View Full Version : Hồ Xuân Hương
bocau_xam
12-08-2006, 10:24 AM
CHƠI TÂY HỒ NHỚ BẠN
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao giờ
Nhật Tân để lở nhưng còn lối
Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thơ
Nọ vực Trâu Vàng trăng lạt bóng
Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy
So dạ hoài nhân chửa dễ vừa.
MẮNG HỌC TRÒ DỐT
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
SƯ BỊ ONG CHÂM
Nào nón tu lờ nào mũ thâm
Đi đâu không đội để ong châm?
Đầu sư há phải...gì bà cốt,
Bá ngọ con ong bé cái nhầm.
phu ong
12-12-2006, 04:35 PM
Bánh trôi nước
Hồ Xuân Hương
Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.(1)
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son(2)
---------------------
(1) Bánh trôi khi luộc trải qua chìm nổi mấy lần trong nước mới chín.
(2) Tấm lòng son: Bánh trôi khi luộc chín thì nhân đường bánh trôi ở giữa đỏ thắm như son: ví với người con gái dù có long đong ba chìm bảy nổi, vẫn giữ tấm lòng thành thực trong tình yêu.
phu ong
12-12-2006, 04:36 PM
Đề tranh Tố nữ
Hồ Xuân Hương
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡ cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Đôi lứa như in tờ giấy trắng.
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Xiếu mai chi dám tình trăng gió, (1)
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh, (2)
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách người thợ vẽ khéo vô tình.
----------------------
(1)-(2). Xiếu mai; (Quả mai rụng). Trong Kinh thi nói "quả mai rụng mười phần còn bảy... mười phần còn ba", ví người con gái đã muộn thì, cần có một người chồng. Câu này dùng chữ "Xiếu mai" để nói người con gái sợ lỡ thì nên chuyên tâm vào việc kén chồng, không dám nghĩ đến chuyện trăng hoa nữa. Nhưng người đẹp trong tranh thì tính sao được việc chồng con? Nên cứ đành mãi mãi giữ thân phận mỏng manh, son sẻ. (Chú thích phần thơ nôm do Nguyễn Bỉnh Khôi).
phu ong
12-12-2006, 04:37 PM
Dỗ người đàn bà khóc chồng
Hồ Xuân Hương
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung(1)
---------------------
(1) Tục ngữ có câu: "Xấu máu đừng thèm ăn của độc" Khem: ăn kiêng khi mới ở cữ nên thường nói kiêng khem hoặc kiêng cữ. Miếng đỉnh chung: của ngon vật lạ thường có ở những nơi quyền quí cao sang. Ý cả câu: Nếu đã xấu máu mà gặp phải của ngon vật lạ có thèm quá không nhịn được thì dùng ít thôi! Dỗ dành khuyên nhủ và nói bỡn.
phu ong
12-12-2006, 04:38 PM
Khóc ông Phủ Vĩnh Tường
Hồ Xuân Hương
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!(1)
Cái nợ ba sinh đã trả rồi(2)
Chôn chặt văn chương ba tấc đất(3)
Tung hê hồ thỉ bốn phương trời.(4)
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất?(5)
Miệng túi tàn khôn khép lại rồi.(6)
Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc.(7)
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ôi!
--------------------------
(1) Vĩnh Tường: Phủ Vĩnh Tường, thuộc tỉnh Vĩnh Yên xưa, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Nhiều giai thoại đều thống nhất về việc Hồ Xuân Hương có lấy lẽ ông phủ Vĩnh Tường.
(2) Nợ ba sinh: Nhân duyên vợ chồng trải qua ba kiếp; sống là một sự trả nợ lẫn nhau (theo Phật giáo). Nợ ba sinh đã trả tức là chỉ người chồng đã chết.
(3)-(4) Ông phủ Vĩnh Tường là một người có học vấn (văn chương) nay mất đi, Hồ Xuân Hương mất một người chồng và cũng mất luôn cả một người bạn văn chương. Hồ thỉ: cung và tên, tượng trưng cho chí nam nhi hoặc chí làm trai vốn ở bốn phương trời, không chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình vợ con.
(5)-(6) Ông trời là người cầm cân nảy mực đã ở chẳng công bằng, cán cân của ông đã đánh rơi. Càn khôn tức trời đất ví như một cái túi lớn đã khép hẳn lại. Ông Phủ đã đi sang một thế giới khác.
(7) Hồ Xuân Hương sống với chồng trong một thời gian quá ngắn: 27 tháng.
phu ong
12-12-2006, 04:39 PM
Khóc Tổng Cóc
Hồ Xuân Hương
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,(1)
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi!(2)
--------------------------
(1)-(2) "Đứt đuôi nòng nọc", thành ngữ chỉ sự cắt đứt hẳn; "Cóc bôi vôi lại về": Bôi vôi để đánh dấu vào cóc, thì cóc đi đâu rồi cũng lại trở về. Nhưng nay duyên vợ chồng đã đứt hẳn. Cóc đi đã đem theo cả dấu vôi, dẫu có nghìn vàng cũng không chuộc lại được vì mất Cóc là mất luôn cả dấu.
Theo cụ Dương Văn Thâm sưu tầm tài liệu về giai thoại thơ Hồ Xuân Hương (tài liều đã dẫn) thì Hồ Xuân Hương làm bài Khóc tổng Cóc trong thời gian đã lấy ông phủ Vĩnh Tường. Do sự rẽ duyên của người vợ cả và gia đình họ hàng nhà Cóc, nên Hồ Xuân Hương mới đưa cả họ hàng nhà Cóc vào bài thơ để giễu: nhái bén, chẫu chàng, nòng nọc, chẫu chuộc, tất nhiên là giễu một Tổng Cóc còn sống, chứ không phải là khóc khi Tổng Cóc chết, như bấy nay có người hiểu, e rằng bất nhẫn.
phu ong
12-12-2006, 04:40 PM
Lấy chồng chung
Hồ Xuân Hương
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,(1)
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.(2)
Thân này ví biết dường này nhỉ(3)
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
----------------
(1)-(2) Vận dụng các thành ngữ "Cố đấm ăn xôi", "Làm mướn không công".
(3) Dường này: nông nổi cụ thể ra đến thế này.
phu ong
12-12-2006, 04:46 PM
Ốc nhồi
Hồ Xuân Hương
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Ðêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi.
Quân tử có thương thì bóc yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
Quả Mít
Hồ Xuân Hương
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó, nhựa ra tay.
Trách Chiêu Hổ (1)
Hồ Xuân Hương
Xướng (1)
Anh đồ tỉnh, anh đồ say,
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này chị bảo cho mà biết.
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
Chiêu Hổ hoạ lại
Này ông tỉnh! Này ông say!
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bẵng(2) không ai mó,
Sao có hùm con bỗng(3) trốc tay?
---------------------
(1) Cuộc xướng hoạ giữa Hồ Xuân hương và Chiêu Hổ thực là không tiền khoáng hậu trong lịch sử văn chương của ta. Sức khoẻ và tình yêu sự sống, văn tài và cá tính, lối nói toạc móng heo, không úp mở bóng gió nhiều, không dùng biểu tượng hai mặt, ít tử vận (vần chết không hoạ được) mà chỉ có lộng chữ (bỡn chữ). Chỉ có ba bài thơ mà đã đi thẳng vào dân chúng và từ lâu đã nảy sinh nhiều giai thoại. Cả đôi bạn đều cân xứng về tài nghệ thơ Nôm, và cũng thật tri âm, tri kỷ, không có một chút gì ngăn cách giữa đôi bạn thanh niên nam nữ.
(2) Ví bẵng tức ví bằng, đọc theo âm trắc của thơ.
(3) Bỗng tức là bồng, đọc theo âm trắc của thơ, mới đúng âm luật.
Thân Phận Người Đàn Bà
Hồ Xuân Hương
Hỡi chị em ơi có biết không ?
Một bên con nhóc một bên chồng
Bố cu lỏm ngỏm bò trên bụng,
Thằng bé hu hơ khóc dưới hông
Tất cả những là thu với vén
Vội vàng nào những bống cùng bông .
Chồng con cái nợ là như thế
Hỡi chị em ơi có biết không ?
phu ong
12-12-2006, 04:51 PM
Trách chiêu Hổ (2)
Hồ Xuân Hương
Xướng (2)
Sao nói rằng năm lại có ba?
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt,
Nhớ hái cho xin nắm lá đa(1)
Chiêu Hổ hoạ lại
Rằng gián thì năm, quí có ba(2)
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi, thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
------------------
(1) Huyền thoại nói: Trên mặt trăng có cây đa và thằng Cuội ngồi dưới gốc. Cuội còn là một nhân vật trong truyện cổ dân gian có đặc tính đã trở thành thành ngữ "Nói dối như Cuội". ở đây nhắc chuyện lên chơi cung trăng và Chiêu Hổ sẽ cho Hồ Xuân Hương nắm lá đa, có ý nói Chiêu Hổ cũng chẳng khác gì Cuội "nói Cuội".
(2) Tiền gián ăn 36 đồng kẽm. Tiền quý ăn 60. Như vậy 5 đồng gián hay 3 đồng quý đều bằng 180 đồng kẽm. Có thể cách hỏi vay của Hồ Xuân Hương với Chiêu Hổ không giao hẹn rõ ràng, cũng có thể cách trả lời chỉ là chữa khéo cho Chiêu Hổ.
Trách chiêu Hổ (3)
Hồ Xuân Hương
Xướng (3)
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe.
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè(1)
Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám
Chưa dám cho nên phải rụt rè.
Chiêu Hổ hoạ lại
Hỡi hỡi cô bay tố hão nhe(2)
Hão nhe không được, gậy ông ghè.
Ông ghè không được, ông ghè mãi,
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè.
--------------------
(1) Gùn ghè: Gạ gẫm.
(2) Tố hão: Cáo tố hão huyền. Chúng tôi ghi theo Hồ Xuân Hương, giai thoại thơ, của Sở Văn hoá Vĩnh Phú-1989.
Hai chữ này gắn với cách đá đáp của hai bài hoạ, khác với nhiều bản vẫn chép là "tới bảo".
Tự Tình
Hồ Xuân Hương
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom(1)
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc.(2)
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om(3)?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!(4)
--------------------
(1) Bom: Mỏm đất.
(2)-(3) Mõ và chuông dùng trong nhà chùa có tác dụng làm nguôi dịu lòng người. ở đây nhà thơ vận dụng khác. Mõ thảm, chuông sầu: Tiếng lòng sầu thảm trong đêm khuya vắng lặng không khua không đánh mà vẫn vang lên dữ dội những âm thanh khô khốc, ầm ĩ, cốc như mõ và om như chuông.
(4) Già tom: Như già đanh.Tục ngữ: "Trẻ dôi ra, già co lại".
Vịnh cái quạt
Hồ Xuân Hương
Mười bảy hay là mười tám đây(1)
Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.
Mỏng dày từng ấy, chành ba góc
Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay.(2)
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.(3)
Chúa dấu vua yêu một cái này.
---------------------
(1) Mười bảy, mười tám: Số nan quạt giấy, cũng nói tuổi của thiếu nữ.
(2) Cay: Cái suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại (nhài quạt) hình tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái.
(3) Cậy: Giống cây hồng, quả bé và chát, nhựa dùng để phất quạt. "Má hồng không thuốc mà say" (Cung oán ngâm khúc).
phu ong
12-20-2006, 03:50 PM
Thơ Hồ Xuân Hương Đến Với Độc Giả Mỹ
Ở cấp học phổ thông trung học hiện nay, Hồ Xuân Hương có hai bài thơ được dạy trong chương trình quốc văn: Bánh trôi nước và Mời trầu. Các cô cậu lớp chín lớp mười được học nghệ thuật lồng một bài thơ trong một bài thơ, mượn một vật thông thường vô thuởng vô phạt để nói một điều không nên, không thể, không được nói ra. Có thể một số giáo viên giảng thêm về tâm trạng và thân phận của một phụ nữ tài hoa trong một xã hội phong kiến ở giai đoạn suy tàn. Cái tài hoa của người phụ nữ đó thể hiện qua cách dùng ẩn dụ tài tình, vừa ngụ trong phong cảnh mỹ miều những điều trần trụi bản năng, vừa bằng lời lẽ bình dân thẳng thừng thể hiện những khát vọng cao cả. Có thể họ cũng nói đến sự phản kháng âm thầm mà mãnh liệt của một phụ nữ-con người đối với một xã hội đầy rẫy những trò bi hài, bất công, thối nát; và cuộc nổi loạn thơ ca của một phụ nữ-nhà văn trong cái thế giới văn chương Nho giáo chính thống đạo mạo nơi mà đàn ông ngự trị suốt cả nghìn năm. Ít nhất thì đó cũng là những gì tôi đã được học về Hồ Xuân Hương khi tôi là một cô gái mười lăm tuổi.
Từ đó Hồ Xuân Hương trở nên hiện thực và hiện đại trong tâm trí lẫn cuộc sống của tôi từng ngày khi đi chợ nghe các bà xài cách nói lái Hồ Xuân Hương để cười đùa với nhau; hay trong một tình huống tế nhị, chỉ có cách đọc lên câu thơ lắt léo Hồ Xuân Hương mới thấy đã. Cho đến một lúc, Hồ Xuân Hương đối với tôi không là một truyền thuyết hay một tác giả hai trăm năm trước, và là một bạn đồng hành thân thiết tin cậy, luôn cổ vũ tôi bằng nụ cười hóm hỉnh, vui nhộn, lấp che đi nỗi đắng cay cực nhục. Mỗi khi ngẩng đầu lên tôi đều nhìn thấy hình ảnh Hồ Xuân Hương trên con đường gập ghềnh, trong tư thế loạng choạng, chân trượt, cẳng xoạc, tay dang ra, tay giơ lên chới với, không có chỗ tựa, không nơi bấu víu vậy mà trong cái thế gãy cổ như chơi ấy, bà vẫn ung dung đáp lễ bọn đàn ông cười hô hố chung quanh rằng: Giơ tay với thử trời cao thấp, xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài. Khẩu khí ấy mà xuất phát từ miệng một người đàn ông của bất kỳ thời đại nào cũng được coi là ngang tàng, khí phách. Nhưng thốt ra từ miệng một phụ nữ, dù hai trăm năm trước hay bây giờ, vẫn có kẻ cho là "ngang ngược".
Nếu có một sứ giả của phụ nữ Việt Nam trên văn đàn thế giới, người đó là Hồ Xuân Hương.
Có một thực tế đau lòng, là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam mà người năm châu nhặt được trong những tác phẩm văn học nghệ thuật mà họ có thể thưởng lãm bằng tiếng Anh là hình ảnh một cô gái điếm: từ cô Phương trong Người Mỹ thầm lặng của nhà văn Anh Graham Greene, đến những gái bán bar và me Mỹ thấp thoáng và nhan nhản trong tác phẩm những nhà văn cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam, từ phim Việt kiều làm như Ba mùa đến nhạc kịch rặt Mỹ Miss Sài Gòn, thậm chí tác phẩm kinh điển nhất của văn học Việt Nam được giới thiệu ra nước ngoài là Truyện Kiều, thì cũng do rào cản ngôn ngữ mà cái trác tuyệt văn chương bị rớt lại, để chỉ còn đến với độc giả Tây phương cuộc đời một cô gái lầu xanh! Đôi lần, đến xứ người nói chuyện văn chuơng xứ mình, tôi đều cầu cứu Hồ Xuân Hương, nhưng lực bất tòng tâm, làm sao với một chút tiếng Anh ngập ngọng, tôi phác họa được một Hồ Xuân Hương độc đáo của Việt Nam, để minh họa niềm tự hào của tôi về người phụ nữ làm văn học Việt Nam?
Vì vậy không thể nói hết được tôi xúc động và biết ơn như thế nào khi tôi cầm quyển Thơ Hồ Xuân Hương, bản dịch tiếng Anh của John Balaban. Một người bạn, nhà thơ Jo seph Duemer đưa tôi xem khi nó còn là bản in thử và chưa chính thức xuất bản ở Mỹ. Sách gồm 48 bài thơ của Hồ Xuân Hương, mỗi bài được trình bày trang trọng dưới ba hình thức: bản tiếng Nôm, bản tiếng Việt, và bản tiếng Anh. (John Balaban tự hào rằng, đây là lần đầu tiên thơ Hồ Xuân Hương được xuất bản bằng chữ Nôm, ít ra là ở Mỹ; là thứ chữ mà bà đã dùng để sáng tác cách đây hai trăm năm và hành động đó có ý nghĩa cách mạng trong sự phát triển văn học Việt Nam, vì phần lớn đàn ông trí thức thời đó đều dùng chữ Hán). Cảm động, tôi lật từng trang, đọc lại những bài thơ mình đã thuộc lòng từ lâu và nghe những cảm giác mới lạ liên tiếp nảy ra trong lòng mình. Nhưng một nỗi sợ hãi đột nhiên vỡ ra: bản tiếng Anh này chuyển tải được bao nhiêu "chất Hồ Xuân Hương"?
John Balaban là một nhà thơ Mỹ mà sáng tác của bản thân ông đã hai lần được đề cử giải thưởng Sách quốc gia và đã đoạt hai giải thưởng uy tín về thơ, điều đó đủ bảo đảm cái ông dịch ra từ thơ Hồ Xuân Hương cũng là thơ ở một mức độ nghệ thuật rung cảm được độc giả Mỹ của ông. Nhưng những độc giả sống ở một xã hội phương Tây mà đề tài sex và đề tài nữ quyền được khai thác thường xuyên dưới muôn hình vạn trạng, song lại không có hình trạng nào như Hồ Xuân Hương, thì liệu họ có cảm nhận được Hồ Xuân Hương không, hay đọc bài thơ Ốc nhồi chỉ thấy con ốc nhồi, đọc bài Đèo Ba Dội chỉ thấy cây với đá? Họ có cảm nhận được chăng nỗi chua chát một cách nghẹn ngào trong giọng thách thức đầy mơn trớn: Quân tử có thương thì bóc yếm, và nỗi tủi hờn pha ngạo mạn trong lời van xin giận dữ: Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi. (John Balaban dịch là: Kind sir, if you want me, open my door. But please don't poke up into my tail. Và giải thích tính song nghĩa của từ "yếm" trong phần ghi chú.) Nhà thơ - dịch giả dùng nhiều chú thích dưới những bài thơ được trích đăng trong tạp chí The American Poetry Review, và trong bài viết dài hơn hai trang báo khổ lớn về Hồ Xuân Hương, ông cố gắng giải thích với độc giả Mỹ về ngôn ngữ Việt Nam, cho một thí dụ "dịch từng chữ ở bài thơ Chơi đền khán xuân bên cạnh bài thơ hoàn chỉnh mà ông đã tái tạo. Câu đầu Êm ái chiều xuân tới khán đài được dịch từng chữ là Peaceful evening spring go pavilion và được thi hóa thành A gentle spring evening arrives (nếu dịch ngược lại câu này sang tiếng Việt là Một chiều xuân tao nhã đến). Đọc đi đọc lại những bài thơ Hồ Xuân Hương bằng tiếng Anh, càng cảm động và khâm phục nỗ lực của John Balaban; và càng nhận ra chữ nghĩa Hồ Xuân Hương không ai theo kịp suốt chiều dài thời gian mà cũng không có tương đương trong bình diện không gian. Trong bài Làm lẽ John Balaban dịch chữ Chém cha là Screw và giải thích cut father là một tiếng chửi. Nhưng đến câu Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng. Cầm bằng làm mướn, mướn không công thì câu tiếng Anh You try to stick to it like a fly on rice but a rice is rotten. You slave like the mai, but without pay nếu được dịch lại tiếng Việt sẽ là Mày cố bám vô nó như một con ruồi đậu dính vô xôi, mà xôi lại hỏng. Mày làm việc quần quật như một con ở, mà không được trả công. Điều chắc chắn là John Balaban thấu hiểu ý nghĩa từng chữ từng câu thơ của Hồ Xuân Hương, nhưng rõ ràng trong tiếng Anh không có tương đương của thành ngữ "Cố đấm" và "Cầm bằng" đặc thù của văn hóa làng xã và tâm thái nông dân ở một đất nước có nền văn minh hàng nghìn năm trải qua điều kiện thiên nhiên, chính trị, xã hội luôn trắc trở.
Thơ không phải là cái người ta có thể bắc đồng bỏ lên cân rồi kết luận khiên cưỡng về tính chính xác. Cái hiệu quả luôn luôn ở phản ứng của người đọc. Tôi canh mãi đến khi cuốn sách chính thức phát hành ở Mỹ hồi tháng 10-2000, (tựa Spring Essence: The Poetry of Hồ Xuân Hương, Nhà xuất bản Copper Canyon), viết thư bảo bạn bè bên ấy tìm đọc và nói cho tôi biết họ thấy thế nào. Tôi lại đêm đêm lên mạng, canh xem độc giả nói gì.
Một độc giả ở Phoenix, bang Arizona, ký tên G. Merritt viết: Qua thơ ca Hồ Xuân Hương được biết đến tài chơi chữ, óc khôi hài sắc sảo, lòng khao khát tình yêu, nỗi căm giận sự thối nát. (...) Những bài thơ này rất gợi tình và khiêu dâm, đầy nghĩa đôi... Balaban đã thành công trong công việc phiên dịch hình ảnh Hồ Xuân Hương sang những vần thơ tiếng Anh cộng hưởng với hương sắc mùa xuân. (...) Tuyển tập thơ giàu tính gợi tình này khiến tôi hy vọng được đọc thêm nữa. Nỗi thất vọng duy nhất của tôi là được biết quyển sách mỏng trăm trang này chứa "hầu hết những bài thơ hiện còn lưu hành của Hồ Xuân Hương". Quyển sách mỏng này tỏa sáng rực rỡ.
Một bài điểm sách của Jon Spayde bắt đầu bằng câu: Đôi khi sách thực sự thay đổi thế giới. Bài báo dành phần lớn nội dung để nói đến cuộc đời và thơ ca của Hồ Xuân Hương, nỗ lực của nhà thơ - dịch giả Balaban chuyển thể di sản văn hóa này sang tiếng Anh một cách tài tình, cùng đóng góp của nhà ngôn ngữ học Ngô Thanh Nhàn ở trường đại học New York, đã đặt ra kiểu chữ Nôm dùng cho máy tính, để việc in ấn dễ dàng, có thể giúp công việc bảo tồn và truyền bá chữ Nôm có nhiều triển vọng hơn. Cuối cùng là thiện chí và công lao của ông chủ biên Nhà xuất bản Copper Canyon, đã ủng hộ nhiệt tình và tạo điều kiện cho thơ Hồ Xuân Hương ra mắt ở Mỹ.
Một số người điểm sách ngoài việc ghi nhận giá trị chấn động (shock value) của quyển Thơ Hồ Xuân Hương, lại tỏ ra dị ứng cái bìa. Hình ảnh lõa thể của người phụ nữ hai tay nâng một cái mẹt che mặt, theo ông Wiegers chủ biên Nhà xuất bản Copper Canyon, là một ẩn dụ hay cho một nhà thơ nữ mà "thân thế bị ngờ vực suốt lịch sử và bị giai cấp cầm quyền coi thường, nhưng bà và thơ của bà vẫn tồn tại." Vả lại cái bìa rất đẹp. John Balaban thì nói : Tôi lo lắng đến phản ứng của người Việt Nam đối với cái bìa sách, chứ "Không ngờ người Mỹ lại bị dội vì cái đó". Ông nói thêm: "Điều đó thật quái đản, bởi vì suốt cả đời, Hồ Xuân Hương đã đứng lên và bất phục những chuẩn mực đạo đức khắt khe, vậy mà 200 năm sau, bà lại đụng đầu nó tại ngay nước Mỹ này".
Tôi không biết nhân danh ai trong tám chục triệu người đang có chung nền văn hóa Việt nói thơ Hồ Xuân Hương như uống nước ăn cơm, yêu Hồ Xuân Hương như yêu mẹ, chị, vợ, em, bạn, như yêu mình, để nói cám ơn John Balaban. Tôi xin cảm ơn ông với tư cách một phụ nữ Việt Nam.
LÝ LAN
phu ong
12-20-2006, 04:35 PM
Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19.
Tiểu sử
Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi. Thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
* Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ðây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.
* Bà sống vào thời kỳ cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn, tức cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chứng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
* Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
* Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
* Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
* Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ không phải hai: Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh – tường, và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến)
Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
Các tác phẩm
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng.
Năm 1962, ông Trần Văn Giáp đã công bố 5 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương trên báo Văn nghệ viết về vịnh Hạ Long. Đến năm 1983, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và đặt tên cho 5 bài thơ này (bao gồm: Độ Hoa Phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương) và công bố trong bài Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long, đăng trên tập san Khoa học xã hội, tại Paris vào năm 1984.
Năm 1964, nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ nữa tên là Lưu hương ký 琉香記, theo những nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trong đó là của Hồ Xuân Hương
phu ong
12-20-2006, 05:44 PM
Đồng tiền hoẻn
Cũng lò cũng bễ cũng cùng than,
Mở mặt vuông tròn với thế gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng ắt cũng đáng nên quan.
Đề đền Sầm nghi Đống
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đến thái thú đứng cheo leo.(*)
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
Đền Sầm Nghi Đống trước ở ngõ Sầm Công nay là phố Đào Duy Từ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sầm Nghi Đống là tướng theo Tôn Sĩ Nghị sang ta chiếm đóng thủ đô Đông Kinh (Thăng Long). Nghị bị vua Quang Trung đánh đuổi về Tàu năm 1789. Sầm Nghi Đống chạy không kịp, thắt cổ tự tử ở nơi mà sau khi quan hệ bang giao đã trở lại bình thường vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ.
(*) Đống là Tri huyện ,khi sang Đông Đô được Tôn sĩ Nghị cho làm chức Thái Thú
Động Hương Tích
Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm (1)
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hòm.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,(2)
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.(3)
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,(4)
Rõ khéo trời già đến dở dom.
Động Hương Tích: Động chính của chùa Hương trước thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông, nay là huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.
(1)khéo phòm :như khéo phạm....thật là khéo
(2)Các thạch nhủ trên cửa động luôn từng giọt nhỏ xuống
(3)Vô trạo :Vòm động có những chạm vẽ của thiên nhiên được hình dung ra cảnh trí như mặt trăng ,con thuyền....
Vô trạo :không có bơi chèo
(4)Lâm tuyền :nơi rừng suối mà cuốn hút lại đây cả một cảnh phồn hoa đô hội
Đá ông chồng bà chồng
Khéo khéo bày trò tạo hoá công,
Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng.
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc,
Thớt dưới sương pha đượm má hồng.
Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt,
Khối tình cọ mãi với non sông.
Đá kia còn biết xuân già giặn,(*)
Chả trách người ta lúc trẻ trung.
Hiện vẫn chưa rõ xuất xứ của đá, chỉ mới nghe truyền ngôn.
(*) Tức già dặn tình xuân.Hồ xuân Hương tỏ ra rộng lượng với tuổi trẻ
Đánh đu
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,(1)
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân có biết xuân chăng tá.(2)(3)
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!(4)
(1)Bốn cột :4 cây tre trồng cột làm cây đu
(2)Chơi xuân :Cuộc chơi đón xuân
(3)Biết xuân :Biết tình xuân
(4)Cuối vụ chơi xuân ,cột đu nhổ lên chỉ còn trơ các lỗ cọc và rồi người ta lấp đi. Hồ xuân Hương chua chát nói về thói vô tâm rất đáng trách của Nam giới.
Đèo Ba Dội
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa con đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫ muốn trèo.
Đèo Ba Dội hay Ba đèo tên chữ là đèo Tam Điệp, thuộc huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Không phải Đèo Ngang như có sách đã nhầm.
Cảnh Thu
Thánh thót tầu tiêu mấy giọt mưa,
Bút thần khôn vẽ cảnh tiếu sơ,
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Có sách gán cho Bà huyện Thanh Quan. Ở văn bản Landes 1893, bài thơ này không có đầu đề. Câu thứ hai là "Đố ai vẽ được cảnh tiếu sơ" và có lời dẫn: "Ngày xưa Xuân Hương đi chơi gặp mưa, vào chơi thăm làng Văn Giáp, thấy có một chùa xưa, Xuân Hương và chùa lậy Phật, rồi đi xem ngoài chùa. Thấy bên chùa có cây đa. Ngửng lên xem thì cao ngút không biết tới đâu, cho nên làm bài thơ này (cây đa này đến nay còn)".
Ở bản Đông châu 1917, có lời dẫn: "Một ngày kia đang mùa quý thu, giời lún phún dăm ba hạt mưa, hơi ngăm ngăm rét, quan phủ nhân vô sự, mới sai bày cuộc rượu, cho gọi cô hai ra cùng ngồi uống rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu để vịnh thơ. Xuân Hương vâng lời ra ngồi hầu rượu. Đương khi chén quỳnh đầy vơi, chiều thu hiu hắt, quan phủ liền bảo Xuân Hương vịnh bài tức cảnh. Thơ rằng: "..."".
Bài thơ này cũng có chép trong phần của Bà huyện Thanh Quan.
Chùa Quán Sứ
Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo(1)
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình, tiểu để xuông không đấm,(2)
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.
Sáng banh không kẻ khua tang mít,(3)
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu.
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo!
(1)Quán sứ :Thời cuối Lê Trình thuộc huyện Thọ Xương ,bây giờ ở phố Quán Sứ Hà Nội
(2)Chày Kình :Vồ đánh chuông tạc hình cá Kình
(3)Tang mít :Tang trống làm bằng gỗ mít
Chơi đền Khán Xuân
Êm ái chiều xuân tới khán đài,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai!
Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng,
Một vững tang thương nước lộn trời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá,
Cực lạc là đây chín rõ mười.
Chú ý :Bài thơ này chưa rõ của Hồ Xuân Hương hay của Bà huyện Thanh Quan.
Chơi chợ Chùa Thầy
Hoá công xây đắp đã bao đời,
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời.
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bầy hàng hoa quả tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn bốn mặt ngồi.
Bán lợi mua danh nào những kẻ,
Chẳng lên mặc cả một đôi lời.
Chơi Tây hồ nhớ bạn
Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa
Người đồng châu trước biết bao giờ
Nhật Tân đê lở nhưng còn lối
Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thơ
Nọ vực Trâu Vàng trăng lạt bóng
Kìa non Phượng Đất khói tuôn mờ
Hồ kia thăm thẳm sâu dường mấy
So dạ hoài nhân chửa dễ vừa.
Chơi thuyền thưởng nguyệt
Hà Đông một dải nước trong veo,
Lãng đãng thuyền tình chở nặng chèo.
Gợn sóng nhấp nhô tăm cá lội,
In dòng chấp chới mảnh trăng treo.
Muốn trôi như lá mà than thở,
Phải mượn tin băng để dập dìu.
Cây cỏ buồn cho lòng thuý ái,
Ái ân lênh láng biết bao nhiêu.
Dệt cửi
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò mấp máy suốt đêm thâu.(1)
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.(2)
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,(3)
Chờ đến ba thu mới dãi màu.(4)
(1)Con cò:Đặt ở trên và chính giửa khung dệt để thẳng sợi,làm chuẩn mực cho cái go khỏi lệch theo
(2)Suốt :Ống suốt cuốn chỉ nằm trong ruột con thoi để nhả sợi
(3)Sợi vải hồ bằng nước cơm đem ngâm lâu cho bền và óng màu hồ
(4)Chờ đến nắng hanh của 3 tháng Thu ,nhẩn nâu đem dãi nhiều lượt thì vải nhuộm mới lên màu và sẩm dần lại
Hang Các Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.(1)
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc,(2)
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!
Tên một cái hang ở trong chùa Thầy. Ca dao có câu: "Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ; Trai chưa vợ thì đến hội này".
(1)Vô ngạn :Không có thành bờ tay vịn
(2)Xuyên tạc :xoi và đục qua đá
phu ong
12-20-2006, 06:17 PM
Hang Thánh hóa chùa Thầy
Khen thay con tạo khéo khôn phàm,(1)
Một đố giương ra biết mấy ngoàm.(2)
Lườn đá cỏ leo sở rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữa am.
Đến mới biết là hang Thánh Hoá,
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham!
Tên cái hang trong chùa Thầy. Truyền rằng Từ Đạo Hạnh đã hoá ở đây nên gọi là Thánh Hoá
(1)Khôn phàm : như khôn phạm
(2)Dố ngoàm :Thành ngữ "ngoàm nào gỗ ấy" cách kiến trúc nhà xưa.Mảnh đố tre thì ngoàm tre ,đố gỗ thì ngoàm gỗ.
Một đố nhiều ngoàm ý nói về cấu tạo hang động thiên nhiện Nếu coi cả vách động là đố thì vòm động với các hỏm to nhỏ là những ngoàm
Hỏi Trăng (bài 1)
Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!(1)
Giữa in chiếc bích khuôn còn méo,(2)
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.(3)
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng Cuội đứng lom khom.(4)
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,(5)
Đó có Hằng Nga ghé mắt dòm.(6)
(1)Quế đỏ :Huyền thoại nói trên mặt trăng có Quế đỏ
(2)Chiếc bích :Chiếc ngọc bích hình tròn dẹt,ở giửa có lỗ,người ta gọi mặt trăng là Bích nguyệt
(3)Đôi cung :Ví đường cong của Trăng như người tráng sĩ giương cánh cung
(4)Thằng Cuội : Ca dao :Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi Cha ơi ời
Ở đây vì tức tối nên thằng Cuội không ngồi mà đứng
(5)Bẽ quế :Bẽ cánh quế trên cung trăng.Chỉ người đỗ Tiến Sỉ
(6)Hằng Nga :Huyền thoại nói rằng Hằng Nga vợ Hậu Nghệ ăn trộm thuốc tiên của Chông` do bà Tây vương mẫu cho ,rồi trốn lên ở cung trăng một mình
phu ong
12-21-2006, 07:57 PM
Hỏi trăng (bài 2)
Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
Hỏi con Ngọc Thỏ đà bao tuổi ?(1)
Chứ chị Hằng Nga đã mấy con ?
Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng ?
Ngày xanh sao lại thẹn vừng son ?(2)
Năm canh lơ lửng chờ ai đó ?
Hay có tình riêng với nước non ?
(1) Ngọc thỏ :Huyền thoại noi' trên mặt trăng có con thỏ ngọc nồi giã thuô"c trường sinh
(2)Vừng son : chỉ mặt trời
Kẽm trống
Hai bên thì núi giữa thì sông.
Có phải đây là kẽm Trống không ?(1)
Gió đập cành cây khua lắc cắc,
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Ở trong hang núi còn hơi hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi! Nên ngắm lại,
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.(2)
(1)Kẽm Trống ở huyện Kim Bảng ,phủ Lý Nhân ,Tỉnh Hà Nam nay thuộc Nam hà.Kẽm :Hẻ giửa hai sường núi dốc ,giữa có lối đi
Khóc chồng làm thuốc
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti.
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo,(1)
Cay đắng chàng ơi vị quế chi.(2)
Thạch nhũ, trần bì sao để lại,
Quy thân, liên nhục tấm mang đi.(3)
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ ?
Sinh ký chàng ơi! Tử tắc quy.(4)
(1)Cam thảo : cỏ ngọt ,tên vị thuốc ta
(2)Quế chi :canh` quế vị cay ,tên thuốc ta
(3)Thạch nhũ : nghĩa đen là vú đá
Trần bì :Vỏ quít khô
Quy thân : vị đương quy có 3 phần ,đầu ,chân và đuôi ,có tính dược khác nhau.
Quy thân là phần củ của đương quy
Liên nhục :Hạt sen
Vì Chồng là lang thuốc nên tác giã dùng những tên vị thuốc.
Ý hai câu : Giờ thì kẽ mất người còn."của anh anh mang ,của nàng nàng xách ".Bỡn cợt bà lang là ở hai câu nầy
(4)Dao cầu :Dao dùng riêng trong nghề thuốc ,tác dụng thái thuốc mạnh và nhanh hơn dao thường
Sinh ký tử quy : Sống gửi thác về
Ở đây tác giã vận dụng linh hoạt thành ngữ nầy.Ngươi` phụ nữ góa trẻ nếu không ở vậy được mà phải qua hai lần đò " thì kỷ vật nầy sẽ trao lại cho ai? Chàng ơi ! trong cuộc sống tạm bợ nầy ,chỉ có lúc chết đi thì mới có thể về nơi ở mãi cùng chàng được
Mắng học trò
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ,
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa.
Bọn học trò mới lớn, ngốc nghếch, rủ nhau kéo đàn kéo lũ đi ghẹo gái, lại tập tọng đua đòi vần vè ví von, nên Hồ Xuân Hương lấy làm khó chịu mà viết bài thơ này.
Một cảnh chùa
Tình cảnh ấy, nước non này
Dẫu không Bồng Đảo cũng Tiên đây,
Hành Sơn mực điểm đôi hàng nhạn,
Thứu Lĩnh đen trùm một thức mây,(*)
Lấp ló đầu non vừng nguyệt chếch,
Phất phơ sườn núi lá thu bay,
Hỡi người quân tử đi đâu đó,
Thấy cảnh sao mà đứng lượm tay.
Ở bản khắc ván 1922 bài thơ này mang tên Quan hậu sợ vợ, Quan hậu. Rõ ràng là hai văn bản này bị ảnh hưởng lời dẫn ở bản Đông châu (1917): "Bà hậu lở nhà hễ khi nào thấy Quan ông bước chân đi chơi đâu, thì bà hậu hay hỏi săn đón, biết ý rằng Quan hậu hay tò mò đến chơi Xuân Hương. Xuân Hương thấy Quan hậu đến chơi thơ thẩn khi nào, tuy rằng mải miết tự tình, nhưng xem ra thì vẫn thường có ý chập chỗm, không vững lòng ngồi dai. Xuân Hương biết ý như vậy, mới làm một bài để giễu thử chơi. Thơ rằng: "..."".
(*)Thứu Lỉnh :Hòn núi ở Ấn Độ ,nơi đức Phật ở. Gọi là Lỉnh Tựu...có người đọc là Linh Thửu
Miếng trầu
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,(1)
Này của Xuân Hương mới quệt rơi2)
Có phải duyên nhau thì thắm lại (3)
Đừng xanh như lá bạc như vôi!
(1)Miếng trầu hôi :Một khẩu trầu gồm 3 thành phầnchi'nh hợp lại là Trầu không ,cau và vôi. Vỏ (rể )và thuốc lào là thành phần phụ gia
Trầu hôi :Lá trầu không ,loại xấu nhỏ lá và hôi
(2)Quệt :quệt vôi vào lá trầu rồi mới têm
(3) Thắm lai : Cau đậu (cau kén ),trầu lá to và mỡ ,vôi vừa phải khi ăn thì đỏ thắm và say. Cau bé ,trầu hôi vôi mặn thì ăn không đỏ và miếng trầu không ngon.Nha` thơ nói về cái hẩm hiu của duyên phận.
Quán Khánh
Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo,(1)
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo.
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xo kẽ kèo tre đốt khẳng kheo.(2)
Ba chạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc cảnh leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
Quán Khánh: Các công trình nghiên cứu và các văn bản có chú thích đều thống nhất ghi là ở tỉnh Thanh Hoá, song chưa rõ huyện nào.
(1) Hắt heo : hắt hiu
(2)Khẳng kheo : Khẳng khiu
Sư hổ mang
Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vải núp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên Sư cụ,(*)
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.
(*)Chủ nhân 1 ngôi Chùa,người có uy tín và cao tuổi hơn cả chỉ có mặt trong các buổi lễ quan trọng của Chùa. Trụ trì.
Sư hoang dâm
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,(*)
Trát gió cho nên phải lộn lèo.
Bài này có ở văn bản khắc ván 1922.
(*) Quê hương Đức Phật ở Ấn Độ
Tự tình (bài 2)
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Tự tình ( bài 3 )
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,(1)
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.(2)
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến,
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.(3)
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh!(4)
(1)Chiếc bách :Thuyền bằng gỗ Bách,trong văn học gợi hình ảnh tâm trạng một người hóa trẻ với bài thơ Bách Chu trong Kinh Thi
(2)Tình và nghĩa vẫn đương còn chan hòa dào dạt
Sóng gió vẫn cứ đe dọa liên tiếp vỗ vào bên ngoài mạn thuyền.
Tâm trạng chung của 4 câu nầy đều là buồn rầu ngao ngán thân phận
(3)Dự định của ai lăm le cầm lái để đưa thuyền đậu vào bến,cũng như của kẽ rắp tâm dong lèo để cho cánh buồm vượt qua ghềnh thác mà trôi xuôi cũng thây mặc ,vì nhà thơ không quan thiết
(4)Còn ai nữa là người sẽ tìm đến với mình?Nếu xãy ra thì cũng cam lòng.Mặc dầu cũng chẳng hay gì với chuyện tập tễnh ôm đàn sang thuyền khác ,song tình thế cũng không thể khác được.
Cổ thi có câu :"Khẳng bả tỳ bà quá biệt thuyền "
Nghĩa là không chịu ôm đàn tỳ bà sang thuyền khác ,để nói chuyện không chịu lấy chồng khác.
Tục ngữ :"Thăm vãn bán thuyền " Ở đây vận dụng chỉ có nghĩa là " người mới " ,không giữ ý "có mới nới cũ "
phu ong
12-22-2006, 05:45 PM
Mắt tỏa sắc xanh
Bể xanh lấp loáng tận trời xa,
Đây ngỡ màu xanh mắt tỏa ra.
Nước bạc mài nên nghìn mũi kiếm,
Đầm im rơi xuống một sao sa.
Quái hình chưa dễ đề khoa bảng,
Thần lực đâu đà tạc tượng ma.
Phảng phất mây rà đầu xẩm tối,
Cao tăng đang tụng chốn chiền già.
(1) Loa đại: là một thứ bột màu lam xưa dùng để chế thử mực xanh vẽ lông mày. Tác giả cố ý dùng chữ loa ở đây vì nghĩa nó là ốc.
(2) ý câu này là: đến đây, nhìn đâu cũng thấy màu, mình có cảm tưởng chính mắt mình phát màu xanh ra, chứ không phải vật ngoài có màu ấy.
(3) Nước bạc: trỏ nước bể thường có sóng bạc, chứ không phải trỏ riêng sóng. Sóng vỗ vào chân lèn làm hỏm chân, chứ không mài nhọn đá.
(4) Sao sa: nếu vế này tả cảnh ban ngày thì phải hiểu rằng mặt nước long lanh phản xạ tia sáng tung toé lên như có sao sa xuống, nếu nghĩ rằng nó tả cảnh ban đêm thì có lẽ muốn nói sắc lân tinh lậploè trên mặt nước.
(5) Tam giáp: trỏ ba bậc đậu thi đinh thời xưa (Nhất giáp có ba nấc: Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa; Nhị giáp tức là Hoàng giáp; Tam giác tức là Tiến sĩ).
(6) Ngũ Đinh: tên một lực sĩ trong thần thoại. Tương truyền đời xưa vua Tần hiến cho vua Thục một gái đẹp. Vua Thục sai lực sĩ Ngũ Đinh đi đón. Trên đường thấy một con rắn lớn, bò vào hang đá. Ngũ Đinh đuổi theo, bị đá sập đè chết. Sau bị hoá ra tượng đá khổng lồ.
Tác giả mượn hai việc liên quan đến tảng đá và tượng đá để ngụ ý đến những hình thù vĩ đại, kì dị, hùng tráng của các đảo lèn, nhất là khi trời gần tối.
Ngụ ý Tốn Phong,kí nhị thủ (1)
Dồn bước may đâu khéo hẹn hò
Duyên chi hay bởi nợ chi ru?
Sương treo(2) áo lục nhồi hơi xạ,
Gió lọt cành lê lướt mặt hồ.
Muốn chắp chỉ đào thêu trướng gấm,
Mà đem lá thắc thả sông Tô.(3)
Trong trần mấy kẻ tinh con mắt,
Biết ngọc mà trao mới kể cho.
II
Ðường hoa dìu dặt bước đông phong
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công,
Lạ mặt dám quen cùng gió nước,
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông.
Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc,
Phòng gấm trăng in dãi thức hồng.
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ,
Trước năm trăm hẳn nợ chi không?
1) Hai bài ngụ ý gửi Tốn Phong thị. Chưa rõ Tốn Phong thị là ai? Chỉ biết ông họ Phan, vì trong Bài tựa có câu: " Phan Mĩ Anh người trong họ tôi" và đó là họ nội. Còn tên, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, có lẽ là Huân nghĩa là " Nam Phong" (gió Nam) cùng gọi là Tốn Phong. Nham Giác là tên hiệu Nham Giác phu là " anh chàng ẩn ở núi nhưng hiểu sự đời" .
(2) Có bản phiên âm là xoa
(3) Sông Tồ = Sông Tô Lịch ở Thăng Long - Hà nội.
Nguyệt dạ ca
Nguyệt như châu hề, lộ như sai
Thúc vãng lai hề, chiếu dư hoài
Uyển cố nhân hề, thiên nhai
Ái bất kiến hề, tâm bồi hồi...
Đài hoang Thần nữ miếu
Vân tán Sở vương đài
Minh nguyệt quang như thử
Ngã tư nhân chi hề, yên tại tai.
Nhớ Nguyễn Hầu
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy(2)
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
(1) Nhớ người cũ viết gửi Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu. Sau đầu đề trên, tác giả có chú: "Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền nhân" - "Hầu người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân" - Như vậy, ở đây Nguyễn Hầu đúng là Nguyễn Du tiên sinh - Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền ghi rõ mùa hè năm Kỉ Tỵ (1809), Nguyễn Du được bổ làm cai bạ Quảng Bình. Tháng 2 năm Quý Dậu (1813) ông được phong Cần chánh điện học sĩ, rồi được cử làm chánh sứ đi Trung Quốc tuế cống.
(2) Sương siu mây: Từ xưa phiên âm là sương đeo mái. Nay phiên âm theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn.
Qua vũng Hoa Phong
Lá buồm thủng thỉnh vượt Hoa Phong.
Đá dựng bờ son mọc giữa dòng.
Dòng nước lần theo chân núi chuyển,
Mình lèn nghiêng để lối duyềnh thông.
Cá rồng lẩn nấp hơi thu nhạt,
Âu lộ cùng bay bóng xế hồng.
Băm sáu phòng mây cùng động ngọc,
Đâu nào là cái Thuỷ Tinh cung?
Quán Khánh
Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo,(2)
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo.
Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xo kẽ kèo tre đốt khẳng kheo.(3)
Ba chạc cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biếc cảnh leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo cũ,
Kìa cái diều ai nó lộn lèo.
(1) Quán Khánh: Các công trình nghiên cứu và các văn bản có chú thích đều thống nhất ghi là ở tỉnh Thanh Hoá, song chưa rõ huyện nào.
(2) Hắt heo: Âm chính xác là hắt hiu.
(3) Khẳng kheo: Âm chính xác là khẳng khiu.
Tặng Tốn Phong Tử
Bướm ong mừng đã mấy phen nay,
Hồng nhạn xin đưa ba chữ lại;
Dám đâu mưa gió giở bàn tay,
Những sự ba đào xeo tấc lưỡi,
Nam Bắc xa xa mấy dặm đây,
Hải sơn ước để ngàn năm mãi,
Bức tranh khôn vẽ tấm lòng ngay.
Tơ nguyệt rày xe ba mối lại,
Hỏi khách đa tình nhỏ có hay.
Năm canh hồn bướm thêm bơ bải(2)
(1) Tặng Tốn Phong thị. Dưới đầu đề có ghi rõ "Hoạ vận tai hậu" (hoạ vần ở phía sau), nhưng không thấy bài hoạ.
(2) Bài thơ còn như dang dở. Thể thơ ít gặp. Hay là một điệu ca trù nào đó? Hai chữ bơ bãi là phiên âm tạm. Chưa rõ nên đọc thế nào cho phải.
Tát nước
Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhỏm bên bờ đít vắt ve.
Mải miết làm ăn quên cả mệt,
Dang bang một lúc đã đầy phè.
Thiếu nữ ngủ ngày
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên nước chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.
Thương
Há dám thương đâu kẻ có chồng,
Thương vì một nỗi hãy còn không.
Thương con cuốc rũ kêu mùa Hạ,
Thương cái bèo non giạt bể Đông.
Thương cha mẹ nhện vương tơ lưới,
Thương vợ chồng Ngâu cách mặt sông.
ấy thương quân tử thương là thế,
Há dám thương đâu kẻ có chồng.
Tốn Phong Đắc Mộng Chí Dữ Ngã Khan
Tốn Phong đắc mộng chí dữ ngã khan
nhân thuật ngâm, tịnh ký(1)
Nhớ ai mà biết nói cùng ai
Rằng chữ đồng ta quyết một hai.
Hoa liễu vui đâu mình dễ khéo,
Non sông dành giả nợ còn dài.
Chén tình dầu nhẫn lâu mà nhạt
Giải ước nguyền âu thắm chẳng phai.
Ðầy đoạ duyên trần thôi đã định,
Xương giang duyềnh(2) để ngắm tương lai.
1)Tốn Phong thị nằm mộng, ghi lại mang cho xem, nhân đó làm bài thơ thuật chuyện và ghi lại.
(2)Có phiên âm là dành
Tranh Hai Tố Nữ
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình?
Chị cũng xinh mà em cũng xinh.
đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
Phiếu mai (1) chi dám tình trăng gió,
Bồ liẽu (2) thôi đành phận mỏng manh.
Còn thú vui kia sao chẳng thấy
Trách ông thợ vẽ khéo vô tình.
(1) Tức bài thơ "Phiếu Mai" trong Kinh Thi, bài thơ có ý mong đợi của người con gái sợ lỡ tuổi xuân như trái mai rụng dần.
(2) Bồ liẽu tức cây bồ cây liẽu, loại cây mềm yếu thường được dùng để ví với thân hình yếu đuối của phụ nữ .
Trống thủng
Của em bưng bít vẫn bùi ngùi,
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi,
Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc,
Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi,
Khi giang thẳng cánh bù khi cúi
Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi.
Nhắn nhủ ai về thương lấy với,
Thịt da ai cũng thế mà thôi.
Tự Thán
Con bóng đi về chốc bấy nay,
Chữ duyên nào đã chắc trong tay.
Nghĩ cùng thế sự lòng như đốt,
Trông suốt nhân tình dạ muốn say.
Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn,
Một đời riêng mấy kiếp chua cay.
Nỗi mình nỗi bạn dường bao nả,
Dám hỏi han đâu những cớ này.
II
Lẩn thẩn đi về mấy độ nay
Vì đâu đeo đẳng với nơi vầy
ấm trà tiêu khát còn nghe giọng
Chén rượu mừng xuân dạ thấy say
Điểm lữ trông chừng mây đạm nhạt
Dòng thu xem cỡ nước vơi đầy.
Thương ai hẳn lại thương lòng lắc
Này nợ này duyên những thế này.
(1) Tự than thân.
suongkhoimay
12-25-2006, 05:28 PM
Wow Jen cảm ơn PO nhiều được đọc thơ còn được đọc trích đẫn nữa chớ..........thank you PO
Seoteam
07-21-2011, 02:58 AM
thơ bà này rất chi là bất cần nhé
Powered by vBulletin® Version 4.2.0 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.