Vang Trang Dem
01-14-2006, 03:43 AM
1. Tết Khai Hạ
(Mồng bảy tháng giêng)
Ngư?i giàu khai hạ, tớ khai bị
Hết rượu cho nên mới ngủ khì
(Vô danh)
Tết khai hạ có nghĩa là Tết mở đầu một ngày vui để chào đón một ngày xuân mới. Theo cách bói toán của ngư?i xưa thì tuy tháng đầu năm, ngày mồng một ứng vào gà, mồng Hai: chó, mồng Ba: lợn, mồng Bốn: dê, mồng Năm: trâu, mồng Sáu: ngựa, mồng bảy: ngư?i, mồng Tám: lúa. Trong tám ngày đầu năm, hễ ngày nào khô ráo, sáng sủa thì giống nào thuộc v? ngày ấy, có năm được tốt. Cho nên, đến ngày mồng bảy thấy tr?i nắng ráo thì ngư?i ta tin rằng cả năm ngư?i được mạnh khoẻ, gặp nhi?u may mắn tốt lành Mồng bảy hạ cây nêu để "bế mạc" tết Nguyên ?án thì ngư?i ta mở ngày tết khai hạ để mong m?i một năm dài tốt lành, vui vẻ.
2. Tết Rằm tháng giêng
(Tết Thượng Nguyên)
"Lễ vật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng". ?ó là ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới. ?ó là tết rằm tháng giêng hay tết Thượng Nguyên. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa vì ngày rằm tháng giêng còn là ngày vía Phật tổ Adiđà. Thiện nam, tín nữ đi lễ rất đông.
3. Tết Hàn Thực
(Mồng ba tháng ba)
Hàn thực có nghĩa là đồ ăn nguội. Gốc tết này vốn ở Trung Quốc th?i Xuân - Thu cổ đại. Tích cũ kể: Vua Văn Công nhà Tấn khi gặp cảnh long đong hoạn nạn được ngư?i hi?n sĩ Giới Từ Thôi hết lòng phù hộ. Khi vua Văn Công đói quá, Giới cắt thịt đùi mình nấu cháo dâng vua ăn. Trải qua 19 năm tr?i nay trú T?, mai náu Sở, một ngày Văn Công lại v? làm vua Tấn. M?i ngư?i có công giúp vua đ?u được ban thưởng nhưng rủi thay vua lại quên mất Giới Từ Thôi đang cùng mẹ cày cuốc trong núi ?i?n Sn. Khi vua Tấn nhớ ra, cho ngư?i vào tìm, m?i mãi Giới không chịu r?i núi. Vua bèn cho đốt rừng, hy v?ng Giới sẽ ra, nhưng Giới đã cùng mẹ già chịu chết cháy trong đó. Vua vô cùng thương xót Giới, cho lập đ?n th? trên núi. Và cứ mỗi năm vào ngày mồng ba tháng ba, ngày giỗ Giới, có nước lại tổ chức cúng ông. Hôm đó, kiêng đốt lửa, ăn thì dùng đồ nguội đã nấu sẵn từ hôm trước.
Từ th?i Thăng Long ?ại Việt, nhân dân ta đã ăn tết này. ngư?i ta làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, cúng gia tiên là chính, chứ ít ai biết đến ông Giới Từ Thôi.
4. Tiết Thanh Minh
(Mồng chín tháng ba)
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Nguyễn Du
Thanh minh có nghĩa tr?i độ ấy mát mẻ quang đãng. Ta cũng nhân dịp ấy mà đi thăm mộ những ngư?i trong dòng h? đã mất. Tết thanh minh là lễ tảo mộ. ?i thăm mộ thấy có rậm thì phát quang đất khuyết thì bồi đắp, rồi v? nhà thắp hương cúng gia tiên.
5. Tết ?oan Ng?
(Mồng năm tháng năm)
Còn g?i là Tết ?oan Dương cho nên mới có câu thơ.
ChƯa ăn bánh tết ?oan Dương
áo bông chẳng dám khinh thư?ng cởi ra.
Theo lịch cũ thì ngày 5 tháng 5 là ngày hết xuân sang hạ. ?ây là khi th?i tiết chuyển mùa nên hay có bệnh th?i khí, nhưng cũng là ngày giỗ của Khuất Nguyên - Một thi sĩ Trung Hoa cổ đại, là một trung thần. Khuất Nguyên khi còn làm quan đã can ngăn Hoài Vương . Hoài Vương không nghe, ông phẫn chí gieo mình xuống dòng sông Mịch La tự vẫn. Dân Trung Quốc làm giỗ ông vào ngày 5 tháng 5 và cúng bằng cách ném các loại bánh bao, bánh ng?t cuốn chỉ ngũ sắc ở ngoài (có ý làm cá kh?i đớp mất) xuống sông.
Ta không mấy ai biết ông Khuất Nguyên và tích đó, nên cứ g?i tết 5 tháng 5 là tết "giết sâu b?", vì nhƯ trên đã nói, tiết này là tiết chuyển mùa nên sâu b? và bệnh tật hay hoành hành.
Xin kể ra đây mấy cách phòng bệnh của nhân dân ta: Lấy lá ngón nhuộm các đầu móng tay móng chân (trừ ngón tr?), ăn rượu nếp, trứng luộc, cháo chè kê, bánh đa và các loại quả chua chát. Có nơi ngư?i lớn uống rượu xương bồ, trẻ em bôi thuốc hồng hoàng (vào thóp đầu, ngực và rốn) g?i là để trừ trùng. Một số vùng nông thôn còn lấy lá ngải cứu kết hình rồng rắn treo ở cửa, lại uống nước các loại lá: ích mẫu, mâm xôi, cối xay, vối vào gi? ng? (11-12 gi? trƯa). ngư?i mê tín thì kết bùa bằng hình màu hoa sen, quả khế đeo vào cổ trẻ em. Không ít ngư?i lại mang áo vàng đến xin dấu ấn của Phật, mong ma quỷ bệnh ác đừng quấy rầy.
Tết ?oan Ng? ở ta vừa có nghĩa là tết giữa năm, phòng bệnh trừ tà vừa là tết tưởng nhớ tổ tiên.
6. Tết Trung Nguyên
(Rằm tháng bảy)
Tiết tháng bảy ma dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh buốt xương khô
Nguyễn Du
Tết rằm tháng bảy có tên khác là tết Trung Nguyên , ngư?i xưa g?i là ngày "xá tội vong nhân". Do đó vào ngày ấy, tại các chùa th? phật thư?ng làm chay chân tế và cầu kinh Vu Lan. Còn các nhà thì bày cỗ cúng gia tiên, đốt vàng mã và các đồ dùng bằng vàng mã để ngư?i ở âm ty dùng.
7. Tết Trung Thu
(Rằm tháng tám)
Tết của trẻ con nhưng ngư?i lớn cũng gặp nhau để trà, tửu, ngâm thơ, ngắm trăng g?i là "thưởng nguyệt" .Cổ thưởng nguyệt (trông trăng) có chiếc bánh nướng hình trăng tròn, bưởi, hồng và nhi?u thứ hoa quả khác (có khi còn được tỉa thành hoa và các hình con giống rất đẹp). ?áng chú ý là các đồ chơi của các em như tiến sĩ giấy, voi, đèn kéo quân, ngựa hồng, các loại mặt nạ, đèn ông sao .... và tối đến trước khi phá cỗ là trò chơi múa rồng, múa sƯ tử, xem đèn kéo quân.
8. Tết Trùng Cửu
(Mồng chín tháng chín)
Tết này có nguồn gốc ở Trung Quốc, ra đ?i vào th?i kỳ thịnh hành của đạo Lão. Chuyện xưa kể rằng: có ngư?i tên là Hoàn cảnh muốn h?c được phép tiên. H?c mãi đến ngày cuối cùng thì thầy bảo hãy may mỗi ngư?i một cái túi, hái hoa cúc b? vào rồi lên núi ẩn náu. Quả nhiên ngày hôm ấy, mồng chín tháng chín mưa to, ngập hết cả mặt đất. ngư?i chết đuối rất nhi?u, còn gia đình Hoàn cảnh thì vẹn nguyên.
Th?i kỳ Lý - Trần, nho sĩ Việt Nam theo tích đó cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc g?i là thưởng tết Trùng Dương. Bây gi? ít có nơi tổ chức tết trùng cửu.
9. Tết Trùng Thập
(Mồng mư?i tháng m?i)
Tết này các ông thày thuốc thư?ng làm rất lớn. Theo sách cổ Dược lễ thì vào mồng mư?i tháng mư?i, các thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ th?i (xuân-hạ-thu-đông) và dùng thật tốt. ở nông thôn g?i là tết cơm mới, có bánh dày, chè kho, gà luộc dùng cúng tổ tiên mừng được mùa lúa.
10. Tết ông Táo
(Tết hai mươi ba tháng chạp)
Tng truy?n là ngày ông Táo (Táo quân, vua bếp) lên chầu tr?i để tâu việc làm ăn cả xứ của mỗi gia đình với Ng?c Hoàng. Chuyện cũ kể rằng: Xưa có hai vợ chồng vì nghèo quá phải b? nhau. Sau ngư?i vợ lấy được chồng giàu, một hôm đang đốt hàng mã thì thấy một kẻ đến ăn xin. ngư?i vợ nhận ra ngư?i ăn xin ấy chính là chồng xưa của mình, thương cảm bèn đem cho rất nhi?u gạo thóc, ti?n bạc. ngư?i chồng mới nghi ng? vợ, vợ ức quá đâm đầu vào bếp chết. Thương vợ cũ ngư?i ăn xin cũng đâm đầu vào lửa chết theo. Ân hận và đau khổ, ngư?i chồng mới cũng nhảy vào bếp lửa đó chết nốt. Thượng đế nghe chuyện thương cảm ba con ngư?i có nghĩa kia, bèn phong h? làm vua bếp.
Ca dao cổ có câu:
Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà.
Theo tích ấy, vào ngày 23 tháng chạp, ngư?i ta mua hai mũ đàn ông một mũ đàn bà bằng hàng mã cùng một con cá chép để vua bếp lên chầu tr?i. Cá chép thư?ng là cá tươi, rất to, khi cúng, cúng cả con ... Và bây gi? mỗi khi vẽ ông Táo, ngư?i ta thư?ng vẽ ông đội mũ cỡi cá bay trong mây, nhưng rất tiếc lại không có .... quần.
Bởi vậy mới có bài thơ vui:
Hăm ba ông táo dạo chơi xuân
?ội mũ mang hia chẳng mặc quần
Thượng đế h?i rằng sao chướng vậy
Tâu rằng: Hạ giới nó duy tân.
11. Tết Nguyên ?án còn g?i là Tết Cả vì to hơn hết.
Các lễ tết trên có nơi tổ chức có nơi không, với nhi?u hình thức nội dung khác nhau. Còn lễ tết Nguyên đán thì khắp nơi trong cả nước , từ đầu núi đến cuối sông, từ thành thị đến nông thôn, từ biên cương đến hải đảo đ?u tổ chức gần giống nhau trong mấy ngày. Chỉ khác nhau ở mức sang hèn của từng gia đình hay các loại hoa quả, bánh trái, cơm nước của từng vùng, mi?n.
Tại Châu á, vùng bắc ấn ?ộ ăn tết vào tháng tư, Nam ấn ?ộ từ tháng ba. ở Lào, năm mới bắt đầu trung tuần tháng tư dương lịch. ở CămPuChia, năm mới vào tháng tư, có nơi xê dịch qua tháng ba hay tháng năm. ?ặc biệt giao thừa từ năm này qua năm khác, lại vào giữa trưa. Các nước này thư?ng ăn tết theo Phật lịch vào tháng sinh hay ngày xuất gia của Phật tổ Thích ca. Chỉ có Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Tri?u Tiên (những dân tộc ăn cơm bằng đũa) đón tết Nguyên ?án đúng vào ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Riêng nước ta, thì tết Nguyên đán rất phù hợp với đ?i sống của ngư?i nông dân. Vì đó là những ngày mùa màng đã kết thúc. M?i ngư?i được rãnh rỗi, nghỉ ngơi, vui chơi và thăm viếng lẫn nhau, cũng là việc rất cần sau một năm dài lao động cần cù vất vả.
"Tháng giêng ăn tết ở nhà"
Tết nguyên đán trước hết là tết của gia đình. Theo phong tục cổ truy?n thì ba ngày tết Việt Nam có ba cuộc gặp gỡ hết sức thiêng liêng và quan tr?ng ngay trong một nhà. Trước hết là sự gặp gỡ của các vị thần linh. Thần linh ở đây không cao xa, không huy?n bí như ở các miếu, các am. Mà toàn các vị thần trong nhà g?i là gia thần. Gia thần gồm có ba vị:
Thứ nhất là tiên sư hay nghệ sư tức vị tổ đầu tiên đã dạy ngh? mình đang làm. Ngh? nào có tổ ấy, sĩ, nông ,công, thương đ?u có tổ cả. Kể cả ngành hát tuồng, hát chèo cũng có tổ sư ...
Thứ hai là thổ công, vị thần giữ đất, trông coi nơi nhà mình đang ở.
Thứ ba là táo quân hay vua bếp đã chăm sóc, giúp đỡ việc nấu ăn cho m?i ngư?i trong gia đình. Táo quân lên chầu tr?i vào ngày hai ba tháng chạp. Nhưng tối ba mươi cũng v? vui vầy với các gia thần.
Xem ra mỗi ngư?i đ?u cần có ngh? nghiệp, cần ăn, mặc, và ở thì ba vị gia thần trên đã đảm nhiệm cho tất cả.
Cuộc gặp gỡ thứ hai là của tổ tiên, ông, bà ... đã khuất (gia tiên)
Tết đến hương hồn h? cũng v? sum h?p với con cháu trong gia đình (theo sự tưởng tượng phong phú và tình cảm của ngư?i đ?i).
Cuộc gặp gỡ thứ ba là của những ngư?i trong nhà. Tức là của một cuộc h?p mặt gia đình. Theo tập quán, dầu ai bất cứ ở đâu, làm bất cứ ngh? gì, hàng năm mỗi khi tết đến cũng mong muốn tha thiết được trở v? nhà sum h?p gia đình trong ba ngày tết. Mấy ngày tết tiết tr?i thư?ng lạnh, đêm lại rất tối nên chẳng ai muốn ra ngoài mà thích nhất là quây quần dưới bóng hương hoa của gia thần tiên chuyện vãn với ngư?i ruột thịt trong gia đình. Qua ngày Tết Việt Nam là ngày nhớ nhau, ngày hội đoàn tụ, đoàn viên ấm cúng.
(Mồng bảy tháng giêng)
Ngư?i giàu khai hạ, tớ khai bị
Hết rượu cho nên mới ngủ khì
(Vô danh)
Tết khai hạ có nghĩa là Tết mở đầu một ngày vui để chào đón một ngày xuân mới. Theo cách bói toán của ngư?i xưa thì tuy tháng đầu năm, ngày mồng một ứng vào gà, mồng Hai: chó, mồng Ba: lợn, mồng Bốn: dê, mồng Năm: trâu, mồng Sáu: ngựa, mồng bảy: ngư?i, mồng Tám: lúa. Trong tám ngày đầu năm, hễ ngày nào khô ráo, sáng sủa thì giống nào thuộc v? ngày ấy, có năm được tốt. Cho nên, đến ngày mồng bảy thấy tr?i nắng ráo thì ngư?i ta tin rằng cả năm ngư?i được mạnh khoẻ, gặp nhi?u may mắn tốt lành Mồng bảy hạ cây nêu để "bế mạc" tết Nguyên ?án thì ngư?i ta mở ngày tết khai hạ để mong m?i một năm dài tốt lành, vui vẻ.
2. Tết Rằm tháng giêng
(Tết Thượng Nguyên)
"Lễ vật quanh năm không bằng ngày rằm tháng giêng". ?ó là ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới. ?ó là tết rằm tháng giêng hay tết Thượng Nguyên. Tết này phần lớn tổ chức tại chùa vì ngày rằm tháng giêng còn là ngày vía Phật tổ Adiđà. Thiện nam, tín nữ đi lễ rất đông.
3. Tết Hàn Thực
(Mồng ba tháng ba)
Hàn thực có nghĩa là đồ ăn nguội. Gốc tết này vốn ở Trung Quốc th?i Xuân - Thu cổ đại. Tích cũ kể: Vua Văn Công nhà Tấn khi gặp cảnh long đong hoạn nạn được ngư?i hi?n sĩ Giới Từ Thôi hết lòng phù hộ. Khi vua Văn Công đói quá, Giới cắt thịt đùi mình nấu cháo dâng vua ăn. Trải qua 19 năm tr?i nay trú T?, mai náu Sở, một ngày Văn Công lại v? làm vua Tấn. M?i ngư?i có công giúp vua đ?u được ban thưởng nhưng rủi thay vua lại quên mất Giới Từ Thôi đang cùng mẹ cày cuốc trong núi ?i?n Sn. Khi vua Tấn nhớ ra, cho ngư?i vào tìm, m?i mãi Giới không chịu r?i núi. Vua bèn cho đốt rừng, hy v?ng Giới sẽ ra, nhưng Giới đã cùng mẹ già chịu chết cháy trong đó. Vua vô cùng thương xót Giới, cho lập đ?n th? trên núi. Và cứ mỗi năm vào ngày mồng ba tháng ba, ngày giỗ Giới, có nước lại tổ chức cúng ông. Hôm đó, kiêng đốt lửa, ăn thì dùng đồ nguội đã nấu sẵn từ hôm trước.
Từ th?i Thăng Long ?ại Việt, nhân dân ta đã ăn tết này. ngư?i ta làm bánh trôi, bánh chay, thay cho đồ nguội, cúng gia tiên là chính, chứ ít ai biết đến ông Giới Từ Thôi.
4. Tiết Thanh Minh
(Mồng chín tháng ba)
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Nguyễn Du
Thanh minh có nghĩa tr?i độ ấy mát mẻ quang đãng. Ta cũng nhân dịp ấy mà đi thăm mộ những ngư?i trong dòng h? đã mất. Tết thanh minh là lễ tảo mộ. ?i thăm mộ thấy có rậm thì phát quang đất khuyết thì bồi đắp, rồi v? nhà thắp hương cúng gia tiên.
5. Tết ?oan Ng?
(Mồng năm tháng năm)
Còn g?i là Tết ?oan Dương cho nên mới có câu thơ.
ChƯa ăn bánh tết ?oan Dương
áo bông chẳng dám khinh thư?ng cởi ra.
Theo lịch cũ thì ngày 5 tháng 5 là ngày hết xuân sang hạ. ?ây là khi th?i tiết chuyển mùa nên hay có bệnh th?i khí, nhưng cũng là ngày giỗ của Khuất Nguyên - Một thi sĩ Trung Hoa cổ đại, là một trung thần. Khuất Nguyên khi còn làm quan đã can ngăn Hoài Vương . Hoài Vương không nghe, ông phẫn chí gieo mình xuống dòng sông Mịch La tự vẫn. Dân Trung Quốc làm giỗ ông vào ngày 5 tháng 5 và cúng bằng cách ném các loại bánh bao, bánh ng?t cuốn chỉ ngũ sắc ở ngoài (có ý làm cá kh?i đớp mất) xuống sông.
Ta không mấy ai biết ông Khuất Nguyên và tích đó, nên cứ g?i tết 5 tháng 5 là tết "giết sâu b?", vì nhƯ trên đã nói, tiết này là tiết chuyển mùa nên sâu b? và bệnh tật hay hoành hành.
Xin kể ra đây mấy cách phòng bệnh của nhân dân ta: Lấy lá ngón nhuộm các đầu móng tay móng chân (trừ ngón tr?), ăn rượu nếp, trứng luộc, cháo chè kê, bánh đa và các loại quả chua chát. Có nơi ngư?i lớn uống rượu xương bồ, trẻ em bôi thuốc hồng hoàng (vào thóp đầu, ngực và rốn) g?i là để trừ trùng. Một số vùng nông thôn còn lấy lá ngải cứu kết hình rồng rắn treo ở cửa, lại uống nước các loại lá: ích mẫu, mâm xôi, cối xay, vối vào gi? ng? (11-12 gi? trƯa). ngư?i mê tín thì kết bùa bằng hình màu hoa sen, quả khế đeo vào cổ trẻ em. Không ít ngư?i lại mang áo vàng đến xin dấu ấn của Phật, mong ma quỷ bệnh ác đừng quấy rầy.
Tết ?oan Ng? ở ta vừa có nghĩa là tết giữa năm, phòng bệnh trừ tà vừa là tết tưởng nhớ tổ tiên.
6. Tết Trung Nguyên
(Rằm tháng bảy)
Tiết tháng bảy ma dầm sùi sụt
Toát hơi mây lạnh buốt xương khô
Nguyễn Du
Tết rằm tháng bảy có tên khác là tết Trung Nguyên , ngư?i xưa g?i là ngày "xá tội vong nhân". Do đó vào ngày ấy, tại các chùa th? phật thư?ng làm chay chân tế và cầu kinh Vu Lan. Còn các nhà thì bày cỗ cúng gia tiên, đốt vàng mã và các đồ dùng bằng vàng mã để ngư?i ở âm ty dùng.
7. Tết Trung Thu
(Rằm tháng tám)
Tết của trẻ con nhưng ngư?i lớn cũng gặp nhau để trà, tửu, ngâm thơ, ngắm trăng g?i là "thưởng nguyệt" .Cổ thưởng nguyệt (trông trăng) có chiếc bánh nướng hình trăng tròn, bưởi, hồng và nhi?u thứ hoa quả khác (có khi còn được tỉa thành hoa và các hình con giống rất đẹp). ?áng chú ý là các đồ chơi của các em như tiến sĩ giấy, voi, đèn kéo quân, ngựa hồng, các loại mặt nạ, đèn ông sao .... và tối đến trước khi phá cỗ là trò chơi múa rồng, múa sƯ tử, xem đèn kéo quân.
8. Tết Trùng Cửu
(Mồng chín tháng chín)
Tết này có nguồn gốc ở Trung Quốc, ra đ?i vào th?i kỳ thịnh hành của đạo Lão. Chuyện xưa kể rằng: có ngư?i tên là Hoàn cảnh muốn h?c được phép tiên. H?c mãi đến ngày cuối cùng thì thầy bảo hãy may mỗi ngư?i một cái túi, hái hoa cúc b? vào rồi lên núi ẩn náu. Quả nhiên ngày hôm ấy, mồng chín tháng chín mưa to, ngập hết cả mặt đất. ngư?i chết đuối rất nhi?u, còn gia đình Hoàn cảnh thì vẹn nguyên.
Th?i kỳ Lý - Trần, nho sĩ Việt Nam theo tích đó cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc g?i là thưởng tết Trùng Dương. Bây gi? ít có nơi tổ chức tết trùng cửu.
9. Tết Trùng Thập
(Mồng mư?i tháng m?i)
Tết này các ông thày thuốc thư?ng làm rất lớn. Theo sách cổ Dược lễ thì vào mồng mư?i tháng mư?i, các thầy thuốc mới tụ được khí âm dương, mới kết được sắc tứ th?i (xuân-hạ-thu-đông) và dùng thật tốt. ở nông thôn g?i là tết cơm mới, có bánh dày, chè kho, gà luộc dùng cúng tổ tiên mừng được mùa lúa.
10. Tết ông Táo
(Tết hai mươi ba tháng chạp)
Tng truy?n là ngày ông Táo (Táo quân, vua bếp) lên chầu tr?i để tâu việc làm ăn cả xứ của mỗi gia đình với Ng?c Hoàng. Chuyện cũ kể rằng: Xưa có hai vợ chồng vì nghèo quá phải b? nhau. Sau ngư?i vợ lấy được chồng giàu, một hôm đang đốt hàng mã thì thấy một kẻ đến ăn xin. ngư?i vợ nhận ra ngư?i ăn xin ấy chính là chồng xưa của mình, thương cảm bèn đem cho rất nhi?u gạo thóc, ti?n bạc. ngư?i chồng mới nghi ng? vợ, vợ ức quá đâm đầu vào bếp chết. Thương vợ cũ ngư?i ăn xin cũng đâm đầu vào lửa chết theo. Ân hận và đau khổ, ngư?i chồng mới cũng nhảy vào bếp lửa đó chết nốt. Thượng đế nghe chuyện thương cảm ba con ngư?i có nghĩa kia, bèn phong h? làm vua bếp.
Ca dao cổ có câu:
Thế gian một vợ một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà.
Theo tích ấy, vào ngày 23 tháng chạp, ngư?i ta mua hai mũ đàn ông một mũ đàn bà bằng hàng mã cùng một con cá chép để vua bếp lên chầu tr?i. Cá chép thư?ng là cá tươi, rất to, khi cúng, cúng cả con ... Và bây gi? mỗi khi vẽ ông Táo, ngư?i ta thư?ng vẽ ông đội mũ cỡi cá bay trong mây, nhưng rất tiếc lại không có .... quần.
Bởi vậy mới có bài thơ vui:
Hăm ba ông táo dạo chơi xuân
?ội mũ mang hia chẳng mặc quần
Thượng đế h?i rằng sao chướng vậy
Tâu rằng: Hạ giới nó duy tân.
11. Tết Nguyên ?án còn g?i là Tết Cả vì to hơn hết.
Các lễ tết trên có nơi tổ chức có nơi không, với nhi?u hình thức nội dung khác nhau. Còn lễ tết Nguyên đán thì khắp nơi trong cả nước , từ đầu núi đến cuối sông, từ thành thị đến nông thôn, từ biên cương đến hải đảo đ?u tổ chức gần giống nhau trong mấy ngày. Chỉ khác nhau ở mức sang hèn của từng gia đình hay các loại hoa quả, bánh trái, cơm nước của từng vùng, mi?n.
Tại Châu á, vùng bắc ấn ?ộ ăn tết vào tháng tư, Nam ấn ?ộ từ tháng ba. ở Lào, năm mới bắt đầu trung tuần tháng tư dương lịch. ở CămPuChia, năm mới vào tháng tư, có nơi xê dịch qua tháng ba hay tháng năm. ?ặc biệt giao thừa từ năm này qua năm khác, lại vào giữa trưa. Các nước này thư?ng ăn tết theo Phật lịch vào tháng sinh hay ngày xuất gia của Phật tổ Thích ca. Chỉ có Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Tri?u Tiên (những dân tộc ăn cơm bằng đũa) đón tết Nguyên ?án đúng vào ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Riêng nước ta, thì tết Nguyên đán rất phù hợp với đ?i sống của ngư?i nông dân. Vì đó là những ngày mùa màng đã kết thúc. M?i ngư?i được rãnh rỗi, nghỉ ngơi, vui chơi và thăm viếng lẫn nhau, cũng là việc rất cần sau một năm dài lao động cần cù vất vả.
"Tháng giêng ăn tết ở nhà"
Tết nguyên đán trước hết là tết của gia đình. Theo phong tục cổ truy?n thì ba ngày tết Việt Nam có ba cuộc gặp gỡ hết sức thiêng liêng và quan tr?ng ngay trong một nhà. Trước hết là sự gặp gỡ của các vị thần linh. Thần linh ở đây không cao xa, không huy?n bí như ở các miếu, các am. Mà toàn các vị thần trong nhà g?i là gia thần. Gia thần gồm có ba vị:
Thứ nhất là tiên sư hay nghệ sư tức vị tổ đầu tiên đã dạy ngh? mình đang làm. Ngh? nào có tổ ấy, sĩ, nông ,công, thương đ?u có tổ cả. Kể cả ngành hát tuồng, hát chèo cũng có tổ sư ...
Thứ hai là thổ công, vị thần giữ đất, trông coi nơi nhà mình đang ở.
Thứ ba là táo quân hay vua bếp đã chăm sóc, giúp đỡ việc nấu ăn cho m?i ngư?i trong gia đình. Táo quân lên chầu tr?i vào ngày hai ba tháng chạp. Nhưng tối ba mươi cũng v? vui vầy với các gia thần.
Xem ra mỗi ngư?i đ?u cần có ngh? nghiệp, cần ăn, mặc, và ở thì ba vị gia thần trên đã đảm nhiệm cho tất cả.
Cuộc gặp gỡ thứ hai là của tổ tiên, ông, bà ... đã khuất (gia tiên)
Tết đến hương hồn h? cũng v? sum h?p với con cháu trong gia đình (theo sự tưởng tượng phong phú và tình cảm của ngư?i đ?i).
Cuộc gặp gỡ thứ ba là của những ngư?i trong nhà. Tức là của một cuộc h?p mặt gia đình. Theo tập quán, dầu ai bất cứ ở đâu, làm bất cứ ngh? gì, hàng năm mỗi khi tết đến cũng mong muốn tha thiết được trở v? nhà sum h?p gia đình trong ba ngày tết. Mấy ngày tết tiết tr?i thư?ng lạnh, đêm lại rất tối nên chẳng ai muốn ra ngoài mà thích nhất là quây quần dưới bóng hương hoa của gia thần tiên chuyện vãn với ngư?i ruột thịt trong gia đình. Qua ngày Tết Việt Nam là ngày nhớ nhau, ngày hội đoàn tụ, đoàn viên ấm cúng.