nguyenminhanhtu
12-17-2005, 10:35 PM
Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Tiên sinh húy là Bỉnh Khiêm, hiệu là Bạch vân cư sĩ ngư?i làng Trung am, huyện Vĩnh lại, tỉnh Hải dương. Tiên thế nhà ngài có âm đức, đ?i ông là Văn Tỉnh được phong tặng Thiếu bảo Tư quận công, được ngôi dương cơ, hợp vào kiểu đất của Cao Bi?n. ??i thân phụ ngài là Văn ?ịnh được phong tặng làm Thái bảo Nghiêm quận công. Mẹ ngài là Từ Thục phu nhân h? Nhữ, nguyên là con gái hộ bộ thượng thư Nhữ văn Lan, ở làng An Tử, huyện Tiên Minh. Bà ấy thông kinh sử, gi?i văn chương, mà lại tinh ngh? tướng số.
Bà ấy kén chồng đến ngoài hai mươi tuổi thấy ông Văn ?ịnh có tướng sinh ra quí tử mới lấy. V? sau, lại gặp một chàng trẻ tuổi đi qua bến Hà, ngạc nhiên nói rằng: "Tiếc thay ! Khi trước không gặp ngư?i này! " H?i ra thì chàng ấy là Mạc ?ăng Dung (v? sau làm vua nhà Mạc).
Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi đ?i Hồng ?ức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn); đẫy đà to lớn, mặt mũi khôi ngô, chưa đầy tuổi tôi đã biết nói.
Một khi Văn ?ịnh ẵm trên tay, bỗng dưng nói rằng "Mặt tr?i m?c v? phương ?ông". Văn ?ịnh lấy làm kỳ dị. ?ến năm ngài lên bốn tuổi, phu nhân dậy ngài h?c chính văn trong kinh truyện dậy đến đâu thuộc lòng đến đấy. Bà ấy lại dậy h?c thuộc lòng vài bài thơ nôm.
Một bữa, phu nhân đi vắng, Văn ?ịnh kéo một cái dây đùa với con, rồi ngâm đùa một câu rằng: "Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung". ?ương đ?c dở dang thì Bỉnh Khiêm tiếp: "Vén tay tiên hốt hốt rung". Văn ?ịnh thấy con thông minh, mừng lắm, v? khoe tài với phu nhân. Phu nhân nói rằng:
- Mặt trăng là phận bày tôi, sao ông lại dậy con đi?u ấy?
Văn ?ịnh thẹn thò xin chịu lỗi, nhưng bà ấy vẫn còn căm tức, xin từ v?, nhất định không ở đấy nữa, v? sau bà ấy già đòi ở nhà bố mẹ đẻ. Nhưng tục truy?n bà ấy tức ông Văn ?ịnh lên Sơn Tây, lấy chồng khác sinh ra ông Phùng Khắc Khoan (xem bài Trạng Bùng).
Khi Bỉnh Khiêm còn để hai trái đào, cùng b?n trẻ tắm ở bến Hàn, có ngư?i đi thuy?n trông thấy nói rằng:
- Tiếc thay cho thằng bé này, bộ da dầy lắm chỉ làm được Trạng nguyên, Tể tướng thôi!
Khi ngài bé thì ở nhà, đến lúc lớn, nghe tiếng ông Bảng Nhỡn Lương đắc Bằng hay chữ, mới vào Thanh Hóa theo h?c ông Bảng Nhỡn.
Lương đắc Bằng vốn ở làng Hội Trào, huyện Hoàng Hóa, nguyên có một chi h? lạc sang ở Vân Nam, đ?i đ?i làm quan bên Tàu. Khi ?ắc Bằng sang sứ nhà Minh gặp một ngư?i cùng h? là Lương nhữ Hốt cho một quyển "Thái ?t thần Kinh". ?ắc Bằng đem v? h?c tập cho nên tinh ngh? lý số, việc gì cũng tính biết được trước.
Nguyễn Bỉnh Khiêm h?c hết được phép thuật của ông Lương ?ắc Bằng. Khi ông ?ắc Bằng mất, dặn lại Nguyễn Bỉnh Khiêm v? sau phải trông nom con mình là Lương hữu Khánh.
Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn bỉnh Khiêm ở ẩn một chỗ, không muốn cần tiếng tăm với đ?i. Bấy gi? Trịnh Tuy, Mạc ?ăng Dung cũng cố ý muốn tranh quy?n, đánh nhau luông mấy năm. Ngài tính số Thái Ất, biết có nhà Lê lại khôi phục được.
Ngài có làm bài thơ cảm hứng sau này:
Non sông nào phải buổi bình th?i
Thú đánh nhau chi khéo nực cư?i
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi?
Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn ngư?i (2)
Ngán ngẫm việc đ?i chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi.
V? sau nhà Mạc chiếm giữ kinh thành, bốn phương hơi yên ổn, các bạn bè nhi?u ngư?i khuyên ngài ra làm quan. Ngài bất đẵc dĩ phải ra thi đỗ Trạng Nguyên năm ?ại Chính thứ nhà Mạc. Bấy gi? ngài đã bốn mươi tư tuổi.
Vua nhà Mạc cắt ngài làm Tả thị lang, ?ông Các đại h?c sĩ. Ngài làm quan được tám năm, trước sau dâng sớ hạch mư?i tám ngư?i lộng thần, nhân có chàng rể là Phạm ?ạo cũng kiêu hoạnh, ngài sợ phải vạ lây, mới từ quan cáo v? dưỡng lão.
Khi ngài trí sĩ rồi, làm nhà chơi mát ở mé dưới làng g?i là Bạch Vân Am, lại bắc hai nhịp cầu g?i là Nghênh phong và cầu Tràng Xuân, thư?ng thư?ng ra chơi hóng mát. Lại làm một cái quán Trung tân ở bên sông Tuyết Giang, dựng bia ký sự mình. Khi thì ngài bơi thuy?n chơi ở bể Kim Hải và bể Úc hải, khi thì đi chơi ở các núi An tử, núi Ng?a vân và núi ?ồ sơn. ?i đến đâu làm thơ ngâm vịnh đến đấy, hoặc gặp chỗ nào có cây cối mát, chim kêu ríu rít thì lấy làm khoái chí lắm, nhởn nhơ cả ngày.
Ngài tuy ở nhà, nhưng vua nhà Mạc vẫn coi ngài quí tr?ng, nhà nước có công việc gì to thì sai sứ đến h?i tận nhà, hoặc khi m?i v? Kinh mà h?i. Ngài bàn định lắm đi?u ích lợi cho nhà nước, nhà Mạc phong ngài làm Lại bộ thượng thư, Thái phó Trình quốc công vì thế ta thư?ng g?i là Trạng Trình. Năm Ất dậu, ngài phải bệnh, Mạc Hậu Hợp sai sứ đến thăm và h?i việc hậu sự.
Ngài bảo rằng:
- Ngày sau nước có việc, ở xứ Cao Bình tuy nh? nhưng cũng có thể hưởng phúc được vài đ?i nữa.
?ến sau nhà Mạc mất nước, chạy lên Cao Bình, quả nhiên còn giữ được bốn đ?i rồi mới tuyệt.
Ngày 28 tháng một năm Ất Dậu, ngài mất, th? 95 tuổi. H?c trò g?i ngài là "Tuyết giang phu tử".
Ngài h?c tinh v? thuật số, phàm các việc tai, tư?ng h?a, phúc cùng là ngày mưa, ngày nắng, việc gì cũng biết trước.
Có một ngư?i h?c trò tên là Bùi Sinh, ngài bảo ngư?i ấy v? sau tất phú quí. ?ến khi Bùi Sinh gần bảy mươi tuổi vẫn còn nghèo hèn, cho là ngài đoán số mình sai; ngài cư?i không nói gì. Một hôm ngài bảo Bùi Sinh mượn một chiếc thuy?n đánh cá cho bơi ra bến Hồng ?àm ở bể Vạn Ninh, đợi đến gi? ấy... hễ gặp cái gì thu lấy dem v?, chắc được thưởng to. Bùi Sinh tuân l?i, quả nhiên gặp một bà cụ già, áo mũ chỉnh t?, đi thuy?n bị bạt phong đến đấy.
Bùi Sinh đem v? phụng dưỡng tử tế. ?ược vài hôm có ông tổng đốc Quảng ?ông sai ngư?i sang nói với vua ta rằng: Thái phu nhân chơi bể bạt phong, xem thiên văn thì thấy ở phương Nam xin nhà vua vì nghĩa láng gi?ng cho kiếm giúp. Ngài sai Bùi Sinh đem bà cụ ấy dâng lên, vì thế được phong tước là Thao quận Công.
Năm Thuận bình thứ 8 nhà Lê (1556) vua Trung tôn mất, không có con, bấy gi? Trịnh Kiểm đang cầm quy?n có bụng hồ nghi, không nghĩ ra thế nào. H?i Phùng Khắc Khoan cũng không biết thế nào cho phải, mới sai ngư?i lén ra Hải Dương để h?i ngài, ngài chẳng nói gì chỉ ngoảnh lại bảo ngư?i đầy tớ.
- Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ.
Nói rồi, sai tiểu quét d?n đốt hương để ngài ra chơi chùa và bảo tiểu.
- Giữ chùa th? phật thì ăn oản.
?ó là có ý khuyên Trịnh Kiểm tìm lấy dòng dõi nhà Lê mà lập lên, mà phải cứ giữ đạo làm tôi ăn mày phật thì mới hưởng phúc.
Sứ giả v? nói với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hiểu ý, mới đón vua Anh Tôn lập lên, quả nhiên dựng lại được cơ đồ nhà Lê mà h? Trịnh cũng đ?i đ?i vinh hiển.
Khi ấy đức Dụ tổ tri?u Nguyễn ta (?ức Nguyễn Hoàng) đang có hi?m với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm có ý muốn ám hại, đức Dụ tổ lo sợ, không biết làm thế nào để tránh kh?i nạn, mới sai ngư?i ra h?i ngài. Bấy gi? ngài đang chống gậy chơi trong vư?n cảnh. Trong vư?n, có vài mươi ng?n núi non bộ, lại chồng đá làm một rặng núi ngang. Trên núi cây cối rư?m rà, có đàn kiến đang bò trên tảng đá, ngài nhìn xem đàn kiến, rồi tủm tỉm cư?i nói:
- Một dãy núi Hoành Sơn (núi ngang) kia, có thể yên thân được muôn đ?i.
Ngư?i kia thấy nói vậy. V? nói với đức Dụ Tổ. ?ức Dụ Tổ biết ý, mới xin vào trấn thủ trong xứ Thuận Quảng (trong ấy, có dãy núi Hoành Sơn), quả nhiên mỗi ngày một thịnh, mở ra cơ nghiệp Nguyễn tri?u.
H?c trò ngài rất nhi?u nhưng chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khanh, Nguyễn Dữ, Trương th?i Cử làm nên to mà có danh hơn cả. Phùng, Lương thâm thúy v? ngh? lý h?c, cùng làm danh thần lúc nhà Lê trung hưng.
Khi trước ông Phùng Khắc Khoan thuê nhà đến h?c ngài. Lúc h?c gi?i rồi, ngài đang đêm đến chơi ở nhà tr?, gõ cửa mà bảo rằng:
- Gà đã gáy rồi, sao không đứng dậy mà thổi cơm ăn, còn nằm mãi làm gì?
L?i ấy có ý giục ông Khắc Khoan vào Thanh Hóa giúp nhà Lê. Ông Khắc Khoan biết ý thế mới cùng Nguyễn Dữ vào giúp nhà Lê, làm đến công thần.
Ngài làm thơ phú rất nhi?u, đến nay vẫn còn một tập thơ đ? là "Bạch vân am thi tập" và một quyển sấm ký bây gi? vẫn g?i là "Sấm Trạng Trình".
(Theo Phan Kế Bính)
(1) Ứng v? sau nhà Lê khôi phục đuợc nước.
(2) Ứng v? sau nhà Trịnh giữ quy?n nhà Lê
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Tiên sinh húy là Bỉnh Khiêm, hiệu là Bạch vân cư sĩ ngư?i làng Trung am, huyện Vĩnh lại, tỉnh Hải dương. Tiên thế nhà ngài có âm đức, đ?i ông là Văn Tỉnh được phong tặng Thiếu bảo Tư quận công, được ngôi dương cơ, hợp vào kiểu đất của Cao Bi?n. ??i thân phụ ngài là Văn ?ịnh được phong tặng làm Thái bảo Nghiêm quận công. Mẹ ngài là Từ Thục phu nhân h? Nhữ, nguyên là con gái hộ bộ thượng thư Nhữ văn Lan, ở làng An Tử, huyện Tiên Minh. Bà ấy thông kinh sử, gi?i văn chương, mà lại tinh ngh? tướng số.
Bà ấy kén chồng đến ngoài hai mươi tuổi thấy ông Văn ?ịnh có tướng sinh ra quí tử mới lấy. V? sau, lại gặp một chàng trẻ tuổi đi qua bến Hà, ngạc nhiên nói rằng: "Tiếc thay ! Khi trước không gặp ngư?i này! " H?i ra thì chàng ấy là Mạc ?ăng Dung (v? sau làm vua nhà Mạc).
Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi đ?i Hồng ?ức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn); đẫy đà to lớn, mặt mũi khôi ngô, chưa đầy tuổi tôi đã biết nói.
Một khi Văn ?ịnh ẵm trên tay, bỗng dưng nói rằng "Mặt tr?i m?c v? phương ?ông". Văn ?ịnh lấy làm kỳ dị. ?ến năm ngài lên bốn tuổi, phu nhân dậy ngài h?c chính văn trong kinh truyện dậy đến đâu thuộc lòng đến đấy. Bà ấy lại dậy h?c thuộc lòng vài bài thơ nôm.
Một bữa, phu nhân đi vắng, Văn ?ịnh kéo một cái dây đùa với con, rồi ngâm đùa một câu rằng: "Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung". ?ương đ?c dở dang thì Bỉnh Khiêm tiếp: "Vén tay tiên hốt hốt rung". Văn ?ịnh thấy con thông minh, mừng lắm, v? khoe tài với phu nhân. Phu nhân nói rằng:
- Mặt trăng là phận bày tôi, sao ông lại dậy con đi?u ấy?
Văn ?ịnh thẹn thò xin chịu lỗi, nhưng bà ấy vẫn còn căm tức, xin từ v?, nhất định không ở đấy nữa, v? sau bà ấy già đòi ở nhà bố mẹ đẻ. Nhưng tục truy?n bà ấy tức ông Văn ?ịnh lên Sơn Tây, lấy chồng khác sinh ra ông Phùng Khắc Khoan (xem bài Trạng Bùng).
Khi Bỉnh Khiêm còn để hai trái đào, cùng b?n trẻ tắm ở bến Hàn, có ngư?i đi thuy?n trông thấy nói rằng:
- Tiếc thay cho thằng bé này, bộ da dầy lắm chỉ làm được Trạng nguyên, Tể tướng thôi!
Khi ngài bé thì ở nhà, đến lúc lớn, nghe tiếng ông Bảng Nhỡn Lương đắc Bằng hay chữ, mới vào Thanh Hóa theo h?c ông Bảng Nhỡn.
Lương đắc Bằng vốn ở làng Hội Trào, huyện Hoàng Hóa, nguyên có một chi h? lạc sang ở Vân Nam, đ?i đ?i làm quan bên Tàu. Khi ?ắc Bằng sang sứ nhà Minh gặp một ngư?i cùng h? là Lương nhữ Hốt cho một quyển "Thái ?t thần Kinh". ?ắc Bằng đem v? h?c tập cho nên tinh ngh? lý số, việc gì cũng tính biết được trước.
Nguyễn Bỉnh Khiêm h?c hết được phép thuật của ông Lương ?ắc Bằng. Khi ông ?ắc Bằng mất, dặn lại Nguyễn Bỉnh Khiêm v? sau phải trông nom con mình là Lương hữu Khánh.
Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn bỉnh Khiêm ở ẩn một chỗ, không muốn cần tiếng tăm với đ?i. Bấy gi? Trịnh Tuy, Mạc ?ăng Dung cũng cố ý muốn tranh quy?n, đánh nhau luông mấy năm. Ngài tính số Thái Ất, biết có nhà Lê lại khôi phục được.
Ngài có làm bài thơ cảm hứng sau này:
Non sông nào phải buổi bình th?i
Thú đánh nhau chi khéo nực cư?i
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi?
Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn ngư?i (2)
Ngán ngẫm việc đ?i chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi.
V? sau nhà Mạc chiếm giữ kinh thành, bốn phương hơi yên ổn, các bạn bè nhi?u ngư?i khuyên ngài ra làm quan. Ngài bất đẵc dĩ phải ra thi đỗ Trạng Nguyên năm ?ại Chính thứ nhà Mạc. Bấy gi? ngài đã bốn mươi tư tuổi.
Vua nhà Mạc cắt ngài làm Tả thị lang, ?ông Các đại h?c sĩ. Ngài làm quan được tám năm, trước sau dâng sớ hạch mư?i tám ngư?i lộng thần, nhân có chàng rể là Phạm ?ạo cũng kiêu hoạnh, ngài sợ phải vạ lây, mới từ quan cáo v? dưỡng lão.
Khi ngài trí sĩ rồi, làm nhà chơi mát ở mé dưới làng g?i là Bạch Vân Am, lại bắc hai nhịp cầu g?i là Nghênh phong và cầu Tràng Xuân, thư?ng thư?ng ra chơi hóng mát. Lại làm một cái quán Trung tân ở bên sông Tuyết Giang, dựng bia ký sự mình. Khi thì ngài bơi thuy?n chơi ở bể Kim Hải và bể Úc hải, khi thì đi chơi ở các núi An tử, núi Ng?a vân và núi ?ồ sơn. ?i đến đâu làm thơ ngâm vịnh đến đấy, hoặc gặp chỗ nào có cây cối mát, chim kêu ríu rít thì lấy làm khoái chí lắm, nhởn nhơ cả ngày.
Ngài tuy ở nhà, nhưng vua nhà Mạc vẫn coi ngài quí tr?ng, nhà nước có công việc gì to thì sai sứ đến h?i tận nhà, hoặc khi m?i v? Kinh mà h?i. Ngài bàn định lắm đi?u ích lợi cho nhà nước, nhà Mạc phong ngài làm Lại bộ thượng thư, Thái phó Trình quốc công vì thế ta thư?ng g?i là Trạng Trình. Năm Ất dậu, ngài phải bệnh, Mạc Hậu Hợp sai sứ đến thăm và h?i việc hậu sự.
Ngài bảo rằng:
- Ngày sau nước có việc, ở xứ Cao Bình tuy nh? nhưng cũng có thể hưởng phúc được vài đ?i nữa.
?ến sau nhà Mạc mất nước, chạy lên Cao Bình, quả nhiên còn giữ được bốn đ?i rồi mới tuyệt.
Ngày 28 tháng một năm Ất Dậu, ngài mất, th? 95 tuổi. H?c trò g?i ngài là "Tuyết giang phu tử".
Ngài h?c tinh v? thuật số, phàm các việc tai, tư?ng h?a, phúc cùng là ngày mưa, ngày nắng, việc gì cũng biết trước.
Có một ngư?i h?c trò tên là Bùi Sinh, ngài bảo ngư?i ấy v? sau tất phú quí. ?ến khi Bùi Sinh gần bảy mươi tuổi vẫn còn nghèo hèn, cho là ngài đoán số mình sai; ngài cư?i không nói gì. Một hôm ngài bảo Bùi Sinh mượn một chiếc thuy?n đánh cá cho bơi ra bến Hồng ?àm ở bể Vạn Ninh, đợi đến gi? ấy... hễ gặp cái gì thu lấy dem v?, chắc được thưởng to. Bùi Sinh tuân l?i, quả nhiên gặp một bà cụ già, áo mũ chỉnh t?, đi thuy?n bị bạt phong đến đấy.
Bùi Sinh đem v? phụng dưỡng tử tế. ?ược vài hôm có ông tổng đốc Quảng ?ông sai ngư?i sang nói với vua ta rằng: Thái phu nhân chơi bể bạt phong, xem thiên văn thì thấy ở phương Nam xin nhà vua vì nghĩa láng gi?ng cho kiếm giúp. Ngài sai Bùi Sinh đem bà cụ ấy dâng lên, vì thế được phong tước là Thao quận Công.
Năm Thuận bình thứ 8 nhà Lê (1556) vua Trung tôn mất, không có con, bấy gi? Trịnh Kiểm đang cầm quy?n có bụng hồ nghi, không nghĩ ra thế nào. H?i Phùng Khắc Khoan cũng không biết thế nào cho phải, mới sai ngư?i lén ra Hải Dương để h?i ngài, ngài chẳng nói gì chỉ ngoảnh lại bảo ngư?i đầy tớ.
- Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ.
Nói rồi, sai tiểu quét d?n đốt hương để ngài ra chơi chùa và bảo tiểu.
- Giữ chùa th? phật thì ăn oản.
?ó là có ý khuyên Trịnh Kiểm tìm lấy dòng dõi nhà Lê mà lập lên, mà phải cứ giữ đạo làm tôi ăn mày phật thì mới hưởng phúc.
Sứ giả v? nói với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hiểu ý, mới đón vua Anh Tôn lập lên, quả nhiên dựng lại được cơ đồ nhà Lê mà h? Trịnh cũng đ?i đ?i vinh hiển.
Khi ấy đức Dụ tổ tri?u Nguyễn ta (?ức Nguyễn Hoàng) đang có hi?m với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm có ý muốn ám hại, đức Dụ tổ lo sợ, không biết làm thế nào để tránh kh?i nạn, mới sai ngư?i ra h?i ngài. Bấy gi? ngài đang chống gậy chơi trong vư?n cảnh. Trong vư?n, có vài mươi ng?n núi non bộ, lại chồng đá làm một rặng núi ngang. Trên núi cây cối rư?m rà, có đàn kiến đang bò trên tảng đá, ngài nhìn xem đàn kiến, rồi tủm tỉm cư?i nói:
- Một dãy núi Hoành Sơn (núi ngang) kia, có thể yên thân được muôn đ?i.
Ngư?i kia thấy nói vậy. V? nói với đức Dụ Tổ. ?ức Dụ Tổ biết ý, mới xin vào trấn thủ trong xứ Thuận Quảng (trong ấy, có dãy núi Hoành Sơn), quả nhiên mỗi ngày một thịnh, mở ra cơ nghiệp Nguyễn tri?u.
H?c trò ngài rất nhi?u nhưng chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khanh, Nguyễn Dữ, Trương th?i Cử làm nên to mà có danh hơn cả. Phùng, Lương thâm thúy v? ngh? lý h?c, cùng làm danh thần lúc nhà Lê trung hưng.
Khi trước ông Phùng Khắc Khoan thuê nhà đến h?c ngài. Lúc h?c gi?i rồi, ngài đang đêm đến chơi ở nhà tr?, gõ cửa mà bảo rằng:
- Gà đã gáy rồi, sao không đứng dậy mà thổi cơm ăn, còn nằm mãi làm gì?
L?i ấy có ý giục ông Khắc Khoan vào Thanh Hóa giúp nhà Lê. Ông Khắc Khoan biết ý thế mới cùng Nguyễn Dữ vào giúp nhà Lê, làm đến công thần.
Ngài làm thơ phú rất nhi?u, đến nay vẫn còn một tập thơ đ? là "Bạch vân am thi tập" và một quyển sấm ký bây gi? vẫn g?i là "Sấm Trạng Trình".
(Theo Phan Kế Bính)
(1) Ứng v? sau nhà Lê khôi phục đuợc nước.
(2) Ứng v? sau nhà Trịnh giữ quy?n nhà Lê