tv_X
01-10-2006, 04:33 AM
HÀ NỘI ?Ã CÓ BAO NHIÊU TÊN GỌI?
?ã có ai biết thủ đô Hà Nội đến bây giừ đã trãi qua bao nhiêu tên g?i chưa?
Chắc chắn các bạn sẽ thấy nhi?u đi?u kỳ thú qua tên g?i "Thủ đô" mến yêu của chúng ta
Xin được liệt kê thành 2 phần:
I. TÊN GỌI CH?NH QUY
I. TÊN GỌI KHÔNG CH?NH QUY
=====================
I. TÊN GỌI CH?NH QUY
(Là những tên được chép trong sử sách do các tri?u đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra)
Long ?ỗ: Truy?n thuyết kể rằng, lúc Cao Bi?n nhà ?ư?ng, vào năm 866 mới đắp thành ?ại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long ?ỗ. Do đó trong sử sách thư?ng g?i Thăng Long là đất Long ?ỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đ?i Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn d?i kinh đô v? đất An Tôn, phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Nguỵ d?i kinh đô đ?u gặp đi?u chẳng lành. Nay đất Long ?ỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". ?i?u đó cho thấy, Long ?ỗ đã từng là tên g?i đất Hà Nội th?i cổ.
Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của b?n đô hộ phương Bắc th?i Tuỳ (581-618), ?ư?ng (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đ?i Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.
?ại La: ?ại La hay ?ại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao b?c lấy Kinh ?ô. Theo kiến trúc xưa, Kinh ?ô thư?ng có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đ? tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là ?ại La thành. Năm 866 Cao Bi?n bồi đắp thêm ?ại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được g?i là thành ?ại La. Thí dụ trong Chiếu d?i đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành ?ại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Bi?n) ở giữa khu vực tr?i đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).
Thăng Long (Rồng bay lên). ?ây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách ?ại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên g?i này như sau: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, d?i đô ra Kinh phủ thành ?ại La, tạm đỗ thuy?n dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuy?n ngự, nhân đó đổi tên thành g?i là thành Thăng Long" (Toàn thư, Tập I, H, tr 241).
?ông ?ô: Sách ?ại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm ?inh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là ?ông ?ô" (Toàn thư Sđd - tr 192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "?ông ?ô tức Thăng Long, lúc ấy g?i Thanh Hoá là Tây ?ô, Thăng Long là ?ông ?ô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).
?ông Quan: ?ây là tên g?i Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía ?ông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành ?ông ?ô, đổi tên thành ?ông Quan. Sách ?ại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản ?ịnh đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành ?ông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr224).
?ông Kinh: Sách ?ại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đ?i của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm ?inh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ ??, vào đóng ở thành ?ông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là ?ại Việt đóng đô ở ?ông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở ?ông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây ?ô, cho nên g?i thành Thăng Long là ?ông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).
Bắc Thành: ??i Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM). Vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên g?i Thăng Long là Bắc thành"(Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - ?ư?ng phố Hà Nội - H. 1979, tr 12).
Thăng Long (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế - TM), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn mi?n Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành mi?n Bắc. Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đ?i, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện b? đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).
Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá b? hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.
Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hoà, phủ Lý Nhân và phủ Thư?ng Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội. H. 1960, tr 82).
II. TÊN KHÔNG CH?NH QUY
(Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành Thăng Long - Hà Nội)
Trư?ng An (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai tri?u đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Ti?n Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và ?ư?ng (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được ngư?i bình dân sử dụng nhi?u trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.
Thí dụ:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng ngư?i Tràng An
Rõ ràng chữ Trư?ng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.
Phượng Thành (Phụng Thành):
Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh ngư?i Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng:
PHƯỢNG THÀNH XUÂN SẮC PHÚ
(Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đ?i Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn h?c Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.
Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc tri?u (thế kỷ III, IV, V và VI) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam th?i đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc tri?u đăng khoa lục có đoạn chép v? tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877); ghi lại bài thơ của vua Tự ?ức viếng ông, có hai câu đầu như sau
Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!
ịch nghĩa:
Nhớ ngư?i vừa tự thành Long Biên v? tới Phượng Thành.
Trẫm còn đang hy v?ng triệu ngươi và tri?u bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.
Thành Long Biên ở đây, vua Tự ?ức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy gi? Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự ?ức triệu ông v? kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ th?i Tây Sơn Ngô Ng?c Du, quê ở Hải Dương, từ nh? theo ông nội lên Thăng Long mở trư?ng dạy h?c và làm thuốc. Ngô Ng?c Du là ngư?i được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở ?ống ?a - Ng?c Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ng?c Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).
Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhi?u trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu v?ng của Ba Giai?...
Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhi?u từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay ngh? đất l? Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ), Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên m?i nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con ngư?i Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).
Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ăn Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.
?ã có ai biết thủ đô Hà Nội đến bây giừ đã trãi qua bao nhiêu tên g?i chưa?
Chắc chắn các bạn sẽ thấy nhi?u đi?u kỳ thú qua tên g?i "Thủ đô" mến yêu của chúng ta
Xin được liệt kê thành 2 phần:
I. TÊN GỌI CH?NH QUY
I. TÊN GỌI KHÔNG CH?NH QUY
=====================
I. TÊN GỌI CH?NH QUY
(Là những tên được chép trong sử sách do các tri?u đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra)
Long ?ỗ: Truy?n thuyết kể rằng, lúc Cao Bi?n nhà ?ư?ng, vào năm 866 mới đắp thành ?ại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long ?ỗ. Do đó trong sử sách thư?ng g?i Thăng Long là đất Long ?ỗ. Thí dụ vào năm Quang Thái thứ 10 (1397) đ?i Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn d?i kinh đô v? đất An Tôn, phủ Thanh Hoá. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: "Ngày xưa, nhà Chu, nhà Nguỵ d?i kinh đô đ?u gặp đi?u chẳng lành. Nay đất Long ?ỗ có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (tức sông Hồng ngày nay), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi". ?i?u đó cho thấy, Long ?ỗ đã từng là tên g?i đất Hà Nội th?i cổ.
Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của b?n đô hộ phương Bắc th?i Tuỳ (581-618), ?ư?ng (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đ?i Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.
?ại La: ?ại La hay ?ại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao b?c lấy Kinh ?ô. Theo kiến trúc xưa, Kinh ?ô thư?ng có "Tam trùng thành quách": Trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đ? tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là ?ại La thành. Năm 866 Cao Bi?n bồi đắp thêm ?ại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được g?i là thành ?ại La. Thí dụ trong Chiếu d?i đô của vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: "... Huống chi thành ?ại La, đô cũ của Cao Vương (tức Cao Bi?n) ở giữa khu vực tr?i đất..." (Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr 241).
Thăng Long (Rồng bay lên). ?ây là cái tên có tính văn chương nhất, gợi cảm nhất trong số các tên của Hà Nội. Sách ?ại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên g?i này như sau: "Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, d?i đô ra Kinh phủ thành ?ại La, tạm đỗ thuy?n dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuy?n ngự, nhân đó đổi tên thành g?i là thành Thăng Long" (Toàn thư, Tập I, H, tr 241).
?ông ?ô: Sách ?ại Việt sử ký toàn thư cho biết: "Mùa hạ tháng 4 năm ?inh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương - TM) coi phủ đô hộ là ?ông ?ô" (Toàn thư Sđd - tr 192). Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: "?ông ?ô tức Thăng Long, lúc ấy g?i Thanh Hoá là Tây ?ô, Thăng Long là ?ông ?ô" (Cương mục - Tập 2, H 1998, tr 700).
?ông Quan: ?ây là tên g?i Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là "cửa quan phía ?ông" của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành ?ông ?ô, đổi tên thành ?ông Quan. Sách ?ại Việt sử ký toàn thư chép: "Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản ?ịnh đế bảo các quân "Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh thành ?ông Quan thì chắc phá được chúng" (Toàn thư Sđd - Tập 2, tr224).
?ông Kinh: Sách ?ại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đ?i của cái tên này như sau: "Mùa hạ, tháng 4 năm ?inh Mùi (1427), Vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ ??, vào đóng ở thành ?ông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là ?ại Việt đóng đô ở ?ông Kinh. Ngày 15 vua lên ngôi ở ?ông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây ?ô, cho nên g?i thành Thăng Long là ?ông Kinh" (Toàn thư - Sđd. Tập 2, tr 293).
Bắc Thành: ??i Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM). Vì kinh đô đóng ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên g?i Thăng Long là Bắc thành"(Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - ?ư?ng phố Hà Nội - H. 1979, tr 12).
Thăng Long (Thịnh vượng lên). Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân (tức Huế - TM), không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn mi?n Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành mi?n Bắc. Kinh thành đã chuyến làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đ?i, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện b? đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ "Long" là Rồng thành chữ "Long" là Thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ "Long" là "rồng" (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81).
Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá b? hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.
Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ ứng Hoà, phủ Lý Nhân và phủ Thư?ng Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". (Trần Huy Liệu (chủ biên). Lịch sử thủ đô Hà Nội. H. 1960, tr 82).
II. TÊN KHÔNG CH?NH QUY
(Là những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ thành Thăng Long - Hà Nội)
Trư?ng An (Tràng An): Vốn là tên Kinh đô của hai tri?u đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Ti?n Hán (206 tr CN - 8 sau CN) và ?ư?ng (618 - 907). Do đó, được các nhà nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ kinh đô. Từ đó cũng được ngư?i bình dân sử dụng nhi?u trong ca dao, tục ngữ chỉ kinh đô Thăng Long.
Thí dụ:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng ngư?i Tràng An
Rõ ràng chữ Trư?ng An ở đây là để chỉ kinh đô Thăng Long.
Phượng Thành (Phụng Thành):
Vào đầu thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh ngư?i Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng:
PHƯỢNG THÀNH XUÂN SẮC PHÚ
(Tả cảnh sắc mùa xuân ở thành Phượng).
Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa xuân của Thăng Long đ?i Lê. Phụng thành hay Phượng thành được dùng trong văn h?c Việt Nam để chỉ thành Thăng Long.
Long Biên: Vốn là nơi quan lại nhà Hán, Nguỵ, Tấn, Nam Bắc tri?u (thế kỷ III, IV, V và VI) đóng trị sở của Giao Châu (tên nước Việt Nam th?i đó). Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc tri?u đăng khoa lục có đoạn chép v? tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San (1838 - 1877); ghi lại bài thơ của vua Tự ?ức viếng ông, có hai câu đầu như sau
Long Biên tài hướng Phượng thành hồi
Triệu đối do hi, vĩnh biệt thôi!
ịch nghĩa:
Nhớ ngư?i vừa tự thành Long Biên v? tới Phượng Thành.
Trẫm còn đang hy v?ng triệu ngươi và tri?u bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.
Thành Long Biên ở đây, vua Tự ?ức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy gi? Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877 vua Tự ?ức triệu ông v? kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.
Long Thành: Là tên viết tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ th?i Tây Sơn Ngô Ng?c Du, quê ở Hải Dương, từ nh? theo ông nội lên Thăng Long mở trư?ng dạy h?c và làm thuốc. Ngô Ng?c Du là ngư?i được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở ?ống ?a - Ng?c Hồi của vua Quang Trung. Sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu (1789), Ngô Ng?c Du có viết bài Long thành quang phục kỷ thực (Ghi chép việc khôi phục Long thành).
Hà Thành: Là tên viết tắt của thành phố Hà Nội được dùng nhi?u trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh (khuyết danh), Hà Thành hiểu v?ng của Ba Giai?...
Hoàng Diệu: Ngay sau Cách mạng tháng Tám - 1945, đôi khi trong các báo chí của Việt Nam sử dụng tên này để chỉ Hà Nội.
Ngoài ra, trong cách nói dân gian, còn nhi?u từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ (Khéo tay hay ngh? đất l? Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ), Thượng Kinh, tên này để nói đất kinh đô ở trên m?i nơi khác trong nước, dùng để chỉ kinh đô Thăng Long (Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con ngư?i Thượng Kinh). Kinh Kỳ, tên này nói đất có kinh đô đóng (Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến).
Và đôi khi chỉ dùng một từ kinh như "Ăn Bắc, mặc Kinh". Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh), Kinh chỉ kinh đô Thăng Long.