PDA

View Full Version : TỔNG QUAN VĂN HỌC DÂN GIAN QUẢNG NAM - ?À NẴNG



nguyenminhanhtu
12-14-2005, 07:36 AM
1 - Văn h?c dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng là một n?n văn h?c trẻ, mới ra đ?i chừng sáu trăm năm nay, tính từ thế kỷ XV - đ?i nhà Hồ, khi lãnh thổ Amaravati của Chăm-pa đã thuộc v? quy?n lực nhà nước ?ại Việt. Nhưng văn h?c dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng không bắt đầu từ số không tay trắng. Chuyển cư vào lập nghiệp nơi đất Quảng xa xăm, mỗi lưu dân Quảng Nam đ?u mang trong mình chút lưng vốn văn h?c dân gian cả dân tộc, bởi h? xa r?i nguyên quán gốc rễ nhưng không h? đoạn tuyệt với quá khứ cội nguồn, không h? xem quá khứ là dĩ vãng. Với h?, đây là giang sơn ?ại Việt vừa thành quê hương mới, đồng th?i là xứ Amaravati từng thuộc sở hữu một lân bang - dẫu sao cũng đất khách quê ngư?i. Tình cảnh ấy càng làm cho h? ngày đêm khôn nguôi nỗi nhớ v? quê cha đất tổ.

Và có lẽ câu hát đầu tiên của ngư?i xa xứ vẫn là câu hát ngày xưa bên dòng sông Mã, sông Hồng: "?êm qua ra đứng b? ao - Trông cá cá lặn trông sao sao m? - Buồn trông con nhện giăng tơ - Nhện ơi nhện hỡi nhện ch? mối ai...", "Trên tr?i có đám mây xanh - Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng - Ước gì anh lấy được nàng - ?ể anh mua gạch Bát Tràng v? xây - Xây d?c rồi lại xây ngang - Xây hồ bán nguyệt cho nàng chao chân", "Núi cao chi lắm núi ơi - Che bóng mặt tr?i khuất mặt ngư?i thương", hay "Trèo lên cây bưởi hái hoa - Bước xuống vư?n cà hái nụ tầm xuân - Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc - Em có chồng anh tiếc lắm thay - Ba đồng một mớ trầu cay - Sao anh chẳng h?i những ngày còn không - Bây gi? em đã có chồng - Như chim vào lồng như cá cắn câu - Cá cắn câu biết đâu mà gỡ - Chim vào lồng biết thuở nào ra"... Rồi khi vật lộn với gian nan để khẩn đất lập làng khai sơn phá thạch, những tiên dân Quảng Nam lại kể cho nhau nghe truy?n thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, câu chuyện cổ tích v? Mai An Tiêm trên hoang đảo, hoặc thiên tình sử của những Tiên Dung - Chử ?ồng Tử, Mỵ Châu - Tr?ng Thuỷ, Giáng Hương - Từ Thức, Mỵ Nương - Trương Chi...

Và chắc rằng h? vẫn cứ hát, cứ kể bằng chất gi?ng đàng ngoài quen thuộc - chứ chưa phải chất gi?ng đặc sệt Quảng Nam sau này. Dần dà để phù hợp hơn với cảnh ngộ mới, h? có nhu cầu thay l?i đổi chữ, thêm mắm dặm muối vào câu hát, câu chuyện, câu nói hôm qua, và đến một ngày kia, cuộc sống vừa bám-trụ-giữ-đất vừa quảng-nam-mở-cõi có quá nhi?u đi?u khiến h? phải suy ngẫm sâu xa, phải tìm cách bộc lộ giãi bày, đòi h?i h? phải tự mình sáng tác những câu chuyện, câu hát, câu nói của chính hôm nay. ?ó là con đư?ng hình thành và phát triển của văn h?c dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng suốt sáu thế kỷ qua.

2 - V? sáu trăm năm hình thành và phát triển của văn h?c dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng, đã có nhi?u ngư?i để tâm sưu tầm, nghiên cứu. Chỉ tính riêng một phần tư thế kỷ vừa qua, có thể kể đến Lâm Quang Thự với công trình ?ất Quảng trong thơ ca do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thanh Hoá xuất bản năm 1976; Nguyễn Văn Bổn với tiểu luận ?ất nước và con ngư?i Quảng Nam - ?à Nẵng qua văn h?c nghệ thuật dân gian, Tôn Thất Bình với bài viết Hát bả trạo tại Quảng Nam, Trần Hoàng với bài viết Suy nghĩ v? thơ ca dân gian của hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ ở Quảng Nam - ?à Nẵng; hay tiểu luận Truyện cổ của một vùng đất mới của nhóm Nguyễn Văn Bổn, Trần Hoàng, Võ Văn Thắng và bài viết Thủ Thiệm : tiếng cư?i dân gian độc đáo của đất Quảng của nhóm Nguyễn Văn Bổn, Tôn Thất Bình, Trương Giảng - tất cả đ?u được in trong công trình Văn nghệ dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng do Sở Văn hoá - thông tin Quảng Nam - ?à Nẵng chủ trì sưu tầm biên soạn (tập I xuất bản năm 1983, tập II xuất bản năm 1985). Có thể kể đến Huỳnh Ng?c Trảng và Vu Gia với phần biên khảo v? văn h?c dân gian huyện ?ại Lộc trong ?ịa chí ?ại Lộc (NXB. ?à Nẵng - 1992). Rồi Thạch Phương trong tiểu luận Ca dao của một vùng đất (Ca dao Nam Trung Bộ - NXB. Khoa h?c xã hội - 1994) cũng chủ yếu bàn v? ca dao và những thể loại có liên quan đến thơ ca dân gian của Quảng Nam - ?à Nẵng. Ngoài ra còn không ít l?i bình v? từng tác phẩm văn h?c dân gian đất Quảng đã được đăng rải rác trên báo chí.

3 - ? thức v? cội nguồn ?ại Việt thể hiện rất rõ trong truy?n thuyết Ngũ Hành Sơn. Mô-típ rồng đẻ ra trứng, trứng nở thành một nàng tiên xinh đẹp rõ ràng là có quan hệ với mô-típ mẹ Âu Cơ sinh một b?c trăm trứng, trứng nở thành trăm con trong truy?n thuyết Con Rồng cháu Tiên. Và trên vùng đất chưa h? có bóng dáng con ngư?i, hình ảnh ông lão ngư dân bị đắm thuy?n từ phương Bắc trôi dạt tới được thần Kim Quy dạy cách bảo vệ quả trứng rồng cho đến ngày khai nở đã nói lên gốc gác Thanh - Nghệ của những lưu dân đất Quảng. Rồi cảnh thần Kim Quy tháo móng chân trao cho ông lão cũng gợi nhớ cảnh Rùa Vàng từng tháo móng chân trao cho vua Thục làm lẫy n? trong truy?n thuyết An Dương Vương ngày nào. Như vậy với truy?n thuyết Ngũ Hành Sơn, ngư?i Quảng đã biết dựa vào cha ông để sáng tạo cho riêng mình một truyện cổ dân gian rất quen mà rất lạ. ở đây ông lão ngư dân là lạ, mà v? trứng rồng lớn mãi, lớn mãi thành năm ng?n núi Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ kia cũng là lạ. Những cái lạ ấy là đóng góp riêng của ngư?i Quảng vào văn h?c nước nhà.

Càng ý thức v? cội nguồn ?ại Việt, ngư?i Quảng xưa càng ý thức rõ hơn tình cảnh đất khách quê ngư?i. H? hiểu rằng để có thể sinh tồn nơi đầu sóng ng?n gió này, h? vừa phải dám dũng cảm đương đầu - thậm chí dám mạo hiểm dấn thân, lại vừa phải biết đi?u tế nhị trong quá trình giao lưu hội nhập với cư dân bản địa. Tục cúng đất - hay là cúng tá thổ độc đáo, mỗi năm một lần, lễ vật dâng cúng gồm toàn các món ăn đặc trưng Chiêm Thành, thể hiện cách ứng xử khôn ngoan nhạy cảm của ngư?i Quảng xưa. Qua việc làm đậm đà màu sắc tâm linh thành kính và thấm đẫm chất chính trị, tiên dân Quảng Nam như muốn bày t? cùng cộng đồng ngư?i Chăm rằng do chẳng đặng đừng mà phải đứng chân lâu dài trên lãnh thổ Amaravati, đồng th?i khiêm như?ng tự nhận chỉ là ngư?i tá thổ - mượn đất, nghĩa là vẫn không h? quên đây là đất Chăm-pa. Mặt khác qua truyện cổ dân gian, h? tìm cách lý giải thêm sự có mặt của mình.

Nhi?u thần thoại, truy?n thuyết dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng khẳng định công lao khai sơn phá thạch của ngư?i Quảng xưa ở những vùng đất vốn còn rất đỗi hoang sơ. Thần thoại Sự tích núi Thạch Bồ kể v? một vị thần thân hình cao lớn lạ thư?ng - và hẳn là có gốc gác thần linh ?ại Việt - nhổ tre vặn thừng đan s?t, lấy cả cây tre làm đòn gánh, gánh đất đắp sông xây núi. Thần thoại Sự tích Lò Thung cũng kể chuyện một ông khổng lồ gánh đất đắp sông, đánh nhau với rái cá, chẳng may té ngã, hai tảng đá lớn ở hai đầu gánh văng ra xa, làm thành hai quả núi, một chân ông chống vào vách đá khiến nơi này lún sâu thành hang, còn chân kia ông giẫm mạnh lên b? đá ven sông, in dấu bàn chân ngoại cỡ vào mặt đá.

?áng chú ý nhất trong chủ đ? khai phá giang sơn là truy?n thuyết Sự tích đất Gò Nổi kể v? một lưu dân xứ Quảng tên Lê Văn ?ạo. Ông Lê Văn ?ạo vào Thăng Hoa làm ngh? chài lưới, có lần đánh cá trên sông Thu Bồn thì tr?i nổi cơn giông, sóng gió đẩy thuy?n ông càng lúc càng xa b?. Giữa cơn khốn khó, ông bỗng thấy một đốm sáng hiện ra trước mũi thuy?n. Và trong khi cố sức chèo thuy?n theo đốm sáng kia, nh? tia chớp ông nhận ra đó chính là con chim màu đ? như huyết đang bay dẫn đư?ng đưa ông đến một nơi đất đai tươi tốt chưa h? có ai sinh sống. Khi chuyển gia đình tới đây định cư khẩn đất lập làng, thấy dãi đất này bốn bên sông nước bao b?c, ông Lê Văn ?ạo bèn đặt tên là Gò Nổi.

Ở ?ại Quang huyện ?ại Lộc, dân gian còn lưu truy?n Sự tích Gò ?ùi kể chuyện một nàng công chúa mải mê ngoạn cảnh nên lạc lối vào sâu trong vùng gò ?ùi - ngày ấy vẫn đương còn là khu rừng hoang vắng đầy thú dữ - và chẳng may bị c?p vồ. Khi đoàn quân của vua cha đến cứu nàng thì đã quá muộn: công chúa bị c?p ăn thịt, chỉ còn trơ lại khúc đùi, bên cạnh có con bò rừng nằm canh giữ, và dư?ng như nếu không có con bò tr?ng nghĩa, hẳn là công chúa hoàn toàn mất xác. Thương tiếc con gái, nhà vua cho tạc bức tượng có hình khúc đùi ngư?i- di thể của công chúa - và con bò rừng kia để th? cúng. Thật ra, bức tượng tạc khúc đùi ngư?i cạnh con bò rừng này là một mảnh vỡ của tấm phù điêu bằng đá chạm nổi phần đùi thần Xi-va bên con bò thiêng - vật cưỡi quen thuộc của thần. Rõ ràng qua truyện cổ dân gian, đôi khi ngư?i Quảng xưa cố tình Việt hoá thần tích Chăm-pa nhằm suy nguyên một sự vật, hiện tượng nào đó theo nhãn quan riêng của dân tộc mình. ?ấy cũng là cách khẳng định công lao phá thạch khai sơn của ngư?i Quảng ở những vùng "tá thổ" hoang vu.

?úng như các tác giả tiểu luận Truyện cổ của một vùng đất mới dẫn trên đã nhận xét, "thần thoại, truy?n thuyết vùng đất Quảng ít có yếu tố thần kỳ, hoang đư?ng, mà trái lại mang nhi?u nét hiện thực", và ở trư?ng hợp truyện cổ tích Quảng Nam - ?à Nẵng, "tính chất hiện thực, một lần nữa, cũng giống ở trư?ng hợp các thần thoại, truy?n thuyết, đã lấn át hẳn tính chất hoang đư?ng, kỳ ảo". Tuy nhiên, đ?c kỹ truyện cổ dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng, vẫn có thể bắt gặp một vài chi tiết thần kỳ thấm đẫm chất thơ thuần phác. Chẳng hạn chi tiết tấm da ngựa si tình bất thần quấn chặt lấy cô tiểu thư xinh đẹp bay bổng lên ng?n cây cao trong Sự tích con tằm có thể sánh ngang với những chi tiết nghệ thuật đặc sắc nhất của truyện cổ dân gian Việt Nam.

4 - Ngư?i Quảng thích biện luận, "Quảng Nam hay cãi", hay cãi đến mức đã sáng tác cả một câu chuyện v? ông Vua Cãi, vì thế truyện cư?i dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng thư?ng xuất hiện những chàng trai được vợ nh? gi?i biện luận, chẳng hạn chàng trai trong truyện Gi? đựng chày. Truyện này kể v? một ngư?i được xem là bậc thầy trong ngh? đan lát, luôn tự hào rằng cái gì ông ta cũng đan được, rằng ai đan cái gì ông ta cũng biết được, tuyên bố sẵn lòng gả con gái cho ngư?i nào đan cái mà ông ta không biết, và cuối cùng đành phải thực hiện l?i hứa vì ông chịu thua không thể đoán ra cái có hình thù gần giống như cái r? nhưng hai đầu bằng nhau còn ở giữa lại hẹp là... cái gi? đựng chày. Khi nghe ông cật vấn: "Giã gạo xong thì đem chày dựng vào xó nhà, cần gì đựng trong gi??", chàng trai đan gi? đựng chày đã biện luận: "Chuyện ấy không thành vấn đ?, con chỉ biết ông không đan được cái này, và quan tr?ng hơn, con đan xong mà ông vẫn chưa biết là cái gì".

Một số truyện cư?i dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng còn có nhân vật ông mai - ngư?i môi giới cho các cuộc hôn nhân. "Cửa em cao hàng rào em chắn - Buồng the em đóng chín mư?i tầng - Con ong chui không l?t biểu con bướm đừng lao xao - Biểu chàng v? sắm lễ cho cao - Cậy ông mai cho gi?i mới bước chân vào ngõ em". Cái gi?i của ông mai ở đây không gì khác là gi?i biện luận. Thác l?i vào nhân vật ông mai, ngư?i Quảng từng trổ tài biện luận: nào là tôi sẽ làm mai cho ông một chàng rể gi?i giang, chỉ có đi?u là cậu ta con ngư?i không được ngay thẳng; nào là tôi sẽ làm mai cho bà một cô dâu hi?n thục, chỉ có đi?u cô ấy mồm miệng không được chỉn chu. Tới khi cưới h?i xong xuôi, hai h? rõ ra là chàng rể thì gù lưng - chứ không phải tính nết so đo như nhà gái nhầm tưởng, cô dâu thì môi sứt - chứ không phải ăn nói vụng v? như nhà trai hình dung, ông mai li?n biện luận rằng mình đã báo trước con ngư?i chàng rể không được ngay thẳng, mồm miệng cô dâu không được chỉn chu rồi, song hai bên gia đình vẫn đồng lòng chấp nhận đấy thôi...

?ặc biệt yếu tố gây cư?i bắt nguồn từ sự biện luận của nhân vật trung tâm khá phổ biến ở nhi?u truyện cư?i Thủ Thiệm. Có lần Thủ Thiệm bị quan huyện sai lính lệ bắt giam: "Lệ đâu! ?ưa thằng này xuống buồng giam, giam đầu nó lại ! ". Thế là Thủ Thiệm chỉ đứng ở cửa buồng giam đưa đầu vào thôi, lấy lý quan huyện chỉ bảo giam đầu chứ không bảo giam đít, buộc lòng quan huyện phải tha Thủ Thiệm cho yên chuyện. Hoặc một hôm Thủ Thiệm m?i cơm ông thông gia nhưng chỉ d?n toàn mắm nục. Ch? khách ngồi vào mâm, Thủ Thiệm vồn vã thưa: "Không mấy khi anh sang chơi mà nhà lại không có gì, chỉ có cá nục, anh vui lòng dùng tạm ! ". Nghe ông thông gia thẳng thắn nhận xét: "Mắm nục chứ làm chi có cá nục ! ", Thủ Thiệm li?n giải thích: "Thì trước lúc thành mắm, nó cũng từng là cá nục đó chứ!". Nào ng? ông thông gia là tay gi?i biện luận không kém, ch? dịp Thủ Thiệm sang chơi nhà mình để trả đũa: đến bữa cơm chỉ d?n một bát gốc tre chặt nh? m?i Thủ Thiệm và bảo đấy là món măng luộc. Khi Thủ Thiệm phàn nàn: "Gốc tre chứ làm chi có măng!", ông thông gia bèn giở ngay luận điệu của Thủ Thiệm hôm nào: "Thì trước lúc thành gốc tre, chẳng phải nó đã là măng hay sao ?".

5 - Truyện cổ chưa phải là mặt mạnh nhất của văn h?c dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng. Xem ra ngư?i Quảng có nhi?u đóng góp hơn trên lĩnh vực thơ ca, trước hết là ở ca dao - dân ca. Ca dao - dân ca Quảng Nam - ?à Nẵng cũng mang đậm dấu ấn tâm lý của những ngư?i mới xa quê, buổi đầu m?i thứ đ?u thấy lạ. "Tới đây sông nước lạ lùng - Con chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng", hoặc "Tới đây lạ cảnh lạ quê - Anh em cũng lạ bốn b? ngư?i dưng - Ngư?i thương không thấy ngư?i thương - Quanh đi quẩn lại nhớ cố hương thêm sầu".

Nghĩa là buổi đầu m?i thứ đ?u gợi nhớ, gợi thương. Nhớ thương đến mức không thể chỉ bộc bạch chung chung như khi còn ở quê nhà, kiểu lý chi?u chi?u: "Chi?u chi?u ra ngõ ngó mong - Ngõ thì thấy ngõ ngư?i không thấy ngư?i", "Chi?u chi?u ra đứng ngõ sau - Thấy cây khế ng?t mà đau đớn lòng", "Chi?u chi?u ra ngắm sông sâu - Thấy dòng nước chảy dạ đau từng hồi"... Cũng là lý chi?u chi?u nhưng gi? đây thương nhớ phải được giãi bày cụ thể hơn, khắc sâu hơn cái khoảng không nghìn trùng cách trở giữa hai phương tr?i: "Chi?u chi?u mây phủ Sơn Chà - Lòng ta nhớ bạn nước mắt và lộn cơm - Vẫy vùng như cá trong nơm - Sớm mai Nam ta trông bạn buổi chi?u Nồm bạn trông ta".

Có đi?u cuộc sống đương th?i luôn đặt ra cho tiên dân xứ Quảng nhi?u câu h?i lớn, chẳng hạn cam chịu nhớ thương mà chấp nhận ở lại với cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-hình, hay tìm sự bằng an để giũ b? quay v? với cái-quen-xưa-bao-đ?i-vẫn-vậy. Và câu trả l?i của ngư?i Quảng là:"Ngó lên Hòn Kẽm ?á Dừng - Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi - Thương cha nhớ mẹ th?i v? - Nhược bằng thương kiểng nhớ quê th?i đừng". Không phải đừng v? mà đừng quay v?, đừng hồi hương, bởi gi? đây đã có thêm một quê hương !

Chính nh? sống trong thế giới những cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-hình, ngư?i Quảng xưa có nhu cầu và đi?u kiện đổi mới cách nhìn, cách nghĩ. Câu ca dân gian: "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say" cực tả sự khát khao cái mới, nhạy cảm với cái mới của ngư?i Quảng. "Ra đi mẹ có dặn dò - Sông sâu chớ lội đò đầy đừng qua", kinh nghiệm sống khôn ngoan ấy gi? đây cơ hồ không còn thích hợp nữa. Cuộc sống gi? đây đòi h?i con ngư?i phải biết tư duy kiểu khác: "Sông sâu không lội thì trưa - ?ò đầy không xuống ai đưa một mình"...

Và nh? biết tư duy kiểu khác mà thái độ ứng xử với cái lạ ở ngư?i Quảng lúc này không giống khi vừa mới đến: "Tay ta cầm cần câu trúc ống câu trắc lưỡi câu thau - Muốn câu con cá biển chứ cá bàu thiếu chi", hay "Lên non tìm con chim lạ - Ở dưới phố phư?ng chim chạ thiếu chi". Từ chỗ sợ cái lạ - "con chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng" - tới chỗ chủ động đi tìm cái lạ, đó là cả một bước tiến dài trong tư duy ngư?i Quảng xưa.

Không hiểu sao chủ thể trữ tình trong ca dao - dân ca Quảng Nam - ?à Nẵng nói v? tình yêu lứa đôi đa phần là phụ nữ. Có lẽ trên tình trư?ng h? hứng chịu khổ đau nhi?u hơn nam giới, do vậy mà nhu cầu bộc lộ giãi bày bằng tiếng hát l?i ca ở h? cũng lớn hơn chăng. Quả là khi yêu, ngư?i phụ nữ phải đối mặt với bao nhiêu bất trắc: "Thương chàng thiếp phải đi đêm - Té xuống b? ruộng đất m?m không đau - Không đau ơi hỡi không đau - Té xuống năm trước năm sau chưa lành", hoặc "Ba với ba là sáu - Sáu với bảy mư?i ba - Bạn nói với ta không thiệt không thà - Như cây đủng đỉnh trên già dưới non - Khi xưa bạn nói với ta chưa vợ chưa con - Bây gi? ai đứng đầu non đó bạn t? - Bạn nói với ta bạn chưa có hi?n thê - Bây chừ hi?n thê mô đứng đó bạn trả lại l?i th? cho ta", hoặc "Một nong tằm là năm nong kén - Một nong kén là chín nén tơ - Bạn phỉnh ta chín đợi mư?i ch? - Lênh đênh quán sấm dật d? quán sen"...

Cả khi hai ngư?i cùng chung cảnh ngộ, thì phụ nữ thư?ng cũng thiệt thòi hơn: "Thiếp thương chàng đừng cho ai biết - Chàng thương thiếp đừng lộ tiếng ai hay - Miệng thế gian nhi?u kẻ thày lay - Cực chàng chín rưỡi khổ thiếp đây mư?i phần", hay "Anh buồn có chốn thở than - Em buồn như ng?n nhang tàn thắp khuya"... Thế nhưng vượt lên tất cả, ngư?i phụ nữ đất Quảng vẫn thể hiện rõ bản lĩnh của mình trong tình yêu: "Thiếp không thương chàng thì ra chỗ dở - Cho nên thiếp phải thương đỡ vài ngày - Thiếp có chồng rồi thiên hạ đ?u hay - Sợ nước lui v? đông hải càng ngày càng xa", "Liệu b? thương được thì thương - ?ừng trao gánh nặng giữa đư?ng cho em", "Xa xôi chi đó mà lầm - Phải hương hương bén phải trầm trầm thơm"...

Cũng không ai khác ngoài h? đã chủ động dung hoà kiểu hôn nhân theo sắp đặt với kiểu hôn nhân có tình yêu - một mô hình hôn nhân đến nay và trong nhi?u thập niên tới xem ra vẫn còn phù hợp. Hôn nhân theo sắp đặt là kiểu hôn nhân mà cô dâu và chú rể thư?ng do cha mẹ hay ngư?i thân trong gia đình đôi bên lựa ch?n (thậm chí cả hai chỉ được biết mặt nhau trong ngày cưới) với mục đích tìm cho cô dâu chú rể ngư?i bạn đ?i môn đương hộ đối. Còn hôn nhân có tình yêu bắt nguồn từ tình yêu của những chàng trai, cô gái tự đến với nhau, đặt khả năng tương thích và những cảm nhận v? nhau lên hàng chính yếu. ?ương nhiên ngư?i phụ nữ đất Quảng không đồng tình với kiểu hôn nhân sắp đặt: "?ôi ta tuổi lứa đang vừa - Trách cho cha mẹ kén lừa nơi mô", cũng không muốn bị làng xóm cư?i chê rằng: "Gái đâu gái hỗn gái hào - Trai chưa vô làm rể gái đã vào làm dâu". H? tự đến với nhau, yêu nhau và cùng nhau th? non hẹn biển, sau đó tranh thủ sự đồng thuận của hai bên gia đình: "Trai mư?i bảy gặp gái mư?i ba - Trai anh hăm sáu gái em đà hăm hai - L?i nguy?n với bạn không sai - Bữa mô có rảnh cậy ông mai đến nhà", "Con gà trống tía cái lông cũng tía - Ng?n khoai lang giâm ng?n mía cũng giâm - Thương nhau không dễ thương thầm - Thương th?i rượu cỗ trầu mâm đến nhà - Em còn thừa lệnh mẹ cha - Còn có cô chú bác chứ không phải mình ta với chàng"..

Ngôn ngữ ca dao - dân ca đất Quảng nói chung thô mộc song không phải không có những nét đặc sắc. Khi cần "chữ nghĩa", ngư?i Quảng cũng rất chi là "chữ nghĩa", chẳng hạn như trong l?i ca bài Lý Thương nhau: "Thương nhau trư?ng đoạn đoạn trư?ng - Luỵ lưu lưu luỵ dạ dư?ng kim châm". Một câu lục bát mư?i bốn chữ mà đa phần là từ Hán-Việt, trong đó đáng chú ý là cách đảo từ "trư?ng đoạn" thành "đoạn trư?ng", "luỵ lưu" thành "lưu luỵ" nhằm khai thác sức mạnh biểu cảm của những từ đồng âm dị nghĩa. Có thể dẫn chứng thêm nhi?u trư?ng hợp chơi chữ tương tự, như câu "Anh từ trong Quảng ra thi - Leo lên đèo ải chữ chi mập m?", hoặc câu "Chi?u chi?u lại nhớ chi?u chi?u - Nhớ ngư?i quân tử khăn đi?u vắt vai - áo vắt vai quần hai ống ướt - Chữ nghĩa chi chàng mà lấn lướt vô thi - Ti?n năm quan ngủ quán mất đi - Trai nam nhơn mô đối đặng - Gái nữ nhi xin kết nguy?n"...

Hay câu "Con gái La Qua - Qua đư?ng qua ch?c - Qua biểu em rằng - ?ừng có la qua". Cái tên "La Qua" vốn chỉ là một địa danh trong câu "Dù xa cửa ngõ cũng xa - Dù gần Bến ?iện, La Qua cũng gần", đến đây bỗng trở thành ngữ động từ "la qua" - tức "mắng anh" (vì anh đã trêu ch?c em). Ngay chữ "qua" cũng rất đa nghĩa: vừa là thành tố của địa danh La Qua, vừa là anh (qua ch?c, qua bảo, la qua), lại vừa là bước sang (qua đư?ng). Rõ ràng nghệ thuật chơi chữ của ngư?i Quảng trong câu ca dân gian này khá là độc đáo.

Hình thức tách từ được ngư?i Quảng dùng khá thuần thục trong ca dao - dân ca: "Nhìn xem nam bắc tây đông - Thấy thiên thấy hạ mà không thấy chàng - V? nhà đứng thở ngồi than - Cơm ta ăn không đặng nhớ đến nghĩa chàng đó chàng ơi", hay "Xa làm chi mà xa quanh xa quất - Xa làm chi mà xa tức xa tối xa vội xa vàng - Không cho thiếp thở chàng than đôi l?i". ?ến chữ nghĩa cũng chia r?i, xa cách, huống chi đôi lứa đang yêu! Sở trư?ng nói lái thư?ng được tận dụng: "Một chữ anh cũng thi - Hai chữ anh cũng thi - May th?i đậu trạng dẫu rớt đi cũng ông nghè hồi". Ông "nghè hồi" ở đây không phải là ông tiến sĩ vinh quy (nghè: tiến sĩ; hồi: trở v?), mà là ông "ngồi hè" - vì đã thi h?ng tức vẫn còn là anh h?c trò nghèo kiết xác, không ngồi ngoài hè thì ngồi vào đâu được!

Tuy đất Quảng không phải là chiếc nôi của nghệ thuật tuồng, song ngư?i Quảng rất thích tuồng, bởi tuồng truy?n thống có nhi?u đặc trưng nghệ thuật khá phù hợp với chất chính trị mạnh mẽ quyết liệt của dân Quảng: tích tuồng nào cũng xoay quanh những cuộc tranh giành quy?n lực chính trị, đầy ắp những thoán đoạt, phản loạn, mưu mô, xung đột giữa chốn tri?u đình và bao gi? cũng có ít nhất một vai anh hùng nghĩa hiệp; đạo cụ trên sân khấu tuồng chủ yếu là gươm đao, côn kiếm; gi?ng hát tuồng cơ hồ lúc nào cũng quyết liệt thét gào. Chính vì ngư?i Quảng nhạy cảm với chính trị như thế cho nên bên cạnh những câu ca dao - dân ca có nội dung chính trị hẳn hoi, chẳng hạn câu ca dao "Ai lên chín ngã sông Con - H?i thăm ông Hư?ng Hiệu có còn hay không", hay câu hát "?ứng bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân nước xanh như tàu lá - ?ứng bên tê Hà Thân ngó v? Hàn phố xá nghênh ngang - Kể từ ngày Tây lại đất Hàn - ?ào sông Câu Nhí bòn vàng Bông Miêu - Dặn lòng ai dỗ đừng xiêu - ở nuôi phụ mẫu sớm chi?u có nhau" (hai chữ "nghênh ngang" đã công khai bày t? thái độ chính trị của nhân dân ?à Nẵng đang phải chung sống với kẻ thù), còn khá phổ biến trong thơ ca dân gian Quảng Nam - ?à Nẵng hiện tượng chính trị hoá ca dao - dân ca trữ tình.

Câu ca dao trữ tình quen thuộc "Tr?i mưa ướt bụi ướt b? - Ướt cây ướt lá ai ng? ướt em" được ngư?i Quảng chính trị hoá trở thành những câu trữ tình - chính trị: "Tr?i mưa ướt ngõ ướt đàng - Ướt em em chịu ướt Vệ quốc đoàn em thương", "Tr?i mưa ướt bụi mía mưng - Ướt em em chịu ướt anh dân quân em buồn", "Tr?i mưa ướt lá trầu vàng - Mưa ơi đừng ướt anh Vệ quốc đoàn nghe mưa"... Và có lẽ trong ca dao - dân ca Việt Nam, hiếm có câu ca dân gian nào có nhi?u dị bản như là câu: "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say...". Có thể ban đầu đây là một khúc hát trữ tình, với hai dòng sau được thay đổi cho phù hợp với cảnh ngộ riêng của từng chủ thể: "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Em thương anh cha mẹ không hay - Như ng?n đèn giữa gió biết xoay phương nào", "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Kể từ ngày đó đã xa đây - Sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn", "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Lòng ta như chén rượu đầy - L?i th? nhớ chén rượu này bạn ơi". ?áng chú ý nhất là các dị bản: "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Thương nhau chưa đặng mấy ngày - ?ã mang câu ơn tr?ng nghĩa dày bạn ơi", "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Hai đứa ta ơn tr?ng nghĩa dày - Chưa nên câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương", "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn v? nằm nghĩ gác tay - Coi ai ơn tr?ng nghĩa dày cho bằng em", "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn v? đừng ngủ gác tay - Nơi mô ơn tr?ng nghĩa dày bạn theo"...

Xuyên suốt các dị bản này là tính khẳng định của sự lựa ch?n, trước hết là lựa ch?n trong tình yêu. Khi cô gái Quảng dám tự ch?n lựa hạnh phúc "thương anh cha mẹ không hay" thì dẫu có "nghi binh" sánh mình với "ng?n đèn giữa gió biết xoay phương nào", thực chất cô cũng đã khẳng định cái hướng mà đ?i cô nhằm đến. Tính khẳng định của sự lựa ch?n càng hai năm rõ mư?i hơn ở những cách nói: "kể từ ngày đó đã xa đây - sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn", hay "lòng ta như chén rượu đầy - l?i th? nhớ chén rượu này bạn ơi", hay "thương nhau chưa đặng mấy ngày - đã mang câu ơn tr?ng nghĩa dày bạn ơi", rồi "hai đứa ta ơn tr?ng nghĩa dày - chưa nên câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương". Song có lẽ tính khẳng định của sự lựa ch?n đạt đến đỉnh điểm khi chủ thể trữ tình - dư?ng như vẫn chính là cô gái Quảng - tự đặt bản thân trong quan hệ với ngư?i thứ ba: "ai", "nơi mô", từ đó mở ra cho ngư?i mình yêu khả năng lựa ch?n:"coi ai ơn tr?ng nghĩa dày cho bằng em", "nơi mô ơn tr?ng nghĩa dày bạn theo".

Vì thế ngoài các dị bản trực tiếp được chính trị hoá như "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Anh hùng thước lụa trao tay - Nước non một gánh vơi đầy ai hay" có liên quan đến cái chết của cụ Hoàng Diệu, hoặc "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Tình non nghĩa nước bao ngày - Con trăng cõi Bắc đã đầy nhớ thương" ra đ?i vào th?i gian đất nước bị chia cắt sau Hiệp định Genève 1954, thì với tính khẳng định của sự lựa ch?n vừa nêu, các dị bản "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn v? nằm nghĩ gác tay - Coi ai ơn tr?ng nghĩa dày cho bằng em", "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn v? đừng ngủ gác tay - Nơi mô ơn tr?ng nghĩa dày bạn theo", thậm chí "?ất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Lòng ta như chén rượu đầy - L?i th? nhớ chén rượu này bạn ơi" cũng rất dễ dàng được chính trị hoá để trong những cảnh ngộ không thể nói thẳng được đi?u cần nói, ngư?i Quảng vẫn có thể kín đáo vận động chính trị đồng th?i gián tiếp tự bộc lộ sự lựa ch?n chính trị của mình.

Còn có thể kể thêm những câu ca dao - dân ca tưởng chỉ để nói v? sự thuỷ chung ch? đợi của đôi lứa xa nhau có khả năng được chính trị hoá như bài Lý ?ò ngang: "Ngó lại quê mình - Bởi em chèo thuy?n - Trên sông cái - Em ngó lại quê mình - Chim trên cành còn đủ cặp huống chi mình lẻ đôi - Vì đâu đây với đó đã hai nơi - Chiếc đò ngang bằng chiếc đũa không l?i nhắn đưa - Cây đa bến cũ đò xưa - Ngư?i thương có nghĩa nắng mưa ta vẫn ch?", hay câu hò khoan: "Sớm mai chàng hoá con chim trống đứng dựa bìa núi - Chi?u lại thiếp hoá con chim mái đứng dựa bìa rừng - Nỉ non ba tiếng cho có chừng - Dầu xa muôn dặm biểu bạn đừng có xa"...

6 - Câu đố Quảng thư?ng đậm đà màu sắc chính trị. Câu "Năm ông ngồi lại một bàn - Ông lo việc nước ông toan việc nhà - Bốn ông chịu tuổi lên ba - Còn một ông già chịu tuổi lên hai" vừa miêu tả năm ngón tay trên một bàn tay vừa thể hiện ý thức gánh vác - nói theo cách nói của các tác giả ?ại Nam nhất thống chí là tinh thần"sốt sắng việc công" - của dân Quảng. Các câu đố v? cây ngô: "Ba tháng cuốn c? bồng con đ? - Một phen cởi giáp cứu dân đen" hay v? cái máng nước: "Trên vì nước dưới vì nhà - Lòng ngư?i ai rõ cho ta hỡi lòng" cũng mang ý nghĩa tương tự. ?ương nhiên câu đố Quảng còn thể hiện rõ đặc tính ưa nói lái của ngư?i Quảng: "Hít vào, hít ra, hít một" - hít một là hột mít, "Cà vô, cà ra, cà nhột" - cà nhột là cột nhà, "Cúng trên núi, cúng mê, cúng mải" - cúng mải là cái mủng, "Cú trong nhà cú ra, cú hãi" - cú hãi là cái hũ, hoặc "May không chút nữa thì lầm - Cau dày không bẻ bẻ nhầm cau ranh" - cau ranh là canh rau...

7 - Vè Quảng chủ yếu cũng là vè chính trị, được ngư?i Quảng sử dụng làm vũ khí đắc lực để tuyên truy?n cách mạng. Mỗi bài vè Quảng thư?ng gắn với một biến cố chính trị hoặc với một nhiệm vụ chính trị nhất định. Vè Khâm sai - còn g?i là vè Sai đạo - ghi lại sự kiện Nguyễn Thân đem quân tri?u đình vào đàn áp Nghĩa hội Quảng Nam năm 1886: "Lẳng lặng mà nghe - Cái vè Sai đạo...". Cuộc biểu tình kháng thuế cự sưu - hay theo cách g?i của Phan Châu Trinh là Trung Kỳ dân biến - bắt đầu từ huyện ?ại Lộc tỉnh Quảng Nam vào ngày 11 tháng 3 năm 1908 và sau đó nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh mi?n Trung. Với sự kiện 11 tháng 3, lần đầu tiên Quảng Nam trở thành nơi khởi phát một hình thức đấu tranh chính trị chưa từng có ở nước ta, một cuộc biểu dương lực lượng chính trị hùng hậu của nhân dân - xin nhấn mạnh là của nhân dân - một vùng đất nửa thế kỷ trước từng gánh vác sứ mệnh đánh thắng trận đầu, cầm chân giặc Pháp. Bài vè Xin xâu chống thuế: "Lẳng lặng mà nghe - Cái vè xin thuế..." đã phản ánh sinh động diễn biến và hào khí của sự kiện chính trị này. Hay như bài vè Tổng tuyển cử ra đ?i nhằm cổ động cho các ứng viên do Việt Minh giới thiệu trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946: "Tống, Bôi, Hiến, Nhĩ, Diêu, Thao, Huệ - Viện, Xuyến, Sạ, Bằng, Thự cử tri"...

8 - Ngư?i Quảng thư?ng xuyên phải đối diện với một thiên nhiên cực kỳ khắc nghiệt, nhất là vào khoảng tháng bảy gió nam thổi ròng hàng tuần lễ, đất cát khô rang, nông thôn cơ cực, dân cày đói vàng con mắt. ?i?u đó giải thích vì sao ngoài việc khái quát những kinh nghiệm ngh? nông, tục ngữ Quảng Nam - ?à Nẵng còn hay nhắc đến cái ăn - đúng hơn là hay cảnh giác với cái ăn: "ăn không lo của kho cũng hết", "Ngày làm tháng ăn - Tháng làm năm ăn", "Ăn như tằm ăn lên", "Quần lãnh áo lương ăn lư?ng gạo chợ", "Thấy h? ăn khoai mài vác mai chạy quấy", "Ăn bánh đúc đục mặt", "Ăn bữa giỗ lỗ bữa cày", "Ăn xưa chừa nay", "Liệu cơm gắp mắm", "Ăn ít no lâu ăn nhi?u tức bụng", "??i cha ăn mặn đ?i con khát nước", "Miếng ăn là miếng tồi tàn - Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu", "Ăn một miếng tiếng một đ?i", "Ham ăn thì lú ham ngủ thì mê"... Rõ ràng những câu nói dân gian vừa nêu chứng t? ngư?i Quảng sợ mất nhân phẩm hơn là sợ thiếu miếng ăn!

*

* *

Thật khó lòng tách bạch trong tâm hồn ngư?i Quảng bây gi? đâu là phần lưng vốn văn h?c dân gian cả dân tộc ông cha xưa mang theo làm hành trang trên đư?ng nam tiến và đâu là phần văn h?c dân gian bản địa mới được phóng tác hoặc sáng tác tại chỗ qua sáu trăm năm. Có đi?u ngư?i Quảng hôm nay có thể tự hào rằng mỗi câu hát, câu chuyện, câu nói dân gian mới được phóng tác, sáng tác suốt sáu thế kỷ vừa bám-trụ-giữ-đất vừa quảng-nam-mở-cõi đ?u in đậm dấu vân tay của tổ tiên mình, và đó chính là cách các thế hệ ngư?i Quảng đóng góp vào kho tàng văn h?c dân gian chung của đất nước.