PDA

View Full Version : Bạch Cư Dị - Tiểu sử



Dzinh
12-21-2005, 12:59 AM
Bạch Cư Dị (772-846): Tên chữ là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, ngư?i Hạ Thành (nay là Thiểm Tây). Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Ngư?i ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và ?ỗ Phủ. Mư?i lăm tuổi ông đã bắt đầu làm thơ, thuở nh? nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tư?ng nỗi vất vả của ngư?i lao động.



Năm Trinh Nguyên, ông thi đậu tiến sĩ được bổ làm quan trong tri?u, giữ chức Tả thập di. Bởi mâu thuẫn với tể tướng Lý Lâm Phủ, ông chuyển sang làm Hộ Tào Tham Quân ở Kinh Triệu rồi lại được triệu v? kinh lo răn dạy Thái Tử.



Năm Nguyên Hòa thứ 10 (?ư?ng Hiến Tông ), do hạch tội việc tể tướng Vũ Nguyên Hành bị hành thích và ngự sử Bùi ?ộ bị hành hung, đám quy?n thần cho là ông vượt qua quy?n hạn, đày làm Tư Mã Giang Châu. Ông chủ trương đổi mới thơ ca. Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ phải gắn bó với đ?i sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức.



Ông nói: "Làm văn phải vì th?i thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của nhân dân.



Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trư?ng hận ca để nói mối tình đẹp của ?ư?ng Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đ?c kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đ?u có. Ông cùng Nguyên Chẩn đ? xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, nên trong thơ, ông luôn công kích đ?i sống xa hoa dâm dật của b?n quý tộc, bóc trần sự bóc lột của b?n quan lại, thông cảm với nỗi thống khổ của dân chúng (Tần Trung Ngâm, Tân Nhạc Phủ).



Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đ?i làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì ngư?i đ?i (Tỳ bà hành). Ông thông cảm với những thân gái chịu bao tập tục hủ bại và cảnh nghèo túng mặc dù sắc đẹp thì chẳng thua ai (Nghị hôn).



Bạch Lạc Thiên chủ trương thơ ca phải giản dị để dân chúng đ?u hiểu được. Không những thế, tình cảm, tư tưởng phải giàu tính nhân dân, nói được nỗi lòng của m?i ngư?i trước thế sự.



Thơ ông giàu tính trữ tình. Khi ông bị đi đày từ Tràng An đến Tây Giang, ba bốn ngàn dặm, d?c đư?ng thấy trư?ng h?c, chùa chi?n, quán tr?.... đ?u có đ? thơ của mình, nên càng tự tin ở chủ trương của mình hơn.



Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trư?ng Hận Ca đã đủ t? tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đ? khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, l?i bình trầm lắng, ý ngoài l?i, ca tụng, mỉa mai đ?u kín đáo; bài thì hoà đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, ngư?i gẩy -ngư?i nghe, vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đ?i thì v?i vợi mênh mang.



Ngoài ra ông còn làm một số bài thơ v? thiên nhiên, nhàn tản. Lối nói u hoài, vương một nỗi buồn riêng kín đáo. Ông thích đàm đạo v? thi?n, v? Lão Trang, cũng như là biểu hiện trốn đ?i, sau khi đã quá ngán v? nhân tình thế thái.



Ông để lại hàng ngàn bài thơ.