Viễn Du và Hoa Xuân : một loạt tuyệt phẩm kỳ diệu mà một nghệ sĩ ba mươi tuổi cống hiến cho đồng bào. Những tuyệt phẩm mạnh mẽ và đẹp đẽ hơn m?i tác phẩm trước đây của Phạm Duy, những sản phẩm rất thuần túy và rất độc đáo của một thiên tài đã chầm chậm nhưng vững chắc tiến đến độ chín mùi. Lại cũng là những sản phẩm rất thuần túy của một con ngư?i phỉ nguyện, hân hoan v? dục tình, của một con ngư?i sống an hoà với chính mình.
Trong những tác phẩm có thể nói là càng ngày càng đẹp đẽ ấy, sức mạnh đã được chế ngự kỹ hơn, diệu xảo v? kỹ thuật tuy không kém xuất sắc những đã khéo hoà hợp với cốt nhạc, cái trữ tình đã trở nên thắm thiết hơn và thấm thía hơn, đài các hơn và cũng chính cống Phạm Duy hơn, nét quyến rũ của những năm 40 đã như?ng chỗ cho một hạnh phúc hi?n hoà và man mác, đôi khi thoáng chút siêu phàm. Dư?ng như Phạm Duy bấy gi? đã biết rõ hơn trước v? những mi?n lững l? giữa cõi đất tr?i, nơi thích hợp với tâm hồn nghệ sĩ của chàng. ?ám quần chúng Saigon tụ hội tại rạp Thanh Bình đêm ba mươi tết năm 1954, say sưa lắng nghe Anh Ng?c lần đầu tiên cất tiếng hát bản Tình Ca, quần chúng ấy trong cơn xúc cảm chắc hẳn đã hiểu rằng chiếc sao băng của những năm 1940 đã nhanh chóng biến thành một vì sao sáng, thực ra là sáng như chưa bao gi? được trông thấy ở Việt nam.
Thản hoặc có một số ngư?i để ý đến sự phát triến cả chi?u rộng lẫn chi?u sâu của nghệ thuật Phạm Duy vào những năm 50, đã cho rằng sự phát triển đó chính ra là do ở việc nghệ sĩ đã vào sống ở mi?n Nam. Tôi không tán thành ý kiến ấy chút nào. Thực ra, cũng như nhà văn Thượng Sỹ, tôi không muốn phân biệt một Phạm Duy ngoài Bắc và một Phạm Duy trong Nam. Trước tiên là vì có nhi?u ca khúc ra đ?i ngoài Bắc vào những năm 40 hoàn toàn xứng đáng với các bài ra đ?i trong Nam vào những năm 50. Hơn nữa, nếu Phạm Duy vẫn ở lại ngoài Bắc và nếu ông có thể được hưởng một sự tự do diễn đạt hoàn toàn thì có lẽ sự nghiệp của ông cũng phát triển không khác gì như ở trong Nam. Sau cùng, đi?u quan tr?ng hơn cả, là diễn trình của sự nghiệp nhạc sĩ ở trong Nam chỉ là sự tiếp tục hợp lý của diễn trình khởi đầu từ ngoài Bắc. Tôi hoàn toàn công nhận rằng không khí tự do của mi?n Nam là một kích thích đối với tác giả dân ca, nhưng đi?u chắc chắn hơn nữa là Phạm Duy, khi mới vào Nam, đã có sẵn nơi mình cái khả năng, cái cốt yếu của phát triển tương lai. Như vậy, phẩm chất, các thành tạo và cuộc diễn tiến của sự phát triển ấy là ở vấn đ? th?i gian, chứ không phải ở vấn đ? nơi chốn.
1954 : năm này cũng không kém phong phú v? các tuyệt phẩm. Phố Buồn -- ai có thể quên được bản nhạc xinh xắn, với kỹ thuật âm điệu vừa tài tình vừa kín đáo ấy ? Hẹn Hò, Bình Dân ?i H?c, Thi Nhau Chăm H?c và nhất là Lửa Hồng : ca khúc sau cùng này -- hình như ngày rày có phần bị quên lãng -- lại là một trong những bài biểu lộ cái đà sống thuần túy nhất thư?ng bắt gặp nơi Phạm Duy. Cái đà sống rất thư?ng được diễn ra bằng một nhịp điệu táo tợn và một trò đa thần giáo v? âm thanh và khúc điệu như cưỡng bức lôi cuốn ta theo. Không còn ng? vực gì nữa, một phần lớn sức quyến rũ rất đặc biệt của Phạm Duy chính là do đó mà ra. Lửa Hồng ! Ng?n lửa chạy sáng ngay trong lòng Phạm Duy, và ng?n lửa ấy vừa làm ra sức sống vừa thiêu đốt cuộc đ?i của chàng. Dẫu sao, thật là kỳ diệu, cái việc chàng nghệ sĩ n? đã truy?n được đà sống và ng?n lửa ấy vào những tâm hồn đáng thương của chúng ta, nh? ở mãnh lực tài năng của chàng, nh? ở tài sử dụng tuyệt trần những tiếng nói và âm thanh.
Mặt khác, cùng năm ấy xuất hiện bốn bản dân ca mới, tuyệt hảo, cực kỳ đẹp đẽ : Tình Nghèo, ?ố Ai, Ngư?i V? và Ngày Trở V?. Nét nhạc rộng lớn cũng như l?i thơ đầy súc cảm ở đây đã cho thấy rằng chúng ta đang tiến nhanh tới những thiên trư?ng ca. Sư thực thì vào năm 1954 ấy, năm mà nhạc sĩ du khảo bên Pháp, vào lúc chưa hết năm 1954 ấy, Phạm Duy đã soạn xong phần đầu của Con ?ư?ng Cái Quan, tức là phần Từ mi?n Bắc. Tác phẩm lớn đã bắt đầu.
Trong những năm 1954-55, ngoài khoá giảng v? nhạc h?c mà Phạm Duy cùng dự với Trần văn Khê -- Trần văn Khê hồi ấy là một trong những kẻ đầu tiên được nghe bản trư?ng ca trong lúc đang còn thai nghén -- nhạc sĩ còn h?c dương cầm và hoà âm với ông Robert Lopez, ông này vừa cảm động vừa khâm phục trước một h?c trò lạ lùng đã tiếp nhận trong vòng một năm tất cả những gì mà thiên hạ phải nghiên cứu trong tám năm. Chàng nghệ sĩ của chúng ta sẽ đem sở h?c ứng dụng ngay vào thực hành, nhanh chóng nhất là trong việc phổ nhạc các bài thơ của Cung Trầm Tưởng sau đây : Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, Tiễn Em, ?ư?ng Xưa Lối Cũ, Bên Nớ Bên Ni, Chi?u ?ông. Ở đây, Phạm Duy vốn là một tay hoà hợp tài tình, tạo bạo, và nhất là có linh khiếu, thí nghiệm dồn dập v? nhịp điệu, khúc điệu và hoà điệu, tuy vẫn không ngừng sáng tạo tác phẩm nghệ thuật.
Những ca khúc khác vào khoảng cuối năm 50 ấy -- như Xuân Thì, Chim Lồng, Tiếng Hò Mi?n Nam, Tơ Tình, Chi?u V? Trên Sông, Thương Tình Ca, Một ?àn Chim Nh?, Hò Lơ, Cho Nhau, ?ư?ng Chi?u Lá Rụng, Tình Quê, Hoa Rụng Ven Sông, Vần Thơ Sầu Rụng, Một Bàn Tay, Mộng Du, Thương Ai Nhớ Ai -- cũng đ?u là những bằng chứng v? những tân phẩm và những thí nghiệm mà khối óc nghệ sĩ luôn luôn dào dạt của Phạm Duy tưởng chừng như vừa nghĩ ra trong lúc vừa chơi đùa.
Mặt khác, suốt trong những năm 50 ấy, nếu nghệ thuật của nhạc sĩ thêm sâu sắc thì nghệ thuật của thi sĩ cũng thêm phần sâu sắc. Vì vậy, trong các bài như Lữ Hành, Chi?u V? Trên Sông, Thương Tình Ca, Tìm Nhau, ?ư?ng Chi?u Lá Rụng, Tạ Ơn ??i, Một Bàn Tay, Xuân Hành... theo giòng năm tháng mỗi lúc một sâu sắc hơn, thi sĩ và con ngư?i lần lượt luân phiên tự h?i mình v? cuộc đ?i, v? định mệnh, v? tình yêu, v? ni?m đau khổ và sự chết, đôi khi tự h?i trong dịu dàng và nhẫn nhục, bao gi? cũng tự hòi một cách chân thành và nhiệt thành. Nhưng -- đi?u này mới nhi?u ý nghĩa -- nếu thư?ng khi ngư?i thi sĩ ở Phạm Duy có là con ngư?i của âu lo thì ngư?i nhạc sĩ ở nơi chàng vẫn luôn luôn là con ngư?i của xác tín.
Những biến cố của khoàng cuối của những năm 50 lại có tính cách tình cảm : một mối tình mới vừa len vào trái tim bao la của Phạm Duy. Tuy nhiên lần này, ngư?i tình là một nàng tiên như nàng tiên mà nghệ sĩ chưa từng bao gi? gặp trong đ?i mình, một nàng tiên đã lưu giữ chàng thấm thía hơn và lâu dài hơn những kẻ khác rất nhi?u (Ngư?i ta có thể tìm hiểu mối tình ấy cũng như v? những mối tình khác của nhạc sĩ trong một cuốn sách của Tạ Tỵ sẽ xuất bản một ngày gần đây, cuốn sách có một nhan đ? mang nhi?u ý nghĩa : Phạm Duy Còn ?ó Nỗi Buồn). Và dưới vầng thái dương của mối tình này, nhi?u tác phẩm đã ra đ?i, và mãn khai như những bông hoa quí chan chứa hương nồng, khi thì t?a hương hạnh phúc nhẹ nhàng rồi biến đi, khi thì thơm mùi bâng khuâng rầu rĩ. Ôi, cái chất trữ tình của những ca khúc ấy thật là lớn lao, lạ lùng ! ?ó là những bài thơ của mơ mộng, của sương mù m? đục, những nét t? m?, những l?i hàm ý nhi?u lần lập lại mà vẫn khác nhau. Thương Tình Ca, Ngày ?ó Chúng Mình, ?ừng Xa Nhau : những giai điệu rộng mở và vươn cao như dáng thiên nga, bắt từ gi?ng trầm sâu thẳm và như thể một mơn trớn bất tận vươn lên những đỉnh mê mẩn tuyệt v?i. ?ư?ng Em ?i, Thú ?au Thương, Mưa Rơi : những giai điệu yên tĩnh, nhuốm một bâng khuâng dịu dàng. Nếu Một Mai Em Sẽ Qua ??i, Còn Gì Nữa ?âu, Tìm Nhau : những giai điệu âu lo thấp th?m hơn, hay bi thảm hơn. Và nhất là Kiếp Nào Có Yêu Nhau -- một trong những đỉnh cao nhất của sự nghiệp Phạm Duy. Ở đây bài thơ của Hoài Trinh đã gợi hứng cho nghệ sĩ một bản nhạc khó khăn và vĩ đại, gần như là hùng vĩ. Tính cách bi thảm vô song của bản nhạc ấy, cái luận lý, cái cảm xúc, cái đẹp vẹn toàn của khúc điệu ấy đ?u là những bằng chứng, nếu chúng ta cần có bằng chứng, t? rằng vào cuối những năm 50 nghệ thuật của Phạm Duy đã đạt tới mức tự chủ cao siêu.
Nhưng dù soạn những ca khúc ái tình, dù làm điện ảnh hay làm gì đi nữa, nghệ sĩ cũng không xao lãng công việc đã bắt đầu từ 1954. Và vào mùa xuân 1960, thiên trư?ng ca Con ?ư?ng Cái Quan được hoàn tất. ?ó là bản liên hợp phổ bao la nhất chí, kết quả kỳ diệu của bao năm tr?i làm việc và suy nghĩ sâu xa. ?ó là bản liên hợp phổ của thiên tài và nỗ lực, bản liên hợp phổ của con tim, của tình yêu. L?i hứa của th?i hoa niên đã được thực hiện và thực hiện đẹp đẽ làm sao ! Cánh lưu tinh năm nào bây gi? đã thành ra một vì tuệ tinh sáng chói đặc biệt đến nỗi trong phút chốc nhi?u tinh tú khác ở gần đấy hoàn toàn bị phai nhạt. Ôi, con đư?ng lạ lùng của ngư?i con ông Phạm Duy Tốn, ''ngư?i con của đất nước'' theo l?i tác giả muốn nhận, đã đi qua từ phố Hàng Cót xa xôi ngoài Hà Nội, cho đến những cuộc viễn du rực rỡ trên con đư?ng cái quan n? ! ?ư?ng ?i ?ã Tới... đoạn chót của bản trư?ng ca nói thế. Những đối với Phạm Duy, ngư?i Lữ Hành không mệt m?i, có đôi gót chân đồng, thì đư?ng đi chưa hết. Bây gi?, còn phải đi xa hơn nữa.
Montreal, Decembre 1970
[vietnhac at org]
Georges Etienne Gauthier, Võ Phiến dịch (Tạp chí Bách Khoa 1970-1972)
Bài 5
Bản Chất
Sáng tạo, đưa ra một cái gì đang ngủ yên trong thế giới vô cùng của các khả thể vào trong thế giới mong manh của các thực thể... đó phải chăng là cứu cánh tối thượng và là cái đẹp tối thượng của m?i tác phẩm nghệ thuật.
G. Gabory.
1951, Phạm Duy, giã từ Việt Bắc, phóng thân lên đư?ng tự do, vốn là nghệ sĩ trong m?i ý nghĩa của danh từ, vốn yêu không gian rộng lớn, chàng biết rằng nghệ thuật của mình chỉ có thể phát huy ở nơi nào mà sự tự do diễn đạt được tôn tr?ng, sự tự do mà thiếu nó thì không có một nghệ thuật chân chính nào có thể sống được.
Năm 1952, chàng nhạc sĩ của chúng ta -- bấy gi? cũng vừa là một ngư?i chồng trẻ -- đã vào mi?n Nam nước Việt. Sự nghiệp tiếp tục được xây dựng, vì thế vào các năm 1952-53 đã xuất hiện liên tiếp những bản Nụ Tầm Xuân, Tiếng Sáo Thiên Thai, Tình Hoài Hương, Lữ Hành, Thuy?n Viễn Xứ, Bà Mẹ Quê, Vợ Chồng Quê, Em Bé Quê, Dạ Lai Hương, Tình Ca, Viễn Du và Hoa Xuân : một loạt tuyệt phẩm kỳ diệu mà một nghệ sĩ ba mươi tuổi cống hiến cho đồng bào. Những tuyệt phẩm mạnh mẽ và đẹp đẽ hơn m?i tác phẩm trước đây của Phạm Duy, những sản phẩm rất thuần túy và rất độc đáo của một thiên tài đã chầm chậm nhưng vững chắc tiến đến độ chín mùi. Lại cũng là những sản phẩm rất thuần túy của một con ngư?i phỉ nguyện, hân hoan v? dục tình, của một con ngư?i sống an hoà với chính mình.
Trong những tác phẩm có thể nói là càng ngày càng đẹp đẽ ấy, sức mạnh đã được chế ngự kỹ hơn, diệu xảo v? kỹ thuật tuy không kém xuất sắc những đã khéo hoà hợp với cốt nhạc, cái trữ tình đã trở nên thắm thiết hơn và thấm thía hơn, đài các hơn và cũng chính cống Phạm Duy hơn, nét quyến rũ của những năm 40 đã như?ng chỗ cho một hạnh phúc hi?n hoà và man mác, đôi khi thoáng chút siêu phàm. Dư?ng như Phạm Duy bấy gi? đã biết rõ hơn trước v? những mi?n lững l? giữa cõi đất tr?i, nơi thích hợp với tâm hồn nghệ sĩ của chàng. ?ám quần chúng Saigon tụ hội tại rạp Thanh Bình đêm ba mươi tết năm 1954, say sưa lắng nghe Anh Ng?c lần đầu tiên cất tiếng hát bản Tình Ca, quần chúng ấy trong cơn xúc cảm chắc hẳn đã hiểu rằng chiếc sao băng của những năm 1940 đã nhanh chóng biến thành một vì sao sáng, thực ra là sáng như chưa bao gi? được trông thấy ở Việt nam.
Thản hoặc có một số ngư?i để ý đến sự phát triến cả chi?u rộng lẫn chi?u sâu của nghệ thuật Phạm Duy vào những năm 50, đã cho rằng sự phát triển đó chính ra là do ở việc nghệ sĩ đã vào sống ở mi?n Nam. Tôi không tán thành ý kiến ấy chút nào. Thực ra, cũng như nhà văn Thượng Sỹ, tôi không muốn phân biệt một Phạm Duy ngoài Bắc và một Phạm Duy trong Nam. Trước tiên là vì có nhi?u ca khúc ra đ?i ngoài Bắc vào những năm 40 hoàn toàn xứng đáng với các bài ra đ?i trong Nam vào những năm 50. Hơn nữa, nếu Phạm Duy vẫn ở lại ngoài Bắc và nếu ông có thể được hưởng một sự tự do diễn đạt hoàn toàn thì có lẽ sự nghiệp của ông cũng phát triển không khác gì như ở trong Nam. Sau cùng, đi?u quan tr?ng hơn cả, là diễn trình của sự nghiệp nhạc sĩ ở trong Nam chỉ là sự tiếp tục hợp lý của diễn trình khởi đầu từ ngoài Bắc. Tôi hoàn toàn công nhận rằng không khí tự do của mi?n Nam là một kích thích đối với tác giả dân ca, nhưng đi?u chắc chắn hơn nữa là Phạm Duy, khi mới vào Nam, đã có sẵn nơi mình cái khả năng, cái cốt yếu của phát triển tương lai. Như vậy, phẩm chất, các thành tạo và cuộc diễn tiến của sự phát triển ấy là ở vấn đ? th?i gian, chứ không phải ở vấn đ? nơi chốn.
1954 : năm này cũng không kém phong phú v? các tuyệt phẩm. Phố Buồn -- ai có thể quên được bản nhạc xinh xắn, với kỹ thuật âm điệu vừa tài tình vừa kín đáo ấy ? Hẹn Hò, Bình Dân ?i H?c, Thi Nhau Chăm H?c và nhất là Lửa Hồng : ca khúc sau cùng này -- hình như ngày rày có phần bị quên lãng -- lại là một trong những bài biểu lộ cái đà sống thuần túy nhất thư?ng bắt gặp nơi Phạm Duy. Cái đà sống rất thư?ng được diễn ra bằng một nhịp điệu táo tợn và một trò đa thần giáo v? âm thanh và khúc điệu như cưỡng bức lôi cuốn ta theo. Không còn ng? vực gì nữa, một phần lớn sức quyến rũ rất đặc biệt của Phạm Duy chính là do đó mà ra. Lửa Hồng ! Ng?n lửa chạy sáng ngay trong lòng Phạm Duy, và ng?n lửa ấy vừa làm ra sức sống vừa thiêu đốt cuộc đ?i của chàng. Dẫu sao, thật là kỳ diệu, cái việc chàng nghệ sĩ n? đã truy?n được đà sống và ng?n lửa ấy vào những tâm hồn đáng thương của chúng ta, nh? ở mãnh lực tài năng của chàng, nh? ở tài sử dụng tuyệt trần những tiếng nói và âm thanh.
Mặt khác, cùng năm ấy xuất hiện bốn bản dân ca mới, tuyệt hảo, cực kỳ đẹp đẽ : Tình Nghèo, ?ố Ai, Ngư?i V? và Ngày Trở V?. Nét nhạc rộng lớn cũng như l?i thơ đầy súc cảm ở đây đã cho thấy rằng chúng ta đang tiến nhanh tới những thiên trư?ng ca. Sư thực thì vào năm 1954 ấy, năm mà nhạc sĩ du khảo bên Pháp, vào lúc chưa hết năm 1954 ấy, Phạm Duy đã soạn xong phần đầu của Con ?ư?ng Cái Quan, tức là phần Từ mi?n Bắc. Tác phẩm lớn đã bắt đầu.
Trong những năm 1954-55, ngoài khoá giảng v? nhạc h?c mà Phạm Duy cùng dự với Trần văn Khê -- Trần văn Khê hồi ấy là một trong những kẻ đầu tiên được nghe bản trư?ng ca trong lúc đang còn thai nghén -- nhạc sĩ còn h?c dương cầm và hoà âm với ông Robert Lopez, ông này vừa cảm động vừa khâm phục trước một h?c trò lạ lùng đã tiếp nhận trong vòng một năm tất cả những gì mà thiên hạ phải nghiên cứu trong tám năm. Chàng nghệ sĩ của chúng ta sẽ đem sở h?c ứng dụng ngay vào thực hành, nhanh chóng nhất là trong việc phổ nhạc các bài thơ của Cung Trầm Tưởng sau đây : Mùa Thu Paris, Kiếp Sau, Tiễn Em, ?ư?ng Xưa Lối Cũ, Bên Nớ Bên Ni, Chi?u ?ông. Ở đây, Phạm Duy vốn là một tay hoà hợp tài tình, tạo bạo, và nhất là có linh khiếu, thí nghiệm dồn dập v? nhịp điệu, khúc điệu và hoà điệu, tuy vẫn không ngừng sáng tạo tác phẩm nghệ thuật.
Những ca khúc khác vào khoảng cuối năm 50 ấy -- như Xuân Thì, Chim Lồng, Tiếng Hò Mi?n Nam, Tơ Tình, Chi?u V? Trên Sông, Thương Tình Ca, Một ?àn Chim Nh?, Hò Lơ, Cho Nhau, ?ư?ng Chi?u Lá Rụng, Tình Quê, Hoa Rụng Ven Sông, Vần Thơ Sầu Rụng, Một Bàn Tay, Mộng Du, Thương Ai Nhớ Ai -- cũng đ?u là những bằng chứng v? những tân phẩm và những thí nghiệm mà khối óc nghệ sĩ luôn luôn dào dạt của Phạm Duy tưởng chừng như vừa nghĩ ra trong lúc vừa chơi đùa.
Mặt khác, suốt trong những năm 50 ấy, nếu nghệ thuật của nhạc sĩ thêm sâu sắc thì nghệ thuật của thi sĩ cũng thêm phần sâu sắc. Vì vậy, trong các bài như Lữ Hành, Chi?u V? Trên Sông, Thương Tình Ca, Tìm Nhau, ?ư?ng Chi?u Lá Rụng, Tạ Ơn ??i, Một Bàn Tay, Xuân Hành... theo giòng năm tháng mỗi lúc một sâu sắc hơn, thi sĩ và con ngư?i lần lượt luân phiên tự h?i mình v? cuộc đ?i, v? định mệnh, v? tình yêu, v? ni?m đau khổ và sự chết, đôi khi tự h?i trong dịu dàng và nhẫn nhục, bao gi? cũng tự hòi một cách chân thành và nhiệt thành. Nhưng -- đi?u này mới nhi?u ý nghĩa -- nếu thư?ng khi ngư?i thi sĩ ở Phạm Duy có là con ngư?i của âu lo thì ngư?i nhạc sĩ ở nơi chàng vẫn luôn luôn là con ngư?i của xác tín.
Những biến cố của khoàng cuối của những năm 50 lại có tính cách tình cảm : một mối tình mới vừa len vào trái tim bao la của Phạm Duy. Tuy nhiên lần này, ngư?i tình là một nàng tiên như nàng tiên mà nghệ sĩ chưa từng bao gi? gặp trong đ?i mình, một nàng tiên đã lưu giữ chàng thấm thía hơn và lâu dài hơn những kẻ khác rất nhi?u (Ngư?i ta có thể tìm hiểu mối tình ấy cũng như v? những mối tình khác của nhạc sĩ trong một cuốn sách của Tạ Tỵ sẽ xuất bản một ngày gần đây, cuốn sách có một nhan đ? mang nhi?u ý nghĩa : Phạm Duy Còn ?ó Nỗi Buồn). Và dưới vầng thái dương của mối tình này, nhi?u tác phẩm đã ra đ?i, và mãn khai như những bông hoa quí chan chứa hương nồng, khi thì t?a hương hạnh phúc nhẹ nhàng rồi biến đi, khi thì thơm mùi bâng khuâng rầu rĩ. Ôi, cái chất trữ tình của những ca khúc ấy thật là lớn lao, lạ lùng ! ?ó là những bài thơ của mơ mộng, của sương mù m? đục, những nét t? m?, những l?i hàm ý nhi?u lần lập lại mà vẫn khác nhau. Thương Tình Ca, Ngày ?ó Chúng Mình, ?ừng Xa Nhau : những giai điệu rộng mở và vươn cao như dáng thiên nga, bắt từ gi?ng trầm sâu thẳm và như thể một mơn trớn bất tận vươn lên những đỉnh mê mẩn tuyệt v?i. ?ư?ng Em ?i, Thú ?au Thương, Mưa Rơi : những giai điệu yên tĩnh, nhuốm một bâng khuâng dịu dàng. Nếu Một Mai Em Sẽ Qua ??i, Còn Gì Nữa ?âu, Tìm Nhau : những giai điệu âu lo thấp th?m hơn, hay bi thảm hơn. Và nhất là Kiếp Nào Có Yêu Nhau -- một trong những đỉnh cao nhất của sự nghiệp Phạm Duy. Ở đây bài thơ của Hoài Trinh đã gợi hứng cho nghệ sĩ một bản nhạc khó khăn và vĩ đại, gần như là hùng vĩ. Tính cách bi thảm vô song của bản nhạc ấy, cái luận lý, cái cảm xúc, cái đẹp vẹn toàn của khúc điệu ấy đ?u là những bằng chứng, nếu chúng ta cần có bằng chứng, t? rằng vào cuối những năm 50 nghệ thuật của Phạm Duy đã đạt tới mức tự chủ cao siêu.
Nhưng dù soạn những ca khúc ái tình, dù làm điện ảnh hay làm gì đi nữa, nghệ sĩ cũng không xao lãng công việc đã bắt đầu từ 1954. Và vào mùa xuân 1960, thiên trư?ng ca Con ?ư?ng Cái Quan được hoàn tất. ?ó là bản liên hợp phổ bao la nhất chí, kết quả kỳ diệu của bao năm tr?i làm việc và suy nghĩ sâu xa. ?ó là bản liên hợp phổ của thiên tài và nỗ lực, bản liên hợp phổ của con tim, của tình yêu. L?i hứa của th?i hoa niên đã được thực hiện và thực hiện đẹp đẽ làm sao ! Cánh lưu tinh năm nào bây gi? đã thành ra một vì tuệ tinh sáng chói đặc biệt đến nỗi trong phút chốc nhi?u tinh tú khác ở gần đấy hoàn toàn bị phai nhạt. Ôi, con đư?ng lạ lùng của ngư?i con ông Phạm Duy Tốn, ''ngư?i con của đất nước'' theo l?i tác giả muốn nhận, đã đi qua từ phố Hàng Cót xa xôi ngoài Hà Nội, cho đến những cuộc viễn du rực rỡ trên con đư?ng cái quan n? ! ?ư?ng ?i ?ã Tới... đoạn chót của bản trư?ng ca nói thế. Những đối với Phạm Duy, ngư?i Lữ Hành không mệt m?i, có đôi gót chân đồng, thì đư?ng đi chưa hết. Bây gi?, còn phải đi xa hơn nữa.
Montreal, Decembre 1970
[vietnhac at org]