Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Một người A-rap va đàn kiến
Trong phòng giam này có hai người rất trầm lặng, không bao giờ nói chuyện với ai. Lúc nào cũng dính chặt vào nhau, họ chỉ nói chuyện riêng với nhau, và nói nhỏ đến nỗi không ai có thể nghe thấy gì được.
Một hôm, được Sierra đem cho một bao thuốc lá Mỹ, tôi cho một trong hai người một điếu. Hắn cảm ơn tôi rồi nói:
- Francois Sierra là bạn anh phải không?
- Phải, đó là người bạn tốt nhất của tôi.
- Có lẽ một ngày kia, nếu mọi sự hỏng hết, chúng tôi sẽ nhờ anh ấy chuyển gia tài của chúng tôi cho anh.
- Gia tài gì thế?
- Tôi và bạn tôi đã quyết định là nếu bị đưa lên máy chém, chúng tôi sẽ chuyển plan của chúng tôi cho anh để anh dùng nó mà vượt ngục lần nữa.
- Hai anh nghĩ là sẽ bị xử tử à?
- Điều đó gần như chắc chắn, chúng tôi rất ít khả năng thoát khỏi.
- Nếu việc xử tử các anh đã chắc đến như vậy, sao họ lại để các anh trong phòng giam chung này?
Tôi nghĩ là họ sợ chúng tôi tự tử nếu được giam xà-lim riêng.
- à phải, có thể như thế. Thế các anh đã làm gì mà bị xử tử?
- Chúng tôi đã cho một đàn kiến ăn thịt một thằng A-rập Việc này tôi nói ra là vì họ có bằng chứng không thể chối cãi được. Chúng tôi đã bị bắt quả tang.
- Việc xảy ra ở đâu?
- ở Cây số 42, ở trại tử thần cạnh vịnh Sparouine.
Bạn anh ta đã đến cạnh chúng tôi, đó là một người Toulouse. Tôi cho anh ta một điếu thuốc lá Mỹ. Anh ta ngồi xuống bên cạnh bạn, trước mặt tôi.
- Chúng tôi chưa bao giờ hỏi ý kiến ai cả, - người mới đến nói, - nhưng tôi rất muốn biết anh nghĩ về chúng tôi như thế nào.
- Anh bảo làm sao tôi có thể nói được, trong khi tôi chưa biết gì hết, về vấn đề các anh đúng hay sai khi cho kiến ăn một con người đang sống, dù là một người “giữ chìa khóa” A-rập? Muốn có ý kiến, tôi phải biết hết sự việc từ A đến Z.
- Để tôi kể cho anh nghe, -- người Toulouse nói.
Trại Cây số 42, Saint-Laurent bốn mươi hai cây số, là một trại lâm nghiệp. ở đấy tù khổ sai phải đẵn mỗi ngày một mét khối gỗ cứng. Đến chiều anh phải đứng cạnh chỗ gỗ anh đã đẵn và xếp gọn lại. Bọn giám thị, có bọn giữ chìa khóa người A-rập đi theo, vào tận nơi ở trong rừng để kiểm tra xem anh đã đạt chỉ tiêu chưa. Nếu được coi là đạt, mỗi khối gỗ được đánh dấu bằng sơn đỏ, sơn xanh hay vàng, tùy từng ngày. Họ chấp nhận nếu mỗi thanh gỗ đều là gỗ cứng. Để làm việc tốt hơn, hai người lập thành một kíp. Nhiều khi chúng tôi không thể đạt chỉ tiêu được. Những lúc ấy tối về họ nhốt chúng tôi vào xà-lim không cho ăn, và sáng hôm sau, vẫn phải nhịn đói, chúng tôi lại bị đưa đi làm việc: ngày hôm ấy, ngoài chỉ tiêu bình thường ra còn phải làm thêm để bù cho gỗ thiếu hôm qua. Cử cái đà ấy thì chẳng bao lâu mà chết vì kiệt sức.
“Với cái tình trạng này, chúng tôi mỗi ngày một yếu đi và càng ít khả năng làm đủ chỉ tiêu. Thêm vào đấy, người ta cắt cho chúng tôi một tên gác riêng không phải là giám thị, mà là một thằng A-rập. Hắn đi với chúng tôi ra công trường, tìm chỗ ngồi thật thoải mái, cái roi cặc bò đặt giữa háng, mồm không ngớt chửi mắng chúng tôi. Khi ăn, hắn nhai chóp chép thật to để cho chúng tôi thèm. Nói tóm lại là một sự hành hạ liên tục. Chúng tôi có hai cái plan mỗi cái đựng ba ngàn frances, để dùng khi vượt ngục. Một hôm chúng tôi quyết định mua gã A-rập. Bấy giờ tình thế càng tệ hơn. Cũng may là từ trước tới nay hắn vẫn tưởng hai chúng tôi chỉ có một plan. Phương sách của hắn rất giản dị: chẳng hạn đưa cho hắn năm mươi francs thì hắn cho chúng tôi đến các khối gỗ đã được duyệt hôm trước, lấy trộm những thanh gỗ không dính sơn để thêm vào khối gỗ của ngày hôm ấy. Cứ như thế, lần thì năm mươi francs, lần thì một trăm, hắn đã bòn được của chúng tôi gần hai ngàn francs.
“Thấy chúng tôi đã bắt đầu đạt được chỉ tiêu, họ rút thằng A-rập về. Nghĩ rằng hắn sẽ không tố giác chúng tôi vì đã bòn được của chúng tôi một số tiền lớn như vậy, chúng tôi tiếp tục lấy cắp gỗ ở các khối đã duyệt để thêm vào khối gỗ chỉ tiêu hàng ngày như khi còn thằng A-rập. Một hôm hắn ngấm ngầm theo dõi chúng tôi từng bước, để xem chúng tôi có lấy cắp gỗ không. Rồi hắn bỗng lộ mặt ra: “à! à. Vẫn lấy cắp gỗ mà không chịu trả tiền cho tao? Nếu mày không đưa tao năm trăm francs, tao sẽ tố giác”.
Nghĩ rằng hắn chỉ dọa thế thôi, chúng tôi từ chối.
Hôm sau hắn lại trở lại:
- Trả tiền đi không thì tối nay mày vào xà-lim.
Chúng tôi lại từ chối. Đến chiều hắn trở lại có mấy tên lính đi theo. Thật kinh khủng, Papillon ạ! Sau khi lột trần truồng chúng tôi ra, họ dẫn tôi đến những khối gỗ mà chúng tôi đã lấy bớt, rồi bắt chúng tôi chạy về tháo tung các khối mới xếp được rồi lại chạy ra xếp gỗ vào những khối bị lấy bớt, còn chúng nó thì chạy theo sát gót chúng tôi, tên A-rập luôn tay quất roi cặc bò vào người chúng tôi. Cuộc “corrida” này kéo dài hai ngày, chẳng ăn uống gì hết. Mỗi lần chúng tôi ngã xuống, tên A-rập lại đá vào người hay dùng roi cặc bò quất chúng tôi túi bụi. Cuối cùng chúng tôi nằm ì ra đất, vì không còn sức đâu mà gượng dậy được nữa. Anh có biết nó làm thế nào để bắt chúng đứng dậy không? Nó đã lấy một cái tổ ong lửa, một loại ong vò vẽ hoang ở trong khu rừng này. Nó chặt cái cành có một bầy ong làm tổ và chà cái cành ấy lên người chúng tôi. Đau đến phát điên lên được, không những chúng tôi đứng dậy mà còn chạy như điên. Anh thừa biết ong vò vẽ đốt đau như thế nào. Thế mà mỗi chúng tôi bị đến năm sáu chục con đốt, anh cứ tưởng tượng xem. Ong lửa đốt đau nhức ghê gớm, còn hơn cả ong vò vẽ.
Họ giam xà-lim, bắt chúng tôi ăn bánh mì chấm nước lã mười ngày liền, không chữa chạy gì hết. Chúng tôi đã bôi nước đái lên các vết đốt, nhưng vẫn bỏng rát suốt ba ngày liên tục. Tôi mù mất con mắt trái vì nó đến một chục con ong lửa bâu vào đấy. Khi họ cho chúng tôi trở về trại, các phạm nhân khác quyết định giúp chúng tôi. Mỗi người chia cho chúng tôi một thanh gỗ cứng có kích thước thống nhất. Gộp lại cũng được một khối, thành thử cả hai chúng tôi chỉ còn phải cắt một khối nữa thôi. Trong tình trạng của chúng tôi lúc bấy giờ, cắt được một khối cũng hết sức vất vả. Nhưng chúng tôi đã cắt được. Dần dà, chúng tôi cũng đã lấy lại sức. Chúng tôi đã cắt rất nhiều. Rồi cũng do sự tình cờ mà chúng tôi nảy ra cái ý trả thù tên A-rập bằng một đàn kiến. Trong khi đi tìm gỗ cứng, chúng tôi phát hiện một cái tổ kiến ăn thịt rất lớn trong một bụi rậm, đang ăn thịt một con hoẵng to bằng con dê.
Thằng A-rập vẫn đi tuần để kiểm tra công việc chặt gỗ. Một hôm chúng tôi dùng cán rìu đánh vào đầu cho hắn ngất đi, rồi kéo lê hắn đến cạnh cái tổ kiến. Chúng tôi lột trần hắn ra và để hắn nằm thành hình cung quanh một góc cây, chân tay trói chặt vào gốc cây bằng những sợi thừng lớn dùng để buộc gỗ.
Chúng tôi dùng rìu cửa đứt mấy chỗ trên người hắn. Chúng tôi lại nhét cỏ vào đầy mồm hắn để hắn không thể kêu được, rồi lấy khăn buộc chặt ra ngoài. Xong đâu đấy chúng tôi đứng đợi. Đàn kiến chỉ bắt đầu tấn công khi chúng tôi thọc một cái gậy vào tổ kiến và lay mạnh cho kiến rơi xuống người tên A-rập.
Sự việc chẳng kéo dài được bao lâu. Một nửa giờ sau hàng ngàn kiến đã bâu lên tên A-rập. Anh bao giờ trông thấy loài kiến ăn thịt chưa?
- Chưa, chưa bao giờ. Tôi có thấy loại kiến đen rất lớn.
- Loài kiến này thì nhỏ li ti mà màu đỏ như máu. Chúng giật những mảnh thịt nhỏ xíu và tha về tổ. Nếu chúng tôi đã bị đau vì ong đốt, anh thứ tưởng tượng hắn đã phải đau đớn như thế nào khi bị hàng ngàn con kiến như thế rứt thịt từng tí một trong khi còn sống.
Cơn hấp hối của hắn đã kéo dài trọn hai ngày và một buổi sáng. Sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ, hắn không còn mắt nữa.
Tôi thừa nhận rằng hai đứa chúng tôi đã tàn nhẫn trong cách trả thù, nhưng phải thấy rõ bản thân hắn đã tàn bạo đối với chúng tôi đến mức nào. Chúng tôi không chết cũng là chuyện thần kỳ. Dĩ nhiên người ta đi tìm tên A-rập khắp nơi, và bọn giữ chìa khóa A-rập khác, cũng như bọn lính gác, đều nghi ngờ rằng chúng tôi không phải không liên quan gì đến việc hắn mất tích.
Trong một bụi rậm khác, mỗi ngày chúng tôi đào một ít để có một cái lỗ dùng để chôn xác hắn. Họ vẫn chưa biết gì về tên A-rập, thì một hôm có tên lính gác trông thấy chúng tôi đang đào lỗ. Đến hôm sau, khi đi làm hắn đi theo chúng tôi để xem thử chúng tôi làm gì. Chính vì thế mà chúng tôi bị lộ.
Sáng hôm ấy, khi đến nơi làm việc, chúng tôi cởi dây trói thằng A-rập vẫn còn đầy kiến nhưng gần như chỉ còn xương, và trong khi chúng tôi đang lôi nó về phía cái hố (chúng tôi không khiêng nó được vì sợ bị kiến đốt đến trọng thương), chúng tôi bị ba tên A-rập giữa chìa khóa và hai tên giám thị bắt gặp. Họ đã nấp kín đợi một cách kiên nhẫn cho đến khi chúng tôi chôn nó.
Thế đấy! Chúng tôi một mực khai rằng đã giết hắn chết rồi mới cho kiến ăn. Lời buộc tội căn cứ vào biên bản của bác sĩ pháp y nói rằng không thấy có một vết thương nào chết người trên mình hắn: người ta khẳng định rằng chúng tôi đã cho kiến ăn hắn trong khi hắn còn sống.
Người lính canh được phân làm trạng sư cho chúng tôi theo tập quán xử án ở đây có nói với chúng tôi rằng nếu câu chuyện của chúng tôi được chấp nhận thì.chúng tôi có thể thoát chết. Nếu không, có thể nắm chắc án tử hình. Nói thật, chúng tôi rất ít hy vọng. Chính vì thế mà tôi và bạn tôi đã chọn anh làm người thừa hưởng gia tài mà không nói cho anh biết. Ta hãy hy vọng rằng tôi sẽ không thừa hưởng gia tài của các anh, tôi thành tâm cầu mong như vậy.
Chúng tôi châm thuốc hút, và tôi thấy họ nhìn tôi có ý chờ đợi tôi nói rõ ý kiến của mình.
- Tôi biết hai anh đang đợi tôi nói rõ cách phán xét của tôi về trường hợp của hai anh, với tư cách một con người, như hai anh đã yêu cầu trước khi kể chuyện. Xin hỏi một câu cuối cùng - điều này sẽ không có ảnh đối với kết luận của tôi: số đông trong phòng này nghĩ thế nào, và tại sao hai anh không nói chuyện với ai cả?
- Số đông nghĩ rằng chúng tôi phải giết hắn, nhưng không nên để kiến ăn sống hắn. Còn sở dĩ chúng tôi im lặng không nói chuyện với ai là vì trước đây có một cơ hội vượt ngục bằng cách nổi loạn, thế mà họ không chịu làm.
- Bây giờ tôi xin nói ý kiến của tôi. Các anh trả lại gấp trăm những gì mà hắn đã làm cho các anh là đúng: cái vụ tổ ong lửa không thể nào tha thứ được. Nếu các anh lên máy chém, đến phút cuối cùng các anh hãy nghĩ thật tập trung về một điều duy nhất: Họ sắp chặt đầu tôi, việc này sẽ kéo dài ba mươi giây kể từ khi trói tay, đẩy vào cái cùm cố cho đến khi lưỡi dao sập xuống. Còn hắn đã hấp hối trong sáu mươi tiếng đồng hồ. Tôi là người thắng cuộc”. Về phần có liên quan đến những người trong phòng này, tôi không biết các anh có đúng không, vì hồi ấy các anh tin rằng một cuộc nổi loạn vào hôm ấy có thể đưa đến cuộc vượt ngục chung, còn những người khác thì có thể không nghĩ như vậy. Mặt khác, trong một cuộc nổi loạn bao giờ người ta cũng có thể bị đặt vào tình thế phải giết người một cách bất đắc dĩ. Thế nhưng trong tất cả những người ở đây chỉ có hai anh và anh em Graville là có nguy cơ bị xử tử. Các bạn ạ, mỗi tình thế cá biệt đều đưa đến những phản ứng khác nhau, nhất định là như thế.
Thỏa mãn với buổi nói chuyện, hai con người đáng thương ấy lui về chỗ và lại bắt đầu sống trong sự im lặng mà họ vừa phá vỡ trong chốc lát để nói chuyện với tôi.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Cuộc vượt ngục của những kẻ ăn thịt người
“Nó chén mất cái chân gỗ rồi!” “Một ra-gu dùi gỗ, một!”.
Hoặc bắt chước giọng đàn bà: một suất bít-tết đàn ông rán kỹ không bỏ hạt tiêu nhé!”.
Giữa đêm khuya thỉnh thoảng lại nghe la lên một câu như vậy hoặc cả ba câu liền.
Clousiot và tôi cứ băn khoăn không hiểu tại sao lại có những câu nói ném ra một cách bâng quơ như vậy trong đêm khuya.
Cho đến chiều nay tôi mới biết căn nguyên câu chuyện. Người kể cho tôi nghe là một nhân vật của câu chuyện tên là Marius de la Ciotat, chuyên gia về két sắt. Khi đã biết rằng tôi có quen với bố anh ta, ông Titin, anh ta không ngần ngại nói chuyện với tôi. Sau khi kể cho anh ta nghe một phần trong chuyến vượt ngục của tôi, tôi hỏi: “Còn anh?” - hỏi lại như vậy là điều rất tự nhiên.
- ồ, tôi thì đã tham gia vào một chuyện rất xấu xa. Tôi e rằng chỉ vì một cuộc vượt ngục mà lĩnh năm năm cấm cố. Nó được mệnh danh là “cuộc vượt ngục của những kẻ ăn thịt người”. Những câu “Nó chén rồi” hay là “một ra-gu, v.v...” và thỉnh thoảng anh có nghe thấy là nói về hai anh em Graville.
“Chúng tôi có sáu người trốn từ Cây số 42. Trong bọn có cả Dédé và Jean Graville, anh ba mươi lăm tuổi, em ba mươi, vốn là người Lyon, một người Naples ở Marseille và tôi, người ở La Ciotat, rồi thì một anh chàng ở Angers có một chân gỗ và một cậu thanh niên hai mươi ba tuổi, được hắn dùng làm vợ. Khi ra khỏi sông Maroni thì ổn cả, nhưng ra đến biển chúng tôi không sao điều khiển được thuyền, và chỉ trong mấy tiếng đồng hồ đã bị giạt vào bờ biển Guyane thuộc Hà Lan.
“Thuyền bị đắm, mất sạch không vớt vát được chút gì lương thực cũng như đồ đạc. May mà hãy còn giữ dược những áo quần đang mặc trên người. Nơi chúng tôi bị giạt vào không có bãi cát, biển vào thắng trong rừng rậm. Chỗ này những cây bị gẫy gốc hay bị biển bứng lên cả rễ đan chi chít vào nhau.
“Đi suốt một ngày mới đến chỗ khô ráo. Chúng tôi chia ra làm ba nhóm, nhóm thứ nhất là hai anh em Graville, tôi với Guesepi đi với nhau, còn gã chân gỗ đi với thằng bạn nhỏ. Mỗi nhóm đi về một phía, nhưng mười hai ngày sau nhóm Graville và nhóm chúng tôi lại gặp nhau gần đúng ở chỗ đã chia tay nhau. Xung quanh toàn là bùn lầy, tìm mãi không có một lối nào qua được. Không cần phải tả cho anh thấy mặt mũi chúng tôi lúc bấy giờ ra sao. Suốt mười ba ngày chúng tôi không ăn gì ngoài mấy mẩu rễ cây hay mầm cây. Đói và mệt lả, hoàn toàn kiệt sức, chúng tôi quyết định là Marius và tôi sẽ thu hết tàn lực trở ra bờ biển, buộc một chiếc áo sơ mi lên một ngọn cây, càng cao càng tốt, để ra đầu thú với chiếc tàu tuần tra bờ biển đầu tiên của Hà Lan thế nào cũng sẽ đi qua đấy. Hai anh em Graville sẽ ở lại nghỉ vài giờ rồi đi tìm vết tích của hai người kia.
Tìm chắc cũng dễ vì ngay từ đầu chúng tôi đã thỏa thuận là sẽ bẻ cành cây đánh dấu những chỗ vừa đi qua.
Thế rồi mấy giờ sau, hai anh em thấy gã chân gỗ trở lại một mình.
- Còn thằng bé đâu?
- Tớ để nó ngồi lại cách đây rất xa, vì nó không đi được nữa.
- Cậu bỏ nó lại như vậy thật là quá tệ.
- Chính nó muốn quay lại.
Đến đấy Dédé nhận thấy cái chân duy nhất còn lại của hắn đi một chiếc giày của cậu bé.
- Cậu lại còn bắt nó cởi giày ra cho cậu đi nữa. à! Khá thật. Mà cậu có vẻ khỏe khoắn lắm chứ không phải như chúng mình. Rõ ràng là cậu vừa được ăn.
- Đúng, tớ tìm được một con khỉ lớn bị què.
- Thế thì may cho cậu. - Đến đây Dédé đứng dậy, con dao lăm lăm trong tay, vì anh ta eảm thấy mình đã hiểu ra được một điều gì khi nhìn thấy cái túi dết của gã kia căng phồng lên.
- Mở túi dết ra. Cái gì ở trong ấy?
Hắn mở túi dết ra thì thấy có một súc thịt.
- Cái gì đấy?
- Miếng thịt khỉ ấy mà!
- Đồ khốn kiếp, mày đã giết thằng bé để ăn thịt!
- Không phải đâu Dédé, tớ thề như vậy. Cậu ấy mệt quá chết rồi, tớ có ăn một ít. Cậu tha cho tớ.
Hắn chưa nói hết câu thì con dao đã đâm sâu vào bụng hắn. Lục soát trong người hắn, Dédé tìm thấy một cái túi da có đựng diêm và tấm bìa quẹt.
Hai người giận điên lên khi thấy cái túi đựng diêm ấy vì như thế là khi chia tay nhau gã kia không chịu chia đều số diêm cho các nhóm khác. Thêm vào đấy lại đói nữa, thế là họ đốt lứa và bắt đầu nướng thịt gã chân gỗ ăn.
Guesepi đến trong khi hai người đang chén. Họ mời anh ta. Guesepi từ chối. ở bờ biển anh ta đã ăn mấy con cua và mấy con cá sống. Anh ta bên đứng nhìn từ bên ngoài cái cảnh hai anh em Graville nướng miếng thịt trên than hồng, dùng cả cái chân gỗ để đun bếp. Như vậy là trong hai ngày liền Guesepi đã trông thấy hai anh em Graville ăn thịt gã kia; anh ta lại còn trông thấy rõ những bộ phận họ đã ăn: cái bắp chân, cái đùi, bộ mông.
Còn tôi, - Marius nói tiếp, - tôi đang đứng chờ ở bờ biển. Guesepi ra tìm tôi. Chúng tôi bắt cua và cá nhỏ bỏ đầy một cái mũ và đem về bếp anh em Graville để nướng. Tôi không trông thấy xác thằng chân gỗ, chắc họ đã lôi đi chỗ khác. Nhưng tôi có trông thấy mấy miếng thịt còn để ở một bên đống lửa, trên lớp tro.
Ba hôm sau, một chiếc tàu tuần tra bờ biển cho chúng tôi lên và giao chúng tôi lại cho trại tù Saint Laurent - Du-Maroni.
“Guesepi đã không chịu giữ mồm giữ miệng. Tất cả những người ở trong phòng này đều biết sự việc đã xảy ra, ngay cả bọn gác cũng biết. Tôi kể cho anh nghe vì ai cũng biết hết rồi; anh em Graville là người xấu tính, cho nên mấy người khác mới ném ra những câu mà anh đã từng nghe giữa đêm khuya.
Chúng tôi bị chính thức lên án về tội vượt ngục kèm theo tôi ăn thịt người. Cái gay là ở chỗ để tự bào chừa tôi phái tố cáo anh em Graville, mà điều đó thì không thể được. Cả bọn, trong đó có cả Guesepi, đều phủ nhận việc này trong các buổi hỏi cung. Chúng tôi đều nói là hai người kia đã mất tích trong rừng. Tình cảnh của tôi là như thế đấy, Papillon ạ”.
- Tôi chia buồn với cậu, vì quả thực cậu chỉ có thể tự bào chữa bằng cách tố cáo người khác.
Một tháng sau, Guesepi bị giết bằng một nhát dao đâm vào giữa tim trong lúc đang đêm. Thậm chí người ta cũng chẳng cần tự hỏi xem ai đã giết hắn.
Đó là sự thật trong câu chuyện những người vượt ngục đã ăn thịt một người trong bọn bằng cách nướng hắn trên ngọn lửa đốt hằng cái chân gỗ của hắn, và trước đó bản thân người này đã ăn thịt thằng bạn nhỏ cùng đi với hắn.
Đêm ấy tôi nằm ở một chỗ khác trên sạp gỗ: người trước đó nằm ở đây đã bị chuyển đi nơi khác. Tôi lại xin mọi người xê ra một quãng, thế là Clousiot có chỗ nằm cạnh tôi.
Từ chỗ tôi nằm, dù chân trái bị cùm vào thanh sắt dài, ngồi dậy tôi vẫn thấy được những ai đang diễn ra ở ngoài sân.
Sự giám sát nghiêm ngặt đến mức các đợt đi tuần hầu như kế tiếp nhau không hở phút nào, và bất cứ lúc nào cũng có những đội tuần tra đi đến từ phía ngược lại với đội trước.
Bây giờ chân tôi đã đi được rất khỏe, và chí có khi nào trời mưa tôi mới thấy đau nhức. Vậy là tôi đã đủ sức để tiến hành một cuộc vượt ngục khác, nhưng bằng cách nào? Phòng này không có cửa sổ, chỉ có một dãy song sắt rất lớn ghép liền thành một bức rào chạy hết chiều ngang và lên đến tận mái. Vị trí của nó cho phép gió đông bắc thổi vào phòng lồng lộng. Tuy đã quan sát suốt cả tuần, tôi vẫn chưa tìm được một chỗ nào sơ hở trong cách giám sát của bọn canh ngục. Lần đầu tiên, tôi hầu như đã phải chịu rằng họ sẽ có thể đưa tôi vào nhà giam cấm cố ở đảo Saint-Joseph.
Nghe nói là nhà giam này rất khủng khiếp. Người ta gọi nó là cái nhà giam “ăn thịt người”. Thêm một tài liệu nữa: nó tồn tại đã tám mươi năm nay mà chưa hề có một người nào trốn ra ngoài được.
Dĩ nhiên một khi hầu như đã chấp nhận mình thua cuộc như vậy, tôi phải nhìn về tương lai. Tôi đã hai mươi tám tuổi, mà viên đại úy dự thẩm đòi giam tôi năm năm cấm cố. Rút ngắn thời hạn này là việc hết sức khó khăn. Vậy thì khi ra khỏi nhà giam cấm cố tôi sẽ được ba mươi ba tuổi.
Tôi còn có nhiều tiền trong plan. Vậy nếu tôi không vượt ngục được - điều này gần như chắc chắn nếu cứ theo những điều tôi được biết - ít nhất tôi cũng phải làm thế nào để giữ được sức khỏe cho tốt. Năm năm trong cảnh hoàn toàn cô độc khó lòng có thể chịu đựng nổi mà không phát điên. Cho nên tôi dự tính sẽ luyện tập ngay từ ngày đầu bị cấm cố cho bộ óc của tôi hoạt động thật ngăn nắp theo một phương trình được ấn định chính xác và đa dạng. Phải cố tránh đến mức tối đa những lối mơ tưởng “xây lâu đài ở Tây Ban Nha”*(*thành ngữ Pháp có nghĩa là mơ ước những chuyện hão huyên) và nhất là tránh mơ ước những cách trả thù. Vậy ngay từ bây giờ tôi đã chuẩn bị vượt qua sự trừng phạt khủng khiếp đang chờ tôi và ra khỏi nhà giam cấm cố với tư thế của người chiến thắng. Phải, chúng nó sẽ chẳng được xơ múi gì. Tôi sẽ ra khỏi nhà giam cấm cố với một thể lực tốt, hoàn toàn làm chủ những năng lực thể chất và tinh thần của mình.
Xác lập được những dự định này và điềm tĩnh chấp nhận những gì đang đợi tôi là một điều làm cho tôi thêm vừng vàng. Ngọn gió biển lùa vào phòng mơn trớn tôi trước khi thổi đến những người khác và thực sự làm cho tôi thêm sảng khoái.
Clousiot biết rõ khi nào tôi không muốn nói chuyện. Cho nên anh ta không quấy rầy những phút yên lặng của tôi, và chỉ hút nhiều thuốc lá. Nhìn thấy mấy ngôi sao ở trên trời, tôi nói với anh:
- Nằm ở chỗ cậu có thấy sao không?
- Có anh ta nói, người hơi nghiêng về phía trước.
- Tôi thấy đừng nhìn sao thì hơn vì nó làm cho tôi nhớ những ngôi sao trong chuyến vượt ngục vừa qua quá. Cậu đừng buồn, chúng ta sẽ thấy lại hằng ngày trong một chuyến vượt ngục khác.
- Bao giờ? Năm năm nữa à?
- Clousiot ạ, cái năm mà chúng ta vừa được sống qua, tất cả những chuyện ly kỳ đã xảy ra đến với chúng ta, những con người mà chúng ta đã quen được biết chẳng lẽ lại không đáng giá năm năm cấm cố hay sao? Cậu thích ở Quần đảo ngay từ đầu hơn là đã dự cuộc vượt ngục ấy sao? Vì mấy năm cấm cố đang đợi chúng ta chắc chắn là những năm đọa đày, cậu tiếc là đã có mặt trong cuộc vượt ngục ấy sao? Cậu hãy trả lời thành thật đi, cậu có tiếc không?
- Papi ạ, cậu quên mất một điều: tôi không hề được sống bảy cái tháng thần tiền của cậu ở làng Anh-điêng. Giá tôi đã cùng đến đấy với cậu, tôi cũng sẽ nghĩ như cậu, nhưng đằng này trọn thời gian ấy tôi lại phải ngồi tù.
- Xin lỗi cậu, tôi quên mất, tôi nói bậy.
- Không, cậu không nói bậy: dù sao tôi cũng rất hài lòng về chuyến vượt ngục của chúng ta, vì chính tôi cũng đã được sống những giờ phút không thể nào quên được. Chỉ có điều tôi cũng hơi lo sợ trước những gì đang chờ tôi ở cái nhà giam “ăn thịt người”. Năm năm cắm cố là một cái gì hầu như không thể qua nổi.
Tôi liền nói với Clousiot biết những điều tôi đã quyết định làm, và tôi cảm thấy anh ta có một phản ứng rất tích cực. Thấy bạn lấy lại được sức mạnh tinh thần, tôi rất mừng. Còn mười lăm ngày nữa chúng tôi phải ra tòa. Theo những lời dồn đại viên thiếu tá sẽ đến đây chủ tọa hội đồng trừng giới có tiếng là người nghiêm khắc, nhưng hình như lại là người rất trung trực. Ông ta không dễ gì tin vào những lời xúc xiểm của Ban quản trị nhà tù. Vậy nên coi đó là một tin mừng thì hơn.
Clousiot và tôi (vì Maturette ngay khi trở về trại đã bị nhốt vào xà-lim riêng) đều không chịu nhận một viên giám thị làm trạng sư bào chữa. Cả hai quyết định rằng tôi sẽ nói thay cho cả ba chúng tôi và sẽ bào chữa cho cả nhóm.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Cuộc xét xử
Sáng hôm ấy, râu cạo nhẵn, tóc hớt gọn ghẽ, mình mặc một bộ đồ phạm nhân có sọc đỏ, chân đi giày, chúng tôi đứng trong sân đợi đến giờ được đưa ra tòa.
Chân Clousiot đã được tháo băng bột từ hai tuần trước. Anh ta đi bình thường, không bị khập khiễng.
Hội đồng trừng giới bắt đầu họp từ ngày thứ hai.
Sáng hôm nay là ngày thứ bảy, vậy trước chúng tôi đã có năm ngày xét xử các vụ khác: việc xét xử hai người cho kiến ăn tên A-rập đã choán hết một ngày. Cả hai đều bị xử tử, và từ đấy tôi không gặp lại họ nữa. Hai anh em Graville chỉ bỉ bốn năm cấm cố (vì thiếu bằng chứng về hành động ăn thịt người). Việc xét xử hai người đã kéo dài hơn nửa ngày. Trong phần còn lại, các phạm nhân can tội giết người bị xử năm hay bốn năm cấm cố.
Nhìn chung đối với mười bốn phạm nhân bị đưa ra xử, những hình phạt được ứng dụng đều có phần nghiêm khắc nhưng cũng đều chấp nhận được, không có trường hợp nào quá đáng....
Buổi xử bắt đầu lúc bảy giờ ba mươi phút. Chúng tôi đang đứng trong phòng xử thì một viên thiếu tá mặc quân phục kỵ binh lạc đà bước vào, có một viên đại úy bộ binh già và một viên trung úy đi theo phụ tá.
ở bên phải tòa một viên giám thị đeo lon đại úy làm người đại diện cho Ban quản trị, tức cho phía buộc tội.
Hôm nay Hội đồng xét vụ Charrière. Clousiot, Maturette.
Chúng tôi đứng cách tòa khoảng bốn mét. Tôi có đủ thì giờ nhìn kỹ mái đầu dãi nắng gió sa mạc của viên thiếu tá bốn mươi, bốn nhăm tuổi ấy, với đôi thái dương ngả màu bạch kim. Một đôi mày rất rậm trên một đôi mắt đen và sáng quen nhìn thẳng vào mắt mọi người. Đó là một quân nhân thực thụ. Cái nhìn của ông ta không có gì tàn ác. Ông nhìn kỹ vào mắt chúng tôi, như thể cân nhắc, đánh giá chúng tôi trong vài giây.
Mắt tôi gắn chặt vào cái nhìn của ông một lát, rồi tôi cố tình cụp mắt xuống.
Viên đại úy đại diên cho Ban quản trị lên án chúng tôi một cách gay gắt quá mức, và chính điều đó sẽ làm cho ông ta thua cuộc. Ông ta gọi hành động đánh vào đầu mấy tên giám thị để vô hiệu hóa chúng trong chốc lát là một “cuộc mưu sát”. Về phần tên giữ chìa khóa A-rập, ông ta khẳng định rằng chúng tôi đánh hắn tới tấp như vậy mà hắn không chết chẳng qua là do một sự may mắn thần kỳ. Ông ta lại phạm một sai lầm nữa khi nói rằng chúng tôi là những tên khổ sai đã đem nỗi ô nhục của nước Pháp đi bêu riếu tận những nơi xa xôi nhất kể từ khi trại khổ sai được thành lập cho đến nay: “Đến tận Colombia. Những con người này, kính thưa quan chánh án, đã vượt qua hai ngàn năm trăm cây số để làm cái việc đó. Trinidad, Curacao, tất cả các quốc gia đó chắc chắn là đã phải nghe những lời vu khống hèn hạ nhất về chế độ trừng giới của nước Pháp.
“Tôi yêu cầu Tòa xử hai tội tách biệt với tổng số tám năm cấm cố: năm năm vì tội mưu sát, và ba năm vì tội vượt ngục. Đó là về phần Charrière và Clousiot.
Còn về phần Maturette thì tôi chỉ yêu cầu giam ba năm về tội vượt ngục, vì qua cuộc điều tra có thể thấy rõ tên này không tham dự vào cuộc mưu sát.
Quan Chánh án:
- Tòa muốn được nghe kể hết sức vắn tắt về hành trình vượt biển này”.
Tôi kể lại chuyến vượt biển đến Trinidad, bỏ qua phần trên sông Maroni. Tôi mô tả gia đình Bowen với những hành động đầy tình nhân ái của họ. Tôi dẫn lại lời viên chỉ huy cảnh sát ở Trinidad: “Chúng tôi không có bổn phận phán xét hệ thống tư pháp của nước Pháp, nhưng chúng tôi không thể tán thành việc họ đày các phạm nhân của họ sang Guyane, và chính vì thế mà chúng tôi giúp các anh”; Curacao, Đức Cha Irénée de Bruyne, câu chuyện cái túi tiền florins, rồi xứ Co-lom-bia, tại sao chúng tôi đến đấy. Vài câu vắn tắt về mấy tháng tôi ở với người Anh-điêng. Ông thiếu tá im lặng nghe tôi kể, không lần nào ngắt lời. Ông chỉ hỏi thêm vài chi tiết về sinh hoạt của tôi trong bộ lạc Anh-điêng, một giai đoạn đã làm cho ông ta hết sức thích thú. Rồi đến các nhà tù Colombia, đặc biệt là cái chuồng giam ngầm của nhà tù Santa Marta.
- Cám ơn, những điều anh vừa kể đã giúp Tòa sáng tỏ thêm và đồng thời đã khiến cho Tòa rất quan tâm. Ta sẽ nghỉ mười lăm phút. Tôi không trông thấy các trạng sư bào chữa cho các anh ở đâu cả, vậy họ ở đâu?
- Chúng tôi không có trạng sư bào chữa. Tôi xin Tòa chấp nhận cho tôi được bào chữa cho các bạn tôi và cho bản thân tôi.
- Anh có thể làm việc đó, quy chế thừa nhận quyền tự bào chữa của anh.
- Cám ơn.
Mười lăm phút sau phiên tòa lại tiếp tục.
Quan Chánh án:
- Charrière, tòa cho phép anh trình bày phần bào chữa cho các bạn anh và cho bản thân anh. Tuy nhiên chúng tôi báo trước để anh biết rằng Tòa sẽ tước quyền phát biểu của anh nếu anh tỏ ra thiếu tôn trọng vị đại diện của Ban quản trị. Anh hoàn toàn có quyền tự bào chữa một cách tự do, nhưng với những lời lẽ đứng đắn. Tòa nhường lời cho anh.
- Tôi xin Tòa dứt khoát gạt bỏ lời tố cáo chúng tôi mưu sát. Đây là một điều không thể tin được, và tôi xin chứng minh điều đó: năm ngoái tôi hai mươi bảy tuổi, còn Clousiot thì ba mươi. Chúng tôi đều đang tuổi sung sức, lại mới ở Pháp sang. Chúng tôi cao một mét bảy mươi tư và một mét bảy mươi lăm. Chúng tôi đã dùng hai cái chân giường bằng sắt để đánh người A-rập giữ chìa khóa và mấy người giám thị. Trong cả bốn người ấy không có ai bị thương tích gì đáng kể. vậy họ đã bị đánh một cách rất thận trọng vì chúng tôi nhằm làm cho họ choáng đi mà không làm cho họ bị thương, và chúng tôi đà đạt dược mục đích ấy. Viên giám thị buộc tội chúng tôi đã quên nói, hoặc không biết, rằng hai cái chân giường đều quấn giẻ rất kỹ để đừng làm ai bị thương. Quý Tòa gồm toàn những quân nhân chuyên nghiệp, nên biết rất rõ những tác hại mà một người đàn ông khỏe mạnh có thể gây ra khi đánh vào đầu một người khác, dù chỉ bằng má lưỡi lê. Thế thì xin Tòa hình dung với một cái chân giường bằng sắt một người đàn ông như chúng tôi có thể làm gì. Tôi xin lưu ý Tòa rằng trong bón người bị tấn công không có ai phải vào bệnh viện.
Tôi nghĩ rằng khi một người tù chung thân vượt ngục, tội của người ấy không nghiêm trọng bằng tội của một người bị xử tù ngắn hạn hơn mà vượt ngục. ở tuổi chúng tôi người ta khó lòng có thể đành tâm chấp nhận rằng mình sẽ không bao giờ được sống lại nữa. Tôi xin Tòa khoan dung với cả ba chúng tôi.
Viên thiếu tá nói thì thầm mấy câu với hai người phụ tá, rồi ông dùng cái búa của Chánh án gõ lên bàn gấây.
- Bị cáo nhân, hãy đứng dậy
Cả ba chúng tôi đứng lên, thẳng đơ như ba cái cọc, đợi lời tuyên án.
Quan Chánh án:
- Tòa gạt bỏ hoàn toàn lời buộc tội mưu sát; về khoản này tòa không cần tuyên án, dù là tuyên án tha bổng.
Về tội vượt ngục, các anh được Tòa thừa nhận là có tội ở mức thứ hai. Vì tội này Tòa xử các hai năm cấm cố.
Chúng tôi cùng nói một lượt: “Cám ơn thiếu tá”.
Tôi nói thêm: “Xin cám ơn Tòa”.
Trong phòng xử án, những tên cảnh sát đến dự phiên Tòa cứ ngẩn người ra.
Khi chúng tôi trở về phòng giam, mọi người đều hài lòng về tin này, không ai ganh tỵ. Ngược lại. Ngay cả những người bị xử nặng cũng thành thật mừng cho sự may mắn của chúng tôi.
Francois Sierra đến ôm hôn tôi. Anh ta mừng đến phát điên lên được.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
VI. Quần Đảo Salut
Đến Quần Đảo
Mai là ngày chúng tôi phải lên tàu ra Quần đảo Salut. Mặc dầu tôi đã đem hết sức bình sinh ra cưỡng lại số phận, thế mà giờ đây chỉ còn mấy tiếng nữa tôi sẽ bị đưa đến nơi giam hãm suốt đời. Trước hết tôi phải qua hai năm cấm cố ở đảo Saint-Joseph. Tôi hy vọng sẽ làm cho cái biệt hiệu mà tù khổ sai đã đặt cho nó: đảo “ăn thịt người”, không còn đúng nữa.
Tôi sẽ thua cuộc, nhưng không hề có tâm trạng của một kẻ bại trận.
Tôi phải lấy làm mừng là chỉ phải giam hai năm trong cái nhà tù của một trại tù này. Như tôi đã tự hứa, tôi sẽ không để tình trạng hoàn toàn cô độc đưa tôi đến chỗ mất trí. Tôi đã có phương thuốc chống lại nguy cơ dó. Tôi phải thấy trước là tôi sẽ được tự do, lành mạnh như một tù nhân khổ sai bình thường trên quần đảo. Khi ra khỏi nhà cấm cố, tôi sẽ được ba mươi tuổi.
ở Quần đảo, những vụ vượt ngục hết sức hiếm hoi, tôi biết điều đó. Nhưng dù có thể đếm trên đầu ngón tay, vẫn có những người đã vượt ngục. Thế thì tôi, tôi cũng sẽ vượt ngục đó là điều chắc chắn. Hai năm nữa tôi sẽ trốn khỏi Quần đảo, tôi nhắc đi nhắc lại như vậy với Clousiot đang ngồi cạnh tôi.
- Bươm bướm, anh bạn già của tôi, quả thật khó lòng có thể làm cho anh nản chí, và tôi thật thèm muốn niềm tin mà anh mang trong lòng, niềm tin là chắc chắn một ngày kia anh sẽ được tự do. Đã suốt một năm ròng anh không ngừng vượt ngục, và chưa có lần nào anh từ bỏ ý định. Vừa mới thất bại vụ này anh đã chuẩn bị một vụ khác. Tôi lấy làm lạ rằng ở đây anh không thử làm gì cả.
- ở đây chỉ có một cách thôi, bạn ạ: tổ chức một cuộc nổi loạn. Nhưng để làm việc đó tôi không có đủ thì giờ nắm vững trong tay tất cả những con người khó điều khiển này. Tôi đã suýt gây nên một cuộc nổi loạn, nhưng tôi đã thấy sợ bị nó nuốt chứng. Bốn mươi người bị giam ở đây đều là tù khổ sai lâu năm. Con đường của sự thối nát đã cuốn hút họ, họ phản ứng khác chúng ta. Dẫn chứng: “ăn thịt người, hai anh chàng giết người bằng kiến, lại còn cái người đã bỏ thuốc độc vào xoong xúp nữa: để giết một người, hắn đã không do dự đầu độc luôn bao người khác chưa hề làm gì phương hại đến hắn.
- Nhưng ở quần đảo vẫn sẽ là kiểu người đó.
- Đúng nhưng tôi không sẽ vượt ngục ra khỏi Quần đảo mà không cần đến ai hết. Tôi sẽ ra đi một mình, hay quá lắm, là với một người bạn. Tại sao cậu lại cười mỉm hở Clousiot?
- Tôi cười là vì không bao giờ cậu chịu bỏ cuộc. Ngọn lửa dang thiêu đốt ruột gan cậu, sự nóng lòng được về Paris chìa sổ nợ ra cho ba ông bạn kia, cổ vũ cậu mạnh mẽ đến nỗi cậu không thể thừa nhận rằng những điều mà cậu mong muốn thiết tha đến thế lại có thể không được thực hiện.
- Thôi chào Clousiot, hẹn đến mai. Phải, chúng mình sẽ trông thấy cái Quần đảo Salut chết tiệt ấy. Điều đầu tiên cần phải hỏi là tại sao những hòn đảo giết người ấy lại được gọi là Quần đảo Salut (Quần đảo Cứu vãn)?
Rồi quay lưng lại với Clousiot, tôi nghiêng đầu một chút cho mặt tôi đón lấy gió biển ban đêm.
Sáng hôm sau, từ rất sớm chúng tôi đã được đưa lên tàu để ra Quần đảo. Có cả thảy hai mươi sáu người trên một chiếc tàu thủy trọng tải bốn trăm tấn gọi là chiếc Tanon, một chiếc tàu chuyên chạy ven biển đi đi lại lại như con thoi giữa Cayenne, Quần đảo Saint-Laurent và khứ hồi. Cứ hai người một bị ghép vào nhau bằng sợi xích chân và một đôi khóa tay. ở phía trước là hai nhóm tám người, mỗi nhóm được bốn tên lính canh cầm súng trường giám sát. Một nhóm mười người ở phía sau với sáu tên lính canh và hai viên chỉ huy đội áp giải. Tất cả đám người ấy đều đứng trên boong của chiếc tàu cũ nát chỉ chực đắm bất cứ khi nào biển động.
Vì đã quyết định sẽ không suy nghĩ trong khi đi đường, tôi muốn bày trò giải trí một chút. Chỉ để làm cho tên giám thị đứng gần tôi nhất bực mình (hắn có một bộ mặt đưa đám), tôi nói với hắn rõ to:
- Với những thứ xuyến xích mà các anh bắt chúng tôi mang, chúng tôi sẽ không có cách gì trốn thoát nếu chiếc tàu mục nát này chìm; điều này rất có thể xảy ra khi biển động.
Đang ngái ngủ, tên gác phản ứng đúng như tôi đã dự tính.
- Chúng mày có chết đuối hết ông cũng đếch cần. Đã có lệnh xích chúng mày lại, chỉ có thể thôi. Trách nhiệm thuộc về những người ra lệnh ấy. Còn chúng tao thì có thể nào cũng không quan hệ gì.
- Xét cho cùng ông nói có lý lắm, thưa ông giám thị, vì có bị xích hay không bị xích thì khi cái quan tài này vỡ dọc đường, tất cả chúng ta đều chìm xuống đáy biển như nhau.
- ồ! - Tên gác đần độn kia nói, - tàu này đi biển đã lâu lắm rồi mà chưa bao giờ làm sao cả.
- Đúng quá, nhưng chính vì nó đi biển đã quá lâu cho nên đến bây giờ nó đã đến mức sẵn sàng chìm bất cứ lúc nào.
Tôi đã đạt được ý muốn: lay chuyển cái không khí im lặng ở xung quanh đang làm cho tôi bứt rứt. Lập tức đề tài của tôi được tù nhân và giám thị cùng hưởng ứng.
- Đúng, chiếc tàu này đã ọp ẹp đến mức độ nguy hiểm, mà người ta lại xích chúng tôi. Không có xích thì dù sao cũng chút hy vọng.
- ồ! Cũng thế cả thôi. Bọn tao mặc quân phục đi ủng đeo súng thế này, cũng chẳng nhẹ hơn.
- Súng thì không kể, vì hễ tàu đắm có thể bỏ ngay ra, - một người khác nói.
Thấy câu nói ăn khách, tôi cho ra câu thứ hai:
- Xuồng cấp cứu đâu cả rồi nhỉ? Tôi chỉ thấy một chiếc rất nhỏ. Quá lắm cũng chỉ được tám người, vừa đủ cho ông thuyền trưởng và đội thủy thủ. Còn những người khác thì đi tong!
Thế là nổ ra một phản ứng hàng loạt, ở một cung bậc rất cao.
- Đúng đấy chẳng có xuồng xiếc gì cả, mà cái tàu này thì ọp ẹp đến nỗi người ta phải vô trách nhiệm một cách không thể nào chấp nhận được mới bắt những người có vợ có con phải bất chấp hiểm nghèo để đi áp giải cái lũ khốn kiếp này.
Vì tôi ở trong nhóm tù đứng ở phía sau, hai người chỉ huy đội áp giải đều đứng gần tôi. Một trong hai người nhìn tôi rồi nói:
- Anh là Bươm bướm ở Colombia mới về phải không?
- Vâng.
- Tôi thấy điều đó không có gì lạ: anh có vẻ thông thạo về nghề hàng hải lắm nhỉ.
Tôi trả lời một cách hợm hĩnh:
- Vâng, cái đó thì tôi thạo.
Câu nói của tôi gây được một không khí rờn rợn.
Vừa lúc ấy viên thuyền trường từ trên lầu chỉ huy bước xuống, vì bây giờ chúng tôi vừa ra khỏi cửa sông Maroni, và đó là chỗ nguy hiểm nhất cho nên ông ta phải thân hành cầm bánh lái. Bây giờ ông ta đã trao nó cho một người khác. Vậy thì ông thuyền trưởng, da đen láy như người Tombouctau, khổ người thấp và mập, mặt còn khá trẻ, cất tiếng hỏi xem những tay đã cưỡi mấy mảnh ván nhỏ xíu giong buồm đến tận Colombia ở đâu.
- Đây tay này, và tay kia nữa đứng bên cạnh, - viên chỉ huy đội áp giải nó.
- Ai là thuyền trưởng? - ông thuyền trưởng lùn nói.
- Thưa ông, tôi ạ.
- Thế thì, với tư cách thủy thủ, tôi có lời ngợi khen anh bạn. Anh chẳng phải là người tầm thường. Tôi có cái này! - Ông ta thọc tay vào túi áo rồi nói tiếp - Anh hãy nhận lấy gói thuốc lá xanh và mớ lá quấn thuốc này. Anh hút để chúc sức khỏe cho tôi đi.
- Cám ơn ông thuyền trưởng. Nhưng về phần tôi, tôi cũng phải ngợi khen ông đã có đủ can đảm đi biển trên cái quan tài này, hình như mỗi tuần một hai lần thì phải.
Ông ta cười ha hả, làm cho những kẻ tôi đang muốn trêu thấy tức đến tận cổ. Ông ta nói:
- Chà! Anh nói đúng quá! Cái tàu khổ này đáng lẽ phải được đưa vào nghĩa địa từ lâu, nhưng bên công ty họ nhất định đợi cho nó chìm để lĩnh tiền bảo hiểm.
Tôi liền kết thúc bằng một câu xỏ xiên:
- Cũng may mà ông và đội thủy thủ còn có được một cái xuồng cáp cứu.
- Phải, cũng còn may - ông thuyền trường nói một cách thiếu suy nghĩ trước khi mất hút trong cầu thang.
Cái đề tài tranh luận mà tôi đã cố ý nêu ra đã làm cho tôi được khuây khỏa trong hơn bốn tiếng đồng hồ. Ai nấy đều có ý kiến riêng để nói ra, và đến một lúc nào đó, tôi chẳng hiểu bằng cách nào, cuộc bàn cãi đã lan ra đến tận mũi tàu.
Vào khoảng mười giờ sáng, biển không động mấy, nhưng gió không thuận lợi cho chuyến đi. Tàu chúng tôi đi về hướng đông bắc, nghĩa là ngược chiều với sóng và gió, cho nên tất nhiên nó phải tròng trành cả theo chiều ngang lẫn theo chiều dọc hơn mức trung bình. Nhiều tù nhân và giám thị bị say sóng. Cũng may mà người bị xích liền vào tôi chịu sóng giỏi, vì không có gì khó chịu hơn là có một người nôn ọe ngay bên cạnh mình. Anh này là một gã du côn Paris thứ thiệt. Anh ta bị đày đến Quần đảo năm 1927. Vậy là đã được bảy năm. Anh ta còn tương đối trẻ, chỉ ba mươi tám tuổi.
- Người ta gọi tôi là Titi la Belote, vì tôi phải nói cho cậu biết rằng bài belote là môn sở trường của tôi. Vả lại ở Quần đảo tôi sống bằng nghề đánh bài này. Belote suốt đêm, mỗi điểm ăn hai francs, Nếu đánh có “loan báo” thì có thể ăn thua rất lớn. Nếu anh thắng bằng một con bồi hai xu thì người thua phải trả cho anh bốn trăm francs và một ít tiền lẻ cho các điểm khác nữa.
- Nhưng ở Quần đảo sao lắm tiền thế?
- Sao mà chả lắm hở anh bạn Bươm bướm. ở quần đảo đầy những plans nhét tiền chật ních. Có người thì đến nơi đã có sẵn, có người thì nhận được tiền qua bọn giám thị với điều kiện chia cho chúng năm mươi phần trăm. Rõ ràng anh còn mới toanh, có vẻ như chưa biết gì cả phải không?
- Đúng, tôi chẳng biết chút gì về Quần đảo. Tôi chỉ biết là ở đấy khó vượt ngục lắm.
- Vượt ngục ấy à? - Titi nói. - Thôi đừng nói nữa cho mệt. Tôi ở Quần đảo đã bảy năm, có xảy ra hai vụ vượt ngục, với kết quả là ba người chết và hai người bị bắt. Chưa ai thành công cả. Vì vậy chẳng mấy ai dám cầu may.
- Vừa rồi anh lên đất liền để làm gì?
- Vừa rồi tôi đi chiếu điện xem thử có bị loét dạ dày hay phổi gì không.
- Thế mà anh không cố trốn khỏi bệnh viện à?
- Khéo nói nhỉ! Chính anh đã làm hỏng hết đấy. Papillon ạ. Thế mà vừa rồi tôi lại có cái may mắn rơi đúng vào căn phòng trước kia, anh đã trốn đi. Anh cũng thừa hiểu họ giám sát kỹ như thế nào! Cứ mỗi lần ra gần cửa sổ để thở một chút là họ bắt lùi lại ngày. Khi hỏi tại sao thì họ trả lời: “Để phòng trường hợp anh nảy ra cái ý làm như Papillon”.
- Titi này, cái tay cao lớn ngồi bên cạnh viên chỉ huy đội áp giải là ai thế? Một tay chỉ điểm à?
- Anh điên rồi sao? Gã này ai cũng phải quý trọng. Cậu ta vốn là dân trường giả, nhưng lại biết xử sự đúng như một tay giang hồ: không đi lại với bọn gác, không tìm cách chiếm vị trí ưu đãi, biết giữ tư cách một người tù khổ sai. Có khả năng mách bạn một lời khuyên tốt, nói chung là một người bạn tốt, rất biết giữ khoảng cách với bọn cảnh sát. Ngay cả ông linh mục và ông bác sĩ cũng không sử dụng được cậu ta. Con người gốc gác thì trưởng giả nhưng tư cách thì giang hồ chân chính này là con cháu của Louis XV. Thế đấy anh bạn ạ, đó là một bá tước, một bá tước chính cống, dược gọi là bá tước Jean de Bérac. Tuy vậy, khi cậu ta mới đến, ai nấy đều xa lánh, và phải một thời gian rất dài cậu ta mới chinh phục được sự kính nể của mọi người, vì cái tội khiến cho cậu ta bị đày khổ sai là một trò rất tởm.
- Cậu ta đã làm gì thế
- ấy, cậu ta đã đứng trên cầu ném thằng con trai ruột xuống sông, và khi thấy thằng bé rơi xuống chỗ quá cạn, cậu ta đã đủ gan góc xuống bế nó đến ở một chỗ sâu hơn.
- Sao! Như thế là gần như giết thằng con hai lần còn gì?
- Theo một người bạn của tôi vốn làm kế toán và đã đọc hồ sơ của cậu ta thì cậu ta đã bị giới quý tộc khủng bố. Và mẹ cậu ta đã ném người mẹ của con mình ra đường như một con chó. Cô ấy là một nữ tỳ trẻ tuổi trong lâu đài nhà họ. Theo bạn tôi thì cậu này chịu sự chế ngự của một bà mẹ kiêu ngạo, câu nệ đã hạ nhục con trai đến cùng cực, đã làm cho cậu ta thấy rằng mình là một bá tước mà đi lại với một con đầy tớ là ô nhục cho cả giòng họ, đến nỗi cậu ta hoang mang quá nói với mẹ thằng bé là mình đưa nó ra cho trại Tế bần nuôi rồi đi ném nó xuống sông: lúc ấy cậu gần như mất trí, cũng chẳng biết mình làm gì nữa.
- Cậu ta bị xử bao nhiêu?
- Mười năm thôi. Papillon ạ, cậu cũng thừa biết cậu ta không phải là một tay như chúng mình. Chắc là bà bá tước phu nhân, người bảo vệ danh dự của gióng giõi de Berac, đã làm cho bọn quan tòa hiểu rằng giết con của đày tớ không phải là một tội quá nặng khi tội nhân là một bá tước muốn cứu vãn thanh danh của gia đình.
- Kết luận?
- Kết luận của tôi, một thằng du đãng Paris hèn mọn, là như sau: về căn bản, bá tước Jean de Bérac này là một anh chàng quý tộc nông thôn đã được giáo dục như thế nào để đi đến chỗ quan niệm rằng trên đời này chỉ có “dòng máu xanh” (huyết thống quý tộc) là có giá trị, còn mọi thứ khác đều vô nghĩa lý và không có chút gì đáng cho người ta để tâm đến. Những người không phải là quý tộc thì không hẳn là hạng nông nô, nhưng dù sao cũng là những con người không cần đếm xỉa đến. Mẹ cậu ta là một quái vật của sự ích kỷ và sự hợm hĩnh, đã nhào nặn và khủng bố cậu ta đến mức làm cho cậu ta trở thành một kiểu người quý tộc như thế. Chính cuộc sống ở trại khổ sai đã làm cho vị chúa đất ấy, xưa kia vẫn tin rằng mình có đặc quyền thưởng thức trước tất cả những người con gái trên lãnh địa của mình trong đêm đầu tiên họ đi lấy chồng, nay đã trở thành một người tôn quý thật sự, theo cái nghĩa đúng của từ này. Nói ra nghe cũng ngược đời, nhưng phải đến bây giờ cậu ta mới thực sự là một người quý phái, là một bá tước.
Quần đảo Salut chỉ còn mất giờ nữa sẽ không còn là một cái gì xa lạ đối với tôi như trước nữa. Tôi biết rằng trốn khỏi quần đảo là rất khó. Nhưng không phải là không thể được. Vừa khoái trá hít mạnh gió biển khơi vào lồng ngực, tôi vừa nghĩ: đến bao giờ thì làn gió ngược này sẽ biến thành một làn gió xuôi trong một chuyến vượt ngục”?
Chúng tôi đã đến. Quần đảo kia rồi? Ba cái đảo ấy làm thành một hình tam giác. Đảo Royale và đảo Saint-Joseph làm thành cái đáy. Đảo quỷ là đỉnh. Mặt trời, lúc bấy giờ đã xế bóng, chiếu vào các đảo những tia sáng rực rỡ mà chỉ có ở vùng nhiệt đới mới có thể chói chang như vậy. Cho nên chúng tôi có thể tha hồ ngắm nghía từng đảo đến những chi tiết nhỏ nhất. Trước hết là đảo Royale với một dải đất cong phẳng lì bao quanh một ngọn đồi tròn cao hơn hai trăm mét. Đỉnh đồi bằng phẳng. Nhìn toàn cục, nó rất giống một cái mũ Mexico đặt trên mặt biển, cái chóp đã bị cắt mất, đâu đâu cũng có những rặng dừa rất cao và rất xanh tốt. Những nếp nhà nho nhỏ lợp ngói đỏ làm cho hòn đảo này có một sức hấp dẫn lạ thường, và ai không biết rõ trên đảo có gì chắc sẽ mơ ước được sống trên đảo suốt đời. Trên đỉnh đồi bằng phẳng có đặt một ngọn hải đăng được thắp về đêm để khi sóng to gió lớn tàu bè khỏi đâm vào các tảng đá ở xung quanh. Bây giờ tàu đã đến gần hơn, tôi có thể trông rõ năm tòa nhà lớn và dài.
Nhờ có Titi tôi được biết rằng trước hết đó là hai phòng giam rộng mênh mông chứa đến bốn trăm phạm nhân. Rồi đến khu trấn áp với những căn buồng giam, xà-lim và chuồng sắt, có một bức tường cao vây quanh. Tòa nhà thứ tư là bệnh viện của tù khổ sai và tòa nhà thứ năm là bệnh viện của những người canh gác trại tù. Và rải rác khắp nơi trên các sườn dốc là những ngôi nhà nhỏ, mái lợp ngói đỏ, của các cảnh sát viên. Xa chúng tôi hơn, nhưng rất gần với mũi nhọn cuối đảo Royale là đảo Saint-Joseph, ít dừa hơn, ít cành lá um tùm hơn, và trên đỉnh cao nguyên là một cái nhà trệt rộng mênh mông mà từ ngoài biển nhìn vào trông rất rõ. Tôi hiểu ngay: đó là nhà tù cấm cố và Titi la Belote cũng xác nhận điều đó. Anh ta chỉ cho tôi xem, ở phía dưới, những tòa nhà của trại tù, nơi giam các phạm nhân bị án bình thường. Các tòa nhà này rất gần biển. Các tháp canh nổi lên rất rõ trên nền trời, với những ổ súng của nó. Rồi lại đến những nếp nhà xinh xắn đỏm dáng, tường quét vôi trắng, mái ngói đỏ. Vì chiếc tàu đi vào ngỏ đảo Royale từ phía nam cho nên bây giờ chúng tôi không trông thấy đảo Quỷ, đảo nhỏ nhất trong cả Quần đảo. Trước đây tôi đã có dịp nhìn thoáng qua đảo này từ xa: đó là một tảng đá khổng lồ mọc đầy dừa, không có công trình xây dựng gì lớn. Vài nếp nhà ven bờ biển, sơn vàng, mái đen mồ hóng. Về sau tôi sẽ được biết rằng đó là nhà ở của những người bị đày vì chính trị.
Tàu chúng tôi đang đi vào bến cảng của đảo Royale, được che kín sóng bằng một cái đập dài làm bằng những khối đá lớn. Công trình này chắc đã phải tốn nhiều sinh mạng của phạm nhân mới xây được.
Sau ba tiếng còi, chiếc Tanon bỏ neo cách bến khoảng hai trăm năm mươi mét. Bến này xây rất chắc bằng xi-măng và bằng đá tảng, chiếm một quãng dài và cao hơn ba mét. Lùi vào phía trong những tòa nhà sơn trắng chạy dài song song với bến. Tôi đọc thấy những dòng chữ sơn đen trên nền trắng: “Trạm gác” - “Sở Dịch vụ thuyền bè” - “Xưởng bánh mì” - “Ban Quản trị cảng”.
Có thể trông thấy mấy người tù khổ sai đang đứng nhìn chiếc tàu. Họ không mặc đồ sọc, mà đều mặc quần dài thường và một thứ blouson trắng. Titi la Belote nói với tôi rằng ở Quần đảo những người có tiền thì thuê thợ may “may đo” áo quần bằng những cái bao bột đã tẩy sạch chữ: họ có được những bộ áo quần mặc rất thoải mái và trông có phần diện nữa là khác. Hầu như không một người nào mặc đồng phục tù khổ sai.
Một chiếc xuồng đến gần chiếc Tanon.
Một viên giám thị ngồi sau lái; hai tên cầm súng trường ngồi hai bên mạn; ở phía sau là sáu người tù khổ sai, mình trần, quần trắng, đứng chèo bằng những mái chèo rất lớn. Chỉ một lát là ra đến tàu.
Chiếc xuồng của họ kéo theo sau một chiếc thuyền lớn kiểu xuồng cấp cứu của tàu thủy. Cuộc chuyển từ lên bờ bắt đầu. Trước hết mấy viên chỉ huy đội áp giải xuống thuyền và ra ngồi ở phía sau. Rồi hai viên giám thị cầm súng trường đi ra phía trước. Chân được tháo xiềng, nhưng tay vẫn bị khóa, chúng tôi xuồng thuyền từng hai người một; mười người trong nhóm tôi, rồi đến tám người trong nhóm đứng ở phía trước tàu. Mấy người chèo thuyền bắt đầu cho thuyền tách khỏi chiếc tàu. Họ còn chở ra một chuyến nữa để đưa số tù còn lại vào bờ.
Chúng tôi lên bến, xếp hàng trước tòa nhà “Ban Quản trị cảng” và đứng đợi. Trong chúng tôi không có ai có hành lý gì. Chẳng đếm xỉa gì đến bọn cảnh sát, các phạm nhân tại chỗ bô bô nói chuyện với chúng tôi từ một khoảng cách năm sáu mét - đủ để đừng bị bọn cảnh sát tấn công. Nhiều phạm nhân cùng vượt Đại tây dương trên một chuyến tàu với tôi thân ái chào tôi. Cesari và Essari, hai tên cướp đảo Corse mà tôi đã làm quen ở Saint-Martin, cho tôi biết hiện nay họ chèo xuồng cho sở dịch vụ ở cảng. Vừa lúc ấy tôi trông thấy Chapar, bị đày trong vụ Chứng khoán ở Marseille, mà tôi có quen khi anh ta còn được tự do ở Pháp. Không hề e ấp trước mặt bọn lính canh, anh ta nói với tôi:
- Đừng buồn Papillon ạ! Cậu cứ tin ở bạn bè, ở nhà giam cấm cố cậu sẽ không thiếu thứ gì hết. Cậu bị bao nhiêu?
- Hai năm.
- Được cũng chóng qua thôi, rồi cậu sẽ ra đây với chúng tớ, và sẽ thấy rằng ở đây cũng khá.
- Cám ơn Chapar. Còn Dega ở đâu?
Bác ta làm kế toán ở trên kia. Bác chưa ra đây thì lạ thật. Không gặp được cậu bác ta sẽ tiếc lắm. Vừa lúc đó Galgani đến. Anh ta xăm xăm đi về phía tôi, tên lính ác toan cản, nhưng anh ta cứ đến, nói: “Chẳng lẽ ra ôm hôn anh ruột tôi mà anh cũng cản à? Thật quá quắt. Rồi anh ta ôm hôn tôi, nói: “Cứ tin vào tôi”. Đoạn anh ta lùi ra.
-Anh bây giờ làm gì?
- Đưa thư, giao liên.
- Có ổn không?
- Tôi được yên thân lắm.
Những người tù còn lại đã được đưa hết lên bờ và cho nhập bọn với chúng tôi. Mọi người đều cởi khóa tay. Titi la Belote, de Bérac và mấy người không quen tách ra khỏi nhóm. Một viên giám thị nói với họ: “Nào, lên đường về trại”. Mấy người này có mang theo bị đựng đồ của trại. Họ vác bị lên vai và đi theo một con đường dốc dẫn lên phía trên đảo. Viên chỉ huy Quần đảo đến với sáu viên giám thị. Điểm danh. Viên chỉ huy nhận đủ số tù. Đội áp giải chúng tôi lui ra.
- Kế toán đâu? - Viên chỉ huy hỏi.
- Thưa sếp hắn đây.
Tôi thấy Dega đến, mặc một bộ đồ trắng tươm tất, áo vét có nhiều khuy, cùng đi với một viên giám thị; mỗi người cắp một cuốn sách lớn. Cả hai gọi từng người một ra khỏi hàng, theo cách phân loại mới: anh tù cấm cố Jean Mỗ, số tù X, sẽ có số tù cấm cố là Z.”
- Bao nhiêu?
- X năm.
Khi đến lượt tôi, Dega ôm hôn tôi mấy lần liền.
Viên chỉ huy lại gần.
- Anh này là Papillon à?
Thưa ông chỉ huy vâng, - Dega nói
- Mong anh giữ sức khỏe ở nhà tù cấm cố. Hai năm cũng chóng qua thôi.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Nhà giam cầm cố
Một chiếc xuồng đã được chuẩn bị sẵn sàng. Trong số mười chín tù nhân cấm cố sẽ có mười người di chuyển trước. Tôi được gọi tên để lên xuồng. Dega thản nhiên nói: “Không, anh này đi chuyến sau”.
Từ khi đến đây tôi đã phải sửng sốt khi nghe cách ăn nói của các tù nhân. Rõ ràng là họ không đếm xỉa đến kỷ luật và có vẻ như chẳng coi bọn cảnh sát ra gì hết. Tôi nói chuyện với Dega lúc bấy giờ đã đến đứng gần tôi. Bác ta đã biết hết chuyện vượt ngục của tôi cũng như những chuyện khác có liên quan đến tôi. Có những người đã tiếp xúc với tôi ở Saint-Laurent có đến Quần đảo và kể lại cho bác biết hết. Bác ta không hề tỏ ý thương xót tôi. Bác ta tế nhị hơn nhiều. Chỉ một câu thôi nói tự đáy lòng: “Cậu rất xứng đáng thành công. Thôi để lần sau?” Thậm chí bác ta cũng không nói “Can đảm lên “. Bác thừa biết rằng cái đó thì tôi có thừa.
- Tôi làm kế toán trưởng ở đây và có quan hệ rất tốt với ông chỉ huy. ở nhà giam cấm cố cậu cố gắng có hạnh kiểm tốt. Tôi sẽ gửi cậu ít thuốc lá và thức ăn. Cậu sẽ không thiếu thứ gì đâu. Papillon, đi thôi! - Đã đến lượt tôi.
- Xin chào tất cả. Cám ơn những lời lẽ chân tình của các bạn.
Tôi xuống thuyền. Hai mươi phút sau, thuyền cặp bến ở Saint-Joseph. Tôi có đủ thì giờ nhận thấy trên thuyền chỉ có ba viên giám thị có súng, trong khi có đến sáu người tù chèo thuyền và mười người tù cấm cố Phối hợp để chiếm lĩnh cái thuyền này chỉ là một trò đùa.
ở Saint-Joseph, một ủy ban tiếp đón ra nhận chúng tôi. Có hai viên chỉ huy tự giới thiệu: viên chỉ huy trại trừng giới của đảo và viên chỉ huy của Nhà giam cấm cố. Chúng tôi được dẫn bộ đi lên con đường dốc đến nhà giam. Trên đường đi không thấy một người tù nào.
Khi đi vào cửa sắt lớn ở bên trên có mấy chữ Nhà giam cấm cố trừng giới, người ta có thể hiểu ngay tầm quan trọng của cái phương tiện trấn áp này. Bên trong tấm cửa và bốn bức tường cao ở xung quanh, trước hết có một dãy nhà nhỏ có đề: “Ban giám đốc - Quản trị”, rồi ba dãy nhà khác đề A, B, C. Chúng tôi được đưa vào dãy nhà của ban giám đốc. Một gian phòng lạnh lẽo. Khi mười chín người đã được xếp thành hai hàng trong phòng, viên chỉ huy Nhà giam cấm cố nói với chúng tôi:
- Các phạm nhân cấm cố, các anh biết rằng nhà này là một nhà trừng giới dành cho những phạm nhân đã bị đày khổ sai mà lại còn có những hành động phạm pháp. ở đây người ta không tìm cách cải huấn các anh. Chúng tôi biết rằng việc đó vô ích. ở đây người ta chỉ tìm cách trấn áp các anh. Chỉ có một nội quy duy nhất: câm mồm. Im lặng tuyệt đối, “gọi điện” là việc rất nguy hiểm, nếu bị bắt gặp sẽ bị phạt rất nặng. Nếu không ốm nặng, chớ đăng ký xin đi khám. Vì nếu khám không thấy có bệnh nặng, các anh sẽ bị phạt rất nghiêm. Đó là tất cả những gì tôi cần nói với các anh. à quên, ở đây nghiêm cấm hút thuốc. Giám thị, hãy lục soát kỹ các phạm nhân, rồi đưa từng người về xà-lim. Charrière, Clousiot và Maturette không được ở cùng một nhà. Ông Santori, ông phải thân hành trông coi việc này.
Mười phút sau tôi bị nhốt vào căn xà-lim dành cho tôi căn số 234 của dãy nhà A.Clousiot bị giam ở dãy nhà B và Maturette ở dãy nhà C. Chúng tôi đưa mắt từ biệt nhau. Khi bước vào đây, tất cả chúng tôi đều hiểu ngay rằng nếu muốn sống sót mà ra khỏi thì nhất nhất phải tuân theo cái nội quy vô nhân đạo này. Tôi từ giã hai người bạn đường của tôi trong chuyến vượt ngục dài ngày, hai người bạn hào hùng và dũng cảm đã tỏ rõ phẩm chất mình trong khi đi với tôi và không hề bao giờ kêu ca hay hối tiếc những gì họ đã cùng làm bên cạnh tôi. Tim tôi se lại, vì sau mười bốn tháng vật lộn vai kề vai để dành lại tự do, chúng tôi đã vĩnh viễn gắn bó với nhau bằng một tình bạn không bờ bến.
Tôi xem xét căn buồng giam mà họ đã lùa tôi vào. Không bao giờ tôi có thể dự đoán hoặc tường tượng rằng một nước như nước Pháp của tôi, vốn là người mẹ của tự do trên trái đất này, là đất nước đã sinh ra Nhân quyền và Dân quyền, lại có thể dựng lên, dù là ở Guyane thuộc Pháp, trên một hòn đảo chơi vơi giữa Đại tây dương, rộng vừa bằng cái mùi-soa bỏ túi, một trại giam có tính chất trấn áp man rợ như cái nhà giam trừng giới ở Saint-Joseph. Cái bạn hãy tương tượng một trăm năm mươi căn xà-lim kế cận nhau, giáp lưng nhau, bốn bức tường rất dày chỉ có một cánh cửa sắt nhỏ với cái lỗ ghi-sê của nó. ở phía trên mỗi ghi-sê đều có dòng chữ đề: “Cấm mở cửa này nếu không có lệnh trên”. ở bên trái căn buồng là một tấm ván làm giường nằm với một cái gối bằng gỗ, cũng được thiết bị như ở Beaulieu: tấm ván có thể lật lên móc sát vào tường; một tấm chăn; một khối xi-măng xây ở góc trong dùng làm ghế; một cái chổi nhỏ; một cái ca nhà binh, một cái thìa bằng gỗ, một tấm sắt mỏng dựng đứng che một cái bô bằng kim loại buộc vào tấm sắt kia bằng một sợi xích (từ phía ngoài có thể kéo nó ra để đổ, và từ phía trong có thể lôi nó vào để dùng). Buồng cao ba mét, trần là một dãy song sắt rất lớn, mỗi chấn song to bằng một thanh đường ray xe điện, bắt chéo nhau rất dày để không thể có một vật gì hơi to hơn có thể lọt qua. Rồi, cao hơn nữa, là mái của tòa nhà, cách mặt đất khoảng bảy mét. Phía trên bức tường ngăn cách các xà lim quay lưng vào nhau là một con đường đi tuần rộng khoảng một mét, có tay vịn bằng sắt, nhìn thẳng xuống các buồng giam. Hai viên giám thị thường xuyên đi từ đầu đường cho đến giữa đường: ở đây họ gặp nhau và quay trở lại. Tất cả gây thành một ấn tượng rùng rợn. ánh sáng ban ngày chiếu vào con đường đi tuần đủ sáng. Nhưng ở các buồng giam, dù đang giữa ban ngày, thì tối mờ mờ không nhìn thấy rõ những vật xung quanh. Tôi bắt đầu đi đi lại lại ngay, trong khi chờ đợi họ huýt còi bay ra một hiệu lệnh gì đó không biết để cho phép tù nhân hạ tám ván xuống mà nằm.
Để khỏi gây tiếng động, tù nhân và lính gác đều đi giày vải. Tôi nghĩ ngay: “ở đây, tại buồng giam 234, Charriere biệt hiệu Bươm bướm, sẽ có gắng sống mà không phát điên trong thời hạn hai năm, tức bảy trăm ba mươi ngày. Hắn có bổn phận cải chính cái biệt hiệu “ăn thịt người” của nhà giám cấm cố này. Một, hai, ba, bốn, năm quay đằng sau. Một hai, ba, bốn, năm, quay đằng sau. Tên lính gác vừa đi qua trên nóc tường trước mặt tôi. Tôi không nghe thấy tiếng chân hắn đến, tôi chỉ trông thấy hắn. Tách. Đèn bật lên, nhưng rất cao, treo mãi tận mái trên, cách mặt đất hơn sáu mét. Lối đi tuần được chiếu sáng, các buồng giam vẫn chìm trong bóng tối. Tôi đi đi lại lại, cái quả lắc lại đung đưa. Hãy ngủ yên, hỡi mấy miếng phó-mát của hội đồng bồi thẩm đã xử tôi, các người hãy ngủ yên, vì tôi tin rằng nếu hồi ấy các người biết các người sẽ đưa tôi đến chỗ nào, các người sẽ thấy ghê tởm và sẽ không chịu làm những kẻ đồng lõa với việc thi hành một hình phạt như vậy.
Khó lòng thoát khỏi tình trạng đi lang thang của trí tưởng tượng. Hầu như không thể nào thoát được. Tôi nghĩ nên hướng nó về những đề tài không đến nỗi buồn nản quá thì hơn là cố xua đuổi hắn nó đi. Quả nhiên, hiệu lệnh cho phép hạ ván nằm xuống là một tiếng còi. Tôi nghe thấy một giọng thô lỗ nói:
- Những người mới đến nên biết rằng kể từ bây giờ, nếu muốn, thì có thể hạ ván xuống để nằm.
Tôi chỉ ghi nhớ hai chữ “nếu muốn”. Cho nên tôi tiếp tục đi đi lại lại, giờ phút này quá nghiêm trọng để có thể ngủ. Tôi cần phải tập cho mình quen với cái chuồng hở phía trên này.
Một, hai, ba, bốn, năm... tôi đã nắm vững được ngay cái tiết tấu của quả lắc; đầu cúi xuống, hai tay chắp sau lưng khoảng cách từ bước đi phải thật đều và thật chính xác, như một quả lắc đưa qua đưa lại, tôi đi đi lại lại và cùng tận như một kẻ mộng du. Bước hết năm bước, tôi không cần trông thấy bức tường, áo tôi chỉ chạm nhẹ vào nó khi quay lại cứ thế mãi không hề mệt mỏi trong cuộc đua marathon không có đích mà cũng không cơ thời hạn chấm dứt.
Phải, thật đấy Papi ạ, cái nhà giam “ăn thịt người” không phải là trò đùa. Và khi bóng tên lính gác hắt xuống tường, nó gây một hiệu quả thật dễ sợ. Nếu ngẩng đầu lên mà nhìn thì còn nản hơn nữa: người ta có cảm giác mình là một con báo bị nhốt dưới hố, còn ở phía trên là người đi săn vừa bắt được báo đang nhìn xuống để quan sát nó. Cái ấn tượng thật là hãi hùng, và tôi phải mất đến mấy tháng trời mới quen được.
Mỗi năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày; hai năm là bảy trăm ba mươi ngày, nếu không có năm nhuận. Tôi mỉm cười vì cái ý này. Anh ạ, dù có là bảy trăm ba mươi mốt thì cũng thế thôi. Tại sao lại cũng thế thôi? Không, không phải cũng thế thôi đâu. Thêm một ngày là thêm hai mươi bốn giờ đồng hồ. Mà hai mươi bốn giờ đòng hồ cũng lâu lắm. Bảy trăm ba mươi lần hai mươi bốn giờ lại còn lâu hơn nhiều. Tổng cộng lại thì thành bao nhiêu giờ nhỉ? Liệu tôi có đủ sức tính nhẩm ra con số đó không? Làm thế nào tính nhẩm được, chịu thôi. Sao lại chịu? Tính được chứ. Xem nào. Một trăm ngày là hai ngàn bốn trăm giờ. Nhân cho bảy rất dễ trước hết ta có mười sáu ngàn tám trăm giờ. Rồi ta nhân ba mươi ngày còn lại cho hai mươi bốn thành bảy trăm hai mươi giờ. Tổng cộng: một vạn sáu ngàn tám trăm cộng với bảy trăm hai mươi, vị chi là một vạn bảy ngàn năm trăm hai mươi giờ, nếu tôi không nhầm chỗ nào. Thưa ngài Papillon thân mến, ngài có cả thảy một vạn bảy ngàn năm trăm hai mươi giờ để mà giết trong cái chuồng được thiết kế riêng cho thú dữ này, với bốn bức tường nhẵn nhụi của nó. Vậy chứ tôi sẽ ở đây bao nhiêu phút nhỉ? Cái đó chẳng có chút gì thú vị, giờ thì còn được chứ phút thì nghĩa lý gì? Ta không nên cường điệu quá. Tại sao lại không tính cả giây nữa nhỉ? Điều đó quan trọng là phải có cái gì lấp đầy những ngày, những giờ, những phút ấy trong khi tôi sống một mình, tự mình đối diện với mình! Ai bị giam ở buồng bên phải nhỉ? ai ở buồng bên trái? ai ở buồng phía sau? Ba con người đó, nếu trong các buồng giam ấy có người, chắc cũng phải tự hỏi: ai vừa vào buồng 234?
Có một tiếng động mềm của một vật gì vừa rơi xuống ở sau lưng tôi, trên nền xà~lim. Cái gì thế nhỉ? Phải chăng người tù kế cận đã khéo tay vứt cho tôi một vật gì qua hai lần chấn song? Tôi cố nhìn cho ra xem đó là vật gì. Chỉ thấy mờ mờ một cái gì nho nhỏ, dài dài. Tôi đã sắp cầm nó lên, thì cái vật mà trong bóng tối mờ mờ tôi đoán ra được nhiều hơn là trông thấy nó, tự dưng cử động và chạy nhanh về phía tường. Khi nó nhúc nhích, tôi bất giác giật mình lùi lại. Đến chân tường, nó bắt đầu leo lên một quãng rồi tuột xuống đất. Bức tường nhẵn nhụi đến nỗi vật kia không thể bám đủ chặt để leo lên. Tôi để cho nó thử leo lên tường ba lần, rồi đến lần thứ tư, khi nó rơi xuống, tôi giẫm mạnh chân lên. Dưới lớp giày vải tôi thấy mềm mềm. Cái gì thế nhỉ? Tôi quỳ xuống để nhìn cho thật sát, và cuối cùng tôi đã nhìn ra được: đó là một con rết khổng lồ, dài hơn hai mươi phân, thân rộng bằng hai ngón tay cái Tôi thấy tởm lợm đến nỗi không dám nhặt nó lên để bỏ vào bô. Tôi dùng chân đẩy nó vào gầm ván. Đến mai hãy xem cho sáng. Về sau tôi sẽ còn đủ thì giờ trông thấy nhiều rết nữa; nó rơi từ cái mái nhà rộng ở trên kia. Tôi sẽ phải học cách để cho nó bò trên thân thể để trần của tôi, không bắt, cũng không động đến nó nếu tôi đang nằm. Tôi cũng sẽ có dịp biết rõ rằng những khi nó đang bò trên người, chỉ một sai lầm nhỏ về chiến thuật thôi cũng bắt người ta phải trả giá bằng những cơn đau đớn dừ dội đến thế nào. Một mũi đốt của con vật kinh tởm này đủ làm cho anh sốt nặng trong hơn mười hai tiếng đồng hồ và làm cho đau nhức khủng khiếp trong gần sáu tiếng đồng hồ.
Dù sao chăng nữa nó vẫn có thể được dùng như một phương tiện giải trí, một lối thoát cho những ý nghĩ của tôi. Về sau mỗi khi có một con rết rơi xuống trong khi tôi đang thức, tôi thường lấy cái chổi con trêu chọc nó, vật lên vật xuống thật lâu, hoặc bày trò chơi với nó bằng cách để cho nó chạy đi nấp và một lát sau tôi tìm cách phát hiện ra nó.
Một, hai, ba, bốn, năm... Xung quanh im lặng hoàn toàn. ở đây không ai ngáy thì phải? Không ai ho hay sao? Trời nóng nực đến ngạt thở. Thế mà bây giờ đang là ban đêm! Còn ban ngày thì phải nóng đến thế nào nữa? Số tôi là phải sống với rết hay sao ấy. Khi nước thủy triều lên ngập cái buồng giam ở Santa Marta, rết vào từng mớ, nó nhỏ hơn nhưng cũng là cùng một dòng họ với lũ rết ở đây. ở Santa Marta quả tình ngày nào cũng bị ngập lụt, nhưng người ta được nói, được hét, được nghe tiếng hát hoặc tiếng hú và nghe những câu nói lảm nhảm của những người điên tạm thời hay vĩnh viễn. Chẳng phải như thế này. Nếu được chọn tôi sẽ chọn Santa Marta. Chà, anh nói thế là phi lô-gích mất rồi, Papi ạ. ở đấy, mọi người đều nhất trí nói rằng thời hạn tối đa mà một con người có thể chịu đựng được là sáu tháng. Thế mà ở đây có nhiều người phải giam đến bốn năm năm hoặc hơn nữa. Người ta bắt họ phải chịu đựng như. Vậy là là một chuyện; còn họ có chịu đựng được không lại là chuyện khác. Có bao nhiêu người tự tử. Tôi cũng chẳng biết người ta làm cách gì để tự tử nữa. à cũng có cách. Chẳng dễ gì đâu, nhưng người ta có thể tự tử bằng cách thắt cổ chẳng hạn. Người ta xé quần ra làm một sợi dây. Buộc cái chổi con vào một đầu dây rồi leo lên tấm ván, người ta có thể ném sợi dây qua chấn song. Nếu buộc dây sát vào bức tường có lối đi tuần ở phía trên, chắc tên lính gác sẽ không trông thấy sợi dây. Đúng vào lúc hắn vừa đi qua, anh cứ việc nhảy ra khỏi tấm ván và lủng lẳng trên không. Khi tên lính gác quay lại thì anh đã đi rồi. Vả chăng chắc hắn cũng chẳng vội vàng gì mà chạy nhanh xuống mở buồng giam cho anh. Mở cửa buồng ư. Hắn không thể mở được. Trên cánh cửa đã có đề: “Cấm mở cửa này nếu không có lệnh trên”. Vậy thì anh đừng sợ gì hết, người nào muốn tự tử sẽ có đủ thời gian cần thiết trước khi có người mở cửa vào buồng giam theo “lệnh trên”.
Tôi tả lại tất cả những điều trên đây, có lẽ không lấy gì làm sinh động và lý thú đối với những người thích nghe chuyện hành động và đánh nhau. Những người này có thể bỏ qua mấy trang nếu thấy chán. Tuy nhiên, những ấn tượng đầu tiên, những ý nghĩ đầu tiên này ồ ạt đến với tôi khi tôi tiếp xúc lần đầu với cái buồng giam mới, những phản ứng đầu tiên này khi tôi bị đưa xuống nhà mồ, tôi nghĩ rằng tôi phải miêu tả nó một cách thật trung thành.
Tôi đi đi lại lại như thế này đã lâu lắm rồi. Tôi nghe có tiếng thầm thì trong đêm khuya: họ đổi gác. Tên lính gác phiên trước là một gã cao lớn và khẳng khiu tên đến thay phiên thì lùn và mập. Hắn vừa đi vừa kéo lê đôi giày vải. Khi hắn đến cách tôi chỉ còn hai buồng giam, tôi có thể nghe thấy tiếng giày vải hắn sột soạt và đến khi hắn đi qua hai buồng giam mới không nghe thấy gì nữa. Hắn không im lặng một trăm phần trăm như thằng bạn đồng ngũ của hắn. Tôi tiếp tục đi đi lại lại Bây giờ chắc đã khuya lắm rồi. Không biết mấy giờ rồi nhỉ? Đến mai tôi sẽ không thiếu phương tiện để đo thời gian. Mỗi ngày cái ghi-sê phải mở bốn lần: nhờ đó tôi sẽ đại khái biết được giờ giấc. Còn ban đêm thì nhờ biết giờ phiên gác đầu tiên và biết thời hạn của mỗi phiên, tôi sẽ có thể sống với một cách đo lường thời gian xác định: phiên thứ nhất, phiên thứ hai, phiên thứ ba...
Một, hai, ba, bốn, năm... Như một cái máy, tôi lại bắt đầu cuộc đi dạo vô tận, và nhờ trợ lực của sự mệt mỏi, tôi cất cánh một cách dễ dàng để trở về lục lọi trong dĩ vãng Chắc chắn lá do sự tương phản với bóng tối trong xà-lim, tôi bay ra giữa nắng ngồi trên bãi biển của bộ lạc tôi. Chiếc thuyền mà Lali dùng để đi vớt ngọc trai đang đung đưa cách tôi hai trăm mét trên mặt biển tuyệt vời màu xanh ngọc thạch. Hai chân tôi di di trên cát. Zoraima đem lại cho tôi một con cá lớn nướng trên than hồng, gói kỹ trong một tàu lá chuối cho khỏi nguội. Tôi ăn bằng mấy ngón tay, dĩ nhiên, còn Zoraima thì ngồi xếp bằng trước mặt tôi nhìn tôi ăn. Cô ta rất vui mừng khi thấy những mảng thịt to tách ra khỏi con cá một cách dễ dàng và đọc thấy trên gương mặt tôi vẻ khoái trá trong khi ăn cái món ngon lành mà cô đã dọn cho tôi.
Tôi không còn bị nhốt nữa. Tôi không hề biết đến Nhà giam cấm cố, Saint-Joseph, Quần đảo gì nữa. Tôi lăn lóc trên cát, vục hai tay vào lớp cát cho sạch, lớp cát làm bằng những mảnh vụn san hô mịn đến nỗi tôi có cảm giác như vục tay vào bột. Rồi tôi lội xuống biển để súc miệng bằng thứ nước trong vắt và mặn chát ấy. Tôi lấy hai tay múc nước phả lên mặt. Trong khi rửa cổ tôi nhận ra rằng tóc tôi đã dài lắm. Khi nào Lali về tôi sẽ bảo nàng cạo cổ cho tôi. Tôi qua đêm với bộ lạc của tôi. Tôi mở cái khố của Zoraima, và trên cát, giữa nắng, dưới làn gió biển, tôi chiếm hữu nàng. Nàng khẽ cất những tiếng rên si mê như nàng vẫn làm những khi nàng thấy khoái lạc. Có lẽ gió đưa đến tận tai Lali khúc nhạc yêu đương này. Dù sao thì Lali không phải không nhìn thấy chúng tôi và thấy cái tư thế của chúng tôi chỗ nàng có xa xôi gì đâu mà không thấy rõ chúng tôi đang làm tình. Đúng thế, hẳn là nàng đã trông thấy, vì chiếc thuyền đang đi về phía bờ, nàng tươi cười bước xuống đất. Trên quãng đường về nàng đã tháo các bím tóc ra và lấy mười ngón tay thon và dài chải mái tóc ướt đang bắt đầu khô dần trong làn gió và trong ánh nắng của cái ngày tuyệt đẹp này. Tôi đi về phía nàng. Nàng lấy tay phải quàng lưng tôi và đẩy tôi đi trên bãi cát về phía nếp nhà tranh của chúng tôi. Suốt dọc đường đi, nàng không ngớt bày tỏ cho tôi hiểu: “Cả em nữa, cả em nữa”. Về đến nhà, nàng xô tôi xuống một chiếc võng len đã gấp lại trải xuống đất làm đệm, và trong nàng, tôi quên rằng thế giới tồn tại. Zoraima rất thông minh, nàng chỉ về khi ước chừng chúng tôi đã xong. Nàng vào nhà khi chúng tôi hãy còn nằm trần truồng trên đệm, thỏa mãn no nê vì ái ân. Nàng đến ngồi với chúng tôi, lấy lòng bàn tay vả vả lên hai má của chị, miệng nhắc đi nhắc lại mấy tiếng gì chắc chắn phải có nghĩa đại khái là “đồ tham ăn”. Rồi với một cử chỉ trinh bạch và đầy tình trìu mến, nàng sứa lại cái khố của tôi và cái của Lali cho ngay ngắn. Suốt đêm hôm ấy tôi đã sống ở Guajira. Tôi tuyệt nhiên không ngủ một chút nào. Thậm chí tôi cũng không nằm xuống để nhắm mắt lại mà hồi tưởng những cảnh đã sống qua. Ngay trong khi đi đi lại lại không ngừng trong một trạng thái gần như thôi miên, không cần phải vận dụng ý chí một chút nào, tôi đã vượt qua không gian và thời gian để trở về sống lại cái ngày đẹp tuyệt vời đã qua cách đây gần sáu tháng.
Đèn đã tắt, và có thể thấy rõ ngày mới đang tràn vào bóng tranh tối tranh sáng của căn xà-lim, xua tan thứ sương mù lềnh bềnh đang bao bọc mọi vật xung quanh tôi. Một tiếng còi huýt lên. Tôi nghe tiếng những tấm ván nằm chạm vào tường, và cả tiếng cái móc của người ở buồng bên phải chạm vào cái vòng sắt gắn vào tường. Người ở buồng bên ho, và tôi nghe có tiếng một ít nước giội xuống nền nhà. Sao, ở đây cũng được rứa mặt nữa à?
- Thưa ông giám thị, ở đây rửa mặt thế nào ạ?
- Phạm nhân, vì anh không biết cho nên tôi tha cho anh lần này. Không được nói gì với lính gác: nếu vi phạm điều lệnh này sẽ bị phạt nặng. Muốn rửa mặt, đứng ngay chỗ bô một tay cầm hũ nước, tay kia hứng mà rửa. Anh chưa giở chăn ra phải không?
- Chưa.
- Trong chăn có một cái khăn mặt.
Đến thế thì thật! Không được phép nói với lính gác vì bất cứ lý do gì? Thế nếu mắc phải chứng gì đau quá thì sao? Nếu sắp chết đến nơi: một cơn đau tim, đau ruột thừa, một cơn suyễn quá mạnh, thì sao? Chẳng lẽ ở đây cấm cả việc kêu cứu khi lâm vào một tình cảnh nguy hiểm chết người? Vô nhân đạo đến thế là cùng? Nhưng không, như thế là bình thường. Nếu không, tù nhân có thể quấy phá, làm ầm ĩ lên một cách quá dễ dàng khi thần kinh không chịu nổi nữa. Dù chỉ để nghe tiếng người, dù chỉ để người ta nói với mình một câu, dù câu đó chỉ là: “Chết thì chết đi, nhưng phải câm mồm lại!”. Cũng sẽ có vài chục người trong số hai trăm năm mươi tù nhân bị giam ở đây, mỗi ngày vài chục lần, bày chuyện gây ra bất cứ cuộc cãi vã nào để cho thoát bớt sức hơi ép trong óc họ như qua một cái xúp-páp!
Người đã có cái ý xây những chuồng cọp này không thể là một bác sĩ tâm bệnh học được: một người thầy thuốc không đời nào lại tự hạ mình làm một việc nhơ nhuốc đến như vậy. Nội quy của nhà giam này cũng không phải do một bác sĩ thảo ra. Nhưng hai con người đã cùng nhau tạo nên cái nhà tù này, người kiến trúc sư cũng như người viên chức đã dự tính một cách chi li những chi tiết của nhà tù, họ quả thật là hai con quái vật đáng ghê tởm, hai nhà tâm lý học tồi bại và độc ác tràn đầy một lòng căm thù xa đích đối với các phạm nhân.
Từ những căn buồng giam của khám trung tâm ở Beaulieu, ở Canen tuy sâu như vậy, hai tầng hầm phía dưới mặt đất, vẫn còn có thể vọng ra ngoài, đến tai công chúng, những tiếng vang xa xăm của những cực hình mà các phạm nhân phải chịu đựng. Chứng cớ là hồi ấy, khi người ta tháo khóa tay cho tôi tôi đã thấy rõ ràng vẻ sợ hãi trên mặt bọn lính gác: chắc chắn là họ sợ bị phiền hà, bị trừng trị. Nhưng ở đây, trong nhà giam cấm cố này, nơi mà chỉ có bọn viên chức trong ban quản trị mới vào được, họ rất yên tâm họ không bao giờ có thể bị phiền hà gì hết.
Clac, clac, clac, clac, - người ta mở tất cả các ghi-sê. Tôi đến cạnh ghi-sê của tôi, đánh liều dòm ra ngoài, rồi tôi thò đầu ra một chút, và sau đó thò hết cả cái đầu ra ngoài hành lang. Bên phải cũng như bên trái tôi đều trông thấy cả một dãy đầu thò ra. Tôi hiểu ngay ràng hễ ghi-sê được mở thì mọi người đều lập tức thò đầu ra ngoài. Người bên phải nhìn tôi mà mắt tuyệt nhiên không biểu hiện một cảm nghĩ gì. Chắc đã đờ đẫn đi vì thói thủ dâm. Hắn xanh xao phờ phạc, mặt phì ra, gương mặt đần độn, u mê. Người bên trái hỏi tôi rất nhanh: “Bao nhiêu?”
- Hai năm.
- Tớ bốn. Mới được một. Tên gì?
- Papillon.
- Tớ, Georges, Jojo l’ Auvergnat. Cậu bị ở đâu?
- Paris, còn cậu?
Người kia chưa kịp trả lời: suất cà-phê và ổ bánh mì tròn đã được đưa đến cách đấy hai buồng. Hắn thụt đầu vào. Tôi cũng làm như thế. Tôi giơ cái ca ra. Họ rót cà-phê vào rồi đưa một ổ bánh mì tròn. Vì tôi đưa tay ra đón ổ bánh mì hơi chậm, khi cửa ghi-sê sụp xuống thì ổ bánh mì của tôi lăn xuống đất. Không đầy mười lăm phút sau im lặng đã trở lại. Chắc mỗi hành lang phải có một tốp đi phát bữa sáng, chứ không thì không thể nhanh như vậy. Đến giữa trưa có món xúp bỏ một miếng thịt hầm. Buổi chiều, một đĩa đậu ván xào. Cái thực đơn ấy trong suốt hai năm chỉ thay đổi trong bữa ăn chiều: đậu ván, đậu đổ, đậu chiên, đậu đũa, đậu trắng và cơm xào. Bữa trưa thì lúc nào cũng chỉ có thế.
Cứ mười lăm ngày một lần, chúng tôi thò đầu ra ngoài ghi-sê, và một người tù khổ sai dùng một cái tông-đơ răng dày của thợ cắt tóc để cắt râu cho chúng tôi
Tôi ở đây đã được ba ngày. Có một điều làm cho tôi bận tâm. ở đảo Royale, các bạn tôi có nói là sẽ gửi thuốc lá và thức ăn cho tôi. Tôi chưa nhận được thứ gì, vả lại tôi cũng băn khoăn không hiểu nổi họ lâm thế nào để có thể thực hiện dược một việc thần kỳ như vậy.
Cho nên tôi không lấy làm lạ khi không thấy có gì gửi đến. Hút thuốc lá chắc phải rất nguy hiểm, và dù sao đó cũng là thứ xa xỉ. Ăn thì hẳn là chuyện sống còn, vì xoong xúp trong bữa ăn trưa chỉ là một ít nước nóng lều bều vài nhúm rau xanh và một miếng thịt hầm chỉ độ một trăm gam. Buổi chiều chỉ có một đĩa đựng nước xào sền sệt, lưa thưa mấy hạt đậu hay mấy thứ rau quả khô Nói thật, tôi không nghi ngờ ban quản trị cho tù ăn kém bằng nghi ngờ bọn tù nhân chuyên việc nấu ăn hay phân phát thức ăn. Tôi nảy ra cái ý này trong bữa chiều, khi một người tù quê ở Marseille bắt đầu vào đưa thức ăn. Cái muôi của anh ta vục xuống tận đáy thùng, cho nên trong suất của tôi đậu bao giờ cũng nhiều hơn nước. Nếu những người khác đưa bữa ăn chiều thì ngược lại họ chỉ hớt phía trên sau khi ngoáy ngoáy cái muôi một chút. Do đó nhiều nước mà ít đậu. Tình trạng thiếu dinh dưỡng này cực kỳ nguy hiểm. Muốn có đủ sức mạnh tinh thần để giữ vững ý chí, cần phải có ít nhiều sức mạnh thể chất.
Lúc này người ta đang quét ngoài hành lang. Tôi có cảm giác là người ta quét ở trước buồng giam của tôi hơi lâu quá. Tiếng chổi quẹt mãi vào cánh cưa buồng tôi một cách không bình thường. Tôi nhìn kỹ thì thấy một mẩu giấy trắng thò ra ở phía dưới cánh cửa. Tôi hiểu ngay rằng người ta đã tuồn một cái gì dưới cánh cửa nhưng không thể tuồn vào sâu hơn được. Người ta đợi cho tôi rút mẩu giấy vào rồi mới quét sang chỗ khác. Tôi mở mẩu giấy ra. Có mấy dòng chữ viết bằng mực dạ quang. Tôi đợi cho tên lính gác đi quá rồi đọc vội: “Papi, kể từ mai trong bô của anh mỗi ngày sẽ có năm điếu thuốc lá và một quả dừa. Khi ăn dừa phải nhai thật kỹ thì mới bổ. Nhớ nuốt cả bã. Hút thuốc vào buổi sáng khi họ đổ bô. Không bao giờ được hút sau bữa cà-phê sáng, phải hút trong bữa ăn trưa ngay sau khi ăn, và buổi chiều cũng vậy. Kèm theo đây có một mẩu ruột bút chì. Mỗi khi cần dùng thứ gì, cứ viết vào mẩu giấy kèm theo đây, khi người quét hành lang quệt chổi vào cánh cửa, hãy dùng ngón tay cào vào cửa. Nếu người kia cũng cào lại thì tuồn mẩu giấy ra. Đừng bao giờ tuồn mẩu giấy trước khi hắn cào lại để trả lời anh. Hãy để mẩu giấy vào tai để khỏi rút plan ra, còn mẩu ruột bút chì thì có thể để bất cứ chỗ nào ở chân tường. Can đảm lên. Các bạn hôn anh. Ignace, Louis”.
Người gửi cho tôi bức thông điệp này là Galgani và Dega. Tôi thấy nghẹn ngào ở cổ và một hơi ấm tràn đầy trong ngực; có được những người bạn trung thành, tận tụy như vậy thật là ấm áp. Và bước đi của tôi: một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay, càng thêm vững vàng và nhanh nhẹn, với một mềm tin lớn hơn vào tương lai, một niềm tin tưởng chắc chắn rằng mình sẽ còn sống cho đến khi ra khỏi cái phần mộ này. Và tôi vừa đi vừa nghĩ: trong hai con người ấy có bao nhiêu là tình cảm cao thượng, có biết bao nhiêu ý chí muốn làm điều tốt. Chắc chắn là họ đã tự đặt mình vào một tình thế rất nguy hiểm: một người có thể mất chân kế toán, người kia mất chân liên lạc. Việc họ đang làm để giúp tôi thật là vĩ đại, chưa kể là họ phải tốn biết bao nhiêu tiền mới làm được như thế. Họ đã phải mua biết bao nhiêu người để với tay đến tận buồng giam của tôi trên cái đảo Royale “ăn thịt người”.
Bạn đọc cần hiểu rõ rằng một quả dừa khô chứa rất nhiều dầu trong cái cùi dòn và trắng của nó chỉ cần nạo sáu quả dừa ngâm vào nước nóng thì một ngày sau trên mặt nước có thể vớt được một lít dầu. Thứ dầu này là một chất béo mà với chế độ ăn của chúng tôi người ta rất cần, nó chứa nhiều thứ sinh tố. Mỗi ngày một cái cùi dừa là gần đủ bảo đảm cho sức khỏe. ít nhất người ta cũng không thể lâm vào tình trạng mất nước, cũng không thể chết vì suy dinh dưỡng. Đã hai tháng ròng tôi nhận được tiếp tế về thức ăn và thuốc hút mà không xảy ra chuyện gì cả. Mỗi lần hút thuốc tôi đều đề phòng cẩn thận như người Sioux: tôi nuốt khói vào thật sâu rồi nhả ra từ từ, vừa nhả vừa xòe bàn tay phải ra như cái quạt để xua cho khói tan đi.
Hôm qua vừa xảy ra một chuyện hơi lạ. Tôi không biết là tôi đã hành động đúng hay sai. Một tên lính gác đi trên đường tuần tra đã chống tay vào thanh vịn nhìn xuống buồng giam tôi. Hắn châm một điếu thuốc, hút vài hơi rồi để nó rơi xuống buồng giam tôi. Sau đó hắn lại đi tuần. Tôi đợi cho hắn trở lại rồi lấy chân chà lên điếu thuốc, sao cho hắn có thể trông thấy rõ. Bước hắn đi hơi ngưng lại một chút, nhưng không lâu: khi đã thấy rõ cử chỉ vừa rồi của tôi, hắn lại đi ngay. Có phải hắn thương hại tôi, hay thấy xấu hổ cho cái ban quán trị của hắn? Hay đây chỉ là một cái bẫy? Tôi không biết cho nên rất băn khoăn.
Khi người ta khổ, người ta trở nên hết sức nhạy cảm.
Nếu tên giám thị vừa rồi đã có ý muốn làm một người tốt bụng dù cái ý ấy chỉ được một vài giây, tôi cũng rất lấy làm tiếc vì đã làm hắn phiền lòng với cái cử chỉ khinh miệt của tôi.
Tôi ở đây thế là đã hơn hai tháng. Cái nhà giam cấm cố này là nhà giam duy nhất mà theo tôi trong đó không có gì có thể học được. Vì không thể có một cách dàn xếp nào hết. Tôi đã luyện tập được rất kỹ cái khả năng phân thân. Tôi có một chiến thuật có hiệu quả chắc chắn. Để đi lang thang giữa các vì sao với một cảm giác hiện thực thật cao, để dễ dàng thấy hiện ra những thời đoạn khác nhau trong dĩ vãng của cuộc đời giang hồ phiêu bạt của tôi hay của thời thơ ấu, hoặc giả để xây những tòa lâu đài ở Tây Ban Nha hiện rõ y như thật, lúc đầu tôi đã phải tốn rất nhiều sức. Tôi phải đi đi lại lại không ngớt mấy giờ đồng hồ liền, không ngồi xuống, không dừng lại, vừa đi vừa nghĩ bình thường về bất cứ vấn đề gì. Rồi đến khi thật mệt mỏi tôi mới nằm lên tấm ván, gối đầu lên một nữa tấm chăn, còn nửa kia thì đắp lên mặt. Bấy giờ làn không khí đã thưa thớt của phòng giam đi vào miệng tôi và mũi tôi một cách khó khăn vì bị tấm chăn lọc một lần nữa. Điều đó nhằm gây ra trong phổi tôi một tình trạng gần như ngạt thở khiến đầu tôi thấy nhức và nóng.
Trong trạng thái thiếu không khí và ngột ngạt vì nóng bức, tôi đột ngột thấy mình bay bổng lên. Ôi? Những cuộc phi hành của linh hồn ấy đã đem lại cho tôi bao nhiêu là cảm giác khôn tả. Tôi đã có được những đêm ân ái mà cảm giác còn mạnh hơn cả khi tôi được tự do, say sưa hơn, có sức chấn động hơn những cảm giác thật của những đêm ân ái mà tôi đã thực sự trải qua. Phải, cái khả năng du hành trong không gian ấy cho phép tôi ngồi bên cạnh mẹ tôi, người đã chết cách đây mười bảy năm. Tôi mân mê tà áo của người, và người vuốt ve những móc tóc quăn của tôi mà người bắt để rất dài hồi tôi mới năm tuổi, làm như thể tôi là con gái. Tôi vuốt ve mấy ngón tay thon và dài, da mịn như tơ. Người cùng cười với tôi khi thấy nảy ra cái ý muốn gan góc được lao xuống sông như tôi đã thấy những cậu con trai lớn tuổi hơn làm, vào một ngày hai mẹ con đi dạo với nhau. Những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong cách chái tóc của người, niềm thương mến có sức tỏa hào quang của đôi mắt sáng lóng lánh của người, những lời lẽ dịu dàng khó quên của người: “Riri bé bỏng của mẹ, con hãy ngoan, thật ngoan nhé, để mẹ con thương con thật nhiều. ít nữa rồi con cũng sẽ nhảy được xuống nước từ rất cao, rất cao. Còn bây giờ thì con còn bé quá, cục vàng của mẹ ạ Ngày ấy sẽ đến rất nhanh, quá nhanh nữa là khác, cái ngày mà con sẽ thành một chàng trai to khỏe”.
Và mẹ tôi dắt tay tôi đi dọc bờ sông về nhà Tôi thực sự đang sống trong ngôi nhà của thời thơ ấu của tôi. Thực sự đến nỗi tôi đưa hai tay bịt mắt mẹ tôi để người không đọc được nốt nhạc nhưng vẫn tiếp tục chơi piano cho tôi nghe. Tôi đang ở nhà thật chứ không phải tưởng tượng. Tôi đang ở nhà với mẹ, tôi leo lên một chiếc ghế tựa đặt ở phía sau chiếc ghế quay mẹ tôi đang ngồi, và tôi đưa hai bàn tay nhỏ bé lên bít mắt mẹ tôi thật mạnh, để cho đôi mắt to và hiền của người đừng trông thấy gì. Mấy ngón tay thon nhẹ của người vẫn tiếp tục lướt trên các phím đàn đánh cho tôi nghe bài Nàng quả phụ vui tươi cho đến hết.
Dù là tên công tố viên vô nhân đạo, hay là những tên cảnh sát mà sự lương thiện đáng cho người ta ngờ vực, hay là Polein, tên khốn kiếp đã chịu mặc cả để mua lấy tự do bằng một lời khai gian dối, hay là mười hai miếng phó-mát đã ngu xuẩn theo đuôi bản cáo trạng và cách thuyết minh sự việc của bên nguyên, hay là những tên lính gác ở nhà giam cấm cố, những cộng tác viên xứng đáng của cái ngục “ăn thịt người”, không có ai, tuyệt đối không có ai, và cũng không có cái gì, kể cả những bức tường dày và cái khoảng cách xa xôi của hòn đảo mất hút giữa Đại tây dương này, tuyệt nhiên không có một cái gì thuộc phạm trù tinh thần hay vật chất có thể ngăn cản nổi những cuộc du hành nhuộm màu hồng tuyệt vời của hạnh phúc khi tôi cất cánh bay bổng lên các vì sao.
Tôi đã sai lầm: khi tính thời gian phải một mình đối diện với bản thân, tôi chỉ nói đến thời gian bằng đơn vị giờ.
Đó là một sai lầm. Có những lúc phải đo thời gian bằng đơn vị phút. Chằng hạn, sau buổi phân phát cà-phê và bánh mì là giờ đổ bô - sau đó khoảng một tiếng đồng hồ. Khi người ta trả cái bô sạch tôi sẽ nhận được quả dừa, năm điếu thuốc lá và đôi khi cả một mảnh giấy viết chữ lân tinh. Những lúc ấy - không phải bao giờ cũng thế, nhưng rất nhiều khi như thế - tôi đếm từng phút một. Làm như thế cũng khá dễ dàng vì tôi điều chỉnh thân thể tôi thành một quả lắc, cứ năm bước, lúc quay trở lại, tôi nhẩm đếm: một. Đếm đến mười hai thì được một phút. Có điều là xin các bạn chớ tưởng rằng tôi lo lắng muốn biết rồi mình có được ăn cái cùi dừa, vốn chính là sự sống của tôi, có được hưởng cái thú vô biên là đang ở trong cái hầm mộ này mà lại được hút thuốc mười lần trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ (vì mỗi điếu thuốc lá tôi hút làm hai lần) hay không.
Không phải thế; vào giờ nhận cà phê, và tuy không có lý do gì đặc biệt, tôi cũng sợ rằng có một việc gì đã xảy ra với những người đang hy sinh sự yên tĩnh của mình để giúp tôi một cách hào phóng như vậy. Cho nên tôi chờ đợi, và đến khi trông thấy quả dừa tôi mới thở phào yên tâm. Quả dừa có đó, như thế có nghĩa là họ vân yên ổn.
Chầm chậm, rất chậm, những giờ, những ngày, những tuần, những tháng trôi qua. Rồi đến một lúc nào đó, tỉnh lại thấy mình đã ở đây được gần một năm.
Đúng mười một tháng và hai mươi ngày tôi chưa được nói chuyện với ai hơn bôn mươi giây, mà cũng chỉ nói nhát gừng, và nói thầm thì, chứ không thành tiếng. Tuy vậy có một hôm tôi cũng đã dự một cuộc đối thoại to tiếng. Hôm ấy tôi bị cảm và ho nhiều. Nghĩ rằng như vậy cũng đủ để xin đi khám, tôi liền báo cáo ốm. Bác sĩ đã đến. Trước sự kinh ngạc của tôi, cái ghi-sê mở ra. Trong cái khung hẹp ấy thấy hiện ra một cái đầu
- Anh làm sao? Anh đau gì? Phế quản à? Quay lưng lại. Ho đi.
Kìa, sao lạ thế nhỉ. Người ta đùa chăng? Thế nhưng đó lại là sự thật một trăm phần trăm. Một ông thầy thuốc xứ thuộc địa đã đến chẩn bệnh qua một cái ghi-sê, bảo tôi quay lưng lại đứng cách cánh cửa một mét, và ghé tai vào lỗ để nghe phổi tôi. Rồi ông ta lại nói: “Thò tay ra. Tôi toan làm theo như cái máy, thì do một thứ tự trọng nào đấy, tôi nói với cái ông thầy thuốc quái dị này: “Cám ơn bác sĩ, phiền bác sĩ quá nhỉ. Thôi không cần. Chẳng ích gì đâu. ít nhất tôi cũng có đủ bản lĩnh để tỏ ra cho hắn hiểu rằng tôi không tưởng lầm là cái kiểu chẩn bệnh của hắn có chút gì nghiêm chỉnh.
- Tùy anh, - hắn đã có đủ vô liêm sỉ để trả lời như vậy. Rồi bỏ đi. Cũng may, vì chỉ chút nữa tôi đã nổ tung ra vì phẫn nộ..
Một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay. Một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay. Tôi đi đi lại lại, đi đi lại lại mãi, không mỏi mệt, không dừng lại, và hôm nay tôi đi đi lại lại một cách giận dữ, hai chân tôi căng thẳng chứ không buông lơi một cách thư thái như thường lệ. Dường như sau sự việc vừa xảy ra, tôi cần phải xéo nát một cái gì. Chân tôi thì có thể giẫm lên cái gì?
Dưới chân tôi chỉ có xi-măng. Không, tôi giẫm lên rất nhiều thứ trong khi đi như vậy. Tôi giẫm lên sự hèn hạ của tên bác sĩ đã cam tâm chịu chiều theo ý Ban Quản trị để làm những việc tởm lợm như vậy. Tôi giẫm lên thái độ dửng dưng của một tầng lớp người trước sự đau khổ của một tầng lớp người khác. Tôi giẫm lên sự ngu dốt của dân tộc Pháp không hề quan tâm, không hề tò mò muốn biết những đồng bào của họ cứ hai năm lại được lùa lên tàu như những bầy gia súc qua Saint- Martin-de-Ré là để đi đến đâu và được đối xử như thế nào. Tôi giẫm lên các phóng viên của các báo chí cánh tả, sau khi viết những bài báo chua ngoa về một con người đã phạm tội nào đấy thì chỉ mấy tháng sau là đã không còn nhớ rằng trên đời có một người như thế. Tôi giẫm lên bọn linh mục công giáo đã nghe các phạm nhân xưng tội, biết rất rõ những gì đang diễn ra ở trại khổ sai của Pháp mà vẫn im hơi lặng tiếng. Tôi giẫm lên một hệ thống xử án biến việc cân nhắc công bằng thành một cuộc đấu khẩu giữa kẻ buộc bội và kẻ bào chữa.
Tôi giẫm lên tổ chức Liên minh Nhân quyền và Dân quyền không hề lên tiếng để nói: Hãy chặn đứng cái máy chém khô của các người lại, hãy hủy diệt cái tâm lý xa-đích tập thể đang hoành hành trong giới viên chức Hành chính. Tôi giẫm lên cái tình trạng tệ mạt là không có một tổ chức hay hiệp hội nào chất vấn những kẻ có trách nhiệm về hệ thống xử án này để hỏi họ xem tại sao và làm thế nào mà trại khổ sai cứ hai năm lại chết mất tám mươi phần trăm dân số của nó. Tôi giẫm lên những tờ giấy báo tử của tổ chức y tế nhà nước: tự tử, suy dinh dưỡng, suy nhược toàn thân, hoại huyết, ho lao, điên loạn, dở hơi. Tôi còn biết tôi đang giẫm lên những gì nữa? Nhưng dù sao, sau sự việc đã xảy ra, tôi không còn đi bình thường nữa, cứ mỗi bước tôi lại xéo nát một cái gì.
Một, hai, ba, bốn, năm,... và những giờ phút chảy qua chầm chậm làm cho cuộc nổi loạn thầm lặng của tôi lắng dần vì mệt mỏi. Còn mười ngày nữa tôi sẽ qua được một nửa thời hạn cấm cố. Đây quả là một kỷ niệm rất đáng ăn mừng, vì nếu không kể cái bệnh cảm khá nặng kia, sức khỏe tôi vẫn tốt. Tôi vẫn không điên, mà cũng chưa bước vào quá trình trở thành điên. Tôi tin chắc, thậm chí chắc một trăm phần trăm là sẽ ra khỏi chốn này khỏe mạnh về thể chất và tinh thần khi cái năm đang sấp bắt đầu sẽ hết.
Tôi sực tỉnh vì ngoài kia có tiếng nói rì rầm.
- Hắn đã chết khô từ bao giờ ấy. Durand ạ. Sao, ban nãy anh không nhận thấy à?
- Thưa sếp tôi không biết ạ. Vì hắn treo cổ trong góc tường phía lối đi tuần cho nên tôi đi qua nhiều lần mà không trông thấy.
- Cái đó không quan trọng, nhưng phải thú nhận rằng anh không trông thấy hắn là phi lô-gíc.
Người bị giam ở buồng bên trái đã tự tử.
Đó là điều mà tôi đã hiểu ra, họ đến khiêng hắn đi. Cánh cửa khép lại. Nội quy đã được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh vì cánh cửa ấy đã được mở ra và đóng lại trước mắt một “cấp trên” là viên giám đốc của nhà giam cấm cố mà tôi đã nhận ra giọng nói. Đó là người thứ năm đã chết trong các buồng giam ở quanh tôi trong vòng mười tuần.
Ngày kỷ niệm một năm cấm cố đã đến. Trong cái bô tôi thấy có một hộp sữa đặc Nestlé. Đó là một cử chỉ điên rồ của các bạn tôi. Họ đã tìm mua hộp sữa này với một giá đắt không thể tưởng tượng nổi và đã liều lĩnh gửi nó cho tôi. Dù sao tôi cũng đã có được một ngày đắc thắng trước sự tàn nhẫn của số phận. Cho nên tôi tự hứa là không bay đi đâu cả. Tôi đang ở nhà giam cấm cố. Một năm đã qua từ khi tôi đến đây, thế mà tôi vẫn tự cảm thấy đủ sức để lên đường vượt ngục ngày mai nếu có cơ hội. Bản tổng kết như vậy là tích cực, và tôi tự hào về nó.
Thông qua người quét hành lang buổi trưa, tôi nhận được mấy chữ của các bạn (đó là một việc khác thường): “Can đảm lên. Chỉ còn một năm nứa thôi. chúng tôi biết cậu vẫn khỏe. Chúng tôi cũng bình thường, yên ổn. Chúng tôi hôn cậu. Louis, Ignace. Nếu tiện, cậu gửi cho chúng tôi mấy chữ, đưa ngay cho người đã trao cậu mảnh giấy này”.
Trên mảnh giấy trắng gửi kèm theo bức thư tôi viết: “Cám ơn về tất cả. Tôi khỏe mạnh, và nhờ các cậu tôi hy vọng vẫn sẽ như thế này sau một năm. Có thể cho tôi biết tin Clousiot, Maturette không?” Quả nhiên một lúc sau người quét hành lang trở lại, cào vào cửa tôi. Tội vội vàng nhét mảnh giấy dưới cửa, nó biến ngay. Suốt ngày hôm ấy và một phần đêm ấy, tôi ở lại trên mặt đất, trong cái trạng thái mà tôi đã mấy lần tự hứa là sẽ giữ. Một năm nữa tôi sẽ được đưa về một trong hai đảo. Royale hay Saint-Joseph? Tôi sẽ nói chuyện, hút thuốc đến đã đời thì thôi, và lập tức sẽ chuẩn bị vượt ngục.
Hôm sau tôi bước vào ngày thứ nhất trong số ba trăm sáu mươi lăm ngày còn lại, lòng vững tin vào số phận của mình. Tám tháng tiếp theo, mọi sự đã trôi qua đúng như tôi dự kiến. Nhưng đến tháng thứ chín thì tình hình trở nên nghiêm trọng. Sáng hôm ấy, đến giờ để bô, người đưa dừa bị bắt quả tang vào lúc đẩy cái bô vào buồng tôi, trong đó đã để sẵn quả dừa và năm điếu thuốc lá.
Việc vừa xảy ra nghiêm trọng đến nỗi trong mấy phút đồng hồ họ đã quên mất quy chế im lặng tuyệt đối. Tiếng người ta đấm đá người tù khốn khổ kia nghe rất rõ. Sau đó là tiếng rên khò khè của một người đã bị đánh một dòn chí mạng. Cái ghi-sê của tôi mở ra và một cái mặt lính gác đỏ bừng quát vào buồng: “Còn mày nữa, hãy đợi đấy!”
- Tao sẵn sàng đợi mày, thằng chó đẻ! - Tôi trả lời thần kinh căng thắng đến tột độ vì đã phải ngồi im nghe chúng nó đánh dập người tù khốn khổ kia.
Việc ấy đã xảy ra lúc bảy giờ. Đến mười một giờ, một phái đoàn do viên phó chỉ huy nhà giam cấm cố đứng đầu đến buồng tôi. Người ta mở cánh cửa đã đóng lại sau lưng tôi cách đây hai mươi tháng và từ đó chưa bao giờ được mở ra. Tôi đang đứng ở cuối buồng giam, tay cầm cái ca, giữ thế thủ, quyết tâm đánh trả đến cung, vì hai lẽ: thứ nhất là để cho bọn lính gác khi đánh tôi sẽ được trừng trị đích đáng, thứ hai là đế chúng nó đánh tôi chết thật nhanh. Nhưng mãi chẳng thấy chúng làm gì cả, viên phó chỉ huy nói:
- Phạm nhân, bước ra.
- Nếu các anh bảo tôi ra để đánh tôi thì hãy coi chừng: tôi sẽ đánh lại Mà tôi chẳng dại gì ra để bị đánh từ bốn phía. Tôi cứ đứng đây, hễ đứa nào động vào tôi tôi sẽ cho đi đời ngay.
- Charrière, người ta sẽ không đánh anh đâu.
- Ai bảo đảm điều đó?
- Tôi, phó chỉ huy nhà giam.
- Anh có danh dự không mà bảo đảm?
- Anh đừng thóa mạ tôi, vô ích. Tôi lấy danh dự hứa với anh rằng anh sẽ không bị đánh. Nào ra đi!
Tôi vẫn cầm cái ca trong tay.
- Anh có thể giữ cái ca, anh không phải dùng đến nó đâu.
- Được
Tôi bước ra, và đi giữa sáu tên giám thị cùng đi với viên phó chỉ huy, vượt qua suốt chiều dài của hành lang. Ra đến sân, tôi thấy chóng mặt và chói mắt dữ dội, phải nhắm nghiền lại. Cuối cùng tôi trông thấy cái nhà nhỏ nơi họ đã đón chúng tôi. ở đấy có khoảng mười hai tên giám thị. Không xô đẩy, họ đưa tôi vào phòng “quản trị”. Giữa nền nhà bê bết máu, một người tù đang nằm rên rỉ. Khi thấy cái đồng hồ treo trên tường chỉ một giờ, tôi nghĩ: “Tội nghiệp, chúng nó tra tấn anh ta bốn tiếng đồng hồ rồi”. Viêm giám đốc đang ngồi sau bàn giấy, viên phó giám đốc ngồi xuống cạnh hắn ta.
- Charrière, anh nhận thức ăn và thuốc lá bao lâu rồi?
- Anh kia đã nói cho các ông biết rồi còn gì.
- Tôi hỏi anh ấy.
- Tôi thì bị bệnh mất trí nhớ, hôm qua có chuyện gì tôi không thể biết được.
- Anh giễu chúng tôi đấy à?
- Không, việc này mà người ta không ghi vào hồ sơ của tôi thì lạ thật. Tôi bị mất trí nhớ vì một đòn đánh vào đầu.
Viên giám đốc nghe câu trả lời của tôi ngạc nhiên quá quay ra hỏi:
- Gọi diện hỏi Royale xem thử trong hồ sơ có ghi gì về việc này không?
Trong khi người ta gọi điện thoại, hắn nói tiếp:
- Anh có nhớ mình tên là Charrière chứ?
- Cái đó thì có. - Đoạn tôi nói tiếp thật nhanh để làm cho họ ngỡ ngàng hơn nữa, nói như một cái máy:
Tôi tên là Charrière, tôi sinh năm 1906 ở tỉnh Ardèehe, bị xử án chung thân ở Paris, quận Seine. Ông ta trợn mắt tròn xoe như hai hòn bi, và tôi cảm thấy mình đã làm cho viên giám đốc lung lay thực sự.
- Sáng nay anh vẫn được phát cà-phê và bánh mì đấy chứ?
- Vâng.
- Tối hôm qua người cho anh ăn món đậu gì?
- Tôi không biết.
- Thế thì theo anh, anh không còn chút trí nhớ gì sao?
- Những việc xảy ra thì hoàn toàn không nhớ chút gì. Mặt thì tôi nhớ. Chẳng hạn như tôi nhớ rằng ông có tiếp tôi một lần. Vào lúc nào thì tôi không biết.
Thế anh không biết anh còn phải bị giam bao lâu nữa sao?
- Chung thân mà? Hình như đến khi chết.
- Không! Hạn giam cấm cố ấy.
- Tôi mà bị giam cấm cố à? Vì tội gì?
- Ơ thế thì thật quá sức! Mẹ kiếp! Anh đừng làm cho tôi nổi khùng lên. Anh dám nói rằng anh không nhớ đã bị xử hai năm vì tội vượt ngục sao? Gớm thật!
Đến đây, tôi hạ nốt đòn cuối cùng cho hắn gục hẳn:
- Tôi mà lại vượt ngục à? Thưa ông chỉ huy, tôi là người nghiêm chỉnh và có trách nhiệm. Xin ông cứ đi với tôi về buồng giam, ông sẽ rõ là tôi có vượt ngục hay không.
Vừa lúc ấy một tên cảnh sát nói với viên chỉ huy:
- Thưa xếp, có điện của Royale gọi.
Viên giám đốc đến cầm máy lên: “Không ghi gì cả à? Lạ thật, hắn bảo là hắn bị mất trí nhớ... Nguyên nhân à? Bị đánh vào đầu... hiểu rồi, hắn giả vờ. Ai mà biết... Vâng, xin lỗi thiếu tá, tôi sẽ kiểm tra lại. Chào thiếu tá... Vâng, tôi sẽ báo cáo lại để thiếu tá rõ”.
- Đồ kép hát, xem cái đầu nào. ừ, mà phải. Có một vết thương khá dài. Thế anh làm cách nào mà nhớ được rằng anh bị mất trí nhớ từ khi bị đánh cú này, hả? Nói đi xem nào?
- Tôi không hề giải thích, tôi chỉ ghi nhận rằng tôi nhớ là đã bị đánh, nhớ rằng tên tôi là Charriène.
Tôi còn nhớ nhiều thứ khác nữa ấy chứ.
- Rốt cuộc anh muốn nói gì hay làm gì?
- Vấn đề đó thì chúng ta đang bàn đây thôi. Ông hỏi tôi là người ta gửi thức ăn và thuốc hút cho tôi từ bao giờ. Vậy tôi xin trả lời dứt khoát: tôi không biết; chắc đây là lần đầu, nhưng cũng có thể là lần thứ một ngàn. Bị bệnh mất trí nhớ, tôi không thể trả lời rõ hơn được. Xin hết, các ông muốn làm gì tôi thì làm.
- Điều mà tôi muốn cũng đơn giản thôi. Anh đã ăn quá tiêu chuẩn lâu rồi, thế thì bây giờ phải để cho anh gầy đi một chút. Bỏ bữa ăn chiều cho đến hết thời hạn giam cấm cố.
Ngay hôm ấy, tôi nhận được một mảnh giấy lúc họ đi quét hành lang lần thứ hai. Tiếc thay tôi không được vì nó không được viết bằng mực lân tinh. Đến khuya, tôi châm một chiếu thuốc lá còn lại từ hôm qua đã thoát khỏi cuộc khám xét vì nó được giấu rất kỹ trong tấm ván nằm. Rít mạnh điếu thuốc cho đốm lửa sáng lên, tôi dần dần đọc được: “Người đổ bô đã giữ vững. Anh ta khai đây là lần thứ hai anh đưa thức ăn vào cho cậu, một cách hoàn toàn tự nguyện. Lại khai là đã làm như thế vì trước kia có quen cậu ở Pháp. Sẽ không có ai bị liên lụy ở Royale. Can đảm lên”. Vậy là tôi bị tước mất món lửa, thuốc lá và tin tức của bạn bè ở Royale. Hơn nữa họ đã cúp mất bữa ăn chiều của tôi. Tôi đã quen với tình trạng không phải chịu đói và với mười lần hút thuốc lá mà trước đây tôi vẫn dùng để lấp thời gian trong ngày và một phần đêm. Không phải tôi chỉ nghĩ đến mình, tôi nghĩ đến người tù đáng thương bị chúng nó đánh đập tàn nhẫn vì tôi mong rằng anh ta sẽ không bị phạt quá nặng.
Một, hai, ba, bốn, năm đằng sau quay... Một hai, ba, bốn, năm đằng sau quay. Mày sẽ không dễ gì chịu được cái chế độ ăn đói này đâu, Papi ạ, và bây giờ mày sẽ ăn ít như vậy thì có lẽ phải thay đổi chiến thuật chăng? Chẳng hạn nằm đến mức tối đa để khỏi tiêu hao năng lượng. Càng ít cứ động thì đốt càng ít ca-lo-ri. Những lúc không nằm thì cố ngồi trong nhiều giờ.
Bây giờ tôi phải tập sinh hoạt theo một kiểu khác. Bốn tháng là một trăm hai mươi ngày. Cứ cái chế độ ăn này thì bao lâu tôi sẽ bắt đầu thiếu máu? ít nhất là hai tháng. Vậy trước mắt tôi có hai tháng quyết định. Khi tôi đã quá yếu thì các bệnh tật sẽ có được một mảnh đất tuyệt vời để hoành hành. Tôi quyết định là sẽ nằm từ sáu giờ chiều đến sáu giờ sáng. Tôi sẽ đi đi lại lại từ khi đưa cà-phê cho đến khi thu bô, nghĩa là khoảng hai giờ. Đến giữa trưa, sau bữa xúp, lại đi khoảng hai giờ nữa. Cả thảy là bốn giờ đi đi lại lại. Thời gian còn lại thì ngồi hay nằm.
Không mệt thì sẽ khó bay đi lang thang. Nhưng tôi vẫn sẽ cố bay thử.
Hôm nay, sau một hồi lâu suy nghĩ đến các bạn và đến người tù khốn khổ đã bị hành hạ tàn nhẫn vì tôi tôi bắt đầu tập dượt cho quen với cái kỷ luật mới này. Kết quả khá tốt, tuy tôi thấy thời gian trôi chậm hơn, và đôi chân tôi không làm việc mấy giờ liền cứ thấy buồn buồn như chứa đầy kiến.
Cái chế độ này đã thi hành được mười ngày. Bây giờ tôi đói thường xuyên. Tôi đã bắt đầu lâm vào tình trạng mỏi mệt kéo dài. Tôi thấy thèm dừa quá, và cũng thèm thuốc lá nữa. Tôi đi nằm rất sớm và chỉ một lát sau, không lâu lắm, tôi đã vượt ra khỏi buồng giam trong tưởng tượng. Hôm qua, tôi ở Paris, dang ngồi uống sâm banh ở quán Au Rát Mort với mấy thằng bạn, trong đó có Antonio de Londres, quê quán ở Baléares, nhưng nói tiếp Pháp như một người Paris và nói tiếng Anh như một tay roastbeef chính cống của xứ Anh-cát-lợi. Hôm sau ở quán Au Marronnier trên đại lộ Clichy, cậu ta giết một người bạn bằng năm phát súng lục. Trong giới giang hồ những sự đổi thay từ tình bạn sang căm thù diễn ra rất nhanh. Phải, hôm qua tôi ở Paris, khiêu vũ trong tiếng đàn accordéon ở tiệm Petit Jardin, đại lộ Saint-Quen, khách đến nhảy toàn người Corse và người Marseille. Tất cả các bạn tôi lần lượt hiện ra trong chuyến du hành tưởng tượng này một cách rõ rệt và chính xác đến nỗi tôi không một giây nào nghi ngờ sự có mặt của họ cũng như sự có mặt của tôi ở những nơi mà tôi đã sống qua những đêm diễm phúc ấy. Như vậy, (tôi) không đi nhiều, với chế độ ăn rất có hẹp này tôi vẫn đạt được một kết quả tương đương như cái kết quả đạt được bằng cách làm cho thân thể mỏi mệt. Những hình ảnh của quá khứ lôi tôi ra khỏi buồng giam một cách mạnh mẽ đến nỗi tôi thực sự được sống nhiều giờ tự do hơn là những giờ cấm cố. Chỉ còn một tháng nữa.
Đã ba tháng rồi tôi chỉ ăn một ổ bánh mì tròn và một soong xúp nóng không có chất bột vào bữa trưa với miếng thịt hầm của nó. Tình trạng đói thường xuyên đã đưa tôi đến chỗ vừa nhận xong soong xúp tôi đã vội vàng nhìn kỹ miếng thịt xem thử có phải nó chỉ là một miếng da như đã từng xảy ra khá nhiều lần không.
Tôi đã gầy đi nhiều, và bây giờ tôi đã nhận thức được tầm quan trọng của trái dừa mà tôi đã may mắn nhận được trong hai mươi tháng liền đối với việc duy trì sức khỏe và trạng thái cân bằng trong tình cảnh bị gạt ra ngoài cuộc sống.
Sáng nay, sau khi uống suất cà-phê, tôi thấy bứt rứt khác thường. Tôi đã tự buông thả đến mức ăn một lúc hết nửa ổ bánh mì, điếu mà tôi không bao giờ làm. Mọi khi tôi cắt nó ra làm bốn miếng gần bằng nhau dể ăn làm bốn lần, vào lúc sáu giờ sáng, vào giữa trưa, vào sáu giờ chiều, và miếng cuối cùng vào ban đêm. “Sao lại làm như vậy”. Tôi tự mắng nhiếc một mình. “Sắp kết thúc rồi mà mày lại tự cho phép sa ngã một cách nghiêm trọng như thế - “Tôi đói, và tự cảm thấy không còn sức mạnh - “Sao mày lắm tham vọng thế. Làm sao mày lại có thể mạnh được trong khi ăn như vậy? Điều quan trọng là mày yếu, đúng vậy, nhưng mày không đau ốm: và điểm này mày là kẻ chiến thắng. Xét một cách lô~gích, nếu mày không quá rủi ro, cái nhà giam “ăn thịt người” này rốt cục sẽ thua mày trong cuộc tỷ thí
Sau hai giờ đi đi lại lại, tôi ngồi trên cái khối xi- măng dùng làm ghế. Còn ba mươi ngày nữa, tức bảy trăm hai mươi giờ, cánh cửa kia sẽ mở ra và người ta sẽ nói với tôi: “Phạm nhân Charriere, ra đi. Anh đã mãn hạn hai năm cấm cố”. Và tôi sẽ nói gì? Tôi sẽ nói: “Vâng, cuối cùng tôi cũng đã kết thúc được hai năm đày đọa này”. ồ, không được, sao lại nói thế! Nếu đó là viên giám đốc mà mày đã chơi xỏ vụ “mất trí nhớ” mày phải tiếp tục chơi cái trò đó, tỉnh bơ như không. Mày sẽ nói: “Sao, tôi được ân xá rồi à? Tôi được về Pháp à? án chung thân của tôi đã mãn hạn à?” Chẳng qua để côi bộ mặt của hắn và cho hắn thấy rằng cái chế độ ăn đói mà hắn dùng để trừng phạt mày là một hành động bất công.
- “Trời ơi, mày làm sao thế? Bất công hay không, tên giám đốc kia đếch cần. Đối với một tâm địa như vậy thì phạt oan hay không có gì quan trọng đâu? Chẳng lẽ mày nghĩ rằng hắn ân hận vì đã trừng phạt mày một cách bất công sao? Từ nay trở đi tao cấm mày không được coi một tên cai ngục như một con người bình thường. Không có một con người nào đáng được gọi là người lại có thể làm cái nghề này. Trên đời, cái gì người ta cũng có thể quen đi, thậm chí suốt đời quen với cái sự nghiệp của một thằng khốn nạn. May ra chỉ khi nào gần kề miệng lỗ thì nỗi sợ hãi trước Thượng đế mới có thể làm cho hắn ân hận và sám hối, nếu hắn có một tôn giáo. Không phải thực sự hối hận về những hành vi bỉ ổi mà hắn đã làm, chẳng qua vì sợ sự phán xử của Thượng đế, trong đó bản thân hắn là kẻ bị xử tội. Như vậy, khi ra khỏi nhà lao cấm cố, có được đưa về đảo nào chăng nữa, ngay từ đầu mày chớ có chút nào thỏa hiệp với giống người này: Mày với chúng nó đối lập hoàn toàn với nhau, và ở giữa có một đường phân giới rất rạch ròi. Một bên là sự hèn hạ, là quyền thế câu nệ không hồn, là bệnh xa-đích bẩm sinh, có tính chất bản năng, máy móc trong những phản ứng của nó; và bên kia là tôi và những người cùng cảnh ngộ, chắc chắn là phạm những tội nặng, nhưng đã được sự đau khổ tạo cho những phẩm chất vô giá; tình thương xót lòng nhân hậu, sự tôn quý, lòng dũng cảm.
Hoàn toàn thành thật mà nói, tôi thà làm tên tù khổ sai còn hơn làm một tên cai ngục.
Chỉ còn hai mươi ngày nữa. Tôi cảm thấy trong người yếu lắm rồi. Tôi có nhận thấy ổ bánh mì của tôi bao giờ cũng thuộc loại nhỏ. Ai là kẻ có thể tự hạ mình đến mức chọn bánh mì nhỏ cho tôi? Từ mấy ngày rồi trong soong xúp của tôi chỉ có nước nóng, và suất thịt bao giờ cũng là một cái xương có ít thịt dính quanh, nếu không phải là một miếng da. Tôi sợ mình lăn ra ốm. Mỗi lo sợ này cứ ám ảnh tôi. Tôi yếu đến nỗi trong khi thức tôi chẳng cần cố gắng một chút nào cũng có thể mơ tưởng bất cứ điều gì. Tình trạng mệt mỏi rã rời kèm theo một tâm trạng chán nản trầm trọng làm cho tôi rất lo ngại. Tôi tìm mãi cách phản ứng, nhưng phải khó khăn lắm mới qua được hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày. Có tiếng cào ngoài cửa. Tôi hối hả rút mảnh giấy. Nó viết bằng bút dạ quang. Đó là một bức thư của Dega và Galgani. “Cậu viết cho chúng mình mấy chữ đi. Rất lo ngại về tình trạng sức khỏe của cậu. Còn mười chín ngày nữa, can đảm lên. Louis, lgnace”. Kèm theo có một mẩu giấy và một khúc ruột bút chì đen. Tôi viết: “Tôi còn chịu được, tuy rất yếu. Cám ơn. Papi”.
Khi nghe tiếng chổi cào cửa lần nữa, tôi luồn mẫu giấy ra. Bức thư nhỏ, không kèm điếu thuốc lá và quả dừa, đối với tôi vẫn là một cái gì hơn tất cả các thứ đó. Sự thể hiện này của một tình bạn chung thủy tuyệt vời đã cho tôi sức khích lệ mà tôi đang cần. ở bên ngoài, các bạn biết tôi ra sao và nếu tôi lâm bệnh, thế nào các bạn tôi cũng sẽ tìm cách thúc dục bác sĩ chăm sóc tôi tứ tế Các bạn tôi nói đúng: chỉ còn mười chín ngày nữa tôi sẽ đến đích trong cuộc chạy đua gian khổ với cái chết và với sự điên rồ. Tôi sẽ không lâm bệnh.
Phần tôi là phải làm thật ít động tác để chỉ tiêu hao những ca-lo-ri không thể không dùng đến. Tôi sẽ bỏ bớt hai giờ đi đi lại lại buổi sáng và hai giờ buổi chiều. Đó là cách duy nhất để giữ vững. Cho nên suốt đêm, trong mười hai tiếng đồng hồ tôi nằm và mười hai tiếng còn lại, tôi ngồi yên trên cái ghế xi-măng. Thỉnh thoảng tôi đứng dậy, duỗi tay ra co tay vào mấy lần, rồi lại ngồi xuống.
Chỉ còn mười ngày nữa.
Tôi đang dạo chơi ở Trinidad, những cây đàn cò một dây của người Java đang ru tôi với những giai điệu ai oán thì một tiếng gớm ghiếc, nghe không còn ra tiếng ngươi nữa, lôi thôi về cõi thực. Tiếng hét này từ một buồng giam ở sát phía sau buồng tôi hay gần như thế, rất gần, tôi lắng tai nghe:
- Thằng khốn kiếp, mày xuống đây đi, xuống cái hố này. Mày đứng trên ấy giám sát tao mãi mà không chán à? Mày không thấy là mày bị thiệt mất một nửa cảnh vì dưới này tối quá à?
- Anh im đi, nếu không sẽ bị phạt nặng đấy? - Tên lính gác nói.
- à à? Mày nói nghe thối bỏ mẹ, đồ mặt l...? Mày bảo còn có cách gì phạt nặng hơn là sự im lặng này? Mày muốn phạt bao nhiêu cứ phạt, nếu thích thì cứ đánh đập tao đi, tên đao phủ ghê tởm kia, nhưng mày sẽ không bao giờ tìm được một cái gì có thể so sánh với sự im lặng mà mày bắt tao phải giữ. Không, không, không? Tao không chịu thế này nữa đâu, tao không chịu im lặng nữa đâu, tao không thể im lặng mãi được nữa? Lẽ ra từ ba năm trước tao phải nói vào mặt mày: đồ khốn nạn? Đồ cứt đái? Thế mà tao đã ngu dại đến nỗi đợi ba mươi sáu tháng rồi mới chửi vào mặt mày, chỉ vì sợ trừng phạt? Tao nhổ vào mặt mày và cả bọn chúng mày, đồ cai ngục thối nát?
Một lát sau có tiếng cửa mở và tôi nghe thấy:
- Không, không phải thế! Mặc trái vào cho nó, như thể hiệu quả hơn nhiều?
Người tù đáng thương gào lên:
- Mày muốn mặc áo cùm cho tao cách nào thì cứ mặc đi, đồ sâu bọ! Mặc ngược cũng được, riết thật chặt vào cho tao chết ngạt đi, kề đầu gối vào mà rút dây cho chặt. Đằng nào thi tao cũng cứ nói rằng mẹ mày chỉ là một con lợn cái, còn mày chỉ có thể là một đống cứt?
Chắc chúng nó đã ghét giẻ vào mồm người tù vì tôi không còn nghe thấy gì nữa. Cánh cửa đã đóng lại.
Cảnh vừa qua chắc đã làm cho tên lính gác trẻ tuổi đang đi lại lại phía trên xúc động vì mấy phút sau hắn đứng lại trước buồng giam tôi và nói: “Chắc anh ta phát điên rồi”
- Anh nghĩ thế à? Những điều anh ta nói ra đều phải cả đấy chứ. Tên lính gác sửng sốt một lúc rồi bỏ đi sau khi ném một câu: “Thế à, thế thì anh cũng sẽ theo gót hắn thôi?”.
Việc vừa xảy ra dã tách tôi khỏi những người tốt bụng, những tiếng đàn cò, những đôi vú ấn Độ, cái cảng Port of Spain, và lôi tôi về cái thực tế đáng buồn của nhà giam cấm cố.
Còn mười ngày nữa, tức hai trăm bốn mươi giờ, phải chịu đựng.
Cái chiến thuật không cử động đã đem lại kết quả.
Nếu đó không phải là do những giờ cuối ngày trôi qua một cách êm đềm, hay là nhờ mẩu giấy của các bạn tôi. Tôi có thiên hướng nghĩ rằng sở dĩ mình tự cảm thấy mạnh mẽ hơn là nhờ một sự so sánh đã đến với tôi như một điều hiển nhiên: tôi chỉ còn cách giờ ra khỏi nhà giam có hai trăm bốn mươi tiếng đồng hồ, tôi yếu nhưng óc tôi vẫn nguyên vẹn, năng lực của tôi chỉ cần thêm một ít sức nữa là có thể làm việc trở lại một cách hoàn hảo. Trong khi đó thì sau lưng tôi, chỉ cách hai mét, sau bức tường này, một người tù khốn khổ đang bước vào giai đoạn thứ nhất của sự điên rồ, có lẽ là bước vào bằng một ngưỡng cửa không nên vượt qua: ngưỡng cửa của bạo lực. Người ấy sẽ không sống lâu nữa, vì sự nổi loạn của anh ta khiến cho bọn cai ngục cơ hội sừ dụng những biện pháp đã nghiên cứu rất kỹ để giết anh ta một cách thật khoa học. Tôi tự trách mình là đã cảm thấy mình mạnh hơn chỉ vì người kia bại trận. Tôi tự hỏi, không biết mình có phải là một trong những kẻ ích kỷ mà vào những ngày mùa đông, chân đi giày ấm, tay đi găng, mình khoác tấm áo lông dày, đang nhìn những đám người lao động đang đi làm ăn mặc phong phanh, người rét cóng, hai tay tím lại vì gió rét, đang hớt hải chạy cho kịp chuyến xe buýt hay chuyến mé tro đầu tiên, càng nhìn họ càng thấy mình ấm áp và thường thức cái cảm giác ấy một cách trọn vẹn hơn bao giờ hết.
Trên đời này, nhiều khi mọi sự chỉ là do so sánh mà có. Đúng thế, người ta có thể nghĩ: tôi bị mười năm nhưng Papillon thì bị chung thân. Đúng thế, tôi bị chung thân, nhưng tôi mới hai mươi tám tuổi, còn anh kia chỉ bị mười lăm năm, nhưng tuổi anh đã năm mươi rồi. Dù sao cuối cùng tôi cũng đã gần đến đích, và tôi hy vọng rằng chỉ trong vòng sáu tháng là cùng tôi sẽ lại sung sức về mọi phương diện - thể chất, tinh thần, ý chí - để thực hiện một cuộc vượt ngục ngoạn mục.
Người ta đã phải nói nhiều về chuyến vượt ngục đầu tiên, chuyến thứ hai sẽ được khắc lại trên những phiến đá xây tường của tại khổ sai. Tôi không chút nghi ngờ.
Tôi sẽ ra đi trước sáu tháng: đó là điều hoàn toàn chắc chắn.
Đây là đêm cuối cùng của tôi ở nhà giam cấm cố. Cách đây một vạn bảy ngàn năm trăm tám giờ tôi đã bước vào buồng giam 234. Họ đã mở cửa ra một lần để giải tôi ra trước mặt viên giám đốc cho hắn xử tội.
Ngoài người tù ở buồng bên mỗi ngày thường trao đổi với tôi mấy tiếng nhát gừng, người ta đã nói chuyện với tôi bốn lần. Một lần để nói rằng khi có tiếng còi huýt có thể hạ ván xuống: đó là ngày thứ nhất. Một lần là các ông bác sĩ nói: “Quay lưng lại ho đi”. Một buổi nói chuyện dài hơn và sôi nổi hơn với viêm giám đốc. Và hôm trước là bốn câu trao đổi với tên lính gác bị người tù phát điên làm cho xúc động. Giải khuây như vậy thật không lấy làm gì phong phú! Tôi chìm vào một giấc ngủ yên lành, trong ý nghĩ không có gì khác hơn là: ngày mai người ta sẽ mở hẳn cánh cửa này. Ngày mai tôi sẽ được nhìn thấy ánh mặt trời, và nếu họ đưa tôi sang Royale tôi sẽ được hít thở không khí của biển khơi. Ngày mai tôi sẽ được tự do. Tôi bật cười. Tự do là thế nào? Ngày mai mày bắt đầu chính thức hưởng cái án khổ sai chung thân. Thế mà mày gọi là tự do ư? Tôi biết, tôi biết chứ, nhưng cuộc sống ở bên ngoài không thể nào so sánh với cuộc sống mà tôi vừa phải chịu đựng. Tôi sẽ gặp Clousiot và Maturette như thế nào đây.
Đến sáu giờ, họ đưa cà-phê và bánh mì cho tôi. Tôi chỉ muốn nói: Kìa, hôm nay tôi được ra kia mà.
“Anh nhầm rồi”. Nhưng tôi chợt nhớ ra rằng mình là người “mất trí nhớ”, và biết đâu nếu tôi nói như vậy thì khác nào thừa nhận là đã giỡn mặt viên giám dốc, và hắn rất có thể phạt tôi ba mươi ngày xà-lim nữa?
Vì dù có thể nào, theo pháp luật tôi phải ra khỏi nhà giam cấm cố trừng giới Saint-Joseph đúng vào ngày hôm nay, 26 tháng sáu 1936. Bốn tháng nữa tôi tròn ba mươi tuổi.
Tám giờ. Tôi đã ăn hết cả ổ bánh mì. Ra ngoài tôi sẽ có thứ khác để ăn ngay. Họ đến mở cửa. Trước mặt tôi là viên phó giám đốc và hai tên giám thị.
- Charrière, anh đã mãn hạn, hôm nay là ngày 26 tháng sáu 1936. Anh đi theo chúng tôi.
Tôi ra ngoài. Ra đến tận sân thì mặt trời đã đủ sáng để làm tôi lóa mắt. Tôi có cảm giác như muốn xỉu.
Hai chân tôi mềm nhũn ra, và những chấm đen quay cuồng trước mắt tôi. Thế mà tôi mới vừa đi được chừng năm mươi mét trong đó có ba mươi mét đi dưới nắng.
Đến trước gian nhà “Ban quản trị” tôi trông thấy Maturette và Clousiot. Maturette đúng là một bộ xương, hai má hóp vào, đôi mắt sâu hoắm. Clousiot thì nằm trên cáng. Anh ta xanh xao và đã phảng phất mùi người chết. Tôi nghĩ: “Hai bạn của tôi trông chẳng đẹp chút nào. Không biết mình có như vậy không?” Tôi nóng lòng muốn được nhìn thấy mình trong gương. Tôi nói với hai bạn:
- Thế nào, ổn không?
Họ không trả lời. Tôi nhắc lại:
- ổn không?
- ổn - Maturette nói rất khẽ.
Tôi muốn nói với cậu ta rằng bây giờ đã hết hạn cấm cố, chúng tôi có quyền nói chuyện. Tôi cúi xuống hôn lên má Clousiot. Anh nhìn tôi với đôi mắt sáng long lanh và mỉm cười:
- Vĩnh biệt Papillon, - anh nói.
- Không, sao lại nói thế?
- Tôi đến rồi, thế là hết.
Mấy ngày sau, Clousiot sẽ chết ở bệnh viện đảo Royale. Anh được ba mươi hai tuổi, bị xử hai mươi năm khổ sai vì một vụ ăn cắp xe đạp mà anh không phải là thủ phạm. Nhưng lúc ấy viên giám đốc đã đến:
- Cho họ vào. Maturette và Clousiot, các anh đã có hạnh kiểm tốt. Cho nên tôi đề vào phiếu của các anh là “Hạnh kiểm tốt”. Còn anh, Charriere, anh đã phạm một lỗi nặng, tôi phải đề: hạnh kiểm xấu.
- Xin lỗi ông, tôi phạm lỗi gì ạ?
- Thế anh không nhớ vụ thuốc lá và dừa bị bắt quả tang à?
- Cây dừa ở đâu?
- Kìa, bốn tháng nay anh hưởng chế độ gì?
- Về phương diện nào chứ? ăn uống à? Từ khi tôi vào đây hôm nào chẳng thế!
- Chà! Thế thì thật quá quắt! Chiều qua anh ăn gì?
- Như mọi khi, cho gì tôi ăn nấy. Tôi đi đâu mà biết? Tôi không nhớ, nhưng tôi biết đại khái là đậu hay cơm xào, hay một thứ rau gì đấy.
- Thế anh có ăn bữa chiều à?
- Trời đất! ông tưởng tôi đổ đi sao?
- Không thế này thì không được, tôi xin bỏ cuộc. Thôi, tôi rút lui “Hạnh kiểm xấu”. Làm lại phiếu ra tù đi ông X... Tôi ghi cho anh “Hạnh kiểm tốt”, được chưa?
- Như thế là công bằng thôi. Tôi có làm gì đâu mà chẳng hạnh kiểm tốt?
Và đó là câu cuối cùng trước khi chúng tôi ra khỏi văn phòng.
Cổng lớn của nhà giam cấm cố mở ra cho chúng tôi đi qua. Chỉ có một tên giám thị đi theo áp giải, chúng tôi thong thả bước xuống con đường dẫn ra trại. Phía dưới là mặt biền lấp lánh những ánh bạc và bọt sóng. Đảo Royale ở phía trước mặt, phủ đầy cây cối xanh rờn và mái ngói đó. Đảo Quỷ, khắc khổ và hoang dại. Tôi xin phép tên giám thị ngồi xuống mấy phút. Hắn bằng lòng. Chúng tôi ngồi xuống cạnh Clousiot, tôi bên phải, Maturette bên trái. Chúng tôi cầm lấy tay anh từ lúc nào cũng không biết nữa. Sự tiếp xúc này gieo vào lòng chúng tôi một nỗi xúc động lạ kỳ. Không nói một lời, chúng tôi ôm hôn nhau. Viên giám thị nói.
- Thôi các cậu. Phải xuống thôi.
Và chúng tôi từ từ, rất chậm rãi, đi xuống trại. Hai đứa chúng tôi cùng vào trại một lúc, hai bàn tay vẫn nắm lấy nhau, phía sau là hai người khiêng cáng bạn chúng tôi đang hấp hối.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Cuộc sống ở đảo Royale
Chúng tôi vừa đến sân trại đã được sự quan tâm niềm nở của toàn thể phạm nhân. Tôi gặp lại Plerrot le Fou, Jean Sartrou, Coloudim, Chissilia. Viên giám thị bảo cả ba chúng tôi phải vào bệnh xá. Chúng tôi đi qua sân để vào bệnh xá, xung quanh có đến vài chục phạm nhân hộ tống. Chỉ mấy phút sau, Maturette với tôi đã có trước mặt hơn chục gói thuốc lá điếu và thuốc lá sợi, một bình cà-phê sữa nóng hổi, mấy tấm sô-cô- la làm bằng ca-cao nguyên chất. Ai cũng muốn tặng chúng tôi một thứ quà gì đó. Clousiot dược anh y tá tiêm cho một mũi dầu long não và một liều adrenalin để trợ tim. Một anh da đen gầy gò nói: “Anh y tá ạ, anh lấy phần sinh tốt của tôi phát cho anh ấy đi, anh ấy cần hơn tôi”. Cái cánh tỏ tình đoàn kết thân ái đối với chúng tôi thật cảm động.
Pierre người Bordeaux nói với tôi:
- Cậu cầm lấy ít tiền nhé? Trước khi cậu lên đường đi Royale, tớ sẽ có đủ thì giờ quyên cho cậu một món.
- Thôi, cám ơn cậu nhiều, tớ có tiền. Nhưng sao cậu biết tớ đi Royale à?
- Biết. Viên kế toán có nói với tớ cả ba cậu sẽ đi. Tớ còn đoán chắc là ca ba sẽ được vào bệnh viện.
Viên y tá vốn là một tên cướp ở vùng núi đảo Corse. Anh ta lên là Essari. Về sau tôi đã có dịp biết anh ta rất rõ. Tôi sẽ kể lại đầu đuôi câu chuyện của anh ta. Đó là một câu chuyện thật thú vị.
Hái tiếng đồng hồ ở bệnh xá trôi qua rất nhanh. Chúng tôi đã được ăn uống ngon lành. No nê và hồ hởi, chúng tôi lên đường đi Royale. Suốt thời gian vừa qua Clousiot mắt cứ nhắm nghiền, chỉ trừ những khi tôi đến cạnh đặt bàn tay lên trán anh, anh mới mở đôi mắt đã mờ đục, nói:
- Papi, bạn ơi! Chúng mình thực sự là bạn của nhau nhỉ.
- Hơn thế nữa, chúng mình là anh em ruột thịt, - tôi đáp
Vẫn chỉ có một viên giám thị đi kèm, chúng tôi xuống bến. Đi giữa là cái cáng qua Clousiot, còn tôi và Maturette mỗi đứa đi một bên. Đến cổng trại, tất cả phạm nhân đều ra từ biệt và chúc chúng tôi may mắn. Chúng tôi cám ơn anh em. Tuy họ đều không chịu nhận. Pierrot le Fou quàng lên cỏ tôi một túi dết đựng đầy thuốc lá sợi, thuốc điếu, sô-cô~la, sữa hộp Nestlé. Maturette cũng được một túi như thế. Cậu ấy chẳng biết người nào đã quàng lên vai cậu cái túi quà ấy nữa.
Chỉ có anh y tá Fernadez và một viên giám thị đưa chúng tôi ra bến. Fernadez trao cho mỗi đứa chúng tôi một cái phiếu nằm bệnh viện đảo Royale. Tôi hiểu ra rằng chính hai phạm nhân khổ sai làm y tá là Essari và Fernadez đã cấp giấy nhập viện cho chúng tôi, chẳng hỏi ý kiến bác sĩ nữa. Chiếc ca~nô đã chờ sẵn.
Sáu người chèo, hai viên giám thị đeo súng trường ngồi ở phía sau và một viên nữa cầm lái. Một trong những người chèo thuyền là Chapar, bị xử trong vụ chứng khoán ở Marseile.
Chúng tôi lên đường. Sáu mái chèo vỗ xuống nước Chapar vừa chèo vừa nói với tôi:
- ổn cả chứ Papi? Cậu vẫn nhận được dừa đấy chứ?
- Không, bốn tháng sau thì không nhận dược nữa.
- Tớ biết. Có sự cố xảy ra. Cái cậu bị liên lụy đã xử sự rất cừ. Cậu ấy chỉ biết có một mình tớ, nhưng không hề khai tớ ra.
- Cậu ấy bây giờ ra sao?
- Chết rồi.
- Thế à? Tại sao?
- Theo một viên y tá thì hình như cậu ấy bị chúng nó đá vỡ gan.
Thuyền cặp bến đảo Royale, đảo lớn nhất trong quần đảo. Đồng hồ cửa hàng bánh mì chỉ ba giờ. Nắng chiều ở đây quả là gay gắt. Tôi thấy chói và bức quá.
Một viên giám thị yêu cầu hai người khiêng cáng. Hai phạm nhân vạm vỡ đồ trắng tinh, cổ tay đeo nịt da đen, nhấc cáng của Clousiot lên trông nhẹ bỡn như nhấc cái lông chim. Maturette và tôi bước theo, đi sau cùng là một viên giám thị cầm mấy thứ giấy tờ gì đấy. Đường đi rộng hơn bốn mét, lát bằng đá cuội lớn lấy ở bờ biển, rất khó đi lên dốc. May mà hai người khiêng cáng chốc chốc lại dừng lại đợi chúng tôi lên kịp. Mỗi lần như vậy tôi lại ngồi ghé xuống khung cáng phía đầu Clousiot, tay khẽ vuốt lên trán và lên tóc anh
Clousiot mở mắt ra, mỉm cười với tôi nói:
- Cậu, Papi!
Maturette cầm lấy tay anh.
- Cậu đấy à cậu bé? - Clousiot thì thầm.
Clousiot có vẻ tràn trề hạnh phúc khi thấy chúng tôi ở bên cạnh. Vào một lúc dừng lại nghỉ, khi đã gần đến trại, chúng tôi gặp một tốp phạm nhân đi làm cỏ về. Hầu hết là những phạm nhân cùng sang một chuyến với tôi. Đi ngang qua, ai nấy đều nói với chúng tôi một lời thân ái. lên đến đỉnh dốc bằng phẳng, chúng tôi trông thấy những viên chức cao cấp nhất trên đảo ngồi trong bóng râm trước một tòa nhà vuông quét vôi trắng.
Chúng tôi đến trước mặt thiếu tá Barrot biệt hiệu là “Dừa khô” và mấy viên chỉ huy trại khác. Không đứng dậy, và không làm ra vẻ nghi thức, thiếu tá nói:
- Thế nào, ở nhà lao Cấm cố không đến nỗi gay quá chứ? Còn anh nằm cáng kia là ai thế
- Clousiot đấy ạ
Thiếu tá nhìn Clousiot rồi nói:
- Đưa cả ba vào bệnh viện đi. Khi nào họ ra viện, yêu cầu bảo cho tôi biết để họ đến gặp tôi trước khi được đưa về trại nhé.
ở bệnh viện, họ cho chúng tôi nằm trong một căn phòng rộng rãi, rất sáng sủa, giường nằm rất sạch, có trải drap và có gối mềm hẳn hoi. Người y tá đầu tiên mà tôi nhìn thấy là Chatal - chính viên y tá ở phòng dành cho phạm nhân nguy hiểm ở Saint-Laurent-du- Maroni. Anh ta lập tức đến săn sóc Clousiot và báo một viên giám thị gọi ngay bác sĩ. Khoảng đến năm giờ chiều bác sĩ đến. Sau khi khám nghiệm kỹ lưỡng một hồi lâu, bác sĩ lắc đầu, vẻ không hài lòng. Bác sĩ viết đơn thuốc rồi đi về phía tôi. Ông ta nói với Chatal:
- Papillon với tôi chẳng ưa gì nhau đâu.
- Thế thì tôi lấy làm lạ vì anh ta rất tốt, bác sĩ
- Có thể. Nhưng anh ta bướng lắm.
- Nhân dịp nào?
- Nhân một lần tôi khám bệnh cho anh ta ở Nhà giam cấm cố.
- Bác sĩ ạ, - tôi nói - đứng ngoài hành lang hỏi tôi mấy câu như thế mà cũng gọi là khám bệnh được sao?
- Ban Quản trị có lệnh cấm mở cửa phòng giam.
- Rất đúng, thưa bác sĩ, nhưng tôi hy vọng rằng bác sĩ không phải là một thành viên của Ban Quản trị: như thế tốt hơn cho bác sĩ nhiều.
- Ta sẽ nói chuyện này vào một dịp khác. Tôi sẽ cố làm cho anh bạn anh hồi phục. Còn anh ta thì tôi e là đà quá muộn.
Chatal kể cho tôi nghe rằng anh bị nghi là có chuẩn bị cho một cuộc vượt ngục nên bị đày ra Quần đảo. Anh ta cũng cho tôi biết rằng Jésus, kẻ đã lừa tôi trong chuyến vượt ngục của tôi, đã bị một người hủi giết chết.
Chatal không biết tên người này. Tôi cứ băn khoăn không biết đó có phải là một trong những người hủi đã giúp đỡ chúng tôi một cách hào hiệp trong chuyến vượt ngục vừa qua hay không.
Cuộc sống của tù khổ sai ở đảo Salut hoàn toàn khác với những điều người ta có thể tưởng tượng. Phần đông phạm nhân đều cực kỳ nguy hiểm, vì nhiều nguyên do. Trước hết ở đây mọi người đều được ăn rất khá, vì ở đây người ta buôn đủ thứ: rượu, thuốc lá, cà-phê, sô-cô-la, đường, thịt, rau tươi, cá, tôm he, dừa v.v... Cho nên phạm nhân đều khỏe mạnh. Khí hậu lại rất lạnh. Chỉ có những phạm nhân có thời hạn mới có hy vọng được trả tự do, còn tù khổ sai chung thân thì hoàn toàn vô vọng, cho nên họ đều rất nguy hiểm: họ còn có sợ gì nữa đâu? Mọi người đều dính dấp vào việc buôn bán lén lút hàng ngày, phạm nhân cũng như giám thị. Đấy là một sự pha trộn chăng dễ gì hiểu nổi. Có những người vợ giám thị tìm cách đưa phạm nhân trẻ về làm việc nội trợ - và cũng nhiều khi kiêm cả việc làm tình nữa. Những phạm nhân ấy được gọi là “tù gia đình”. Người thì làm vườn, người thì nấu bếp. Chính loại phạm nhân này là đầu mối liên lạc giữa trại tù và các gia đình cảnh sát. Bọn “tù gia đình” không bị các phạm nhân khác khinh ghét. vì chính nhờ bọn này mà họ có thể tha hồ buôn bán các thứ. Nhưng bọn này cũng không được họ coi như những người “trong sạch”. Trong giới giang hồ chân chính không có một ai hạ mình xuống làm những công việc như thế. Cũng như họ không chịu làm việc “giữ chìa khóa” hay hầu bàn ở nhà ăn của bọn giám thị. Ngược lại, họ rất chuộng những công việc không buộc họ phải dính dáng gì với bọn gác ngục: đổ rác, nhặt lá vàng, chăn trâu, làm y tá, làm vườn cho nhà giam làm thịt súc vật, làm bánh mì, chèo thuyền, đưa thư, canh hải đăng. Tất cả các công việc này đều do những người “giang hồ chính cống” lĩnh lấy. Một kẻ giang hồ chính cống không bao giờ làm những công việc lao dịch nhằm bảo quản tường rào, đường sá, cầu thang, hay trồng dừa; tức là những công việc lao dịch dưới ánh nắng trực tiếp hay dưới sự kiểm soát của cảnh sát. Phạm nhân phải làm việc từ bảy giờ sáng đến mười hai giờ trưa và từ hai giờ trưa đến sáu giờ nhiều, những điều trên đây có thể giúp bạn đọc hình dung sơ sài cái không khí sống trà trộn của những con người hết sức khác nhau, phạm nhân lẫn cánh sát: đây thật là một cái làng nhỏ trong đó việc gì cũng được mọi người bình luận, việc gì cũng được phán xét, trong đó mọi người đều chứng kiến và quan sát cách sống của nhau.
Dega và Galgani đã đến bệnh viện thăm tôi suốt ngày chủ nhật. Chúng tôi đã cùng ăn món ailloli nấu cá, món canh cá, khoai tây, pho-mát, uống cà-phê, rượu vang trắng. Bữa ăn này chúng tôi gồm có Chatal, Dega, Galgani, Maturette và tôi, đã cùng nấu với nhau trong phòng của Chatal. Các bạn yêu cầu tôi kể lại chuyến vượt biên thật tỉ mỉ. Dega đã quyết định là không tìm cách vượt ngục. Bác ta chờ đợi tin được giam ba năm, thành thử nếu được giam thì chỉ còn có bốn năm. Bác ta đã đành lòng ngồi cho hết bốn năm ấy. Còn Galgani thì nói là nghe đâu đang được một thượng nghị sĩ người Corse lo cho.
Sau đó đến lượt tôi hỏi. Tôi muốn biết ở đây có những chỗ làm nào thuận tiện hơn cả cho việc vượt ngục. Thế là ai nấy đều kêu váng lên. Đối với Dega vấn đề này chưa bao giờ thoáng hiện trong tâm trí. Galgani cũng vậy. Riêng Chatal thì nghĩ rằng nên tìm một mảnh vườn để chuẩn bị một cái bè. Còn Grandet thì cho tôi biết rằng anh ta làm thợ rèn cho “Công trường” của trại. Đó là một cái xưởng có đủ cái loại thợ: thợ sơn, thợ mộc, thợ rèn, thợ nề, thợ hàn - cả thảy gần trăm hai mươi người. Xưởng lo việc bảo trì nhà cửa của Ban Quản trị. Dega vốn làm kế toán trưởng, có thể xin cho tôi vào đấy làm một việc gì tùy tôi chọn. Grandet tỏ ý sẵn sàng nhường cho tôi một nửa chân chủ sòng bạc, để lấy số tiền ăn được của các con bạc mà giữ gìn sức khỏe, khỏi lạm vào tiền giấu trong plan. Về sau tôi sẽ rõ rằng việc này rất thú vị, nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm. Ngày chủ nhật trải qua một cách nhanh chóng lạ lùng. “Năm giờ rồi - Dega nhìn cái đồng hồ tuyệt đẹp đeo trên cổ tay, nói - phải về trại thôi”. Khi ra về, Dega cho tôi năm trăm francs để đánh poker, vì trong phòng chúng tôi đôi khi có những đám bạc rất khá. Grandet cho tôi một con dao thượng hảo hạng có chốt chắn tay, lưỡi bằng thép do chính tay anh ta tôi.
- Đó là một vũ khí đáng gờm. Đêm ngày cậu bao giờ cũng phải thủ dao trong người.
- Thế nhỡ chúng nó khám thì sao?
- Phần nhiều, việc này do bọn giữ khóa A-rập làm. Đối với một người được coi là nguy hiểm, không bao giờ chúng nó phát hiện là có vũ khí, dù có sờ thấy dao rõ ràng chúng nó cũng phải lờ đi.
- Sẽ gặp lại ở trại - Grandet nói.
Trước khi ra về, Galgani nói là đã dành cho tôi một chỗ trong góc của anh ta và hai đứa sẽ cùng một tổ với nhau (người cùng tổ thì ăn chung và tiền của mỗi người cũng là tiền của cài tổ). Dega thì không ngủ ở trại: bác ta có một buồng ngủ riêng trong dãy nhà của Ban Quản trị.
Chúng tôi đến đây đã được ba ngày, nhưng vì đêm nào tôi cũng ở bên cạnh Clousiot, cho nên tôi không biết rõ cho lắm cảnh sinh hoạt ở căn phòng lớn của bệnh viện có đến gần sáu mươi người nằm. Rồi vì Clousiot mệt nặng quá, người ta cách ly anh vào một phòng riêng đã có một người bệnh nặng nằm từ trước.
Chatal cứ tống mãi morphin vào cho anh. Chatal sợ anh không qua khỏi đêm nay.
Trong phòng có sáu mươi giường xếp lại làm hai dãy, ở giữa là một lối đi rộng ba mét. Hầu như giường nào cũng có người nằm. Hai ngọn đèn dầu hỏa thắp sáng gian phòng. Maturette nói với tôi: “Ngoài kia họ đang đánh poker”. Tôi ra chỗ đánh bài. Có bốn người đang chơi.
- Tôi vào thêm một chân có được không?
- Được, ngồi xuống đi. Mỗi ván tối thiểu chừng một trăm francs. Mỗi chầu ba ván vị chi ba trăm francs.
- Này, cầm lấy ba trăm tiền cắc.
Tôi đưa Maturette giữ hộ hai trăm đồng tiền cắc.
Một người Paris tên là Dupont nói:
- ở đây đánh theo luật Anh, khòng dùng joker. Cậu biết cách chơi chứ?
- Biết.
- Thế thì chia bài đi, cậu làm cái trước.
Mấy người này đánh bài với một tốc độ khó tưởng tượng nổi. Bài phải đỡ rất nhanh, nếu không người làm cái sẽ nói: “Đỏ chậm rồi”, và người kia sẽ phải đền. Chính ở đây tôi đã phát hiện được một loại phạm nhân mới: loại con bạc. Họ sống bằng cờ bạc, vì cờ bạc trong cờ bạc. Ngoài cờ bạc ra, họ không còn quan tâm đến một cái gì khác nữa. Họ quên hết: trước kia họ là gì, họ bị xử án gì, họ có thể làm gì để cho cuộc sống của họ thay đổi ít nhiều. Họ không cần biết người ngồi đánh bài với họ là ai, tốt xấu ra sao, chi cần người đó đánh bài, thế là đủ.
Chúng tôi chơi suốt đêm hôm ấy. Đến giờ uống cà- phê mới thôi. Tôi được một ngàn ba trăm francs. Tôi đang đi về giường thì Paulo đến gặp tôi hỏi vay hai trăm để đi đánh tiếp mấy ván belote tay đôi. Cần hai trăm mà anh ta chỉ có một.
- Đây, cầm lấy ba trăm. Chung vốn một nửa, tôi nói.
- Cám ơn Papillon. Anh đúng là gã trai tôi đã được nghe nói. Ta sẽ là bạn.
Anh ta chia tay, tôi bắt tay anh ta, và anh ta vui vẻ cầm tiền đi.
Clousiot chết vào sáng hôm ấy.
Đêm trước, vào một lúc tỉnh táo, anh đã yêu cầu Chatal đừng tiêm morphin cho anh nữa:
- Tôi muốn được trọn vẹn khi chết, ngồi trên giường bên cạnh có các bạn tôi.
Có lệ tuyệt đối cấm vào các phòng cách ly, nhưng Chatal đã tự ý bỏ lệ đó, và bạn chúng tôi đã được chết trong tay chúng tôi. Tôi đã vuốt mắt cho anh. Maturette biến dạng đi vì đau đớn.
- Anh ấy là người bạn đường trong cuộc phiêu lưu tuyệt vời của chúng ta. Thế mà bây giờ người ta đã ném anh ấy xuống biển cho cá mập.
Khi nghe mấy tiếng “ném cho cá mập”, tôi lạnh toát cả người. ở Quần đảo quả nhiên không có nghĩa địa cho phạm nhân. Khi một người tù qua đời, họ đem xác ném xuống biển vào lúc mặt trời lặn, khoảng giữa hai đảo Saint-Joseph và Royale, một nơi nhung nhúc những cá mập.
Cái chết của người bạn làm cho tôi không tài nào ở lại bệnh viện được. Tôi nhắn Dega là ngày kia tôi sẽ ra viện. Dega liền viết cho tôi mấy chừ: “Cậu hãy xin Chatal ký giấy cho nghỉ mười lăm ngày ở trại, để cậu có thì giờ chọn một công việc vừa ý”. Maturette sẽ nằm viện mấy ngày nữa. Có lẽ Chatal sẽ giữ cậu ta lại làm y tá phụ việc.
Hôm tôi ra viện, họ dẫn tôi đến trụ sở ban Quản trị gặp thiếu tá Barrot biệt hiệu “Dừa khô”.
- Bươm bướm ạ, - ông ta nói, - trước khi cho anh về trại, tôi thấy cần nói chuyện với anh một chút. ở đây anh có một người bạn quý làm kế toán cho tôi: Louis Dega ấy. Lão ta nói anh không phải là người như trong các hồ sơ từ Pháp gửi cho chúng tôi nhận xét và vì coi anh là một người vô tội bị xử oan, việc anh thường nổi loạn là việc bình thường. Tôi xin nói với anh rằng tôi không đồng ý lắm với Dege về vấn đề này. Điều tôi đang muốn biết là hiện nay trạng thái tinh thần của anh ra sao.
- Thưa thiếu tá, trước tiên, để có thể trả lời ngài, xin ngài cho biết trong hồ sơ nhận xét về tôi như thế nào?
- Anh cứ xem đi thì biết.
Và thiếu tá đưa cho tôi một cái cặp bìa vàng, trong đó tôi đọc thấy những điều đại loại như sau:
“Henri Charrière, biệt hiệu Bươm bướm, sinh ngày 16 tháng Một năm 1906 ở..., tỉnh Ardèche, bị Tòa Đại hình quận sông Seine xử án khổ sai chung thân vì tội giết người. Nguy hiểm về mọi phương diện, cần được giám sát nghiêm ngặt. Không thể giao những công việc ưu đãi”
“Nhà lao trung tâm Caen: một phạm nhân bất trị, không thể cải hóa. Có khả năng khuấy động và chỉ huy một cuộc nổi loạn. Cần quan sát thường xuyên.
“Saint-Martin-de-Ré : một tù nhân có kỷ luật nhưng rất có ảnh hưởng đối với các bạn tù. Sẽ tìm cách vượt ngục từ bất kỳ nhà giam nào.
“Saint-Laurent-du-Maroni: đã tấn công một cách man rợ vào ba viên giám thị và một viên giữ khóa để trốn khỏi bệnh viện. Được đưa từ Colombia về. Có thái độ đứng đắn khi ra tòa trừng giới. Bị xử nhẹ hai năm cấm cố.
“Nhà lao cấm cố Saint-Joseph: hạnh kiểm tốt cho đến mãn hạn”.
Khi tôi trả lại tập hồ sơ, viên thiếu tá nói:
- Anh bạn Bươm bướm ạ, với một hồ sơ như thế, người có nhiệm vụ quản lý anh khó lòng có thể yên tâm. Bây giờ anh có thể ký kết với tôi một bản giao kèo không?
- Sao lại không ạ? Tuy cũng còn tùy ở nội dung bản giao kèo.
- Tôi tin chắc mười phần là anh sẽ làm hết cách để vượt ngục khỏi Quần đảo, mặc dầu việc này hết sức khó khăn. Rất có thể anh sẽ thành công nữa là khác.
- Thế mà về phần tôi, tôi còn phải quản lý Quần đảo năm tháng nữa. Anh có biết một vụ vượt ngục xảy ra thì Giám đốc Quần đảo phải trả giá như thế nào không? Một năm phụ cấp. Tôi sẽ bị tước bỏ số phụ cấp của viên chức hải ngoại, sẽ bị hoãn nghỉ phép sáu tháng và hạn nghỉ phép rút bớt ba tháng. Và tùy theo kết luận sau khi điều tra về vụ vượt ngục, nếu thấy có sự sơ xuất của Giám đốc trại, có thể mất một lon. Anh thấy đấy: chẳng phải chuyện đùa. Nhưng nếu tôi là người làm việc một cách trung thực thì không thể chỉ vì anh có cơ vượt ngục mà tôi lại có quyền nhốt anh vào ngục hay vào xà lim. Trừ phi tôi đặt điều vu cho anh phạm lỗi này nọ. Cái đó tôi không muốn làm chút nào. Cho nên tôi mong anh lấy danh dự hứa với tôi là sẽ không tìm cách vượt ngục trước khi tôi rời Quần đảo. Năm tháng thôi.
- Thưa thiếu tá, tôi xin lấy danh dự hứa với ngài là chừng nào ngài còn ở đây, nếu không quá sáu tháng, tôi sẽ không đi khỏi Quần đảo.
- Không đến năm tháng nữa tôi sẽ ra đi: đó là điều hoàn toàn chắc chắn.
- Vậy thì rất tốt. Ngài cứ hỏi Dega: bác ta biết tôi đã hứa là giữ lời.
- Tôi tin anh.
- Nhưng đổi lại, tôi có một yêu cầu.
- Yêu cầu gì?
- Trong cái thời hạn năm tháng ấy tôi phải được phân những công việc mà lý ra về sau tôi mới được nhận, và hơn nữa, khi cần tôi sẽ được đổi sang đảo khác.
- Được, tôi đồng ý. Nhưng việc này chỉ có hai chúng ta biết thôi.
- Thưa ngài vâng.
Thiếu tá cho gọi Dega đến: Dega nói ràng chỗ của tôi không phải ở trong đám các “tù nhân tử tế” mà là trong đám giang hồ. Trong tòa nhà giam các tù nhân nguy hiểm: tất cả các bạn tôi đều ở đấy. Người ta trao cho tôi cái bị đựng toàn bộ trang phục và đồ dùng của tù khổ sai. Thiếu tá ra lệnh thêm cho tôi mấy bộ quần áo lao động màu trắng tịch thu của bọn thợ may.
Thế là tôi đi theo một viên cảnh sát về khu trung tâm của trại, với hai cái quần trắng mới tinh khôi, ba cái áo va-rơi và một cái mũ rơm. Muốn đến dãy nhà nhỏ của Ban Quản trị trại phải đi qua cả khoảng đất bằng trên đỉnh đồi. Chúng tôi đi ngang trước mặt bệnh xá của giám thị, men theo một bức tường cao bốn mét bao quanh trại giam. Sau khi đi gần hết chu vi cái hình chữ nhật rộng mênh mông này, chúng tôi đến cửa chính trại trừng giới Quần đảo “Phân trại Royale”. Cánh cửa gỗ to tướng của trại mở toang hoác. Nó cao phải đến sáu mét. hai tốp gác mỗi tốp bốn viên giám thị. Một viên đeo lon ngồi trên một chiếc ghế tựa. Không thấy có súng trường: ai nấy đều đeo súng lục. Tôi còn thấy có năm sáu tên giữ khóa người A-rập.
Khi tôi vào đến vòm cửa, bọn giám thị đều bước cả ra. Viên chỉ huy, người Corse, nói: “Đây là một phạm nhân mới, thuộc loại có hạng”. Bọn giữ khóa toan lục soát tôi, nhưng hắn ngăn họ lại:
- Thôi đừng bày trò bắt hắn giở hết cả bạc-đa ra. Vào đi Papillon. ở nhà tù trung tâm chắc chắn là có nhiều bạn cũ đang đợi mày. Tao tên là Sofram. Chúc mày gặp may mắn ở Đảo này!
- Cám ơn sếp.
Tôi bước vào một khoảng sân rộng mênh mông xung quanh có ba tòa nhà lớn. Tôi đi theo viên giám thị, vào một tòa nhà có đề trên cửa: nhà A - Khối Đặc biệt” trước cánh cửa rộng mở viên giám thị gọi lớn: “Khối trưởng đâu!” Một người tù khổ sai già bước ra. Viên sếp nói: “Đây là một tay mới”, đoạn bỏ đi. Tôi bước vào một gian phòng lớn hình chữ nhật có một trăm hai mươi người ở. Cùng như trong cái lán đầu tiên của tôi ở Saint-Laurent, hai bên có hai thanh sắt dài chạy song song với hai bức tường làm thành chiều dài của gian phòng, chỉ đứt quãng ở chỗ có cánh cửa sắt đóng vào ban đêm. Giữa mỗi thanh sắt và bức tường đối diện có căng rất thẳng những tấm vải bố dùng làm giường, được gọi là “võng” tuy nó chẳng giống võng chút nào. Nhưng cái “võng” này rất tiện nghi và hợp vệ sinh. Phía trên môi tấm vải có hai tấm ván đóng vào tường dành cho phạm nhân để đồ đạc: một tấm để áo quần, một tấm để cà-mèn và thức ăn v.v... Giữa hai hàng võng có một lối đi rộng ba mét, gọi là “hành lang”. ở đây phạm nhân cũng họp thành từng nhóm nhỏ gọi là “xóm” hay “tổ” sinh hoạt. Có những tổ chỉ có hai người, nhưng cũng có nhưng tổ có đến mười người.
Chúng tôi vừa vào một cái là các tù nhân mặe đồ trắng đổ xô lại.
“Papi, ra phía này!”
“Không, cậu ấy đến chỗ chúng tớ”.
Grandet cầm lấy cái bị của tôi, nói: “Papi sẽ ở một tổ với tớ”
Tôi đi theo Grandet. Họ lắp “võng” cho tôi, kéo thật căng.
- Này. cầm lấy cái gối lông gà này mà gối. Grandet nói.
Tôi gặp lại cả một lô bạn bè cũ. Rất nhiều Người Corse và người Marseille, cùng có mấy người Paris: đều là những bạn từ Pháp sang, hoặc giả nhưng người tôi đã làm quen ở nhà lao Sante, nhà lao Conciergie hay trên tàu thủy. Nhưng tôi lấy làtn lạ sao giờ này mà họ đều có mặt ở đây cả. Tôi hỏi: “Giờ này mà các cậu không phải đi làm à?” Thế là ai nấy đều cười rộ.
- Chà! Câu này cậu phải chép lại cho chúng tớ làm kỷ niệm đấy! ở nhà A này ai phải đi làm thì nhiều nhất là mỗi ngày một tiếng. Sau đó là về tổ.
- Cuộc đón tiếp của các bạn thật là nồng nhiệt. Được như thế này mãi thì hay quá. Nhưng tôi chợt nhận thấy một điều mà tôi không hề dự kiến: tuy chỉ nằm bệnh viện có mấy ngày, giờ đây tôi thấy mình phải học lại cách sống tập thể.
Tôi được chứng kiến một cảnh mà tôi khó lòng có thể tưởng tượng nổi. Một anh chàng mặc đồ trắng bước vào hai tay bưng một cái khay lớn phủ một tấm vải trắng tinh, rao: “Bít-tết, bít-tết đây! Ai bít-tết nào?” Một lát sau hắn đã đến ngay chỗ chúng tôi, dừng lại, giở tấm vải trắng ra, để lộ cả một khay bày toàn là bít-tết xếp từng chồng sắp rất ngang hàng thẳng lối như trong một cửa hàng thịt chính quy ở Pháp. Có thể thấy rõ Grandet là một ông khách thường xuyên, vì cái anh bưng bít-tết không hỏi xem anh ta có mua bít-tết không, mà chỉ hỏi xem anh ta lấy bao nhiêu suất.
- Năm suất.
- Phô-phi-lê hay thịt vai nào?
- Phô-phi-lê. Hết bao nhiêu đây? Cậu tính sổ lại thư xem, vì bây giờ tổ tớ thêm một nhân khẩu, chẳng giống mọi hôm.
Cậu bán bít-tết rút ra một cuốn sổ tay, tính toán cái gì một lúc.
- Cả thảy vị chi một trăm ba mươi lăm francs: tổng cộng đấy.
- Thế thì tớ thanh toán hết, để bắt đầu ghi sổ lại từ đầu
Khi anh bán thịt đã đi chỗ khác. Grandet nói với tôi:
- ở đây mà không có bím thì chỉ có chết. Nhưng cũng may là có một phương pháp để lúc nào cũng rủng rỉnh: đó là “biện pháp D”.
ở trong đám giang hồ chính cống, “biện pháp D” (tức là “debrouille”) là cái cách xoay xớ riêng của từng người để kiếm tiền xài. Anh đầu bếp của trại lấy suất thịt của cái tù nhân, rán bít-tết đem bán. Khi nhận thịt ở nhà bếp, hắn cắt bớt đi chừng một nửa. Tùy loại thịt, hắn làm bít-têt, làm ra-gu hay đem hầm nhừ. Một phần đem bán cho bọn giám thị thông qua vợ họ, một phần đem bán cho các phạm nhân có tiền. Dĩ nhiên, anh đầu bếp cũng có chia phần lời cho viên giám thị phụ trách bếp núc. Nhà đầu tiên anh ta mang hàng đến bao giờ cũng là nhà A, nhà của khối Đặc biệt tức của chúng tôi.
Vậy thì biện pháp D là biện pháp của anh đầu bếp bán thịt bán mỡ, của anh làm bánh mì bán bánh mì phăng-te-di và bánh mì trắng ba-ghét, tức bánh mì ống sáo nướng dòn tan, dành cho bọn giám thị, của anh đồ tể ở lò thịt bán thịt cho anh đầu bếp; của anh y xá bán thuốc tiêm; của anh kế toán ăn tiền để chỉ định cho phạm nhân nhận việc này việc nọ, hay chỉ để cho anh miễn một khoản cỏvê nào đấy; của anh lao vườn, bán rau quả tươi; của anh tù làm ở phòng thí nghiệm bán kết quả xét nghiệm, nhiều khi còn sản xuất ra cả những bệnh nhân ho lao dỏm, cùi dỏm, lỵ dỏm, v.v..., của những chuyên gia ăn cắp các thứ vặt vãnh trong sân nhà bọn giám thị rồi đem ra bán: trứng, gà, xà-bông Marseille; của những anh “tù gia đình” chuyên móc nối đổi chác với bà chủ nhà, ai cần gì cứ nhờ họ kiếm cho: bơ, sữa đặc, sữa bột, hộp cá thu, hộp cá trích, pho-mát, và dĩ nhiên là cả rượu vang, rượu mạnh (chẳng hạn tổ tôi bao giờ cũng có một chai Ricard và mấy bao thuốc lá Mỹ hayĂng-lê); rồi lại còn những anh tù được phép đi câu, chuyên bán cá tươi và tôm he nữa.
Nhưng cái biện pháp D hời nhất, và cũng là nguy hiểm nhất nữa, là làm chủ sòng bạc. Lệ ở đây quy định là không bao giờ được có hơn ba hay bốn chủ sòng trong một khối gồm một trăm hai mươi tù nhân. Người nào định kiếm chân chủ sòng thì đang đêm cứ đến một sòng đang chơi tuyên bố:
- Tớ muốn kiếm một chân chú sòng.
Người ta thường trả lời hắn là không được đâu.
- Mọi người đều đồng ý là không được chứ?
- Không được.
- Vậy thì tớ chọn cậu Mỗ đây: tớ chiếm chỗ cậu.
Cái anh mỗ được chọn kia đã hiểu. Hắn đứng dậy, ra giữa phòng và hai người rút dao ra đọ sức. Ai thắng thì được giữ chân chủ sòng. Chủ sòng được hường hồ năm phần trăm mỗi số tiền thắng được.
Cờ bạc cũng là cơ hội thực hiện những biện pháp D vụn vặt khác, có những anh chuyên trải những tấm chăn thật thắng thơm xuống đất cho mọi người ngồi, lại có những anh cho thuê mấy cái ghế đòn con con dành cho những con bạc không quen ngồi xếp bằng, có những anh bán thuốc lá điếu bên sòng bạc: họ đặt lên tấm chăn mấy cái hộp xì gà cũ, đựng những bao thuốc Pháp, Anh, Mỹ hay những điếu thuốc quấn lấy. Mỗi thứ đều có giá nhất định. Ai muốn hút cứ việc tự lấy ra, nhưng không được quên bỏ vào hộp số tiền đã ấn định cho từng loại thuốc. Lại có cả những anh chuyên trách mấy cái đèn dầu noa, trông nom cho đèn đừng bốc khói nhiều quá. Đó là những cây đèn làm bằng hộp sữa, mặt trên đục lỗ xâu bấc. Lâu lâu lại phải gạt bấc cho đỡ bốc khói. Những con bạc không hút thuốc thì dùng kẹo hay bánh ngọt: việc sản xuất các thứ này cũng làm thành một nghề D riêng. Mỗi khối nhà đều có một hay hai anh bán cà-phê. Cà-phê theo kiểu A-rập, được ủ nóng suốt đêm trong hai cái bao bố gấp kín lại và được để ở một chỗ cố định. Lâu lâu người bán cà-phê lại đảo qua sòng bạc chào mời, tay cầm một cái bình thủy tự chế đựng cà-phê hay ca cao nóng.
Cuối cùng là nghề tiểu thủ công. Đây có thể nói là một biện pháp D có tính chất mỹ nghệ. Có người mua lại đồi mồi của những tù nhân chuyên đi câu để gia công. Mỗi cái mai như vậy có mười ba mang có thể nặng tới hai ki lô. Nhà mỹ nghệ dùng đồi mồi làm vòng đeo tay, làm hoa mai, làm vòng đeo cổ, làm cán điếu, làm lược và làm bàn chải. Tôi còn được trông thấy một cái hộp làm bằng đồi mồi vàng, thật là một tuyệt phẩm. Lại có những người chạm trổ sọ dừa, sừng trâu sừng bò, gỗ mun và gỗ đảo hình rắn. Cũng có người làm những thứ đồ gỗ cao cấp đòi hỏi độ chính xác rất cao, không có lấy một cái đinh, toàn dùng khớp làm lại. Những người khéo tay nhất thì làm đồ đồng đen. Lại có cả những họa sĩ nữa.
Cũng có nhiều tài nghệ khác nhau được liên kết lại để làm một sản vật duy nhất. Nói giả dụ có một người tù câu được một con cá mập. Hắn liền lấy xương hàm con cá đánh thật sạch rồi gia công sao cho xương và hai hàng răng thật bóng, thật thẳng, chốt cho cái hàm há rộng thành một cái khung xung quanh toàn răng nhọn hoắt. Một anh thợ gỗ làm một cái mô hình neo bằng gỗ mịn thớ đánh thật bóng, phần giữa thật rộng để có thể vẽ tranh lên trên. Cái neo được gắn vào giữa cái hàm cá mập, và một họa sĩ vẽ lên đấy một cảnh Quần đảo Salut giữa biển cả. Chủ đề hay được sử dụng nhất là chủ đề sau đây: mũi đảo Royale, có biển và đảo Saint~Joseph. Trên mặt biển màu xanh biếc ánh tà dương lấp lánh. Trên mặt biển là một con thuyền có sáu phạm nhân mình trần đứng cầm chèo đứng thẳng, phía sau lại có ba viên cảnh binh cầm tiểu liên. ở mũi thuyền, hai người đang dốc một cỗ quan tài: từ đấy tụt ra một cái xác chết bọc trong bao bột. Trên mặt nước có thể trông thấy mấy con cá mập đang há mõm đợi ăn. ở phía dưới bức tranh, bên góc phải có đề “Mai táng ở Royale” và ngày tháng vẽ tranh.
Tất cả các “mỹ nghệ phẩm” như trên đều bán cho các nhà giám thị. Những chế phẩm đẹp nhất thường được đặt mua trước hay đặt làm riêng. Phần còn lại bán cho các chuyến tàu ghé đảo. Đây là lãnh vực của mấy anh chèo thuyền. Cũng có những anh bịp đời, lấy một cái ca cũ kỹ mép méo, khắc dòng chừ “cái ca này trước kia là ca của Dreyfus - Đảo quỷ, - ngày... tháng...” Thìa và cà-mèn cũng được dân bịp đời sử dụng kiểu đó. Đối với mấy anh lính thủy người Bretagne thì có một món ăn chắc: bất cứ đồ vật gì có khắc tên “Sezenec”.
Những cuộc mua bán thường xuyên này thu hút vào Quần đảo rất nhiều tiền, và bọn giám thị thấy rõ điều đó có lợi cho họ, cho nên họ cứ để mặc. Mải lo việc sản xuất và bán chác, tù nhân dễ điều khiển hơn và dễ an phận với cuộc sống đày ải của họ hơn. Thói pê-đê ở đây đã trở thành một nếp sống chính thức. Mọi người, cho đến cả chi huy trại giam, đều biết rằng cậu Mỗ nào đó là vợ của một cậu Mễ nào đó, và nếu có trót chuyển một trong hai cậu ấy sang đảo khác mà quên mất cậu kia thì người ta làm đủ cách để cho cái đôi bị “chia loan rẽ thúy” kia sớm đoàn tụ. Trong cả đám phạm nhân ấy không có lấy được ba phần trăm có ý định tìm cách trốn khỏi quần đảo. Ngay cả những người bị án chung thân cũng không. Cách duy nhất để có cơ vượt ngục là làm sao được miễn giam và được chuyển về Đất liền, về Saint-Laurent, Kourou hay Cayenne. Điều đó chỉ có thể có được với những người bị giam có thời hạn. Đối với những người bị án giam chung nhân thì không có cách gì, trừ phi là giết người. Vì nếu phạm nhân giết chết một người nào, thì sẽ bị đưa về Saint-Laurent để xử. Nhưng vì muốn đến Saint-Laurent phải qua thủ tục thú nhận tội sát nhân, người ấy có nguy cơ bị năm năm cấm cố mà không biết là liệu trong cái thời hạn ngắn ngủi ở trại trừng giới Saint-Laurent (tối đa là ba tháng) có đủ thì giờ để tổ chức vượt ngục hay không?
Cũng có thể tìm cách xin được miễn giam vì lý do sức khỏe. Nếu được công nhận là ho lao thì được chuyển đến trại của phạm nhân ho lao, gọi là “Trại mới”, cách Saint-Laurent tám mươi cây số.
Còn có bệnh hủi hay bệnh kiết lỵ kinh niên nữa. Muốn được công nhận có một trong hai bệnh này cũng tương đối dễ, nhưng làm như thế có một nguy cơ rất khủng khiếp: phải chung sống hai năm, cách ly trong một căn nhà riêng với những người mắc bệnh hủi thứ thiệt hay bệnh kiết lỵ thứ thiệt. Trong hai năm ấy chẳng khó gì mà chẳng chuyển từ hủi dỏm thành hủi xịn và từ kiết dỏm thành kiết xịn: không ít người đã qua cái quá trình ấy.
Thế là tôi đã an cư lạc nghiệp trong khối nhà A với một trăm hai mươi bạn tù của tôi. Phải cố học cách sống trong cái khối cộng đồng này, nơi mà người ta phân loại được anh ngay. Trước hết phải làm sao cho mọi người biết rõ rằng không thể nào tấn công mình mà không bị giáng trả đích đáng. Được mọi người e sợ rồi, còn phải được họ kính trọng vì thái dộ của mình khi đối xử với bọn cớm, không được nhận một số chức việc nào đấy, phải khước từ một số công việc nhất định, không bao giờ được khuất phục một nên giữ khóa, không bao giờ tuân lệnh hắn, dù có phải vì thế mà xung đột với một viên giám thị cũng vậy. Nếu đã đánh bạc suốt đêm rồi thì đến giờ điểm danh cũng không ra. Người trường khối chỉ việc trả lời: “ốm phải nằm”, thế là xong. ở các khối khác, nhiều khi bọn giám thị vào tận phòng tìm “người ốm” và bắt hắn ra điểm danh. Nhưng ở khối dân cứng đầu thì không bao giờ. Chung quy, điều mà từ cấp cao đến cấp thấp bọn họ quý nhất là được yên thân ở trại khổ sai này.
Bạn cùng tổ với tôi, Grandet, là một người Marseille ba mươi lăm tuổi. Người cao lêu đêu, gầy như que củi, nhưng rất khỏe. Chúng tôi là chỗ bạn thân từ hồi ở Pháp. Chúng tôi hay gặp nhau ở Toulon, cũng như ở Marseille và ở Paris. Đó là một tay khoét tủ sắt nổi tiếng. Anh ta hiền nhưng có lẽ rất nguy hiểm. Hôm nay tôi không ra ngoài. Trong gian phòng rộng mênh mông hầu như chỉ có một mình tôi. Ông già trưởng khối đang quét và lau cái sàn xi măng. Tôi trông thấy một phạm nhân đang ngồi sửa đồng hồ, mắt trái đeo cái gì bằng gỗ. ở phía trên võng của hắn có một tấm ván treo đến ba chục cái đồng hồ. Nhìn nét mặt thì hắn độ ba mươi tuổi là cùng, nhưng đầu hắn bạc trắng. Tôi đến cạnh hắn, nhìn hắn làm việc một lúc. Rồi tôi thử bắt chuyện với hắn. Hắn cứ câm như hến. Thậm chí cũng chẳng thèm ngẩng mặt lên một lần nào, hơi trạnh lòng, tôi bỏ đi ra sân, đến ngồi ở cạnh máy nước. ở đây đà có Titl la Belote, đang tập dượt với một cỗ bài mới tinh khôi. Mười ngón tay mềm mại của hắn thoăn thoắt trang di trang lại ba mươi con bài với một tốc độ không tài nào tưởng tượng nổi. Vẫn không ngừng ngưng động tác chớp nhoáng của nhà ảo thuật, hắn bảo tôi:
- Thế nào anh bạn? ở Royale có ổn không?
- ổn, nhưng hôm nay tớ chán quá. Tớ sẽ tìm việc gì làm, để ra ngoài trại một chút. Ban nãy tớ muốn nói chuyện một lát với cái tay gì sửa đồng hồ trong kia, nhưng hắn cũng chẳng buồn trả lời tớ nữa.
- Anh không biết đấy Papi ạ, chứ thằng cha ấy nó có coi ai ra gì đâu. Nó chỉ biết mấy cái đồng hồ của nó. Ngoài ra nó đếch cần. Quả tình sau những chuyện nó phải chịu đựng, nó có quyền điên lắm. Nó chưa điên là may. Anh hãy tương tượng mà xem, cái anh chàng trẻ tuổi ấy - có thể gọi hắn như vậy vì hắn chưa đến ba mươi - năm ngoái đã từng bị xử tử vì bị buộc tội là “hiếp” vợ một thằng cớm. Chuyện láo toét cả. Hắn ngủ với cô chủ từ lâu - cô ta là vợ một viên giam thị trưởng người Bretagne. Vì hắn là “tù gia đình” ở nhà họ, cho nên cứ đến ngày trực của viên giám thị là hai anh chị tha hồ. Nhưng anh chị đã phạm một sai lầm lớn: cô nàng không cho anh chàng giặt là áo quần nữa, cô ta tự làm lấy: thế là anh chồng mọc sừng xưa nay vốn biết tính cô ta lười, thấy lạ và sinh nghi. Nhưng anh ta chưa có bằng chứng là mình bị mọc sừng. Cho nên anh ta quyết định bày mưu để bắt quá tang tại trận và giết chết cả đôi. Anh ta đã không lường trước được cách phản ứng của cô nàng. Một hôm, trực được hai tiếng thì anh ta bỏ phiên về nhà, gọi một viên giám thị về theo lấy cớ là để biếu tay này một súc giăm-bông nhà mới gửi cho. Hai người khẽ khàng đi vào cổng, nhưng vừa vào đến nhà thì con vẹt nuôi trong nhà ré lên “Ông chủ đã về!” như nó vẫn quen làm mỗi khi viên giám thị về. Ngay tức khắc cô vợ hét lên: “Cứu với! Nó hiếp tôi đây này?” Hai tên gác xông vào buồng đúng vào lúc cô vợ vừa vùng ra khỏi tay anh tù. Anh này vội nhảy qua cửa sổ chạy. Viên giám thị bắn theo, một phát trúng vai anh ta. Trong khi đó, cô nàng xé rách áo choàng, cào xước vú và má mình ra. Anh tù ngã xuống, tên gác người Breton toan bắn chết thì tên gác kia giật súng đi. Tớ cần nói rõ là tên gác này người Corse, ngay từ đầu đã hiểu rằng ông sếp phịa chứ ở đây chẳng có chuyện hãm hiếp gì hết. Nhưng tên người Corse không thể nói chuyện này với tên kia, cứ làm như thể mình tin câu chuyện hiếp dâm là chuyện thật. Anh thợ đồng hồ bị xử tử hình. Đến đây thì chẳng có gì phi thường hết, anh bạn ạ. Sau đó mới ly kỳ.
“ở Royale, trong những khu trừng phạt có một cái máy chém, mỗi bộ phận đều có chỗ cất riêng trong một căn nhà đặc biệt. Ngoài sân là năm phiến đá xây kỹ thành bệ bằng phẳng để đặt máy chém. Cứ mỗi tuần, đao phủ thủ và hai người tù giúp việc cho hắn lại đem cái máy ra lắp lên bệ, lưỡi dao lười diếc đầy đủ bộ sậu, rồi cho máy chém thử hai ba cây chuối. Để cho chắc là máy vẫn trơn tru, khi cần đến không lo trục trặc. (anh thợ đồng hồ người Savoie lúc bấy giờ đang nằm trong khám tử hình với bốn người nữa, hai người A-rập và một người Sicilia). Cả năm người đang đợi phúc đáp đơn xin ân xá do những viên giám thị đã bênh vực họ viết hộ cho.
Một buổi sáng nọ người ta lắp máy chém và đột nhiên mở cửa buồng giam anh thợ đồng hồ. Tốp đao phủ xông vào trói chân anh ta lại và cũng sợi dây ấy buộc hai cổ tay, dây liền với chân. Họ lấy kéo xén cổ áo rồi dắt anh ta đi từng bước ngắn trong ánh sáng mờ mờ của buổi bình minh, từ từ vượt qua cái khoảng cách chừng hai mươi mét từ buồng giam đến máy chém. (chắc bạn cũng biết rằng khi anh đến trước máy chém, anh giáp mặt với một tấm ván dựng đứng cao ngang vai anh, có đính sẵn nịt da để buộc sấp anh vào đấy, sau đó, tấm ván sẽ được lật ngang ra và thế là anh chuyển sang tư thế nằm sấp, cổ đặt vừa đúng vào chỗ lưỡi dao sẽ rơi xuống. Vậy thì người ta đang sắp sửa lật ngang tấm ván có buộc anh thợ đồng hồ, nhưng vừa đúng lúc ấy ông chỉ huy trại - ông “Dừa khô” đương kim trại trưởng đấy - ra sân: theo lệ của trại, ông ta bắt buộc phải dự cuộc hành quyết. Tay ông ta cầm một cây đèn bão lớn, và khi giơ đèn lên soi, ông ta mới thấy là bọn cớm chết tiệt ấy nhầm: chúng nó suýt chặt đầu anh thợ đồng hồ trong khi anh ta chẳng dính dáng gì với cuộc hành quyết sáng hôm ấy.
- Dừng lại Dừng lại! - Barrot quát lớn.
Ông ta xúc động đến mức dường như không nói được nữa. Ông ta buông cây đèn bão rơi xuống đất, xô lấn mọi người, cảnh sát cũng như phạm nhân, tự tay đến cởi trói cho anh sửa đồng hồ Savoie. Mãi sau đó ông ta mới ra lệnh được:
- Y xá, đưa anh ta về buồng giam. Săn sóc kỹ, cho uống rượu rhum. Còn các anh, cái lũ ăn hại kia, vào bắt ngay tên Rencassen đưa ra đây. Hắn mới là kẻ phải xử tử hôm nay, chứ không phải ai khác!
“Hôm sau, anh thợ đồng hồ đã bạc trắng cả đầu ra như anh thấy đấy. Trạng sư của hắn là một cảnh binh ở Calvi, bèn viết thêm một lá đơn xin ân xá nữa gửi ông Bộ trưởng Tư pháp, trong đơn có kể lại việc này. Anh thợ đồng hồ được ân xá, chuyển án tứ hình thành án chung thân. Từ đấy, anh ta suốt ngày sửa đồng hồ cho nhân viện trong trại. Anh ta say mê công việc quên hết mọi sự trên đời. Sửa xong anh ta giữ lại rất lâu để kiểm tra, điều chỉnh, cho nên trên ván mới treo ngần ấy đồng hồ. Bây giờ thì anh đã hiểu ra rằng hắn có quyền hơi điên một chút chứ?
- Hiểu, Tita ạ, sau một cái sốc như thế, hắn có quyền không hồ hởi với mọi người cho lắm. Tôi thành thật thương hại hắn.
Mỗi ngày tôi lại học thêm được chút ít về cuộc sống mới này Khối A quả là một nơi tập trung những con người đáng sợ, xét về những thành tích dĩ vãng cũng như về cách phản ứng của họ trong sinh hoạt hàng ngày. Tôi vẫn chưa làm việc: tôi còn đợi một chân đổ thùng. Kiếm được chân này; tôi chỉ phải làm mỗi ngày bốn mười lăm phút, rồi sau đó được đi lại tự do trên đảo và được phép xuống biển đánh cá. Sáng hôm ấy, đến buổi điểm danh lấy người đi làm cỏ vê ở đồn điền trồng dừa, họ chỉ định Jean Castelli. Ông ta bước ra khỏi hàng hỏi:
- Cái gì? Tôi mà cắt di làm cỏ-vê à? Tôi ấy à?
- Phải, anh đấy! - Tên gác đội cỏ-vê nói. - Đây, cầm lấy cái cuốc chim này.
Castelli lạnh lùng nhìn hắn;
- Anh kia. anh không hiểu ràng phải là dân cái xứ Auvergne nhà anh mới biết cánh dùng cái thứ cuốc quỉ quái ấy à? Tôi là người Corse ở Marseille. ở Corse người ta ném các dụng cụ đi cho thật xa, còn ở Marseille người ta còn không biết nó là cái gì nữa. Anh cứ giữ lấy cái cuốc và để cho tôi yên.
Tên cớm trẻ, chưa am hiểu công chuyện ở đây lắm (như về sau tôi được biết), giơ cao cái cán cuốc lên dọa Castelli. Lập tức một trăm hai mươi người quát lên cùng một lúc:
- Buông cuốc xuống, không thì chết ngay bây giờ!
Grandet hô:
- Giải tán!
Thế là không bận tâm đến tư thế sẵn sàng tấn công của tất cả những tên cảnh binh có mặt lúc bấy giờ, chúng tôi kéo nhau trở về khối.
Khối “B” đang lũ lượt kéo nhau đi làm cả khối “C” cũng vậy. ở khối chúng tôi thấy có chừng mười hai tên cảnh binh đến, và một việc không bình thường xảy ra: họ đóng cánh cửa sắt lại. Một giờ sau, bốn chục tên cảnh binh đứng thành hai hàng hai bên khung cửa, tiểu liên cầm lăm lăm trong tay. Viên phó chỉ huy trại, viên chỉ huy đội gác, viên giám thị trưởng và cả bọn giám thị đều có mặt đông đủ chỉ trừ viên chỉ huy trại đã đi thanh tra đảo Quỷ từ lúc sáu giờ sáng, trước khi xảy ra biến cố vừa qua. Viên phó chỉ huy trại nói:
- Dacelli, gọi từng người một ra.
- Grandet? Bước ra!
Grandet bước ra đứng giữa hai hàng cảnh binh xếp hai bên cửa sắt. Dacelli nói:
- Đi làm đi!
- Tôi không đi được.
- Anh từ chối phải không?
- Tôi không từ chối. Tôi ốm.
- Từ bao giờ? Lúc điểm danh lần đầu anh có cáo ốm đâu?
- Hồi sáng tôi không ốm. Bây giờ tôi mới ốm.
Sáu mươi người được gọi ra khỏi hàng sau Grandet đều lần lượt trả lời đúng như vậy. Chỉ có một người nói thẳng ra là mình không tuân lệnh. Chắc anh ta có ý định làm cho họ phải đưa anh ta về Saint~Laurent để ra tòa án binh. Khi họ hỏi: “Anh từ chối à?” anh ta trả lời:
- Đúng, tôi từ chối, mà từ chối đến ba lần.
- Ba lần? Tại sao?
- Vì các người làm tôi buồn mửa. Tôi dứt khoát không làm việc cho những hạng người đểu cáng như các anh.
Không khí càng thẳng đên tột độ. Bọn cánh binh nhất là những tay hãy còn trẻ, khó chịu đựng nối khi bị phạm nhân sỉ nhục đến mức ấy. Họ chỉ chờ có một dịp: một cừ chỉ đe dọa của đám phạm nhân, sẽ cho phép họ ra tay trấn áp. Nhưng trong khi chờ đợi. súng họ vẫn phải chĩa mũi xuống đất.
- Tất cả những phạm nhân đã gọi tên, cởi hết ra. Đi về xà lim!
Trong khi áo quần được cởi bỏ tụt xuống đất chốc chốc lại nghe tiếng ruột con dao rơi xuống khoảng sân tráng nhựa đánh cách một cái. Vừa lúc ấy bác sĩ đến.
- Thôi, đứng lên đã! Bác sĩ đây rồi. Xin bác sĩ khám cho mấy người này. Những ai không được công nhận là ốm sẽ vào xà lim. Những người ốm thật sẽ được trả về khối.
- Có sáu mươi người ốm sao?
- Thưa bác sĩ vâng, trừ người kia không chịu đi làm.
- Nào, tôi bắt đầu khám người thứ nhất? - bác sĩ nói. – Grandet,anh ốm thế nào?
- Tôi mắc bệnh rối loạn tiêu hóa của cai ngục bác sĩ ạ. Chúng tôi dầu là phạm nhân bị xử tội nặng, phần lớn đều là án chung thân. ở quần đảo này không có hy vọng gì vượt ngục. Cho nên chúng tôi chỉ có thể chịu đựng nổi cuộc sống này nếu quy chế nhà tù được áp dụng một cách co giãn chút ít và có hiểu biết, thông cảm với chúng tôi. Thế nhưng sáng nay, trước mặt tất cả chúng tôi, một viên giám thị đã tự cho phép mình giơ cán cuốc định đánh một bạn tù được mọi người kính trọng. Đó không phái là một động tác phòng ngự, vì người tù không hề đe dọa ai cả. Bác ta chỉ nói là bác ta không muốn dùng cuốc. Nguyên nhân của bệnh dịch tập thể của chúng tôi là như thế. Xin bác sĩ cứ suy xét.
Bác sĩ cúi đầu nghĩ ngợi dễ đến một phút, rồi nói:
- Y tá, hãy ghi vào: “Do ngộ độc tập thể vì thức ăn, y tá giám thị Mỗ sẽ thi hành nhưng biện pháp cần thiết để phát cho tất cả các phạm nhân khi ốm hôm nay mỗi người một liều hai mươi gam sulfat natri để tẩy ruột. Còn phạm nhân X thì hây đưa vò bệnh viện để chúng tôi kiểm tra xem khi tuyên bố từ chối lao công anh ta có đang ở trong trạng thái tâm thần bình thường hay không”.
Nói đoạn, bác sĩ quay lưng lại, bỏ đi thẳng.
- Tất cả về khối - Viên phó chỉ huy trại hô. - Nhặt quần áo lên, và chớ quên mấy con dao.
Hôm ấy ai nấy đều ở lại phòng giam. Không ai ra ngoài được, kể cả người đưa bánh mì. Đến trưa không thấy đưa xúp vào, mà chỉ thấy viên giám thị y tá, có hai phạm nhân y tá đi theo, xuất hiện với một cái xô bằng gỗ đựng thuốc tẩy sulfat natri. Chỉ có ba người phải uống thuốc. Người thứ tư tự nhiên lên cơn động kinh ngã đúng vào xô thuốc, làm cả cái xô, cả cái gáo và cả cả chỗ thuốc mỗi thứ văng ra một nơi: anh ta bắt chước cơn động kinh giống như hệt! Thế là cái biến cố kia chấm dứt, nếu không kể cai lệnh loan cho trưởng khối là phải lau cho khô chỗ thuộc đổ lênh láng ra sàn nhà.
Suốt buổi trưa hôm ấy tôi ngồi nói chuyện với Castelli. Bác ta đến ăn với chúng tôi. Tổ của bác ta thì có một người Toulon tên là Louis Gravon, bị đày vì tội ăn trộm lông thú. Khi tôi nói chuyện vượt ngục, mắt anh ta sáng quắc lên. Anh nói:
- Năm ngoái tôi đã suýt vượt ngục được, nhưng rốt cuộc cũng bị thất bại. Tôi cũng đã cảm thấy anh chẳng phải là người cam phận, đành chịu bó gối ở đây. Chỉ có điều là đã ở Quần đảo này mà nói chuyện vượt ngục thì chẳng khác nào nói chuyện lên cung trăng. Mặt khác, tôi nhận thấy anh chưa hiểu được dân tù khổ sai ở Quần đảo. Trông thế chứ tám mươi phần trăm tự cảm thấy mình ở đây cũng tương đối sung sướng. Sẽ không có ai tố giác anh bao giờ, dù anh có làm gì chăng nữa. Anh giết người nào. Sẽ không có ai ra làm chứng. Anh lấy trộm ư. Cũng thế thôi. Dù một bạn tù có làm gì thì mọi người đều kết lại bênh vực bạn ấy. Dân tù quần đảo chỉ sợ có mỗi một điều: đó là một cuộc vượt ngục thành công. Vì trong trường hợp đó, cảnh sống tương đối yên ổn của họ bị đảo lộn hoàn toàn: khám xét liên tục, không còn được đánh bài, không còn chơi nhạc được nữa- các nhạc cụ đều bị phá huỷ trong những cuộc khám xét,. không còn được đánh cờ vua, cờ đam nữa. Cũng không được làm đồ mỹ nghệ nữa. Mọi thứ không trừ một thứ gì đều bị xúp hết. Họ lục xoát liên hồi. Đường, dầu ăn, bít tết, bơ đều biến sạch. Xưa nay tất cả những người trốn được khỏi Quần đảo với Quần đảo thì đó vẫn là những cuộc vượt ngục thành công: dù sao họ cũng đã trốn được ra khỏi Quần đảo. Do đó bọn gác bị phạt, và lẽ tự nhiên là họ phải trả thù cả đám phạm nhân.
Tôi vểnh hết tai lên mà nghe. Tôi nghe mà không sao khỏi bàng hoàng. Tôi chưa bao giờ xem xét vấn đề dưới góc độ này.
Castelli nói:
- Đến cái ngày cậu quyết định chuẩn bị một cuộc vượt ngục, cậu hãy coi chừng. Trước khi điều đình với một cậu nào, phải suy nghĩ cân nhắc cho thật kỹ, trừ phi đó là một người bạn chí cốt.
Jean Castelli, chuyên gia bẻ khóa, có một nghị lực và một trí thông minh hiếm có. Bác rất ghét sự hung bạo. Anh em gọi bác ta bằng cái biệt hiệu người Cổ đại. Chẳng hạn bác ta chỉ tắm rửa bằng xà-bông giặt Marseille, và nếu tôi vừa tắm bằng xà-bông Palmolive, bác ta liền nói: “ồ, cậu sặc mùi pê-đê, thật đấy! Cậu lại tắm bằng xà-bông đàn bà rồi!” Tiếc thay, bác ta đã năm mươi hai tuổi, nhưng những gân cốt sắt thép của bác trông thật sướng mắt. Bác nói: “Papi ạ, trông cậu người ta có thể ngỡ cậu là con tôi. Sinh hoạt ở Quần đảo không làm cho cậu quan tâm. Cậu ăn nhiều chỉ vì muốn giữ phong độ, chứ không bao giờ cậu nghĩ đến việc tổ chức một cuộc sống lâu dài trên Quần đảo. Tôi mừng cho cậu. Trong cả đám tù khổ sai ở đây chẳng có nổi sáu người nghĩ như cậu. Nhất là nghĩ đến chuyện vượt ngục. Quả tình, cùng có khối người chi ra hàng gia tài để được miễn giảm và chuyển về đất liền, toan tính sẽ vượt ngục từ đấy. Nhưng ngay ở đây thì không một ai tin là có thể vượt ngục”.
Ông già Castelli khuyên tôi: nên học tiếng Anh và hễ có dịp là phải nói chuyện bằng tiếng Tây Ban Nha với một người Tây Ban Nha. Ông ta có cho tôi mượn một cuốn sách học tiếng Tây Ban Nha trong hai mươi bốn bài. Một cuốn từ điển Pháp-Anh. Ông ta có một người bạn rất thân, người Marseille, tên là Gardès, có am hiểu chuyện vượt ngục. Ông này đã vượt ngục hai lần, lần thứ nhất trốn khỏi trại khổ sai Bồ Đào Nha; lần thứ hai trốn từ Đất Liền. Ông ta có quan điểm riêng về việc vượt ngục từ Quần đảo, Jean Castelli cũng có Gravon, ông bạn người Toulon, lại có một cách nhìn khác nữa đối với sự việc. Không ai nhất trí với ai. Kể từ hôm ấy, tôi quyết định tự mình tìm hiểu lấy vấn đề, và không nói với ai về chuyện vượt ngục nữa.
Kể cũng gay, nhưng sự tình có thế. Điểm duy nhất mà cả ba người đều nhất trí là đánh bạc chỉ có mỗi cái lợi kiếm được tiền, nhưng lại rất nguy hiểm. Bất cứ lúc nào cũng có thể bị lâm vào cái thế phải đọ dao với một tay anh chị nào đấy. Cả ba đều là những con người hành động, và quả là những tay cừ khôi đáng gườm so với tuổi tác của họ: Louis Gravon bốn mươi lăm tuổi, Gardès gần năm mươi.
Tối hôm qua tôi được dịp phô bày cho mọi người trong khối thấy cách nhìn nhận sự việc và cách hành động của tôi. Một cậu quê ở Toulouse, người nhỏ bé, bị một tay người Nimes thách đấu dao. Cậu bé người Toulouse mang biệt hiệu Cá Trích, còn anh chàng người Nimes, rất to con được gọi là Con cừu. Con Cừu, đánh trần trùng trục, đúng giữa lối đi, dao lăm lăm trong tay.
- Mỗi ván poker phải nộp tao hăm nhăm francs, nếu không, tao cấm mày đánh.
Cá Trích đáp:
- Xưa nay đánh poker có ai phải nộp ai bao nhiêu tiền đâu. Tại sao anh lại nhè vào tôi mà đòi nộp tiền? Thế sao anh không đòi mấy tay chủ sòng Mareilaise nộp tiền đi?
- Tại sao thì chẳng việc gì đến mày.Một là mày nộp, hai là mày không được chơi nữa, hay mày không muốn đánh nhau?
- Không, tôi chả muốn đánh nhau.
- Mày rét à?
- Tôi rét đấy. Vì tôi có thể ăn một nhát dao, có thể chết vì tay một gã anh chị như anh là một kẻ chưa bao giờ vượt ngục. Tôi là dân vượt ngục. Tôi ở đây không phải để giết ai, mà cũng chẳng phải để bị ai giết.
Tất cả chúng tôi đều chăm chú chờ xem những việc sắp diễn ra. Grandet nói với tôi: “Đúng là thằng bé can đảm thật, mà lại là dân vượt ngục. Thật đáng buồn là mình không thể nói gì vào đây”. Tôi mở con dao xếp để dưới bắp vế. Lúc bấy giờ tôi đang ngồi trên cái “võng” của Grandet. Con Cừu nói:
- Thế thì mày định nộp tiền hay thôi chơi, hở thằng chết rét kia? Nói di.
Đoạn hắn bước một bước về phía Cá Trích. Tôi liền quát:
- Câm mồm đi Con cừu, hãy để cho nó yên!
- Kìa Papillon, cậu điên rồi ư? Grandet nói.
Vẫn ngồi yên không nhúc nhích, tay đặt sẵn vào chuôi con dao để dưới bắp vế chân trái, tôi nói:
- Không, tôi không điên. và tôi yêu cầu tất cả các anh hãy nghe những điều tôi sắp nói. Ccon Cừu ạ, trước khi đánh nhau với anh (nếu anh bắt buộc tôi phải đánh nhau ngay cả sau khi tôi nói xong), anh hãy để cho tôi ngỏ lời với anh và với mọi người rằng từ khi đến ở cái khối gồm hơn một trăm người toàn là dân trong giới này, tôi đã phái xấu hổ mà nhận thấy rằng cái hành động đẹp đẽ nhất, xứng đáng nhất, cái hành động duy nhất đánh gọi là chân chính: vượt ngục, không được kính trọng ở đây. Thế mà bất kỳ ai đã chứng tỏ được rằng mình là dân vượt ngục, rằng mình có đủ gan mật để đem kính mạng mình đặt lên bàn cân trong một cuộc vượt ngục, thì kẻ ấy cũng phải được mọi người kính trọng, bất kẻ mọi chuyện khác. Có ai cho là tôi nói không đúng không? Ai phản đối? (Im lặng) Trong luật lệ của các anh thiếu mất một điều, một điều cơ bản nhất: mọi người đều có bổn phận không những phải kính trọng, mà còn phải giúp đỡ, ủng hộ những người vượt ngục. Không ai bị bắt buộc phải ra đi, và tôi chấp nhận rằng hầu hết các anh đều đã quyết định sống suốt đời ở đây Thế cùng được. Nhưng nếu các anh không đủ can đảm để tìm cách sống lại, thì ít ra các anh cũng phải có được lòng kính trọng mà những người vượt ngục xứng đáng được hưởng. Và kẻ nào quên mất điều luật của đạo làm người này, kẻ ấy phải chờ đón những hậu quả nghiêm trọng. Tôi đã nói xong. Con Cừu! Bây giờ nếu anh vẫn muốn đánh nhau, thì có tôi đây
Nói đoạn, tôi cầm dao nhảy ra giữa phòng. Con Cừu ném dao đi, nói:
- Cậu nói đúng, Papillon ạ, cho nên tôi muốn đánh nhau với cậu không phải bằng dao, mà bằng quả đấm, đề cậu thấy tôi không phải là thằng hèn.
Tôi đưa dao cho Grandet giữ. Hai đứa chúng tôi đánh nhau như hai con chó dữ trong khoảng hai mươi phút. Cuối cùng, nhờ một miếng đòn húc đầu đúng lúc, tôi thắng sát nút. Chúng tôi cùng vào phòng vệ sinh rửa cho cạch máu trên mặt. Con Cừu nói:
- Quả thật sống ở Quần đảo mãi đâm u mê ra. Tớ ở đây thế là đã mười lăm năm nay, mà cũng chưa chi được đến ngàn francs để được miễn giam. Thật xấu hổ.
Khi tôi về tổ, Grandet và Galgani mắng tôi một trận.
- Cậu phát rồ rồi hay sao mà lại đi thách thức và lăng mạ mọi người như thế? Tớ không thể hiểu nổi tại sao không có đứa nào cầm dao nhảy ra “hành lang” để đánh nhau với cậu.
- Không đúng đâu các bạn ạ, chẳng có gì khó hiểu đến thế. Bất cứ ai đã ở trong giới chúng ta, hễ thấy ai nói phải thực sự là chịu ngay.
- Thôi được, - Galgani nói. - Nhưng tôi khuyên cậu đừng bày trò đùa giỡn quá nhiều với cái núi lửa này.
Suốt buổi tối hôm ấy có những gã đến gặp tôi. Họ làm như thể tình cờ ghé qua, nói bâng quơ chuyện này chuyện nọ, rồi trước khi bỏ đi, buông một câu: “Tớ đồng ý với những điều cậu nói đấy. Papi ạ”. Cái sự cố vừa qua đã cho tôi có được một vị trí rõ rằng giữa các bạn tù.
Kể từ buổi ấy, chắc chắn là tôi được họ coi như người cùng giới với họ, nhưng lại không dễ gì chấp nhận những điều đã được mọi người coi như đương nhiên mà không phân tích, phê phán. Tôi dần dần nhận thấy rằng hễ tôi làm chủ sòng, đám bạc không mấy khi có chuyện cãi cọ, và nếu tôi ra một lệnh gì thì họ tuân theo rất nhanh.
Như tôi đã nói, chủ sòng được hưởng hồ năm phần trăm mỗi món tiền được bạc. Hắn ngồi trên một chiếc ghế dài, lưng quay vào tường để đề phòng bất trắc, vì bất cứ lúc nào cũng có kẻ muốn đâm hắn từ phía sau. Trên đùi hắn thường có một tấm chăn che một con dao mở sẵn. Xung quanh hắn, ngồi hay đứng thành vòng tròn, là ba mươi, bốn mươi hay có khi đến năm mươi con bạc từ khắp các miền của nước Pháp sang, lại có cả những dân ngoại quốc nữa, như dân A-rập chẳng hạn, cũng khá đông. Cách chơi rất dễ: một người làm cái (làm “chủ nhà băng”), một người cúp bài ngồi cạnh. Mỗi khi nhà cái thua thì nhường quyền làm cái cho người bên cạnh. Cỗ bài gồm năm mươi hai con. Người cúp bài chìa bài rồi giấu đi một con. Người làm cái rút một con bài rồi lật ngứa nó ra trên tấm chăn. Thế là mọi người bắt đầu đặt tiền. Có thể đặt vào cửa của nhà cái hay vào cửa của nhà cúp bài. Khi ai nấy đã đặt xong, tiền xếp thành từng chồng nho nho, nhà cái bắt đầu rút từng con bài một, lật lên. Nhà nào cùng bậc với một trong hai con đã lật trên “thảm” thì thua. Chẳng hạn: nhà cúp giấu một con Năm, còn nhà cái đã lật lên một con Đầm. Nếu rút ra được một con Đầm trước khi rút ra một con Năm, nhà cúp thua. Nếu trái lại, rút ra được một con Năm trước khi rút ra một con Đầm, thì nhà cái thua. Người chủ sòng phải biết mỗi món tiền phải chung cho ai. Việc đó chẳng phái là dễ. Lại phải bênh vực những kẻ yếu, sao cho những kẻ mạnh đừng dùng uy thế bắt nạt họ. Khi người chủ sòng quyết định cách xử lý một trường hợp nghi vấn, quyết định của chủ sòng phải được chấp nhận, không lôi thôi gì hết.
Đêm ấy có kẻ đã giết chết một người ý lên là Carlino. Anh này sống chung nói một cậu thiếu niên được anh ta coi là vợ. Cả hai cùng làm việc ở một khu vườn. Anh người ý chắc cũng biết là tính mạng của mình đang bị đe dọa, vì khi nào anh ta nghỉ thì cậu bé thức, khi nào câu bé ngủ thì anh ta lại thức. Phía dưới hai tấm vải căng làm giường ngủ (“võng”) họ bày lổn ngổn những cái hộp sắt tây rỗng để không ai có thể lần mò đến chỗ họ mà không gây thành tiếng động.
Thế mà có kẻ đã đâm anh ta từ phía dưới lên. Tiếng kêu của người bị đâm lập tức được kế tiếp bằng những tiếng loảng xoảng của đống hộp sắt tây bị sát nhân xô đấy trong khi rút lui vội vàng.
Lúc bấy giờ Grandet đang điều khiển một ván bài “Marseillaise”, xung quanh có đến ba mươi con bạc. Tôi thì đang đứng nói chuyện gần đấy. Tiếng kêu của Carlino và tiếng hộp sát tây xủng xoảng đã làm cho ván bài phải ngừng lại. Ai nấy đều đứng dậy hoi xem việc gì xảy ra thế. Cậu bạn trai của Carlino chẳng trông thấy gì, còn Carlino thì đã tắt thở. Ông trưởng khối hỏi mọi người xem có nên gọi giám thị đến không. Không? không nên. Để đến mai, khi điểm danh, báo cho họ biết cũng vừa, anh kia đã chết rồi thì còn cứu giúp được gì nữa mà vội?
Grandet lên tiếng:
Không có ai nghe thấy gì hết. Cả cậu nữa, cậu nhé - Grandet dặn cậu bé của Carlino. - Mai, khi cậu thức dậy, cậu mới nhận là anh ấy chết rồi. Xong. A-lê, lại đánh tiếp. Thế là đám bạc lại nhốn nháo lên như không hề có việc gì xảy ra cả: “Nhà cúp. Không phải, nhà cái chứ!” vân vân. Tôi sốt ruột chờ xem những gì sẽ diễn ra khi bọn gác phát hiện ra vụ án mạng. Năm giờ rưỡi, tiếng chuông thứ nhất. Sáu giờ, tiếng chuông thứ hai sau đó là cà- phê. Sáu giờ rười, tiếng chuông thứ ba, mọi người ra điểm danh, thường ngày vẫn thế. Nhưng hôm nay thì khác. Đến tiếng chuông thứ hai, khối trưởng nói với tên cảnh binh đi kèm người đưa cà-phê:
- Thưa sếp, có một người vừa bị giết.
- Ai thế?
- Carlino.
- Được
Mười phút sau, sáu tên cảnh binh đến:
- Người chết đâu?
Họ nhìn thấy con dao găm cắm vào lưng Carlino từ phía dưới, qua lần vải. Họ rút nó ra.
- Cáng đi!
Hai người khiêng cáng đưa cái xác chết ra ngoài. Trời dã sáng hẳn. Tiếng chuông thứ ba đã điểm. Tay vẫn cầm con dao vấy máu, viên giám thị trương ra lệnh:
- Tất cả ra ngoài, xếp hàng điểm danh. Hôm nay không ai được khai ốm nằm lại.
Mọi người đều ra sân. Những buổi điểm danh ban sáng, bọn chỉ huy và giám thị trưởng bao giờ cũng có mặt. Cuộc điểm danh bắt đầu. Nghe đọc đến tên Carlino, khối trưởng đáp:
Chết đêm qua, đã đưa ra nhà xác.
- Được - tên cảnh binh điểm danh đáp. Khi ai nấy đều đã trả lời: “có”, viên chỉ huy trại giơ con dao lên hỏi:
- Có ai biết con dao này không?
Không ai trả lời
- Có ai trông thấy kẻ giết người không?
Im lặng tuyệt đối
- Vậy là không ai có hay biết gì hết, như thường lệ. Các người hãy lần lượt giang tay đi qua trước mặt tôi, rồi sau đó người nào đi làm việc người nấy.
- Thưa thiếu tá, bao giờ cũng chỉ có thế. Không có cách gì biết được kẻ nào là hung thủ.
- Xếp việc này lại, - viên chi huy trại nói. Giữ con dao lại, găm một tám phiếu ghi là con dao này đã được dùng đem giết Carlino.
Thế là xong. Tôi trở về khối nằm ngủ, vì suốt đêm qua tôi không chợp mắt. Trong khi dần dần thiếp đi, tôi nghĩ cái thân một thằng tù khổ sai thật chẳng ra gì Dù có bị ám sát một cách hèn hạ, người ta cũng chẳng buồn bỏ công tìm cho ra thủ phạm. Đối với ban Quản trị, mạng một thằng tù chẳng là cái gì hết. Chẳng bằng mạng một con chó.
Tôi đã quyết định bắt đầu làm công việc đổ thùng thứ hai. Đến bốn rưỡi sáng tôi và một người nữa sẽ đi đổ các bô phóng uế của khối A tức khối của chúng tôi. Theo nội quy của trại thì phải đưa ra tận bờ biển mà đổ. Nhưng chúng tôi trả tiền cho người đánh xe trâu: hắn đợi chúng tôi ở một nơi có khe xây xi-măng dẫn xuống biển. Chúng tôi đổ bô xuống đấy, rồi anh đánh xe trâu trút xuống ba ngàn lít nước biển đựng trong một cái phùng ton-nô khổng lồ mà anh ta vừa xe từ biển lên cuốn hết các thứ xuống biển. Để thật sạch, chúng tôi dùng thêm một cái chổi cứng để lùa các thứ bẩn. Công việc chỉ trong vòng không đầy hai mươi phút là xong. Mỗi ngày chúng tôi phải trả hai mươi francs cho anh kia - một anh da đen đảo Martinique rất dễ thương. Vì đây là lần đầu, tôi phải xách một dãy bô xỏ quai vào hai thanh gỗ, cho nên mỏi cô tay lắm. Nhưng tôi sẽ chóng quen.
Người bạn mới của tôi rất sốt sắng niềm nở, thế mà Galgani nói đó là một con người cực kỳ nguy hiểm. Đâu như hắn đã phạm đến bẩy vụ giết người ở Quần đảo. Nghề làm ăn của hắn ở dây là bán cứt. Số là mấy người làm vườn đều cân phân. Anh làm vườn đào một eái hố, lót vào đấy một ít lá khô và có thể là anh da đen Martinique bí mật đưa vài xô cứt đến đổ vào đấy. Dĩ nhiên việc này không thề làm một mình, cho nên tôi buộc lòng phải giúp anh ta. Nhưng tôi biết đây là một lỗi rất nặng, vì qua rau quá bị ô nhiễm, có thể lan truyền bệnh kiết lỵ trong các gia đình nhân viên giám thị cùng như trong các khối phạm nhân. Tôi quyết định h là một ngày nào đó, khi đã quen nhau hơn, tôi sẽ bảo anh ta đừng làm việc này nữa. Dĩ nhiên tôi sẽ đền bù cho anh ta số tiền mà anh ta sẽ mất vì thôi nghề bán phân.
Ngoài công việc này ra, anh ta còn biết khắc chạm sừng bò. Về phần đánh cá, anh ta nói với tôi là chẳng biết gì để bày vẽ cho tôi, nhưng nếu ở bến tàu, Charpar hay một người nào khác sẽ có thể giúp ích cho tôi.
Thế là tôi làm nghề đổ thùng. Xong việc, tôi tắm rửa sạch sẽ, mặc đồ sọc và ngày ngày ra bờ biền câu cá, muốn câu bao nhiêu thì câu. Tôi chỉ có một bổn phận: đúng giữa trưa phải có mặt ở trại. Nhờ Chapar, tôi không thiếu cần câu và lưỡi câu. Nhưng hôm tôi từ dưới bờ biển đi lên, tay cầm sợi dây thép xâu cá một chuỗi cá hồng, chẳng mấy khi không có những cô vợ giám thị đứng trong nhà gọi ra rối rít. Họ đều biết tên tôi:
- Bươm bướm ơi! Bán tôi hai cân cá hồng nào!
- Bà ốm à?
- Không.
- Thằng bé con bị ốm à?
- Không.
- Thế thì tôi không bán cá cho bà đâu.
Tôi câu được khá nhiều, thường đem cho các bạn ở trại. Tôi đổi tôm cá lấy bánh mì sáo, lấy rau quả hay trái cây. ở tổ tôi mỗi ngày ít ra cũng có một bữa cá. Một hôm, tôi đang đi từ biển lên, tay xách một tá tôm he lớn và bảy tám ki-lô cá hồng. Đi ngang nhà thiếu tá Barrot thì thấy một bà, người hơi đẫy, nói với tôi:
- Anh câu được nhiều quá, Papillon nhỉ. Biển động thế này có ai câu được gì đâu? ít ra đã mười lăm hôm nay tôi không được ăn cá. Thật đáng tiếc là anh không bán cá. Nhà tôi có cho tôi biết anh không chịu bán cá cho vợ các nhân viên giám thị.
- Thưa bà đúng thế. Nhưng đối với bà thì có thể khác?
- Tại sao?
- Tại bà hơi mập, ăn thịt không được tốt.
- Đúng đấy, họ nói là tôi chỉ nên ăn rau và cá luộc. Nhưng ở đây làm gì có đủ mà ăn?
- Đây, xin bà cầm lấy mớ tôm he và mấy con cá hồng này.
Đoạn tôi đưa cho bà ta cả xâu tôm he và khoảng hai cân cá hồng.
Kế từ hôm ấy, cứ lần nào câu được kha khá, tôi lại đem biếu bà ta một ít, đủ để có được một chế độ ăn thích hợp với tạng người bà. Bà thừa biết rằng ở Quần đảo này thứ gì cũng phải mua bán sòng phẳng, nhưng lần nào bà cũng chỉ đáp lại món quà của tôi bằng hai tiếng “cám ơn” mà thôi. Bà làm như thế là phải, vì bà đã cám thấy rằng nếu đưa tiền, tôi sẽ phật lòng. Nhưng có nhiều lần bà lại mời tôi vào nhà. Bà tự tay róc cho tôi một ly rượu hồi hay một cốc vang trắng. Nếu bên Corse có gửi figatelli cho bà, bà cũng cho tôi một ít. Không bao giờ bà Barrot hỏi tôi về dĩ vãng. Chỉ có một lần, nhân nói đến trại khổ sai, bà lỡ lời nói: “Quả tình, ở Quần đảo thì không vượt ngục được, nhưng ở đây khí hậu hành, còn hơn phải thối rữa ra như một con vật ở Đất liền”.
Chính bà đã giảng giải cho tôi biết sự tích tên gọi Quần đảo: dạo có dịch sốt vàng ở Cayenne, các tu sĩ dòng áo trắng và các bà xơ trong một tu viện nọ đã đến đây lánh nạn, và đều đã thoát nạn. Vì thế mà Quần đảo được gọi là Quần đảo Salut (Quần đảo Cứu nạn). Nhờ cái nghề câu cá, tôi được đi khắp đảo. Tôi làm công việc đổ thùng đã được ba tháng nay, và tôi biết rõ địa thế của đảo hơn ai hết. Tôi đi quan sát các khu vườn lấy cớ là đến đổi cá lấy rau quả. Người trông khu vườn ở cạnh nghĩa địa giám thị là Matthieu Carbonieri, bạn cùng tổ với tôi. Anh ta làm việc ở đấy một mình, cho nên tôi tự nhủ là sau này chúng tôi có thể đóng bè và giấu bè trong khu vườn của anh. Còn hai tháng nửa thì ông chỉ huy trại sẽ đổi đi nơi khác. Tôi sẽ được tự do hành động.
Tôi dã tổ chức được nếp sinh hoạt của tôi: về danh nghĩa tôi là phu đổ thùng, nhưng công việc lại do anh chàng người Martinique làm thay, dĩ nhiên là có trả tiền. Tôi đã có những thao tác làm thân với hai anh em su gia Narric và Quenier, bị khổ sai chung thân. Người ta thường gọi họ là hai anh em rể Đẩy Xe. Họ kể lại rằng hai anh em bị tố cáo là đã biến cái xác của một người đi thu tiền mà họ vừa giết chết thành một khối xi-măng rồi đem đổ cái khối ấy xuống sông. Có những nhân chứng khai là nhìn thấy hai anh em chở khối xi-măng trên một chiếc xe đẩy, đem trút xuống sông Marne hay sông Seine gì đấy. Cuộc điều tra xác định rằng người thu tiền có ghé nhà họ thu một món gì đấy rồi từ đấy không còn thấy tăm hơi đâu nửa. Hai anh em đã phủ nhận tội này từ đầu cho đến nay. Ngay ở trại tù họ cũng nói là mình vô tội. Thế nhưng, nếu người ta không bao giờ tìm được cái xác, thì người ta lại tìm thấy cái đầu của nạn nhân bọc trong một chiếc khăn mùi soa. Thế mà ở nhà hai anh em lại có những chiếc khăn mù soa dệt cùng một kiểu chính thứ sợi ấy, theo lời “các chuyên gia thẩm định”. Nhưng các trạng sư và bản thân các chuyên gia ấy lại chứng minh được rằng có đến mấy ngàn thước vải như thế đã được khâu thành mùi soa. Ai cũng có thể có những chiếc mùi soa như thế. Tuy vậy, cuối cùng hai anh em vẫn bị khổ sai chung thân, và vợ của một trong hai người, em gái của người kia, bị hai mươi năm tù cấm cố.
Tôi đã làm thân được với họ. Vì làm thợ nề cho nên họ có thể ra vào công xưởng của trại. Có lẽ họ có thể tuồn dần ra cho tôi, từng ít một, những vật liệu cần thiết để đóng một cái bè. Nhưng còn phải thuyết phục họ.
Hôm qua tôi đã gặp ông bác sĩ. Lúc ấy tôi đang vác một con cá nặng ít ra là hai mươi ki-lô, thịt rất bùi, gọi là cá mérou. Bác sĩ cùng đi với tôi lên đỉnh đồi.
Lưng chừng dốc, chúng tôi ngồi xuống nghỉ trên một bức tường thấp. Bác sĩ nói với tôi là đầu con cá này nấu canh ngon tuyệt. Tôi bèn biếu bác sĩ cái đầu cá, dính theo một mảng thịt lớn. Bác sĩ ngạc nhiên và cái cử chỉ ấy của tôi, ông nói:
- Anh chẳng thù dai, Papillon nhỉ.
- Thưa bác sĩ, tôi làm như vậy không phải và bản thân tôi. Chẳng qua tôi thấy có bổn phận phải trả ơn bác sĩ và bác sĩ đã hết lòng cứu chữa Clousiot bạn tôi.
Chúng tôi nói chuyện qua lại một lát, rồi bác sĩ nói:
- Anh muốn vượt ngục lắm phải không? Anh chẳng phải là tù khổ sai đâu. Tôi có cảm giác anh là một hạng người khác.
- Bác sĩ nói đúng đấy. Tôi không thuộc trại khổ sai, tôi chỉ ghé vào tham quan thôi.
Bác sĩ cười. Tôi tấn công luôn:
- Bác sĩ không tin rằng một con người có thể cải hóa được sao?
- Tôi tin chứ..
- Bác sĩ có thể nghĩ rằng tôi có thể làm việc hữu ích ở ngoài đời mà không gây hiểm họa gì cho xã hội và có thể trở thành một công dân lương thiện được không?
- Tôi thành thật tin như thế:
- Thế thì tại sao bác sĩ không giúp tôi đạt được điều đó?
- Bằng cách nào?
- Bằng cách cho tôi miễn giam vì bệnh ho lao. Đến đây bác sĩ đã xác nhận một điều mà tôi đã từng nghe nói.
- Làm như thế không được, và tôi khuyên anh đừng nghĩ đến cách đó. Nó quá nguy hiểm, Ban Quản trị chỉ miễn giam một phạm nhân vì bệnh sau khi hắn đã nằm ở khu điều trị dành riêng cho bệnh ấy ít nhất là một năm.
- Để làm gì?
- Cái này nói ra cũng xấu hổ, nhưng tôi nghĩ rằng họ làm như thế là để phạm nhân biết, nếu hắn giả vờ bệnh, rằng hắn rất có khả năng bị nhiễm vì sống chung với các bệnh nhân thật, và để hắn nhiễm bệnh thật sự. Cho nên tôi không thể giúp anh được.
Kể từ ngày ấy, chúng tôi trở thành đôi bạn... Cho đến ngày ông ta suýt làm cho Carbonieri bạn tôi mất mạng.
Số là Carbonieri, với sự thỏa thuận của tôi, đã nhận làm đầu bếp kiêm giữ kho cho nhà ăn các giám thị trưởng. Nhận việc này là để nghiên cứu xem có thể lấy trộm ba cái thùng ton-nô trước đó đựng rượu vang, đựng dầu và đựng dấm, tìm cách buộc nó lại với nhau làm thành một thứ bè để ra biển không. Dĩ nhiên là khi nào thiếu tá Barrot đã đi khỏi. Việc này rất khó, vì cùng một đêm phải lấy trộm cả ba cái thùng, đưa ra bờ biển đừng để ai trông thấy hoặc nghe thấy, rồi dùng dây cáp buộc lại. Phải vào một đêm giông bão, mưa to gió lớn may ra mới có thể làm được. Nhưng nếu mưa to gió lớn thì việc khó nhất sẽ là đưa cái bè này xuống nước, vì tất nhiên sóng sẽ đánh vào bờ đá hết sức dữ dội.
Vậy Carbonieri là đầu bếp. Viên quản lý bếp đã đưa cho anh ta ba con thỏ để chuẩn bị cho bữa ăn hôm sau, vào ngày chủ nhật. Carbonieri lột da thỏ ra (điều này thật là may), đem một con gửi cho thằng em ở bến tàu còn hai con gửi cho chúng tôi. Rồi anh ta thịt ba con mèo to nấu một nồi xi-vê ngon không thể tả.
Chẳng may cho Carbonieri, hôm sau bác sĩ được mời dự bữa ăn. Trong khi nhấm nháp món xi-vê thỏ, ông ta nói với viên quản lý:
- Ông Filidori ạ, xin có lời khen ngợi thực đơn của ông: món thịt mèo này ngon tuyệt.
- Xin bác sĩ đừng xỏ tôi, chúng ta đang ăn ba chú thỏ tuyệt vời.
- Không đâu, - ông bác sĩ khăng khăng nói quả quyết- Đây là thịt mèo. Ông có nhìn thấy mấy miếng xương sườn tôi đang ăn đây không? Xương sườn này dẹp, mà sườn thỏ thì tròn. Vậy không thể có sự nhầm lẫn gì được: chúng ta đang ăn thịt mèo.
- Lạy Chúa, Cristacho!- viên quản lý người Corse nói. - Trong bụng tôi có một con mèo rồi.
Thế là hắn chạy bổ xuống bếp dí súng lục vào mặt Matthieu nói:
- Mày có là dân sùng mộ Napoléon như tao cũng mặc, tao sẽ giết mày chết ngay bây giờ về tội đã cho tao ăn thịt mèo.
Mắt hắn trợn lên như mắt người điên. Carbonieri không hiểu nổi làm sao hắn biết được, nhưng vẫn nói:
- Nếu ông gọi mấy cái con gì mà ông đưa cho tôi là mèo, thì tôi cũng đến chịu: đó chúng phải là lỗi của tôi.
- Tao đưa cho mày ba con thỏ kia mà!
- Ông đưa gì tôi nấu nấy. Ông cứ nhìn mà xem: da với đầu còn kia kìa.
Lão cớm nhìn ba bộ da và ba cái đầu thỏ, chẳng còn biết nói sao.
- Thế ông bác sĩ chỉ nói mò à?
- Té ra ông bác sĩ nói thế sao? - Carbonieri vừa thở hắt ra vừa hỏi. - Ông ấy trêu ông đấy. Ông phải nói cho bác sĩ biết là không nên đùa cái kiểu như vậy.
Nguôi giận, yên lòng, Filidori trở vào phòng ăn, nói với bác sĩ:
- Ông cứ tha hồ nói đi, muốn nói gì thì cứ nói ông bác sĩ ạ. Men rượu bắt đầu bốc lên rồi đấy. Mấy cái xương sườn của ông nó bẹp hay nó tròn mặc nó, chứ tôi thì tôi biết chắc mười mươi đây là thịt thỏ. Tôi vừa nhìn thấy ba bộ lông và ba cái đầu của nó còn sờ sờ ra đấy.
Thật hú vía cho Matthieu, nhưng mấy hôm sau anh ta thấy nên xin từ chức đầu bếp thì tốt hơn.
Ngày tôi có thể sắp sửa hành động đã đến gần.
Chỉ còn mấy tuần nữa là Barrot ra đi. Hôm qua tôi vừa ghé thăm bà vợ béo tốt của ông ta (nhân thể cũng xin nói rằng nhờ chế độ ăn cá luộc với rau tươi, bà ta đã gầy bớt đi nhiều). Ngời đàn bà tốt bụng này đã mời tôi vào nhà để tặng tôi một chai rượu canh-ki-na. Trong phòng khách tôi nhìn thấy mấy cái rương đi tày thủy đang được xếp đồ đạc vào. Họ đang chuẩn bị cho chuyến ra đi. Bà thiếu tá, như mọi người vẫn quen gọi bà ta, nói với tôi:
- Papillon ạ, tôi không biết lấy gì để cảm ơn anh đã quan tâm đến tôi mấy tháng gần đây. Tôi biết những hôm biển động cá hiếm anh đã cho tôi tất cả những gì anh câu được. Tôi cảm ơn anh nhiều lắm. Nhờ anh bây giờ tôi thấy trong người dễ chịu lắm. Tôi đã bớt được mười bốn ki-lô. Tôi có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn anh đây?
- Thưa bà, một việc rất khó đối với bà: kiếm cho tôi một cái la bàn tốt. Chính xác, nhưng đừng to quá.
- Cái này vừa không đáng là bao, lại vừa là việc lớn đấy, Papillon ạ, mà chỉ trong vòng ba tuần phải kiếm cho ra thì hơi khó cho tôi đấy.
Tám ngày trước khi ra đi, người đàn bà cao thượng này, bực mình vì mãi không kiếm đâu ra được một cái la bàn; đã dám lên tàu thủy đi Cayenne. Bốn hôm sau, bà trở về với một cái la bàn chống nhiễm từ tuyệt hảo.
Sáng nay, hai ông bà chỉ huy trại lên đường. Hôm trước ông đã trao quyền chỉ huy cho một sĩ quan cảnh binh cùng cấp với ông, một người quê ở Tunisie tên là Prouillet. Một tin mừng: viên chỉ huy mới đã quyết định cho Dega giữ nguyên chức kế toán trưởng. Điều này rất quan trọng đối với mọi người, nhất là đối với tôi. Trong bài diễn văn đọc trước đám phạm nhân tập hợp thành đội ngũ hình vuông trong khoảng sân lớn, viên chỉ huy mới làm cho mọi người cảm thấy đây là một con người rất cương nghị, nhưng thông minh. Ngoài những chuyện khác ra, ông ta có nói với chúng tôi:
- Kể từ hôm nay, tôi đảm nhiệm quyền chỉ huy Quần đảo Salut. Nhận thấy có phương pháp cai quản của người đi trước tôi đã đem lại những kết quả tích cực, tôi không thấy có lý do gì để thay đổi chế độ hiện hành. Nếu các người không làm điều gì buộc tôi phải có biện pháp khác, tôi sẽ không thay đổi gì trong nếp sống của các người.
Tôi nhìn hai ông bà chỉ huy cũ ra đi mà lòng mừng khấp khởi. Điều đó cũng rất dễ hiểu, tuy thời gian chờ đợi đã trôi qua một cách nhanh chóng lạ lùng. Cuộc sống tưởng chừng như tự do mà hầu hết các phạm nhân trên đảo được hưởng, những ván bài, những buổi đi câu những cuộc chuyện trò, những người bạn mới, những cuộc cãi vã những trận đánh nhau làm thành những phương tiện giải trí rất hữu hiệu, khiến người ta không còn thì giờ để mà buồn chán nữa.
Tuy thế, tôi đã không để cho cái không khí này lôi cuốn tôi thực sự. Mỗi lần tôi kết thân với một bạn mới, bao giờ đồng thời tôi cũng tự đặt ra câu hói: “Anh này liệu có ý định vượt ngục không? Nếu không, anh ta có đủ lòng tốt để giúp người khoẻ chuẩn bị một chuyến vượt ngục không?”
Tôi chỉ vì cái mục đích ấy mà sống: vượt ngục, vượt ngục cho bằng được, dù đi một mình hay cùng đi với bạn cũng thế thôi. Đó là một ý nghĩ thường xuyên ám ánh tôi, tuy tôi theo đúng lời như Jean Castelli đã khuyên tôi, không nói hở ra với ai hết, nhưng ý nghĩ ấy không giây phút nào rời khỏi tâm trí tôi. Và tôi sẽ vững lòng thực hiện lý tưởng của tôi: vượt ngục.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
VII .Quần đảo Salut
Chiếc bè trong ngôi mộ
Trong vòng năm tháng, tôi đã dần dần am hiểu tường tận từng góc ngách của Quần đảo. Kết luận hiện giờ của tôi là khu vườn ở cạnh nghĩa địa mà Carbonieri bạn tôi làm việc trước đây - bây giờ anh không ở đó nữa - là nơi chắc chắn nhất để đóng bè. Cho nên tôi yêu cầu Carbonieri trở lại khu vườn ấy, không xin thêm người phụ việc. Anh ta bằng lòng. Nhờ có Dega xin cho, Carbonieri được trở về khu vườn cũ.
Sáng hôm nay, khi đi qua nhà viên chỉ huy trại mới đổi đến, tay cầm một xâu lớn cá hồng, tôi nghe thấy anh tù trẻ làm gia đinh cho nhà này nói với một thiếu phụ:
- Thưa bà chỉ huy, anh này chính là người trước đây vẫn hàng ngày đem cá về cho bà Barrot đấy ạ.
Rồi tôi nghe người kia, một thiếu phụ tóc đen xinh đẹp, kiểu đàn bà Algérie, nước da màu đồng đỏ, nói với anh ta: “Thế ra anh là Papillon à”. Đoạn quay ra phía tôi, người thiếu phụ nói:
- Tôi đã được ăn mấy con tôm he rất ngon của anh câu do bà Barrot biếu tôi. Anh vào nhà đi. Anh phải uống ly rượu vang nhắm với ít pho-mát sữa dê tôi vừa nhận được từ bên Pháp gửi sang.
- Cám ơn bà, thôi ạ, tôi không vào đâu.
- Sao thế? Anh vẫn vào với bà Barrot đấy thôi, sao anh lại không vào với tôi?
- Vì chính ông Barrot cho phép tôi vào nhà ông ấy.
- Papillon ạ, chồng tôi chỉ huy trại, còn tôi, tôi chỉ huy ở nhà... Anh cứ vào đi, đừng sợ.
Tôi cảm thấy cô thiếu phụ xinh đẹp này đã muốn gì là làm cho bằng được: một người như thế có thể rất hữu ích hoặc rất nguy hiểm.
Trong phòng ăn, bà chỉ huy mới dọn ra bàn cho tôi một đĩa giăm-bông hun khói và một lát pho-mát. Không chút kiểu cách, bà ta xuề xòa ngồi xuống trước mặt tôi, rót rượu vang cho tôi, rồi sau đó lại rót cà- phê, và cuối cùng là một ly rượu rhum Jamaique rất ngon. Bà nói:
- Papillon ạ, mặc dầu lúi búi vì phải sửa soạn ra đi và phải đón tiếp chúng tôi khi mới về, bà Barrot đã có đủ thì giờ để cho tôi biết được ít nhiều về anh. Tôi biết rằng bà ấy là người phụ nữ duy nhất trên Quần đảo được anh đem cá về cho. Tôi hy vọng rằng tôi sẽ được kế chân bà ấy hưởng cái ân huệ này của anh.
- Vì là bà ấy ốm, còn bà thì tôi thấy hình như rất khỏe mạnh.
- Tôi không biết nói dối, Papillon ạ. Đúng, tôi khỏe mạnh, nhưng tôi vốn sinh trưởng ở hải cảng cho nên chỉ thích ăn cá thôi. Tôi là người Oran. Chỉ một điều làm cho tôi thấy khó xử: tôi cũng được biết là anh không bao giờ bán cá lấy tiền. Cái này thì phiền quá.
Nói qua nói lại một lúc, cuối cùng rồi cũng đi đến chỗ thỏa thuận là tôi sẽ đem cá đến cho bà.
Một hôm tôi đem đến ba ki-lô cá hồng và sáu con tôm he, đang ngồi hút thuốc thì ông chỉ huy về. Trông thấy tôi, ông nói:
- Juliette à, anh đã bảo với em là ngoài chú gia đinh ra không được cho một phạm nhân nào vào nhà kia mà.
Tôi vội đứng dậy, nhưng bà Juliette nói:
- Anh cứ ngồi yên. Phạm nhân này là người mà bà Barrot đã gửi gắm cho em trước khi ra đi. Vậy thì anh đừng có ý kiến gì cả. Ngoài anh này ra sẽ không có phạm nhân nào vào đây hết. Mặt khác, anh ta sẽ đưa cá cho em khi nào em cần.
- Thế thì được, - ông chỉ huy nói. - Anh tên gì? Tôi toan đứng dậy trả lời thì Juliette đặt bàn tay lên vai tôi bắt tôi ngồi xuống, nói:
- Đây là nhà của tôi. ở đây ông chỉ huy không còn là ông chỉ huy nữa, mà là chồng tôi, ông Prouillet.
- Cám ơn bà. Tên tôi là Papillon.
à! Tôi có nghe nói về anh và về cuộc vượt ngục của anh cách đây hơn ba năm từ bệnh viện Saint- Laurent-du-Maroni. Vả lại một trong hai viên giám thị bị anh đánh ngất trong khi vượt ngục lại chính là cháu tôi và là cháu nhà tôi - người đang bảo hộ cho anh.
Đến đây, Juliette cười phá lên, tiếng cười trẻ trung và tươi mát.
- Thế ra anh là kẻ đã phang vào đầu Gaston à? Không sao, việc này sẽ không làm thay đổi tình hình đâu
Ông chỉ huy vẫn chưa ngồi xuống, nói:
- Cái số án mạng xảy ra hàng năm trên Quần đảo thật khó tin nổi: nhiều hơn ở Đất liền nhiều. Anh có hiểu tại sao không Papillon?
- Thưa ông, vì ở đây anh em không vượt ngục được thành ra bẳn tính. Họ sống mãi với nhau hết năm này sang năm khác, cho nên lẽ tự nhiên là phải hình thành những tình bạn và những mối thù không có gì tiêu hủy được. Mặt khác, chỉ có không đầy năm phần trăm số thủ phạm bị phát hiện, cho nên kẻ giết người có thể tin gần chắc là mình sẽ không bị trừng phạt.
- Cách giải thích của anh rất lô-gích. Anh câu cá từ bao lâu rồi, và anh nhận loại lao công gì để có quyền đi câu như vậy?
- Tôi đổ thùng. Đến sáu giờ sáng tôi đã xong việc, sau đó tôi được đi câu.
- Suốt thời gian còn lại trong ngày à? - Juliette hỏi.
- Không, đến mười hai giờ trưa tôi phải về trại, ba giờ mới được ra cho đến sáu giờ chiều. Như thế rất phiền, vì tùy theo giờ thuỷ triều lên xuống, tôi có thể mất buổi câu.
- Anh cho Papillon một tờ giấy phép riêng, nghe anh? - Juliette quay về phía chồng nói. - Từ sáu giờ sáng đến sáu giờ chiều, như thế anh ta sẽ tha hồ câu cá.
- Xong ngay, - ông chủ huy nói.
Tôi ra về, trong bụng mừng thầm, vì ba cái tiếng đồng hồ từ mười hai đến ba giờ chiều rất quý giá. Đó là giờ ngủ trưa, bọn giám thị đều ngủ, cho nên việc canh phòng có chiều lỏng lẻo.
Juliette đã chiếm lĩnh hoàn toàn cả việc đi câu của tôi lẫn bản thân tôi. Đến mức bà ta còn sai anh gia đinh đi xem thử tôi đang câu ở đâu để lấy cá về. Có những hôm anh ta đến, nói: “Bà chỉ huy bảo anh câu được gì đem hết về cho bà, vì hôm nay bà có khách, muốn làm món xúp tôm cá”, hoặc đại loại như vậy. Nói tóm lại, bà ta quản lý hết thu hoạch của tôi, thậm chí còn dặn tôi câu cá này, cá nọ, hay phải lặn xuống biển bắt tôm càng. Điều đó có phương hại khá nhiều đối với thực đơn của tổ tôi, nhưng mặt khác, tôi được che chở hơn hết thảy mọi người. Bà ta còn có những kiểu quan tâm đặc biệt.
- Papillon, thủy triều lên lúc một giờ phải không?
- Thưa bà vâng.
- Thế thì trưa anh về đây ăn cơm nhé, khỏi về trại.
Thế là tôi ăn trưa ở nhà bà, hôm nào cũng ăn ở phòng ăn chứ không bao giờ ăn dưới bếp. Bà ngồi đối diện với tôi, lấy thức ăn bỏ vào đĩa cho tôi và rót rượu cho tôi. Bà không được kín đáo tế nhị như bà Barrot. Nhiều lần bà hỏi dò tôi về dĩ vãng. Tôi luôn luôn phải tránh cái đề tài mà bà quan tâm hơn cả - cuộc sống của tôi ở Montmartre, chỉ kể thời thiếu niên và thơ ấu của mình. Trong khi đó ông chỉ huy nghỉ trưa trong phòng ngủ.
Một buổi sáng câu được nhiều tôm, tôi về sớm, cầm hơn sáu chục con tôm càng ghé nhà bà. Bà mặc áo choàng tắm màu trắng, sau lưng có một cô đang cuốn tóc cho bà. Tôi chào, rồi biếu bà một tá tôm. Bà nói ngay:
- Không, anh cho tôi tất cơ. Có mấy con?
- Sáu chục ạ.
- Hay quá, anh để cả đấy cho tôi. Anh và các bạn anh cần bao nhiêu cá?
- Tám con ạ.
- Thế thì anh giữ lấy tám con, còn bao nhiêu đưa cho cậu bé đem thả vào nước mát đi.
Tôi chẳng còn biết nói sao. Xưa nay chưa bao giờ bà dùng đại từ “tu” nói với tôi, nhất là trước mặt một người đàn bà khác, vì người này thế nào cũng đi nói lại. Tôi ngượng quá, toan ra về, thì bà lại nói:
Ngồi yên đấy, uống tí rượu hồi đã. Chắc anh nóng lắm nhỉ?
Người đàn bà quyền uy này làm cho tôi bàng hoàng đến nỗi tôi ngồi đực ra. Tôi vừa chậm rãi nhắp rượu hồi vừa hút thuốc lá, chốc chốc lại liếc mắt về phía tôi. Bà chỉ huy nhìn vào cái gương đang cầm ở tay, biết ngay cô kia nhìn trộm tôi, liền nói “Bồ tôi đẹp trai đây chứ, Simone nhỉ? Các cô cô nào cũng ghen với tôi, đúng không nào?” Thế là cả hai cười khúc khích. Tôi không còn biết độn thổ đi đường nào. Thế rồi tôi nói một cách ngu xuẩn: “Cũng may là thằng bồ của bà, như bà nói, không nguy hiểm lắm, vì trong tình cảnh của hắn, hắn không thể phải lòng ai để mà có bồ được”.
- Thôi đi, chẳng lẽ anh dám nói anh không phải lòng tôi? - cô nàng Algérie nói - Chưa có ai thuần phục được con sư tử như anh, thế mà tôi muốn gì anh làm tất. Phải có lý do chứ Simone nhỉ?
Tôi không biết là lý do gì, - Simone nói, - nhưng có một điều chắc chắn là đối với mọi người anh là một người hoang dã, chỉ riêng đối với bà chỉ huy là không thôi, Papillon ạ. Đến nỗi, có hôm anh vác dễ đến hơn mười lăm ki-lô cá, thế mà bà vợ ông giám thị trưởng van nài anh bán cho hai con thôi anh cũng không chịu, bà ấy nói thế, hôm ấy bà ấy thèm đến chết được, vì lò không có thịt.
- Chà Simone? Thế mà đến bây giờ cô mới kể cho tôi nghe.
- Thế chị cô biết hôm nọ anh ta nói cái gì với bà Kargueret không? Bà ta trông thấy anh cầm một mớ tôm và một con cá ngừ lớn: “Anh bán tôi con cá đi Papillon, hay nửa con cũng được. Anh cũng biết là dân Bretagne chúng tôi làm cá ngừ rất ngon mà?”.
Papillon nói: “Đâu phải chỉ có người Bretagne mới biết giá trị của nó? Rất nhiều người, kể cả dân Ardèche chúng tôi, mãi từ thời quân La-mã sang đã biết đây là món thượng đẳng”. Thế là anh ta đi thẳng chăng bán gì cho bà ta cả.
Hai người đàn bà cười ngặt nghẽo.
Tôi ra về, trong lòng rất cáu, và đến tối tôi kể cho tổ nghe hết câu chuyện.
- Việc này rất nghiêm trọng, - Carbonieri nói. - Mụ ấy đưa cậu vào một tình thế rất nguy. Cậu nên đến đấy càng ít càng tốt, và chỉ khi nào cậu biết là có ông chỉ huy ở nhà.
Cả tổ đều tán thành ý ấy. Tôi nhất định phải làm theo ý Carbonieri.
Tôi vừa phát hiện ra được một anh thợ mộc người Valence. Nơi đó gần như là một quê hương của tôi, anh này đã giết một người kiểm lâm. Đó là một tay rất máu mê cờ bạc, lúc nào cũng nợ đìa ra: ban ngày hì hục làm đồ thủ công kiếm được bao nhiêu thì đến đêm nướng vào sòng bạc hết. Đã nhiều lần anh ta phải lấy đồ thủ công gán nợ. Thế là bị người ta bắt bí, một cái hộp gỗ quý trị giá ba trăm francs mà người ta chỉ trừ cho có trăm rưởi hay hai trăm bạc nợ. Tôi đã quyết định tấn công anh này.
Một hôm gặp ở chỗ giặt áo quần, tôi nói với anh ta:
- Đêm nay tôi có chuyện muốn nói với anh. Tôi đợi anh ở nhà xí. Tôi sẽ ra hiệu.
Đêm ấy chúng tôi gặp riêng nhau, có thể nói chuyện không sợ ai quấy rầy. Tôi nói:
- Bourset này, chúng mình là đồng hương đấy cậu ạ.
- Đâu có! Đồng hương thế nào?
- Cậu không phải quê ở Valence sao?
- Đúng thế chứ.
- Tôi thì quê ở Ardèche, như vậy chúng mình là đồng hương.
- Thế rồi sao nữa? Có gì quan trọng đâu?
- Có cái quan trọng là tôi không muốn cậu bị người ta bóc lột khi cậu mắc nợ, tôi không chịu được khi thấy họ tính giá những đồ của cậu làm không được một nửa giá trị thật. Lần sau cậu đưa cho tôi, tôi sẽ trả cậu đúng giá. Có thế thôi.
- Cám ơn cậu, - Bourset nói.
Tôi luôn luôn can thiệp để giúp đỡ Bourset. Cậu ta thì luôn luôn cãi cọ với những tay cậu mắc nợ. Mọi sự đều yên ổn cho đến hôm cậu ta có chuyện nợ nần với Vicioli một tay kẻ cướp rừng ở đảo Corse, một trong những bạn tốt của tôi. Tôi biết chuyện là do Bourset đến mách với tôi rằng Vicioli đang dọa nạt cậu ta nếu cậu ta không trả số tiền bảy trăm francs đang mắc nợ. Bourset lại cho tôi biết là đang sắp sửa làm xong một cái bàn giấy nhỏ có ngăn bí mật, nhưng không dám chắc bao giờ xong hẳn, vì phải làm lén. Số là phạm nhân không được phép làm những thứ đồ quá lớn vì như vậy tốn nhiều gỗ. Tôi trả lời là để tôi xem có cách nào giúp cậu ta được không. Rồi với sự thỏa thuận của Vicioli tôi dựng lên một màn kịch nhỏ: Vicioli phải thúc giục Bourset gắt vào, thậm chí dọa dẫm thật dữ. Tôi sẽ xông vào can thiệp như một vị cứu tinh.
Mọi việc đều diễn ra đúng như đã dàn dựng. Từ ngày ấy, cậu Bourset nhất nhất đều nghe tôi và tin tôi một cách tuyệt đối. Lần đầu tiên trong cuộc đời phạm nhân, cậu ta mới được yên thân. Bây giờ tôi mới quyết định thử thách số phận. Một hôm tôi nói với Bourset:
- Tôi có hai ngàn francs biếu cậu nếu cậu làm cho tôi một cái bè chở được hai người, gồm từng mảng rời có thể lắp nhanh được.
- Papillon ạ, tôi không đời nào chịu nhận làm một việc như thế cho bất kỳ ai, nhưng riêng với cậu, tôi sẵn sàng liều chịu hai năm cấm cố nếu bị lộ. Chỉ có điều là tôi không thể đưa những súc gỗ hơi lớn ra khỏi công xưởng được.
- Tôi đã có người.
- Ai?
- Hai anh em Đẩy xe, Naric và Quenier. Cậu định sao?
- Trước hết phải vẽ một đồ án đúng tỷ lệ, rồi làm từng bộ phận một, có khớp để lắp vào nhau thật chắc. Cái khó là tìm cho ra thứ gổ nổi thật nhẹ, vì gỗ ở đảo đều là loại gỗ cứng thả xuống nước không nổi được.
- Bao giờ cậu sẽ trả lời cho tôi biết?
- Ba hôm nữa.
- Cậu có muốn đi với tôi không?
- Không.
- Tại sao?
- Tại tôi sợ cá mập và sợ chết đuối.
- Cậu hứa là sẽ giúp tôi hết mình chứ?
- Tôi lấy mấy đứa con tôi ra mà thề với anh như vậy. Chỉ có điều là phải làm lâu đấy.
- Cậu nghe kỹ đây: ngay từ bây giờ tôi sẽ chuẩn bị bằng chứng bênh vực cho cậu phòng khi bị lộ. Tôi sẽ tự tay chép lại đồ án đóng bè trên giấy học sinh. Phía dưới tôi sẽ viết: “Bourset, nếu mày không muốn bị ám sát, mày phải đóng chiếc bè vẽ trên đây” sau đó tôi sẽ viết cho cậu những mảnh giấy dặn dò cách đóng từng bộ phận. Cứ xong được bộ phận nào, cậu sẽ đem ở nơi tôi sẽ dặn. Nó sẽ được đưa đi giấu ngay. Cậu đừng tìm cách biết ai đến lấy và lấy vào lúc nào (ý này làm cho cậu ta thấy nhẹ bớt) như vậy tránh cho cậu khỏi bị tra tấn nếu bị bắt và dù có sao cậu cũng chỉ phải chịu hình phạt nhẹ nhất: chừng sáu tháng cấm cố thôi.
- Thế nếu chính cậu bị bắt thì sao?
- Nếu thế thì sẽ ngược lại. Tôi sẽ nhận tôi đã viết mấy mảnh giấy. Dĩ nhiên cậu phải giữ những mảnh giấy ấy. Nhất trí chưa?
- Tôi hứa như vậy.
Cậu không sợ chứ?
- Không, bây giờ tôi không sợ nữa. Tôi thấy vui được giúp cậu..
Tôi chưa nói gì với ai hết. Tôi còn phải chờ Bourset trả lời về chuyện gỗ. Mãi đến một tuần sau, một tuần dài dằng dặc tưởng không bao giờ hết, tôi mới có dịp nói chuyện riêng với Bourset ở thư viện. Ngoài hai chúng tôi ra không có ai ở đấy. Đó là vào buổi sáng chủ nhật. ở ngoài sân đang có đám bạc lớn, gần tám mươi người đánh và ngần ấy người đứng xem.
Lập tức Bourset làm cho tôi thấy ấm lòng:
- Cái khó nhất là làm sao chắc có được đủ gỗ nhẹ và khô. Tôi đã nghĩ được cách làm một cái khung bằng gỗ nẹp chặt dừa khô, còn nguyên cả thớ vỏ, cố nhiên. Không có gì nhẹ bằng thớ vỏ dừa, mà nước lại không thấm vào được. Khi bè đóng xong, chính anh phải lo kiếm cho đủ dừa để nhét vào khung. Vậy thì mai tôi làm mảng đầu tiên. Mất độ ba ngày. Từ thứ năm có cho một trong hai anh em Đẩy xe đến lấy. Tôi sẽ không bao giờ bắt đầu làm thêm một mảng trước ra khỏi xưởng. Tôi đã vẽ đồ án rồi đây, cậu chép lại đi rồi viết thêm mảnh giấy như cậu đã hẹn. Cậu đã nói chuyện với anh em nhà ấy chưa?
- Chưa, tôi còn chờ cậu trả lời đã chứ.
- Thế thì tôi trả lời rồi đấy: được.
- Cám ơn Bourset, tôi không biết lấy gì cảm ơn cậu Thôi, năm trăm francs đây, cậu cầm lấy.
Bourset nhìn thẳng vào mắt tôi nói:
- Không, cậu giữ lấy tiền. Đến đất liền cậu sẽ cần đến để vượt tiếp. Từ hôm nay tôi sẽ không đánh bạc cho đến khi nào cậu ra đi. Làm một ít đồ thủ công, tôi sẽ có đủ tiền mua thuốc lá và bít-tết.
- Tại sao cậu không chịu cầm?
- Vì việc này dù có trả một vạn francs tôi cũng không làm đâu. Việc quá nguy hiểm cho tôi, dù đã có đề phòng bất trắc. Chỉ có làm không công mới làm được. Cậu đã cứu tôi, cậu là người duy nhất đã dang tay ra giúp đỡ tôi. Tôi có sợ thật, nhưng tôi rất sung sướng được giúp cậu trở lại cuộc sống tự do.
Trong khi ngồi chép lại đồ án, tôi thấy hổ thẹn trước sự cao thượng lớn lao mà ngây thơ của Bourset. Cậu ta không chút hồ nghi rằng những cử chỉ tốt đẹp của tôi đối với cậu là có tính toán vụ lợi. Để khỏi khinh rẻ bản thân, tôi buộc lòng phải tự nhủ rằng tôi phải vượt ngục bằng bất cứ giá nào, dù cái giá đó là tính thế éo le và không phải bao giờ cũng tốt đẹp. Đêm hôm ấy tôi nói chuyện với Naric, biệt hiệu Xúp Nhừ, để sau đó cậu ta nói lại với ông em rể. Naric nói, không chút phân vân:
- Cậu cứ để tôi lo việc đưa các mảng bè ra khỏi công xưởng. Chỉ có điều là cậu đừng sốt ruột, vì chỉ khi nào có dịp đưa vật liệu cồng kềnh ra khỏi xưởng để làm công trình xây cất trên đảo mới nhân thể đưa luôn đồ của cậu ra. Dù sao tôi cũng hứa với cậu là sẽ không bao giờ để lỡ một dịp nào.
Thế là ổn rồi. Chỉ còn phải nói chuyện với Matthieu Carbonieri, vì tôi muốn cùng vượt ngục với chính anh ta. Anh ta đồng ý trăm phần trăm.
- Matthieu à, tôi đã tìm được người làm bè, đã tìm được người đưa từng mảng bè ra khỏi công xưởng. Phần cậu là tìm xem trong khu vườn có chỗ nào giấu được bè không.
- Không được đâu. Đây là vườn rau, nguy hiểm lắm, vì ban đêm có những thằng gác mò vào ăn trộm rau quả. Nếu chúng nó đi đúng vào chỗ giấu, cảm thấy dưới đất rỗng thì hỏng hết. Tôi sẽ làm một cái hốc trong bức tường bằng cách lấy ra một phiến đá lớn rồi khoét sâu vào trong. Mỗi khi nhận một mảng bè, tôi sẽ giở hòn đá ra, giấu vào hốc rồi đặt lại hòn đá như cũ
- Đưa thẳng các mảng đến vườn cậu được không?
- Không được. Làm như vậy quá nguy hiểm. Hai anh em Đẩy Xe không có lý do gì vào vườn của tôi. Tốt hơn cả là thu xếp cho họ mỗi lần đem đến một nơi khác không quá xa vườn của tôi.
- Nhất trí.
Mọi việc đều có vẻ ổn. Còn mấy quả dừa khô. Tôi nghĩ xem có cách nào chuẩn bị một số dừa đủ dùng mà không lộ liễu quá.
Tôi cảm thấy mình đang sống lại. Chỉ còn một việc là nói chuyện với Galgani và Grandet. Tôi không có quyền giấu họ, vì họ có thể bị buộc tội là đồng lõa với tôi. Bình thường ra, tôi phải chính thức ra khỏi tổ của họ để sống một mình. Khi tôi nói cho họ biết là tôi đang chuẩn bị một cuộc vượt ngục cho nên phải tách ra khỏi tổ, họ mắng cho tôi một trận và dứt khoát không chịu. “Cậu hãy lên đường càng sớm càng tốt. Còn chúng tớ thì khỏi lo, sẽ có cách. Trong khi chờ đợi cậu cứ ở với chúng tớ, chúng tớ có còn non dại gì đâu”.
Cuộc chuẩn bị đã tiến hành được hơn một tháng. Tôi đã nhận được bảy mảng bè, trong đó có hai mảng lớn. Tôi đã đến xem bức tường của Matthieu có khoét hốc để giấu bè. Không thể nhận thấy phiến đá đã bị tháo ra, vì cậu ta đã cẩn thận lấy rêu trát vào các khe hở.
Chỗ giấu thật hoàn hảo, nhưng tôi thấy cái hốc hơi chật chưa chắc chứa hết được tất cả. Tuy vậy, cứ như hiện nay thì vẫn còn đủ chỗ.
Cái ý thức là mình đang chuẩn bị vượt ngục khích lệ tinh thần tôi dữ dội. Tôi chưa bao giờ ăn nhiều và ngon miệng như thế, và chế độ ăn cá giữ cho cơ thể tôi hoàn hảo. Thêm vào đấy, mỗi buổi sáng tôi tập thể dục hai tiếng đồng hồ trên các mỏm đá. Tôi tập chân nhiều hơn, và khi câu cá tay đã hoạt động nhiều. Tôi nghĩ ra cách tập chân như sau: Tôi đi ra biển xa hơn khi tôi đứng câu, dể cho sóng xô vào đùi. Để đón sóng và giữ thăng bằng, tôi gồng các cơ bắp chân và đùi. Kết quả rất tốt.
Juliette, tức bà chỉ huy, vẫn rất niềm nở đối với tôi. Nhưng bà đã để ý thấy rằng chỉ khi nào có chồng bà ở nhà tôi mới vào. Bà đã nói thẳng với tôi là bà nhận thấy thế, và để cho tôi khỏi ngượng ngập, bà phân trần với tôi rằng cái hôm có cô Simone đến quấn tóc cho bà là bà nói đùa cho vui thôi. Tuy vậy, cô Simone vẫn hay ra đứng trên con đường tôi đi câu về, và mỗi lần gặp tôi cô đều có đôi lời thăm hỏi thân ái về sức khỏe và tinh thần của tôi. Vậy là mọi sự đều tốt lành. Bourset tận dụng mọi cơ hội để làm bè cho tôi. Công việc bắt đầu thế là đã được hai tháng rưỡi.
Chỗ giữ bè đã chật ních, như tôi đã dự kiến trước đây. Chỉ còn thiếu hai mảng dài nhất, một mảng dài hai mét, mảng kia dài mét rưỡi. Hai mảng này không lọt được vào hốc.
Nhìn về phía nghĩa trang, tôi trông thấy một ngôi mộ mới. Đó là mộ của vợ một cảnh binh, mới chết tuần trước. Trên mộ có đặt một bó hoa héo tồi tàn. Người giữ nghĩa trang là một phạm nhân già mù lòa có biệt hiệu là Bố già. Suốt ngày ông già ngồi dưới bóng một cây dừa mọc ở góc đối diện của nghĩa trang; ngồi đấy ông ta không thể nhìn thấy ngôi mộ ấy, mà nếu có ai đến gần ngôi mộ ông ta cũng không nhìn thấy được.
Tôi nảy ra cái ý dùng ngôi mộ này để lắp bè và nhét thật nhiều dừa vào cái thứ khung gỗ mà anh thợ mộc đã đóng. Hết khoảng ba mươi đến ba mươi bốn quả: so với số dừa đã dự kiến thì ít hơn nhiều. Tôi đã kiếm được hơn năm mươi quả, đặt rải rác ở nhiều nơi, mỗi nơi một ít. Chỉ riêng trong sân nhà Juliette đã được một tá rồi. Anh tù gia đình tưởng tôi gửi tạm đấy để sau này ép dầu.
Được tin viên cảnh binh chồng người đàn bà mới chết có việc phải đi lên đất liền, tôi quyết định bới lên một phần đất bỏ ra khỏi huyệt, đến chỗ đặt quan tài mới thôi.
Matthieu Carhonieri ngồi trên bức tường của anh ta, gác cho tôi đào. Dầu anh ta đội một chiếc khăn mùi soa trắng bốn góc thắt nút lại. Bên cạnh có một chiếc khăn đỏ, cũng thắt nút ở bốn góc. Không có gì thì cứ đội khăn trắng. Thấy ai đến thì đội khăn đỏ lên, dù là ai cũng thế.
Công việc này cực kỳ nguy hiểm. Cũng may là chi mất một buổi chiều và một đêm. Tôi không phải đào đến tận quan tài, vì tôi phải khoét rộng cái huyệt ra cho vừa chiều rộng của chiếc bè: một mét hai có dôi ra một ít. Tôi có cảm giác thời gian trôi qua chậm quá, và cái khăn đỏ đã mấy lần hiện ra. Cuối cùng, sáng hôm nay tôi đã làm xong. Cái huyệt được phủ bằng lá dừa chặt lại, làm thành một thứ sàn khá chắc. Bên trên phủ đất, đắp xung quanh lại thành một cái rìa nhỏ. Trông hầu như không có gì khả nghi. Thần kinh tôi căng thẳng đến tột độ rồi.
Cuộc chuẩn bị vượt ngục này đã kéo dài ba tháng. Được buộc kỹ và có đánh số đâu vào đấy, tất cả các bộ phận bằng gỗ của chiếc bè đã được đưa ra khỏi chỗ giấu. Bây giờ nó nằm phía trên quan tài của người đàn bà đã khuất, được lớp đất phủ trên sàn lá dừa che kỹ. Trong cái hốc ở trên tường, chúng tôi đã để ba cái bao bột và một sợi dây dài ba mét để làm buồm, một cái chai đựng diêm và vỏ quẹt, một tá hộp sữa, chỉ có thế thôi. -
Bourset càng ngày càng nôn nao, bứt rứt. Cứ như thể chính anh ta sẽ ra đi chứ không phải tôi. Naric lấy làm tiếc là hồi tôi hỏi anh ta đã từ chối. Nếu hồi ấy anh đồng ý thì chúng tôi đã tính chuyện đóng một chiếc bè cho ba người đi chứ không phải hai.
Bấy giờ là mùa mưa, ngày nào cũng mưa cả, điều dó tiện lợi cho tôi những khi tôi đi “thăm mộ”; lúc ấy tôi đã lắp gần xong cái bè. Còn thiếu hai thanh gờ của khung gỗ. Tôi đã chuyển dần mấy chục quả dừa về gần khu vườn của bạn tôi. Có thể đến lấy dừa một cách dễ dàng và không có gì nguy hiểm trong trại trâu. Không bao giờ các bạn tôi hỏi tôi đã chuẩn bị đến đâu rồi. Chỉ thỉnh thoáng họ mới nói: “ổn chứ?” - “ổn”. – “Hơi lâu, cậu nhỉ? - “Làm nhanh hơn thì có cơ hỏng hết”. Chỉ thế thôi. Khi tôi đến lấy mấy quả dừa để tạm ở sân nhà Juliette, bà ta trông thấy và đã cho tôi một mẻ hết hồn.
- Này anh Papillon, anh bắt đầu làm dầu dừa đấy à? Sao không làm ngay trong sân này? ở đây có cái chày vồ để đập dừa ra, tôi sẽ cho anh mượn cái nổi lớn trong nhà để đựng cùi dừa.
Tôi thấy làm ở trại tiện hơn.
- Lạ thật. ở trại bất tiện thì có.
Nhưng nghĩ một lát, bà ta lại nói:
Anh có muốn tôi nói thật không? Tôi không tin là anh lại đi làm dầu dừa đâu.
Tôi lạnh toát cả người, Juliette lại nói:
- Trước hết anh việc gì phải làm dầu dừa, trong khi anh có thể lấy bao nhiêu dầu ô-liu của tôi cũng được? Mấy quả dừa kia để làm một cái gì khác kia, đúng không?
Tôi toát mồ hôi hột. Ngay từ đầu tôi đã chờ bà ta ném ra hai tiếng “vượt ngục”. Tôi nghẹn cả thở. Tôi nói với Juliette:
- Thưa bà, chuyện này lẽ ra tôi phải giữ bí mật đến cùng, nhưng tôi thấy bà tò mò sốt ruột muốn biết quá, cho nên tôi đành phải làm mỏng món quà bất ngờ mà tôi đã định dành cho bà. Nhưng đã thế này thì tôi chỉ có thể hở cho bà biết rằng mấy quá dừa lớn này đã được chọn để làm một thứ đồ chơi rất xinh mà bà sẽ rất thích. Hiện nay tôi chỉ có thể nói đến đấy thôi.
Tôi đã thắng, vì thấy Juliette trả ]ời:
- Papillon ạ, anh đừng vì tôi mà bày vẽ những việc làm anh mất thì giờ, và nhất là tôi cấm anh không được phí tiền để làm cho tôi một thứ quà cáp gì đặc biệt. Tôi thành thật cám ơn anh đã nghĩ đến việc đó, nhưng anh chớ có làm như vậy, tôi thiết tha yêu cầu anh đấy.
- Thôi được, để tôi xem đã.
Thật hú vía! Tôi lập tức xin Juliette một ly rượu hồi, điều mà tôi chưa bao giờ làm. Bà không nhận thấy vẻ thảng thốt của tôi, thật may. Thượng đế nhân từ đang đứng về phía tôi.
Hôm nào trời cũng mưa, nhất là về chiều và đêm. Tôi lo nước ngấm qua lớp đất mỏng làm lộ lớp lá dừa đan. Matthieu phải trông chừng thường xuyên, hễ thấy đất trôi đi là đắp lại ngay. Chắc ở phía dưới ngập nước hết rồi. Tôi và Matthieu lôi lớp lá dừa lên: nước chảy xuống đã gần đến nắp quan tài. Tình thế thật nguy kịch. Gần đấy có một ngôi mộ chôn hai đứa trẻ đã chết từ lâu lắm. Một hôm chúng tôi cạy phiến đá trên mộ, tôi chui xuống dùng một thanh sắt ngắn đục lớp xi măng ở chỗ thấp nhất về phía ngôi mộ giấu bè. Lớp xi măng vỡ rồi, tôi vừa cầm thanh sắt cắm xuống đất thì một tia nước phọt lên. Nước từ ngôi mộ bên kia cháy sang cái huyệt này. Khi nước đã lên đến đâu gối tôi bước ra ngoài. Chúng tôi đặt phiến đá trở lại chỗ cũ và gắn xung quanh bằng mát-tit trắng (do Narie kiếm giùm). Biện pháp này đã làm cho lượng nước bên ngôi mộ giấu bè của chúng tôi bớt được một nửa. Tối hôm ấy Carbonien nói với tôi:
- Không biết đến bao giờ mới hết những chuyện phiền toái vì chuyến vượt ngục này.
-Gần xong rồi mà, Matthieu!
- “Gần” rồi hả? Cũng mong như thế.
Thật chúng tôi như đang ngồi trên đống than hồng.
Sáng hôm sau, tôi ra bến. Tôi đã yêu cầu Charpar mua cho tôi hai ki-lô cá để đến trưa tôi sẽ ra lấy. Tôi trở lên vườn Carbomeri. Gần đến, tôi trông thấy ba cái mũ cối trắng. Tại sao lại có ba tên cảnh sát trong vườn? Chúng nó lục soát gì chăng? Thật là việc không bình thường. Tôi chưa bao giờ thấy có ba tên cảnh sát đến vườn Carbomeri. Tôi đợi một giờ đồng hồ, rồi sốt ruột quá không chịu được nữa, tôi quyết định đi tới tận nơi xem thừ có việc gì xảy ra. Tôi cứ ngang nhiên đi trên con đường dẫn đến khu vườn. Mấy tên cảnh sát đứng nhìn tôi đi tới. Tôi đã đến cách họ khoảng hai mươi mét, lòng bồn chồn hồi hộp, thì thấy Matthieu đội chiếc khăn trắng lên đầu. Tôi thở hắt ra, và có đủ thì giờ trấn tính lại trước khi đến tận chỗ mấy người kia đứng.
- Chào các ông giám thị. Chào Matthieu. Tôi đến lấy quả đu đủ cậu hứa cho tôi.
- Tiếc quá Papillon ạ, sáng nay tớ đi lấy sào để cắm cho cây đỗ leo, khi về mới thấy mất quả đu đủ. Nhưng chỉ bốn năm hôm nữa lại có quả chín, bây giờ cũng đã có mấy quả vàng vàng rồi. Thưa các ông giám thị, sao ạ, các ông có lấy một ít rau xà lách, mấy quả cà chua mí lại mấy củ cải cho các bà ở nhà không ạ?
- Khu vườn của anh trông nom khá lắm Carbonieri ạ tôi có lời khen anh đấy, - một viên cảnh sát nói.
Họ nhận mấy mớ xà lách, cà chua và củ cải rồi ra về. Tôi ra về trước họ một chút cho họ thấy tôi không có chuyện riêng gì phải bàn với Carbonieri, không quên mang theo hai cây xà lách.
Tôi đi ngang qua nghĩa địa. Ngôi mộ bị mưa xói lở cả lớp đất phủ bên trên. Đứng cách mười bước, tôi trông thấy rõ lớp lá dừa trồi lên. Đến thế này mà chúng tôi chưa bị lộ thì quả là Chúa phù hộ cho. Đêm đêm gió thổi ào ào như quỷ dữ, tràn qua ngọn đồi trên đảo với những tiếng gầm thét điên dại, chốc chốc lại đổ cả mưa rào. Mong sao cứ thế này mãi: đây là một thời tiết lý tưởng để vượt ngục, nhưng đối với ngôi mộ thì lại khác. Súc gỗ lớn nhất của chiếc bè, cái súc dài hai mét ấy đã được dưa đến hầm mộ một cách xuôi lọt, để nhập bọn với các bộ phận khác của bè. Tôi lại còn lắp thử nó vào nữa là khác, nó ăn khớp vào một cách sít sao mà dễ dàng, không phải tốn sức gì cả. Bourset chạy lên tận trên trại để hỏi xem tôi đã nhận được cái bộ phận quan trọng hàng đầu ấy chưa: nó quan trọng thật, nhưng lại cồng kềnh quá xá. Nghe nói đâu đấy đều ổn cả, anh ta mừng quýnh. Anh ta có vẻ như không tin là nó lại có thể đến tay tôi được. Tôi hỏi:
- Cậu có ngờ vực gì không? Cậu nghĩ là có ai biết được à? Cậu có hở ra với ai không? Trả lời đi!
- Không, tuyệt nhiên không?
-Thế nhưng cậu vẫn có vẻ lo âu vì một điều gì đó. Cậu nói đi!
- Tôi chỉ có một cảm giác khó chịu vì cái nhìn quá tò mò như có ý soi mói của một gã tên là Bébert Celier. Tôi thấy hình như hắn đã nhìn thấy Naric lấy súc gỗ dưới cái bàn thợ mộc bỏ vào cái thùng ton-nô đựng vôi rồi mang đi. Mắt hắn dõi theo Naric ra đến tận cửa xưởng. Hai anh em Đẩy Xe sắp phải quét vôi một dãy nhà trong trại. Tôi lo là vì thế đấy.
Tôi hỏi Grandet:
- Cái anh Bébert Celier ấy ở khối ta đấy, vậy ắt không phải là một thằng phản trắc.
Grandet nói:
- Tay này vốn là tù được giao cho sở Công chánh. Cậu thử hình dung mà xem: hắn đã từng đánh nhau trong một tiểu đoàn trừng giới ở châu Phi, một tay cứng đầu đã nếm mùi đủ các thứ nhà pha của quân đội ở Maroc và ở Algérie, chuyên gây sự đánh nhau, đấu dao loại sừng sỏ, một tay pê-đê cuồng nhiệt, lại máu mê cờ bạc nữa. Hắn chưa bao giờ sống ngoài xã hội như một thường dân. Kết luận: đó là một thằng vô lại, cực kỳ nguy hiểm. Trại khổ sai chính là cả cuộc đời của hắn. Nếu cậu nghi hắn thực sự, thì hãy đi bước trước đi: hãy ám sát hắn ngay đêm nay, để hắn không có thì giờ tố giác cậu nếu hắn có ý định ấy.
- Không có gì chứng minh rằng hắn là một thằng chỉ điểm.
Đúng thế, - Galgani nói, - nhưng cũng không có gì chứng minh hắn là một thằng khá. Cậu thừa biết loại phạm nhân như hắn chúa ghét những cuộc vượt ngục. Nó làm đảo lộn quá nhiều cái nếp sinh hoạt yên ổn và có nền nếp của bọn chúng. Về bất cứ việc gì khác thì chúng không bao giờ tố giác, nhưng chuyện vượt ngục thì khác, biết đâu đấy?
Tôi hỏi ý kiến Matthieu Carbonieri. Anh ta tán thành cái ý kiến là phải giết hắn ngay đêm nay. Anh ta định đích thân làm việc đó. Tôi có một hành động sai lầm là đã ngăn cản anh ta. Tôi không thể chấp nhận việc giết một con người mà chỉ căn cứ vào những hiện tượng bề ngoài. Dù là tự mình giết hay để cho người khác giết, tôi cũng thấy ghê tay quá. Nếu nhỡ Bourset tưởng tượng ra những chuyện anh ta vừa kể thì sao? Vì quá lo sợ, anh ta có thể thần hồn nát thần tính mà thành ra hoang tưởng cũng nên. Tôi hỏi Naric:
- Xúp nhừ này, cậu có thấy Bébert Celier có cái gì khác thường không?
- Tôi thì không. Khi đi ra, tôi vác cái thùng trên vai để thằng giữ chìa khóa đừng trông thấy trong thùng có gì. Theo chiến thuật đã quy ước, tôi phải đứng ngay trước mặt thằng giữ chìa khóa, không đặt cái thùng ton-nô xuống, cho đến khi anh rể tôi ra đến cửa. Như thế là để thằng A-rập thấy rõ tôi không vội vã muốn ra ngay: hắn sẽ không sinh nghi mà đòi khám cái thùng. Nhưng sau đó anh rể tôi nói là thấy thằng Bébert Celier quan sát chúng tôi một cách chăm chú.
- ý kiến của anh ra sao?
- Vì bộ phận này rất quan trọng, và chỉ nhìn qua cũng biết đó là một bộ phận của một chiếc bè, cho nên anh rể tôi lo sợ quá mà trông gà hóa cuốc.
Tôi cũng nghĩ như vậy. Thôi chuyện này không nói nữa. Còn lại bộ phận cuối cùng, trước khi đưa ra phải chú ý xem Bébert Celier ở đâu. Cứ đề phòng hắn ta như đối với một tên ác.
Suốt đêm ấy tôi mê mải đánh bài Marseillaise. Tôi được bảy ngàn francs. Tôi càng đánh bừa lại càng được. Đến bốn giờ rưỡi sáng, tôi thôi đánh bài, nói là phải đi làm cỏ-vê đổ thùng. Tôi để cho cậu da đen Matinique làm một mình. Mưa đã tạnh. Trong bóng đêm hãy còn tối mịt, tôi đi ra nghĩa trang. Tôi lấy chân san lại đất trên ngôi mộ, vì tôi tìm không ra cái xẻng, nhưng với đôi giày của tôi, công việc cũng tạm ổn. Đến bây giờ, khi tôi xuống biển câu cá, trời đã nắng ráo, rất đẹp. Tôi đi về phía mũi đá phía nam đảo Royale, nơi tôi đã định cho bè xuống nước. Nước biển dâng cao, động mạnh.
Tôi cũng không biết nữa, nhưng tôi có cảm giác là sẽ rất khó làm cho bè tách ra khỏi bờ mà bờ mà không bị sóng hắt trở lại, xô mạnh, vào đá. Tôi câu một mớ cá hồng đá dễ đến hơi năm ki-lô. Rửa sạch mớ cá xong, tôi không câu nữa. Tôi rất lo, nhất là lại đang mệt vì canh bạc trắng đêm. Ngồi trong bóng rợp, tôi ôn lại cái thời gian hơn ba tháng chuẩn bị vừa qua, tự nhủ rằng sự căng thẳng kéo dài đã sắp kết thúc, rồi nghĩ đến trường hợp Celier, tôi kết luận lại một lần nữa là mình không có quyền ám sát hắn.
- Tôi đến gặp Matthieu. Đằng bên bức tường của khu vườn, có thể trông rõ ngôi mộ. Trên lối đi vào mộ có đất rải rác. Đến trưa Carbonieri sẽ sang quét sạch nó đi. Tôi đi qua nhà Juliette, cho bà một nửa số cá vừa câu được Bà ta nói:
- Papillon ơi, đêm qua tôi chiêm bao chuyện dữ quá: tôi mơ thấy anh máu me đầm đìa, rồi lại thấy anh bị xiềng xích. Anh đừng làm gì dại dột nhé. Nhỡ anh có làm sao thì tôi sẽ đau khổ quá sức. Giấc chiêm bao làm cho tôi xúc động đến nỗi đến bây giờ tôi cũng chưa buồn rửa mặt chải đầu gì cả. Tôi lấy ống nhòm tìm xem anh đang câu cá ở đâu, mà chẳng thấy. Chỗ cá này anh câu ở đâu thế?
- ở bên kia đảo. Cho nên bà không nhìn thấy được
- Tại sao anh lại phải câu xa thế, ở một nơi mà tôi không thể dùng ống nhòm nhìn tới được? Nhỡ bị sóng cuốn đi thì sao? Sẽ không có ai trông thấy để mà vớt anh lên trước khi cá mập đớp mất.
- ồ, xin bà đừng quan trọng hóa đi qua như thế.
- Anh cho tôi là tôi quan trọng hóa! Bây giờ tôi cấm anh câu ở phía bên kia đảo đấy. Nếu anh không nghe, tôi sẽ bảo người ta rút giấy phép đi câu của anh.
- Kìa, bà phải biết điều một chút chứ. Để bà vui lòng, từ nay tôi sẽ nói cho anh tù làm ở nhà bà biết tôi câu ở chỗ nào.
- Thôi được. Nhưng sao trông anh mệt mỏi thế?
- Vâng, tôi hơi mệt thật. Tôi sẽ về trại nằm một lát
- Được. Nhưng đến bốn giờ tôi đợi anh đến uống cà phê đấy nhé. Anh đến chứ?
- Vâng xin hẹn đến chiều, chào bà tôi về.
Chỉ còn thiếu có thế nữa thôi để làm cho tôi bình tâm lại sao? Giấc chiêm bao của Juliette! Làm như thể tôi chưa đủ rối trí với những vấn đề gay cấn trong cõi thực, còn phải thêm những vấn đề trong cõi mộng nữa? Bourset nói là anh ta có cảm giác bị theo dõi thực sự. Chúng tôi đợi cái bộ phận cuối cùng của bè - cái mảng dài một mét rưỡi - đã mươi lăm hôm nay. Naric và Quenier nói không thấy có gì bất thường, nhưng Bourset vẫn không chịu làm cái bộ phận kia. Giả sử nó không có năm cái khớp phải đục chính xác từng ly, Matthieu có thể đem ra vườn làm. Đằng này những cái khớp ấy phải lắp cho sít năm đường nẹp của chiếc bè.
Vì Naric và Quenier đang phải sửa chữa ngôi nhà nguyện của trại cho nên có thể dễ dàng đưa ra đưa vào rất nhiều vật tư trong xưởng. Hơn thế nữa, thỉnh thoảng họ lại được dùng một chiếc xe trâu nhỏ. Phải lợi dụng cho được dịp may này. Bourset bị chúng tôi thúc giục quá đành phải làm một cách miễn cưỡng. Một hôm anh ta nói là biết chắc có người đã lấy cái mảng bè ra xem rồi để lại chỗ cũ. Chỉ còn một cái khớp phải đục ở đầu mút. Mọi người quyết định là anh ta phải đục cho xong, rồi giấu cái màng dưới tấm ván ở bàn mộc, ở trên để một sợi tóc để xem thứ có ai động đến không.
Bourset đục cái khớp, rồi đến sáu giờ anh ta ra khỏi xưởng sau cùng, sau khi đã biết chắc là trong xưởng chỉ còn tên gác. Cái mảng bè đã để ở chỗ quy định với sợi tóc đánh dấu. Đến mười hai giờ trưa tôi có mặt ở trại, chờ những người làm ở xưởng tới, cả thảy tám mươi người. Naric và Quenier đều có mặt, nhưng Bourset thì không thấy đâu. Một phạm nhân người Đức đến trao cho tôi một mảnh giấy dán kỹ. Có thể thấy rõ là chưa có ai bóc ra.
Tôi đọc: “Sợi tóc không còn ở đấy nữa: đã có kẻ sờ đến cái mảng. Tôi đã xin tên gác cho tôi ở lại làm việc trong giờ nghỉ trưa để làm cho xong cái tráp bằng gỗ hồng tâm tôi đang làm dở. Hắn đã cho phép. Tôi sẽ lấy cái mảng để vào chỗ để dụng cụ của Naric. Anh nói cho họ biết đi. Đến ba giờ họ phải đưa ngay súc gỗ đi. May ra thằng cha đang theo dõi cái mảng bè chưa kịp trở tay”.
Naric và Quenier đồng ý. Họ sẽ ra đứng ở hàng đầu đám thợ làm ở xưởng. Trước khi mọi người, vào hết, hai người sẽ bày chuyện đánh nhau ở gần trước cửa. Chúng tôi đã nhờ hai người đồng hương với Carbonieri làm giúp việc này. Đó là hai người Corse ở Montmartre: Massani và Santini. Họ không hề hỏi tại sao phải thế: miễn chúng tôi cần là được rồi, sẵn sàng ngay. Naric và Quenier sẽ lợi dụng thời cơ ấy để trở ra nhanh, mang theo một vật liệu gì đấy, làm như thể họ đang vội đi làm và không quan tâm đến vụ đánh nhau. Chúng tôi đều nhất trí rằng hãy còn một khả năng cứu vãn. Nếu chuyến này thành công, tôi phải án binh bất động một hai tháng, vì chắc chắn là đã có một hay nhiều người biết là có ai đang chuẩn bị một chiếc bè. Cứ để cho họ tìm xem ai chuẩn bị, và bè giấu ở đâu.
Đã đến hai giờ rưỡi, các bạn tôi chuẩn bị hành động. Từ lúc điểm danh đến lúc xuất phát đi công trường phải mất ba mươi phút. Họ bắt đầu đi. Bébert Celier đứng ở khoảng giữa đoàn người xếp thành hai mươi hàng tư.
Naric và Quenier đi đầu, Massani và Santini ở hàng thứ mười hai, Bébert Celier ở hàng thứ mười. Tôi nghĩ như thế rất tiện, vì khi Naric lấy các thứ gỗ này nọ trong đó có cả cái mảng bè, những người kia chưa vào hết trong xưởng. Bébert sẽ gần vào đến cửa xưởng. Khi cuộc ẩu đả nổ ra, vì mọi người sẽ la ó om xòm lên, lẽ tự nhiên là mọi người, trong đó có Bébert, sẽ quay lại nhìn. Đến bốn giờ, mọi việc đã diễn ra êm xuôi, cái mảng bè đã được giấu dưới một đống vật liệu để trong nhà thờ. Họ chưa đưa ra khỏi nhà thờ được, nhưng để tạm ở đấy cũng rất ổn.
Tôi ghé chỗ Juliette, nhưng bà ta không có ở nhà. Khi quay về, tôi đi ngang sân trước nhà ban Quản trị. Tôi trông thấy Massani và Santini đang đứng trong bóng râm đợi vào xà lim. Cái này chúng tôi đều biết trước. Tôi đi qua chỗ họ, hỏi:
- Bao nhiêu?
- Tám ngày - Santini đáp.
Một tên cảnh binh người Corse nói:
- Đồng hương mà lại đi đánh nhau, khỉ thật!
Tôi về trại. Sáu giờ, Bourset rạng rỡ lên, nói với tôi:
- Cứ như thể mình đang bị ung thư mà bỗng dưng bác sĩ cho biết là đã chẩn bệnh nhầm, chứ mình chẳng có bệnh gì cả..
Carbonieri và các bạn tôi đều đắc thắng. Họ khen ngợi tôi về cách tổ chức công chuyện. Naric và Quenier cũng đều thỏa thuê. Mọi sự đều ổn cả. Tôi ngủ thẳng giấc cho đến sáng. Tuy hồi tối mấy tay cờ bạc đã đến mời tôi đánh. Tôi nói dối là nhức đầu. Thật ra tôi buồn ngủ đến chết đi được, nhưng tôi hài lòng và mừng rỡ vì sắp thành công đến nơi rồi. Cái khó khăn nhất thế là đã vượt qua được.
Sáng nay Matthieu đã giấu tạm cái bộ phận cuối cùng trong hốc tường. Lúc bấy giờ ông già gác nghĩa địa đang quét những lối đi phía ngôi mộ giấu bè. Lúc này mà mon men đến đó thì dễ lộ lắm. Sáng sớm nào cũng vậy, từ lúc tờ mờ tôi đã đến nghĩa địa dùng xẻng gỗ đắp lại đất trên ngôi mộ, cố làm thật nhanh. Tôi dùng chổi quét sạch lối đi, rồi nhanh chóng quay về đổ thùng, giấu chổi và xẻng trong góc nhà xí.
Kể từ lúc bắt đầu chuẩn bị cho đến nay đã đúng bốn tháng, và chúng tôi nhận được bộ phận cuối cùng của chiếc bè đã được chín hôm. Trời không còn mưa hàng ngày nữa, và nhiều hôm trời lạnh suốt cả đêm. Tất cả các giác quan của tôi đều luôn luôn trong tình trạng báo động, để chuẩn bị cho hai cái giờ G sắp tới: trước tiên là lấy cái bộ phận trứ danh kia trong vườn Matthieu rồi lắp chiếc bè cho thật khớp. Việc này chỉ có thể làm ban ngày. Sau đó là lên đường. Việc này không thể tiếp luôn sau việc kia, vì khi lấy bè ra rồi còn phải nhét dừa và lương thực vào.
Hôm qua tôi đã kể hết cho Castelli nghe và cho bác ta biết tình hình hiện tại. Bác ta mừng cho tôi là đã gần đạt đến đích. Bác nói:
- Bây giờ là tiết trăng non.
- Tôi biết. Vậy thì lúc nửa đêm không sợ có trăng nước ròng là vào mười giờ, vậy giờ tốt nhất để hạ thủy vào hai giờ sáng.
Carbonieri và tôi đã quyết định làm gấp. Sáng mai chín giờ, lắp xong bộ phận cuối cùng của bè. Đến đêm là vượt ngục.
Sáng hôm sau, chúng tôi hành động rất ăn ý với nhau. Tôi đi qua khu vườn, đến nghĩa địa, chống xẻng nhảy ra tường. Trong khi tôi dùng xẻng gạt đất trên mộ địa, Matthieu lấy phiến đá ra và đem cái bộ phận bè mới giấu vào đấy sang cho tôi. Chúng tôi cùng giở lớp lá dừa đan để sang một bên. Chiếc bè hiện ra, dính đất nham nhở, nhưng tình trạng hoàn hảo. Chúng tôi đưa bè ra khỏi mộ, vì để lắp thêm bộ phận cuối cùng, bên cạnh phải có chỗ rộng. Chúng tôi lắp năm đường nẹp vào thanh gỗ có năm khớp. Muốn chặt chúng tôi phải lấy đá gõ. Chúng tôi đã lắp xong đâu vào đấy, đăng đặt bè vào chỗ cũ, thì một tên cảnh sát hiện ra, tay lăm lăm khẩu súng trường.
- Đứng im, không chết ngay!
Chúng tôi buông cái bè xuống, giơ hai tay lên trời. Tôi nhận ra mặt tên cảnh sát. Đó là viên giám thị trưởng của xưởng thợ.
- Các anh đừng kháng cự mà dại. Các anh bị bắt quả tang. Các anh hãy chấp nhận như thế và ít ra cũng phải lo cứu lấy tính mạng: mạng các anh bây giờ treo trên sợi tóc, vì tôi chỉ muốn cho các anh một băng. Thôi, đi tay vẫn để nguyên thiế! Đi ra nhà ban chỉ huy.
Khi đi qua cổng nghĩa địa, chúng tôi gặp một thằng A-rập giữ chìa khóa. Tên cảnh sát nói với hắn:
- Mohamed, cám ơn cậu đã giúp tôi. Sáng mai ghé tôi tôi sẽ đưa cái ấy cho... món quà tôi đã hứa thưởng cậu ấy mà.
Cám ơn sếp, - thằng A-rập nói. - Tôi sẽ đến, nhưng sếp ạ. Bébert Celier cũng phải trả công cho tôi chứ, phải không ạ?
- Chuyện này hai cậu dàn xếp với nhau, - tên cảnh sát nói.
Tôi hỏi hắn:
- Chính Bébert Celier đã chơi chúng tôi, phải không sếp?
- Không phải tôi nói chuyện này với các anh đâu đấy nhé.
- Cũng thế thôi, chuyện này biết được cũng hay.
Vẫn chĩa súng vào chúng tôi, tên cảnh sát nói:
- Mohamed, lục soát chúng tôi đi.
Thằng A-rập rút con dao tôi giắt ở thắt lưng, cả con dao của Matthieu nữa. Tôi nói với hắn:
- Mohamed này, anh tài thật đấy. Anh làm thế nào mà biết được thế?
- Ngày nào tôi cũng leo lên ngọn cây dừa đằng kia để xem các anh giấu chiếc bè ở đâu.
- Ai bày cho anh làm như thế?
- Đầu tiên là Bébert Celier, sau là ông giám thị Bruet.
- Đi thôi, nói nhiều quá rồi đấy, - tên cảnh sát nói. Bây giờ các anh có thể bỏ tay xuống, và đi nhanh lên.
Đoạn đường bốn trăm mét mà chúng ta để đến trụ sở ban chỉ huy tôi có cảm giác là đoạn đường dài nhất trong đời tôi. Tôi đã sụm hẳn. Bấy nhiêu hơi sức dốc ra rồi cuối cùng chuốc lấy một thất bại thảm hại như thế Trời ơi, sao Người nỡ tàn nhẫn đối với tôi như vậy?
Thật là một cảnh điếm nhục khi chúng tôi đến Ban chỉ huy Trại. Vì trên đường đi chúng tôi lần lượt gặp những tên cảnh binh: họ liền nối gót theo tên đang chĩa súng vào chúng tôi, thành thử khi đến nơi đã thành một tốp bảy tám tên đi sau lưng chúng tôi.
Viên chỉ huy, được tên giữ khóa người A-rập chạy về báo trước, đang đứng trước cửa ban chỉ huy cùng với Dega và năm viên giám thị trưởng.
- Có chuyện gì thế, ông Bruet? - viên chỉ huy hỏi.
- Có chuyện là tôi đã bắt quả tang hai người này đang cất giấu một chiếc bè hình như đã đóng xong.
- Papillon, anh có cần nói gì không?
- Không. Tôi sẽ khai trước hội đồng thẩm vấn.
Đưa hai người vào xà-lim.
Tôi bị nhốt vào một căn xà-lim có một khung cửa sổ bịt kín đối diện với cửa ra vào Ban chỉ huy. Căn xà-lim tối om, nhưng tôi nghe được tiếng nói của những người qua lại trước trụ sở Ban chỉ huy.
Các sự việc diễn ra rất nhanh. Đến ba giờ họ cho chúng tôi ra và khóa tay chúng tôi lại.
Trong phòng có lập một thứ tòa án: chỉ huy trại, phó chỉ huy, giám thị trưởng. Một viên cảnh binh làm chân lục sự. Ngồi riêng sau một cái bàn đặt cách xa nhóm kia, Dega cầm cây bút chì, chắc hắn là để ghi lại những lời vấn đáp sắp tới.
- Charrière và Carbonieri, các người hãy lắng nghe bản báo cáo của ông Bruet về các người: “Tôi, Bruet Auguste, giám thị trưởng, quản đốc công xưởng Quần đảo Salut, xin khởi tố hai phạm nhân khổ sai là Charrière và Carbonieri về tội lấy trộm, lạm dụng vật liệu thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Tôi tố cáo phạm nhân thợ mộc Bourset về tội đồng lõa. Tôi thấy có cơ sở để khẳng định rằng hai phạm nhân Naric và Quenier cũng phạm tội đồng lõa. Tôi xin nói thêm rằng tôi đã bắt được quả tang Charnère và Carbonicri đang xâm phạm ngôi mộ của bà Privat mà họ dùng làm nơi cất giấu chiếc bè của họ”.
- Các anh nói sao đây? - Viên chỉ huy trại hỏi.
- Trước hết, Carbonieri chẳng có dính dáng gì vào đây cả. Chiếc bè được thiết kế để chở có một người, tức là tôi. Chẳng qua tôi đã bắt Carbonieri phải giúp tôi giở lớp lá dừa đan trên mộ, vì việc này tôi không thể làm lấy một mình. Vậy thì Carbonieri không hề phạm tội lạm dụng và lấy cắp vật tư của Nhà nước, mà cũng không hề phạm tội đồng lõa vượt ngục, vì cuộc vượt ngục chưa hề được thực hiện. Bourset là một nạn nhân bị buộc phải hành động vì bị dọa giết. Còn Naric và Quenier thì tôi hầu như không hề quen. Tôi xin quả quyết là họ không hề dính líu đến việc này.
- Người chỉ điểm của tôi nói khác kia, - viêm giám thị nói.
- Tên Bébert Celier, người đã chỉ điểm cho ông, rất có thể lợi dụng việc này đế trả thù một vài người nào đấy bằng cách nói điêu cho họ. Làm sao có thể tin lời một tên chỉ điểm?
Viên chỉ huy nói:
- Tóm lại, anh bị tố cáo chính thức là đã lấy trộm và lạm dụng vật tư của Nhà nước, xâm phạm mộ phần và mưu toan vượt ngục. Anh ký vào văn bản đi.
- Tôi chỉ ký khi nào trong văn bản đã thêm lời tôi khai về Carbonieri, Bourset và hai anh em rể Naric và Quenier.
- Đồng ý. Các ông viết thêm vào đi.
Tôi ký. Tôi không thể diễn đạt rõ ràng tất cả những gì đã diễn ra trong tâm trí tôi kể từ khi công việc bị bại lộ vào phút cuối ấy. Tôi như đã phát điên trong xà lim này, tôi ăn chẳng được, tôi không đi lại, nhưng tôi hút thuốc liên hồi, hết điếu này sang điếu khác.
Cũng may là Dega tiếp tế thuốc lá cho tôi đầy đủ. Hôm nào chúng tôi cũng được một giờ đi dạo vào buổi sáng, trong khoảng sân của các xà lim trừng giới, dưới ánh năng.
Sáng nay ông chỉ huy trại có đến nói chuyện vôi tôi. Kể cũng lạ: nếu cuộc vượt ngục thành công, ông chính là người bị thiệt hại nặng nề nhất, thế mà chính ông lại là người tức giận tôi ít nhất. Ông ta mỉm cười kể cho tôi nghe rằng vợ ông có nói là một người bị giam mà còn giữ được tư cách dĩ nhiên là phải tìm cách vượt ngục. Rất khéo léo, ông ta lái câu chuyện như thế nào để tôi xác nhận phần đóng góp của Carbonieri. Tôi có cảm giác là tôi đã thuyết phục được ông, cho ông thấy rõ rằng Carbonieri ở vài cái thế không thể nào từ chối khi tôi nhờ giúp tôi một tay trong việc tháo giở lớp lá dừa bên trên ngôi mộ.
Bourset đã xuất trình bức thư đe dọa và tấm đồ án do tôi làm. Về phần tôi thì ông chỉ huy hoàn toàn tin là mọi việc diễn ra đúng như tôi đã khai. Tôi hỏi ông ta xem theo ý ông thì cái tội lấy trộm vật tư kia liệu có thể xử đến mấy năm. Ông nói: “Mười tám tháng là cùng”.
Nói tóm lại, tôi dần dần leo trở lên cái dốc bờ vực mà tôi đã lăn xuống. Tôi có nhận được mấy chữ của Chatal, người y tá. Anh ta cho tôi biết rằng Bébert Celier hiện nay nằm một phòng cách biệt ở bệnh viện, đang được cứu xét miễn giam vì một kết quả chẩn bệnh ít có: áp xe gan. Chắc đây là một cách dàn xếp giữa ban Quản trị và ông bác sĩ để che chở cho hắn tránh khỏi những hành động trả thù.
Căn xà-lim của tôi không bao giờ bị khám, họ cũng không lần nào khám người tôi. Tôi lợi dụng tình hình đó để nhờ các bạn tuồn vào cho tôi một con dao. Tôi nói với Naric và Quenier là họ phải yêu cầu một cuộc đối chất giữa viên giám thị công xưởng, Bébert Celier, anh thợ mộc và tôi, đệ lên viên chỉ huy trại một lời thỉnh cầu là sau cuộc đối chất này ông sẽ quyết định cách xử lý mà ông thấy là thích đáng đối với họ: hoặc giam cầm, hoặc trừng giới, hoặc cho đi lại tự do trong trại.
Trong buổi đi dạo hôm nay, Naric nói với tôi rằng chỉ huy trại đã đồng ý. Cuộc đối chất sẽ diễn ra lúc mười giờ sáng mai. Dự buổi này sẽ có một giám thị trưởng làm chức năng dự thẩm. suốt đêm hôm ấy tôi tìm cách tự can gián, vì tôi có ý định giết Bébert Celier. Nhưng tôi không sao tự can ngăn được. Không, con người ấy mà được miễn giam vì đã có công phát hiện vụ vượt ngục, rồi sau đó, xuất phát từ Đất Liền, hắn lại có thể lên đường vượt ngục nữa, như thể để thưởng công vì đã ngăn chặn tôi vượt ngục, thì thật quá ư bất công. Phải, nhưng mày có thể bị xử tử, vì người ta có thể coi là mày có chủ định từ trước. Tôi đếch cần. Đó là kết luận của tôi, vì tôi quá tuyệt vọng. Bốn tháng trời hy vọng, vui mừng, lo sợ, suy nghĩ, phát minh, để rồi đến khi đã sắp thành đạt thì bỗng dưng thất bại thảm hại như vậy chỉ vì miệng lưỡi một thằng chỉ điểm. Ra sao thì ra, mai tôi sẽ tìm cách giết Celier cho bằng được.
Cách duy nhất để khỏi bị xử tử là làm thế nào để hắn rút dao ra trước. Muốn thế, tôi phải làm thế nào cho hắn thấy rõ là con dao của tôi cũng đã mở. Chắc chắn là thấy thế hắn phải rút dao ra ngay. Việc này phải làm trước cuộc đối chất một chút, hay ngay sau đó. Tôi không thể giết hắn trong khi đang đối chất, vì như thế có nguy cơ là một tên cảnh sát có thể rút súng bắn tôi ngay. Tôi trông mong vào cái thói cẩu thả kinh niên của bọn cảnh sát.
Suốt đêm tôi vật lộn với ý nghĩ trên đây. Tôi không sao trấn áp được nó. Quả thật, trong đời có những điều không thể nào tha thứ được. Tôi biết rằng con người ta không có quyền tự mình đứng ra xét xử người đời, nhưng đó là nói về những người thuộc một đẳng cấp xã hội khác kia. Làm sao có thể chấp nhận rằng có thể không nghĩ đến việc trừng phạt thật đích đáng một con người đáng ghê tởm như thế. Tôi không hề làm điều gì có hại cho tên tù trại lính ấy, thậm chí hắn cũng không hề quen biết gì tôi. Như vậy là hắn đã tự dưng xử phạt tôi x năm cấm cố một cách hoàn toàn vô cớ. Hắn đã tìm cách chôn sống tôi để mưu cầu được miễn giam. Không, nhất định không? Tôi không thể nào lại để cho hắn được hưởng thành quả của cái hành động đáng buồn nôn của hắn. Không thể được! Tôi cảm thấy mình chỉ có chết. Thôi, chết thì chết, nhưng hắn cũng phải chết, mà phải chết khổ chết sở hơn cả tôi nữa. Nhưng nếu mày bị xử tử, thì thử hỏi chết vì một con người để tiện như thế có phải là ngu dại không? Cuối cùng tôi chỉ hứa được với bản thân có một điều: nếu hắn không rút dao ra, tôi sẽ không giết hắn.
Suốt đêm ấy tôi không ngủ. Tôi hút hết cả một bao thuốc lá sợi xám. Đến sáu giờ sáng, lúc họ đưa cà phê vào tôi chỉ còn hai điếu. Thần kinh tôi căng thắng đến nỗi ngay trước mặt tên gác, tôi nói với người đưa cà- phê (điều này xưa nay cấm):
- Cậu có thể cho tôi mấy điếu thuốc hay một ít thuốc lá sợi không... nếu sếp đây cho phép? Thưa sếp, tôi kiệt quệ lắm rồi.
- ừ!, anh cứ cho Papillon đi, nếu anh có sẵn. Tôi thì không hút thuốc. Tôi thành thực phiền lòng cho anh, Papillon ạ. Là người Corse, tôi thương con người và ghét những việc làm khốn nạn.
Mười giờ kém mười lăm, tôi đang đứng ngoài sân đợi lúc vào phòng. Naric, Quenier, Bourset, Carbonieri đều có mặt ở đây. Viên cảnh sát gác chúng tôi là Antartaglia, người vừa gặp tôi khi đưa cà phê vào. Hắn nói chuyện với Carbonieri bằng tiếng Corse. Tôi nghe cũng hiểu được ý hắn nói là việc vừa rồi thật đáng tiếc, và Carbonieri có thể bị ba năm cấm cố. Lúc ấy cánh cửa mở ra và tên A-rập leo dừa, tên A-rập gác cửa xưởng và Bébert Celier bước vào sân. Nhìn thấy tôi, hắn hơi chùn bước lại, nhưng tên gác đi kèm hắn nói:
- Đi tới, đứng sang một bên kia, bên phải ấy.
- Antartaglia, đừng để cho chúng nó trao đổi gì với nhau.
Thế là hắn và tôi đứng cách nhau không đầy hai mét. Antartaglia nói:
- Giữa hai nhóm cấm nói với nhau.
Carbonieri lúc bấy giờ vẫn nói chuyện bằng tiếng Corse với viên cảnh sát đồng hương đang giám thị cả hai nhóm. Viên cảnh sát cúi xuống buộc lại dây giày, tôi ra hiệu cho Matthieu đứng nhích ra phía trước một chút. Cậu ta hiểu ngay. Cậu đưa mắt nhìn Bébert Celier và nhổ bọt về phía hắn. Khi viên cảnh sát đứng thẳng lên, Carborneri cứ nói chuyện với hắn không ngớt miệng, thu hút được sự chú ý của hắn đến mức tôi bước lên một bước mà hắn không hề nhận thấy. Tôi buông cho con dao từ ống áo tụt xuống và cầm vào tay. Chỉ có Celier có thể trông thấy. Nhanh như cắt, hắn rút con dao đã mở sẵn trong túi quần đâm một nhát trúng vào bắp tay phải của tôi. Tôi thì lại thuận tay trái. Tôi đâm thẳng vào ngực hắn một nhát ngập đến tận chuôi. Một tiếng “A-a~ch!” nghe như tiếng đã thú, rồi hắn rơi phịch xuống đất. Antartaglia rút súng lục cầm tay nói với tôi:
- Cậu lùi ra, lùi ra ngay. Chớ đâm thêm, không tôi buộc lòng phải bắn.
Carbonieri lại gần Celier, lấy chân chạm thử vào đầu hắn, rồi nói hai tiếng Corse. Tôi nghe cũng hiểu: hắn chết rồi. Viên cảnh sát nói:
- Cậu đưa đao đây..
Tôi đưa con dao, hắn đút súng vào bao, đi ra cánh cửa sắt gõ mấy tiếng. Một tên gác mở cửa ra. Viên cảnh sát nói:
- Cho cáng vào khiêng một xác chết.
- Ai vừa chết thế? - tên gác hỏi.
- Bébert Celier.
- Thế à? Thế mà tôi cứ tưởng là Papillon.
Họ lại nhốt chúng tôi vào xà-lim. Cuộc đối chất thế là phải bãi. Trước khi vào hành lang Carbonieri nói với tôi:
- Papi, tội nghiệp cậu quá, lần này thì cậu lãnh đủ.
- ừ, nhưng tớ vẫn còn sống, còn nó thì ngoẻo rồi. Viên cảnh sát trở lại một mình, mở cửa rất khẽ khàng rồi nói với tôi, giọng vẫn còn xúc động:
- Đấm vào cửa mấy cái đi, kêu là bị thương. Chính hắn đã tấn công trước, tôi trông thấy rõ ràng. - Đoạn hắn khép cửa lại.
Mấy cái gã cảnh sát Corse ấy ghê thật: hoặc xấu tất, hoặc tốt cả. Tôi đập cửa, kêu: “Tôi bị thương rồi, phải đưa tôi vào bệnh viện băng bó chứ”
Viên cảnh sát trở lại với viên giám thị trưởng của khu trừng giới.
- Anh làm sao? Có việc gì mà làm ồn lên thế?
- Thưa sếp, tôi bị thương mà.
- à! Anh bị thương phỏng? Tôi tưởng hắn đâm có trúng đâu?
- Bắp thịt tay phải của tôi bị đứt rồi.
- Mở ra, viên cảnh sát kia nói.
Cửa mở, tôi bước ra. Quả bắp thịt bị cắt đứt, hở hoác ra.
- Khóa tay hắn lại, đưa sang bệnh viện. Không được để hắn nằm lại bệnh viện, bất cứ với lý do gì.
Băng bó xong, phải đưa về đây ngay.
Khi chúng tôi ra ngoài, có đến mười tên cảnh sát với cả ông chỉ huy trại nữa. Viên giám thị công xưởng nói với tôi:
- Quân giết người!
Tôi chưa kịp đáp thì ông chỉ huy đã nói với hắn:
- Giám thị Bruet, ông im đi, Papillon đã bị hắn tấn công trước.
- Khó tin lắm, - Bruet nói.
- Tôi có trông thấy, và tôi sẽ làm chứng, - Antartaglia nói. Và thưa ông Bruet, xin ông biết cho rằng một người Corse không nói dối bao giờ.
ở bệnh viện, Chatal gọi bác sĩ đến. Ông ta khâu vết thương cho tôi mà không cho thuốc mê hay gây tê gì cả, rồi đính cho tôi tám cái kẹp, không nói với tôi một lời. Tôi thì cắn răng chịu đau, không một tiếng kêu than. Cuối cùng, bác sĩ nói:
- Hết thuốc tê rồi, cho nên tôi không thể tiêm cho anh đỡ đau được. - Đoạn ông ta nói thêm - Việc anh vừa làm chẳng tốt chút nào.
- ồ, bác sĩ cũng biết đấy: đàng nào thì với cái áp- xe gan ấy hắn cũng chẳng sống được bao lăm nữa.
Câu trả lời bất ngờ của tôi làm cho ông bác sĩ đớ người ra.
Cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục. Phần trách nhiệm của Bourset bị gạt ra hoàn toàn. Mọi người đều thừa nhận cậu ấy bị đe dọa đến tính mạng, sợ quá phải làm theo. Tôi cũng góp phần làm cho họ tin như vậy. Đối với Naric và Quenier cũng không có bằng chứng gì là họ can phạm hay đồng lõa. Chỉ còn lại tôi và Carbonieri. Đối với Carbonieri, họ gạt bỏ lời buộc tội lấy trộm và lạm dụng vật tư của Nhà nước. Chỉ còn tội đồng lõa trong việc mưu toan vượt ngục. Quá lắm cũng chỉ sáu tháng là cùng. Đối vôi tôi thì tình thế đâm ra phức tạp Thật vậy, bất chấp những nhân chứng bênh vực tôi, viên giám thị lãnh nhiệm vụ thẩm vấn vẫn không chịu thừa nhận đây là trường hợp tự vệ chính đáng. Dega đã được xem cả tập hồ sơ, bác ta quyết định rằng mặc dầu viên dự thẩm rất quyết tâm trị tội, họ cũng không thể nào xử tử tôi được, vì tôi đã bị thương trước khi hành động. Bên buộc tội có một căn cứ để vin vào mà đòi xử tôi thật nặng: hai tên A-rập giữ chìa khóa đều khai rằng tôi đã rút dao ra trước.
Cuộc thẩm vấn đã xong. Tôi đợi ngày đi Saint-Laurent dự phiên xử của tòa án binh. Suốt ngày tôi chỉ hút thuốc, hầu như không đi lại trong xà-lim. Người ta cho tôi một giờ đi dạo vào buổi chiều. Không một lần nào viên chỉ huy trại hay bọn giám thị, trừ viên giám thị công xưởng đã là dự thẩm trong cuộc thẩm vấn vừa qua, có thái độ thù địch đối với tôi.
Đến thứ sáu là tôi phải giải đi Saint-Laurent. Sáng thứ tư, lúc mười giờ, tôi đi dạo trong sân đã gần hai tiếng đồng hồ thì viên chỉ huy trại. gọi tôi lại, nói: “Anh đi theo tôi”. Tôi theo ông ta ra khỏi sân trại, không có ai đi kèm theo. Tôi hỏi ông chỉ huy xem ông đưa tôi đi đâu nhưng ông chi lẳng lặng bước tiếp trên con đường xuống dốc dẫn về nhà ông. Dọc đường ông ta nói:
- Nhà tôi muốn gặp anh một lát trước khi anh đi.
Tôi không cho ai áp giải anh, vì nhà tôi sẽ bị một ấn tượng không hay nếu trông thấy anh bị một viên cảnh sát có súng đi kèm theo. Tôi hy vọng anh sẽ có thái độ đúng mực.
- Thưa thiếu tá vâng.
Chúng tôi đã đến nhà ông chỉ huy. Ông nói với Juliette: “Anh đưa người được em che chở về cho em đây như anh đã hứa. Em cũng biết là anh phải đưa anh ta về trại trước mười hai giờ trưa. Em có được gần một tiếng đồng hồ để nói chuyện anh ta”. Đoạn ông ta lui vào nhà trong một cách tế nhị.
Juliette đến gần tôi và đặt bàn tay lên vai tôi, mắt nhìn thẳng vào mắt tôi. Đôi mắt đen láy của bà càng sáng hơn mọi khi, vì giờ đây nước mắt bà là ra long lanh sau đôi hàng mi đen và dài. Cũng may là bà đủ tự chủ để cầm nước mắt lại.
- Anh thật là điên rồ, anh bạn của tôi ạ. Giá anh nói cho tôi biết là anh muốn ra đi, tôi tin là tôi sẽ có cách làm cho mọi việc được dễ dàng hơn. Tôi đã xin nhà tôi cố cứu giúp anh hết lòng, nhưng nhà tôi nói là tiếc thay ông ấy không có đủ quyền. Tôi gọi anh đến trước hết là thấy rõ tình trạng anh ra sao. Tôi khâm phục lòng can đảm của anh, tôi thấy anh còn đáng trọng hơn là trước đây tôi vẫn nghĩ. Với lại trước đây tôi cũng muốn được đền bù lại những gì anh đã cho tôi một cách hào phóng trong bấy nhiêu tháng trời. Đây, anh cầm lấy một ngàn francs, tôi chỉ cho anh được có thế. Tôi lấy làm tiếc là không thể làm gì hơn.
- Bà ơi, xin bà nghe tôi, tôi không cần tiền đâu. Tôi van bà, bà nên hiểu là tôi không thể nhận được, vì theo tôi, làm như thế và làm vẩn đục tình bạn của chúng ta
Đoạn tôi đẩy hai tờ giấy năm trăm mà bà chỉ huy đã rộng lòng biếu tôi.
- Tôi van bà đừng nài tôi.
- Thôi, tùy anh vậy, - Juliette nói. - Uống một chút rượu hồi nhẹ nhé?
Và trong hơn một tiếng đồng hồ, người đàn bà đáng ngưỡng mộ ấy không ngớt nói với tôi những lời lẽ dịu dàng, nhân ái. Bà ta tin rằng tôi sẽ được trắng án về cái tội đã giết tên Bébert đểu cáng ấy và chỉ phải ngồi tù cấm cố mười tám tháng cho đến hai năm vì mấy tội kia.
Khi từ giã, Juliette xiết chặt tay tôi hồi lâu trong đôi tay bà, và nói: “Tạm biệt anh, chúc anh may mắn nhiều” đoạn khóc òa lên.
Ông chỉ huy đưa tôi về khu trừng giới. Dọc đường tôi nói:.
- Thưa thiếu tá, thiếu tá có được người vợ cao quý nhất trên đời này.
- Tôi biết, Papillon ạ, cô ấy sinh ra không phải để sống ở đây, những gì diễn ra ở đây quá tàn nhẫn đối với cô ấy. Nhưng biết làm thế nào được? Thôi, cũng chỉ bốn năm nữa tôi đã về hưu rồi.
- Nhân lúc này chỉ có ông và tôi, tôi cũng xin cảm ơn ông đã cố làm sao cho người ta đối xử với tôi tử tế, mặc dầu nếu tôi thành công, việc ấy sẽ gây cho ông những chuyện hết sức phiền hà.
- Phải, anh có thể làm cho tôi đau đầu hết sức. Tuy vậy, anh có muốn tôi nói với anh điều này không? Anh xứng đáng được hưởng thành công trong chuyến vượt ngục.
Đến cổng khu trừng giới, ông nói thêm:
- Từ biệt anh, Papillon. Cầu Chúa phù hộ anh, anh sẽ cần đấy.
- Từ biệt thiếu tá.
Đúng, tôi sẽ cầu Chúa phù hộ vì tòa án binh do một thiếu tá hiến binh bốn lon chủ tọa đã tỏ ra cực kỳ khắc nghiệt. Ba năm về tội lấy trộm và lạm dụng vật tư của Nhà nước, xâm phạm mộ phần và mưu toan vượt ngục, năm năm về tội giết tên Celier. Tổng cộng là tám năm cấm cố. Giả sử tôi không bị thương, chắc chắn là cái tòa án ấy đã xử tử tôi rồi.
Cái tòa án đã xử tôi nghiệt ngã như vậy lại tỏ ra khoan dung đối với một phạm nhân Ba Lan tên là Dandowsky vừa phạm tội giết hai người. Hắn chỉ bị năm năm, tuy vụ án mạng hiển nhiên là đã được tính toán từ trước.
Dandowsky là một người thợ bánh mì, chỉ chuyên làm men bột nở. Hắn chỉ làm việc từ ba đến bốn giờ sáng. Vì lò bánh mì ở ngay bến, đối diện với biển, cho nên bao nhiêu thì giờ rỗi hắn đều dành cho việc đi câu. Tính tình điềm đạm, nói tiếng Pháp không được sõi, hắn chẳng giao du với ai. Người tù khổ sai chung thân này dồn hết tình thương yêu trìu mến cho một con mèo đen có đôi mắt xanh biết như màu ngọc bích. Con mèo đối với hắn như một người ruột rà thân thiết, cùng ăn cùng ngủ với nhau, mỗi khi hắn đi làm con mèo đi theo hắn như một con chó, để cho hắn có bạn. Nói tóm lại, giữa người và vật có cả một mối tình đằm thắm.
Còn như nếu trời nắng quá mà không có nơi nào có bóng râm gần chỗ câu cá, nó trở về lò bánh mì một mình leo lên võng của bạn nằm chờ. Đến mười hai giờ trưa, khi nghe chuông điểm, nó liền ra đón anh bạn Ba Lan và nháy nhót bên con cá con mà anh ta treo ở đầu sợi chỉ, dứ dứ cho con mèo vờn cho đến khi nó chụp được
Tốp thợ bánh mì ở chung một giàn phòng lớn kê bên lò bánh mì. Một hôm, hai người tù khổ sai tên là Corrazi và Angelo mời Dandowsky ăn món xi-vê thỏ do Corrazi nấu: mỗi tuần anh này đều nấu xi-vê thỏ chén một lần. Dandowsky ngồi xuống ăn với họ, nhân thể góp một chai rượu vang để nhắm với thịt thỏ. Tối hôm ấy con mèo không về. Anh Ba Lan tìm khắp nơi mà chẳng thấy. Một tuần đã trôi qua, mà con mèo vẫn chẳng thấy đâu. Dandowsky buồn lắm: sinh vật duy nhất mà anh yêu thương và cũng yêu thương anh một cách đằm thắm như vậy bỗng dưng đã biến đi một cách thật khó hiểu. Được biết nỗi đau buồn vô hạn của Dandowsky, vợ một viên giám thị đem biếu anh ta một con mèo con. Dandowsky liền đuổi nó đi, và phẫn uất hỏi bà ta: làm sao bà ta lại đang tâm nghĩ rằng anh có thể yêu thương một con mèo khác được. Anh ta nói rằng đó là một sự xúc phạm nặng nề đối với hương hồn của người bạn đã khuất của anh.
Một hôm tên Corrazi đánh một cậu bé học nghề làm bánh mì, đồng thời chuyên đưa bánh mì vào trại. Cậu ta không ở chung với tốp thợ bánh mì, mà thuộc phiên chế của trại. Vốn tính thù dai, cậu bé tìm gặp Dandowsky nói:
- Anh ạ, cái con thỏ mà Corrazi và Angelo mời anh ăn ấy, chính là con mèo của anh đấy.
- Chứng cớ đâu? - anh Ba Lan túm cổ cậu bé quát.
- Dưới gốc cây xoài ở chênh chếch phía sau cái lán để xuồng, tôi đã nhìn thấy Corrazi chôn da con mèo của anh đấy.
Như một người điên, anh Ba Lan ra đấy xem, và quả nhiên tìm thấy bộ da. Anh ta nhặt bộ da và cái dầu đều đã bắt đầu thối rữa, đem ra biển rửa sạch, phơi ra nắng cho khô rồi lấy vải sạch bọc lại và đem chôn ở một nơi khô ráo, chôn rõ sâu để cho kiến khỏi ăn.
Chính anh ta kể lại với tôi như vậy.
Đêm hôm ấy, dưới ánh đèn dầu hỏa, trên một cái ghế dài rất nặng ở phòng ăn của thợ bánh mì, Corrazi và Engelo ngồi cạnh nhau đánh một ván belote tay bốn. Dandowsky là một người đàn ông trạc bốn mươi, vóc người tầm thước, vạm vỡ, rộng vai, rất khỏe. Anh ta đã chuẩn bị một cái gây lớn bằng gỗ lim nặng như sắt. Từ phía sau bước vào, anh ta chẳng nói chẳng rằng giáng lên đầu mỗi đứa một đòn khủng khiếp. Hai cái sọ vỡ tung ra như hai quả lựu, óc chảy cả xuống đất.
Như điên như dại, Dandowsky chưa hả, còn hốt óc hai kẻ thù phết lên tường nữa. Cả căn phòng nhầy nhụa những máu và óc người.
Trong khi tôi không được ngài thiếu tá hiến binh, chánh án tòa án binh, thông cảm, thì Dandowsky tuy đã giết hai mạng một lúc có chủ định hắn hoi, lại may mắn được ngài thông cảm, đến mức chỉ bị xử có năm năm cấm cố.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Cầm cố lần thứ hai
Tôi cùng trở về Quần đảo với anh chàng Ba Lan, tay tôi và tay anh ta cùng khóa cung một cái khoá. Chúng tôi đã không phải nằm lì trong các xà-lim ở Saint-Laurent! Đến đấy vào thứ hai, ra tòa hôm thứ năm, thì thứ sáu đã lên tàu trở về Quần đảo.
Chúng tôi có cả thảy mười sáu người được đưa ra Quần đảo, trong đó có mười hai người bị cấm cố. Biển động mạnh, chốc chốc lại có một đợt sóng lớn tràn qua boong tàu. Trong cơn tuyệt vọng, tôi đi đến nước mong sao cho chiếc tàu cà khổ này đắm quách. Tôi không nói chuyện với ai. Ngọn gió ẩm ướt quất vào mặt tôi làm cho tôi hướng vào nội tâm. Tôi không tìm cách che gió, ngược lại, tôi còn cố ý để cho mũ bay mất: trong suốt tám năm ròng cấm cố, tôi còn cần gì đến mũ? Mặt quay thẳng ra phía gió, tôi hít làn không khí ướt át đang quất vào tôi cho đến ngạt thở thì thôi. Sau khi mong tàu đắm, tôi cố định thần lại: “Bébert Celier đã làm mồi cho cá mập; còn mày, mày mới ba mươi tuổi, và phải ngồi tù cấm cố tám năm”. Nhưng liệu có qua nổi tám năm trong những bức tường của cái chuồng giam ăn người ấy không?
Cứ theo kinh nghiệm của tôi đã qua, tôi nghĩ rằng không thể nào qua nổi. Bốn hay năm năm hẳn là cái giới hạn tột cùng của sức để kháng tối đa có thể có được Giá tội không giết Celier, tôi chỉ ngồi có ba năm, thậm chí chỉ hai năm thôi, vì vụ giết người đã làm cho các khoản kia nặng thêm, kể cả khoản vượt ngục. Lẽ ra tôi đừng giết cái thằng khốn nạn ấy mới đúng. Bổn phận làm người của tôi đối với bản thân tôi không phải là xét xử kẻ khác để lập lại công bằng cho tôi, mà trước hết và trên hết là phải sống, sống mà để vượt ngục. Làm sao tôi lại có thể phạm một sai lầm như vậy? Đó là chưa kể chỉ có một chút xin nữa là hắn giết tôi, cái đồ rác rưởi ấy. Sống, sống cho bằng được, lẽ ra đó phải là tôn giáo duy nhất của tôi. Trong số những viên giám thị đi áp giải đoàn tù có một người tôi đã từng gặp ở nhà lao cấm cố. Tôi không biết hắn tên là gì, nhưng tôi không sao cưỡng lại được ý muốn hỏi hắn một câu.
- Thưa sếp, tôi muốn hỏi sếp một điều này.
Viên giám thị ngạc nhiên, lại gần tôi nói:
- Điều gì?
- Sếp đã từng biết có ai qua được tám năm cấm cố chưa?
Hắn nghĩ một lát rồi nói:
~ Chưa, nhưng tôi biết có mấy người đã qua được năm năm, và còn có một người, tôi còn nhớ rất rõ, đã ra khỏi nhà lao khỏe mạnh và cân bằng sau sáu năm cấm cố. Tôi có mặt ở nhà lao khi người này được thả.
- Cảm ơn sếp.
- Không có gì - viên cảnh sát nói. - Anh bị tám năm phải không?
- Thưa sếp vâng.
- Anh chỉ có thể qua được nếu anh không bị phạt lần nào. - Nói đoạn hắn bỏ đi.
Câu này rất quan trọng. Đúng, tôi chỉ có thể sống sót mà ra khỏi nhà lao nếu tôi không bị phạt một lần nào. Thật thế, nếu bị phạt, anh sẽ bị giảm một phần hay toàn bộ suất ăn trong một thời gian nào đấy, và về sau, ngay đến khi đã được trở lại chế độ ăn bình thường, anh vẫn không tài nào lấy lại sức được nữa. Chỉ cần vài lần bị phạt hơi nặng một chút là anh không thể chịu đựng đến cùng được nữa, anh sẽ chết trước khi mãn hạn. Kết luận: tôi không được nhận dừa, hay thuốc lá, thậm chí cũng không được viết và nhận thư nữa. Trong phần còn lại của chuyến đi, tôi không ngừng nhai đi nhai lại cái quyết định này. Không nhận gì hết, tuyệt đối không, dù từ bên ngoài hay từ bên trong. Tôi nảy ra một ý: cách duy nhất để được ăn khá hơn một chút là làm sao từ bên ngoài có ai đút tiền cho mấy tên phát xúp để họ chọn cho tôi miếng thịt to nhất và ngon nhất trong bừa xúp buổi trưa. Việc này dễ, vì một người múc xúp vào cà-mèn tù nhân, rồi một người bưng khay đi theo sau bỏ một miếng thịt vào phần xúp đã múc. Người múc xúp phải vét xuống đáy thùng để vớt thật nhiều rau vào muối.. Nghĩ ra được cách này, tôi thấy vững tâm, Quả thật, tôi rất có thể không bị đói, và ăn gần đủ chất nếu phương cách kia được thu xếp chu đáo. Tôi chỉ còn mỗi việc mơ mộng, thá hồn bay đi thật nhiều, cố chọn những đề tài tươi vui để tưởng tượng, cho khỏi phát điên.
Chúng tôi đã về đến quần đảo. Lúc bấy giờ là ba giờ chiều. Vừa lên bờ, tôi đã nhìn thấy tà áo màu vàng nhạt của Juliette đang đứng cạnh chồng, ông chỉ huy trại bước nhanh đến cạnh tôi, trước khi đoàn tù có đủ thì giờ xếp hàng, và nói:
- Bao nhiêu?
- Tám năm.
Ông ta trở lại cạnh vợ và nói cho bà biết. Xúc động mạnh, bà ngồi xuống một tảng đá. Có thể thấy rõ bà thất vọng ê chề. Chồng bà nắm lấy cánh tay bà, bà đứng dậy, và sau khi đưa về phía tôi một cái nhìn nặng tình thương xót của đôi mắt mênh mông, bà đi theo chồng, không ngoái lại.
- Papillon, bao nhiêu? - Dega hỏi tôi.
- Tám năm cấm cố.
Dega lặng thinh, không dám nhìn tôi. Galgani lại gần. Trước khi anh ta kịp nói, tôi dặn:
- Đừng gởi gì cho tôi, cũng đừng viết gì. Thời hạn lâu như vậy, tôi không thể để cho bọn họ có cớ phạt tôi.
- Tôi hiểu.
Tôi nói thầm rất nhanh: cậu tìm cách làm sao cho họ dành phần khá trong suất ăn tù cho tôi, vào buổi trưa và buổi tối. Nếu cậu làm được, có lẽ một ngày kia chúng mình sẽ còn gặp lại nhau. Gửi Chúa”.
Tôi tự động đi về phía chiếc xuồng đầu tiên sẽ đưa tù cấm cố đến Saint-Joseph. Mọi người đều nhìn theo tôi như nhìn một cỗ quan tài đang hạ huyệt. Không ai nói một lời. Trên đoạn đường ngắn ngủi này, tôi nhắc lại với Charpar những điều tôi đã nói với Galgani. Anh ta đáp:
- Chắc làm được thôi. Can đảm lên Papi - Rồi anh nói thêm - Thế còn Matthieu Carbonieri thì sao?
- Tôi quên mất cậu ấy, cậu tha thứ cho tôi. Chủ tọa Tòa án binh đã yêu cầu bổ sung tài liệu về trường hợp cậu ấy trước khi ra quyết định, như thế là đáng mừng hay đáng lo?
- Chắc là đáng mừng.
Tôi đi ở hàng đầu một toán gồm mười hai người đang leo lên đốc để đến nhà lao Cấm cố. Tôi đi rất nhanh, kể cũng lạ: tôi nóng lòng muốn ngồi lại một mình trong buồng giam. Tôi rảo bước đến nỗi tên lính gác nói:
- Từ từ chứ Papillon. Có vẻ như anh đang vội quay về ngôi nhà mà anh mới từ giữ cách đây chẳng bao lâu.
- Đến nơi rồi.
- Cởi hết ra! Đây là vị chỉ huy nhà lao Cấm cố.
- Tôi lấy làm tiếc là anh lại trở lại, Papillon ạ, - ông nói. Đoạn lại chuyển sang bài diễn văn quen thuộc: “Các phạm nhân cấm cố! ở đây v.v...” Sau đó ông lại nói với tôi: “Nhà A, buồng 127. Buồng giam khá nhất đấy Papillon ạ, vì anh được ở trước mặt cửa hành lang, do đó anh có nhiều ánh sáng hơn, và không bao giờ bị thiếu không khí. Tôi hy vọng anh sẽ có hạnh kiểm tốt. Tám năm là một thời hạn rất dài. Nhưng có lẽ với một hạnh kiểm thật tốt, anh có hy vọng được án giảm một hai hay năm. Tôi cầu mong anh được như thế, vì anh là một người can đảm”.
Thế là tôi về buồng giam 127. Quả nhiên nó ở ngay trước mặt một khung cửa lớn có chấn song đưa vào hành lang. Tuy đã sáu giờ mà trông còn khá rõ. Căn buồng cũng không có cái mùi và cái vị của một nơi đựng đồ mục ruỗng như căn buồng của tôi lần trước.
Điều đó làm cho tôi vừng lòng đôi chút: “Anh bạn Papillon thân mến, đây là bốn bức tường sẽ nhìn anh sống trong tám năm. Chớ làm cái việc đếm tháng đếm giờ, việc đó hoàn toàn vô ích. Nếu anh muốn có một đơn vị khả thủ để đo thời gian, anh phải tính từng lục cá nguyệt. Mười sáu lần sáu tháng là anh mãn hạn. Dù sao thì anh cũng được một ưu thế. Anh có chết ở đây thì ít nhất cũng được chết trong ánh sáng, nếu anh chết vào ban ngày. Điều này rất quan trọng. Chết trong bóng tối chắc chẳng vui chút nào. Nếu anh ốm, ít ra bác sĩ cũng nhìn thấy được mặt anh. Anh không việc gì phải tự trách móc vì đã muốn sống lại bằng cách vượt ngục, và quả tình cũng không nên tự trách mình đã giết chết thằng Celier. Anh thử tưởng tượng xem anh sẽ đau đớn nhường nào khi nghĩ rằng trong lúc anh đang ngồi đây thì hắn đã lên đường vượt ngục. Thời gian sẽ trả lời. Biết đâu rồi đây chẳng có một cuộc đại ân xá, một cuộc chiến tranh, một trận động đất, một trận bão lốc, làm cho cái pháo đài này sụp đổ tan tành? Sao lại không? Biết đâu rồi đây chẳng có một con người trung trực từ đây trở về Pháp khuấy động được niềm công phẫn trong lòng dân Pháp, và dân Pháp sẽ buộc ban Quản trị trại trừng giới bãi bỏ cái lối giết người không cần đến máy chém này? Hoặc giả một ông bác sĩ, buồn nôn trước cái cảnh này, kể lại cho một nhà báo, một ông linh mục gì đấy, tôi làm sao biết được? Dù sao thì thằng Celier đã được lũ cá mập tiêu hóa từ lâu. Còn tôi, tôi vẫn còn đây, và nếu tôi xứng đáng với bản thân, tôi sẽ sống cho đến cùng để ra khỏi nấm mồ này.
Một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay; một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay; tôi bắt đầu đi đi lại lại, ngay lập tức tìm lại được cái tư thế tối ưu của đầu, của tay, và chiều dài chính xác của mỗi bước đi để cho quả lắc hoạt động hoàn hảo. Tôi quyết định chỉ đi đi lại lại hai giờ vào buổi sáng và hai giờ vào buổi chiều, cho đến khi nào biết chắc là sẽ có được một chế độ ăn ưu tiên về lượng. Trong tình trạng tinh thần kích động của những ngày đầu, không nên lãng phí năng lượng một cách vô ích.
Phải, đến phút cuối mà thất bại cũng thật thê thảm. Tuy đây mới chỉ là phần đầu của cuộc vượt ngục: còn phải gặp may trong một chuyến vượt biển dài hơn một trăm năm mươi cây số trên chiếc bè mỏng manh này. Và tùy nơi đổ bộ lên Đất liền, lại phải bắt đầu một hành trình đào tẩu khác. Nếu hạ thủy bình yên, cánh buồm làm bằng ba cái bao bột sẽ đưa chiếc bè đi với tốc độ hơn mười cây một giờ. Không đầy mười lăm tiếng, có lẽ mười hai cũng nên, sẽ đến đất liền. Dĩ nhiên là nếu ngày hôm ấy trời mưa, vì chỉ có trời mưa mới dám căng buồm. Tôi nhớ mường tượng hình như hôm tôi bị giam vào xà-lim, trời mưa thì phải. Tôi không chắc lắm. Tôi tìm thử xem tôi đã phạm, những lỗi lầm gì. Tôi chỉ thấy có hai. Anh thợ mộc đã muốn làm một cái bè quá tốt, quá chắc chắn, cho nên để ghép dừa vào, đã phải bỏ công ra làm một cái khung phức tạp gần như thành hai chiếc bè ghép vào nhau. Thành thử phải làm quá nhiều bộ phận và mất quá nhiều thì giờ vào đấy để làm cho thật cẩn thận và kín đáo
Thứ hai, là sai lầm nghiêm trọng nhất: khi đã có nghi vấn nghiêm trọng về Celier, lẽ ra tôi phải giết hắn ngay đêm hôm ấy. Giá tôi làm như vậy, không biết bây giờ tôi đã ở tận đâu đâu rồi? Dù có bị bại lộ khi đến Đất liền hay bị bắt ngay khi hạ thủy, thì tôi cũng chỉ ăn ba năm chứ không phải là tám, mà lại có được sự thỏa mãn của hành động. Giả sử mọi việc đều xuôi lọt bây giờ tôi đang ở đâu? Có thánh mà biết được Có lẽ đang nói chuyện với ông Bewen ở Trinidad, hay đang ở Curacao dưới sự bảo trợ của Giám mục Irénée de Bruyne. Và từ đó, chúng tôi sẽ chỉ lên đường khi nào đã biết chắc có một nước nào chịu nhận chúng tôi. Nếu không, tôi sẽ dễ dàng đi một mình, trên một con thuyền nhỏ, hướng thẳng về Guajira, lãnh thổ của bộ lạc đã dung nạp tôi làm một thành viên. Rất khuya tôi mới ngủ được, nhưng giấc ngủ của tôi đêm ấy cũng bình thường. Cái đêm đầu ấy đã không đến nỗi quá khổ sở. Sống, sống cho bằng được. Tôi sẽ phải tự nhắc đi nhắc lại, mỗi khi thấy mình sắp buông xuôi vào tuyệt vọng, câu châm ngôn sau đây của niềm tin ở tương lai: “Chừng nào hãy còn sống là hãy còn hy vọng”.
Một tuần lễ đã trôi qua. Kể từ hôm qua tôi đã nhận thấy có sự thay đổi trong suất ăn hàng ngày. Bữa ăn trưa tôi được một miếng thịt hầm rất to, rồi bữa tối là cả một cà mèn rau muống, rất ít nước. Như một đứa trẻ, tôi tự nhủ: “Rau muống có chất sắt, bổ lắm”.
Nếu tình hình này kéo dài, tôi sẽ có thể đi đi lại lại mấy ngày từ mười đến mười hai tiếng đồng hồ, và đến tối, thân thể mỏi mệt, tôi có thể tha hồ du hành giữa cái vì sao. Không, tôi không đi lan man đâu, tôi đang ở trên trần thế, thực sự đang sống trên trần thế, tôi nghĩ đến tất cả những trường hợp các phạm nhân đã gặp phải mà tôi được nghe kể trong thời gian sống trên Quần đảo. Mỗi người đều có thiên lịch sử của mình, đều có một quá khứ và một hiện tại. Tôi cũng nghĩ đến những truyền thuyết mà người ta thường kẻ cho nhau nghe trên quần đảo. Trong đó có một chuyện mà tôi tự hứa là sẽ kiểm tra lại xem thực hư ra sao: đó là chuyện cái chuông.
Như tôi đã có dịp nói, phạm nhân chết không được chôn cất, mà bị đem ném xuống biển ở khoảng giữa đảo Saint-Joseph và đảo Royale, một nơi nhung nhúc những cá mập. Người chết được bọc trong mấy cái bao bột, chân buộc vào một cục đá lớn. Một cái thùng hình chữ nhật dài, được dùng thường xuyên cho mọi người, đặt nằm dọc ở phía trước mũi thuyền. Đến nơi đã ấn định, sáu phạm nhân chèo thuyền nâng mái chèo lên khỏi mặt nước, ngang tầm mạn thuyền. Một người dốc cái thùng, một người khác mở cái nắp ở bản lề ở đầu thùng ra. Bấy giờ cái xác chết tụt xuống biển. Có một điều chắc chắn, không thể hồ nghi gì được, là ngay tức khắc lũ cá mập cắn đứt sợi thừng buộc đá vào chân tử thi. Không bao giờ tử thi có đủ thì giờ chìm xuống sâu lắm. Nó lại trồi lên mặt nước, và lũ cá mập bắt đầu tranh nhau miếng mồi ngon ấy. Theo những người đã chứng kiến cảnh này, nhìn lũ cá mập ăn thịt người tù đã chết là một cảnh tượng gây cảm giác rất mạnh, vì khi cá mập đến đông, chúng nâng cả cái bọc vải liệm lên khỏi mặt nước, xé tung nó ra và đớp từng miếng thịt người to tướng.
Cái thủ tục mai táng ấy diễn ra đúng như tôi đã tả nhưng có một điều tôi chưa xác minh được. Các phạm nhân, không trừ một ai, đều nói rằng cái làm cho cá mập tụ tập đến chỗ ấy chính là tiếng chuông của nhà thờ trại giam đánh lên mỗi khi có người chết. Họ nói là nếu anh đứng ở đầu con kè dài từ đảo Royale đâm ra biển vào lúc sáu giờ chiều, có những ngày không thấy có lấy một con cá mập nào. Nhưng khi ngôi nhà thờ nhỏ của trại giam gióng chuông lên, chỉ một nhoáng ở đấy đã nhung nhúc một đàn cá mập đến chờ người chết, vì không còn lý do nào khác khiến cho chúng nó tập trung về đấy đúng vào giờ ấy. Mong sao tôi sẽ không phải làm món ăn cho lũ cá mập của đảo Royale trong một hoàn cảnh tương tự. Chúng nó có nhai tươi nuốt sống tôi trong một chuyến vượt ngục thì cũng đành, ít nhất thì đó cũng là một sự cố xảy ra trên đường đi tìm tự do. Nhưng nếu là sau khi tôi chết bệnh trong một căn buồng giam thì xin đừng! Một việc như thế không thể để xảy ra được.
Được ăn đủ chất nhờ cách dàn xếp của các bạn tôi, sức khỏe tôi vẫn hoàn hảo. Tôi đi đi lại lại trong phòng giam từ bảy giờ sáng đến sáu giờ chiều, không lúc nào ngưng. Thành thử cái cà-mèn đầy rau quả khô, rau muống, đậu đũa hay cơm rang của bữa ăn tôi bao giờ cũng được vét sạch. Bao giờ tôi cũng ăn hết mà không phải cố gắng gì. Cái môn đi đi lại lại rất có lợi cho cơ thể của tôi, sự mệt mỏi mà nó đem lại cho tôi là một sự mệt mỏi lành mạnh, và trong khi đi như vậy, tôi lại còn tìm được cách tự phân thân ra thành hai. Như hôm qua chẳng hạn, tôi đã suốt ngày rong chơi trên những cánh đồng cỏ của một thôn nhỏ ở Ardèche gọi là thôn Favras. Hồi mẹ tôi mất rồi, tôi hay đến đấy ở chơi vài tuần với bà dì em ruột mẹ tôi làm giáo viên trong trường làng. Thế thì hôm qua tôi đã thực sự dạo chơi trong khóm rừng phong, thấy đâu có nấm lại cúi xuống nhặt, rồi tôi lại nghe bạn tôi, cậu bé chăn cừu hô lớn những mệnh lệnh sai bảo con chó berger, và con vật khôn ngoan răm rắp thi hành những mệnh lệnh của cậu chủ, khi thì đi kiếm một con cừu lạc lôi về, khi thì trừng phạt một con dê quá nghịch ngợm. Hơn nữa, miệng tôi còn thấm thía cái vị nồng nồng của ly nước mát rượi, khoái trá thưởng thức cái cảm giác nhột nhột của những đám bọt nhỏ li ti trong nước suối xông lên tận mũi. Những cảm giác rõ như thật này về những giờ phút đã qua hơn mười lăm năm về trước, cái khả năng sống lại thực sự những cảm giác ấy một cách mãnh liệt như vậy chỉ có thể thực hiện được trong nhà giam, xa cách mọi tiếng ồn ào, trong cõi im lặng tuyệt đối.
Thậm chí tôi còn trông thấy cả cái màu vàng của tà áo dài của dì Outine. Tôi nghe thấy tiếng gió vi vu trong rặng phong dương, tiếng động khô gọn của một quá phong khi rơi xuống chỗ đất khô, và tiếng động mềm khi rơi xuống lớp lá vàng. Một con lợn lòi to tướng tử trong đám bụi rậm và cao lao ra đã làm cho tôi sợ hãi đến nỗi tôi bỏ chạy thục mạng, trong cơn hốt hoảng đánh rơi mất một phần lớn những cây nấm đã nhặt được. Vâng, tôi đã suốt ngày dong chơi (trong khi đi đi lại lại trong buồng giam) ở Favras với dì tôi và với bạn tôi cậu bé Julion chăn cừu cho Hội Từ Thiện. Những kỷ niệm êm đềm, trong sáng, rõ nét ấy, không ai có thể cấm tôi sống lại một lần nữa, không ai có thể ngăn tôi lăn xả vào đấy để tìm thấy sự thanh thản rất cần cho mảnh hồn dập nát của tôi.
Xã hội cứ tưởng đâu tôi đang nằm ở một trong những căn xà lim của cái nhà giam ăn thịt người này. Nó có biết đâu tôi đã ăn gian được của nó cả một ngày trời, tôi đã sống cái ngày ấy ở trên những bãi cỏ, trong những rặng phong ở Favras, lại còn uống cả nước khoáng ở con suối được gọi là Suối cây Đào. Thế rồi sáu tháng đã trôi qua. Tôi đã tự hứa là sẽ tính từng sáu tháng một: tôi đã giữ đúng lời hứa ấy.
Chỉ đến sáng hôm nay, tôi mới hạ con số mười sáu xuống thành con số mười lăm... Chỉ còn mười lăm lấn sáu tháng nữa.
Ta thử sơ kết lại xem: Trong sáu tháng vừa qua cá nhân tôi không có sự cố gì. Thức ăn hàng ngày trước sau vẫn thế, nhưng với một khẩu phần khá đủ để duy trì sức khỏe của tôi ở một trạng thái khả quan. Xung quanh tôi đã xảy ra nhiều vụ tự tử và nhiều trường hợp phát điên dữ dội, may mà họ đưa người điên đi ngay.
Thật nản vô cùng khi phải nghe họ la hét, rên rỉ hay kêu than hàng giờ liền hay suốt ngày suốt buổi. Tôi đã tìm được một cái mẹo khá tốt cho thần kinh, nhưng lại có hại cho lỗ tai. Tôi cắt một mảnh xà-bông nhét vào hai tai để khỏi nghe những tiếng kêu gào rùng rợn ấy.
Đáng tiếng là xà-bông làm cho ống tai bị đau, chỉ hai ba ngày là trong tai có nước rỉ ra: Lần đầu tiên kẻ từ khi tôi đến trại khổ sai, tôi đã hạ mình xuống xin xỏ một tên cảnh sát. Số là một tên cảnh sát trông coi việc phát xúp là người Montelimar, gần quê tôi. Tôi có quen hắn ở Royale, nên đã xin hắn đem vào cho tôi một cục sáp để tôi nhét vào tai cho đỡ nghe những tiếng la hét của những tù nhân phát điên khi họ chưa được đưa đi. Hôm sau hắn đã đem vào cho tôi một cục sáp to bằng hạt dẻ. Cái cảm giác nhẹ nhõm khi không còn nghe những tiếng gào của những người khốn khổ ấy nữa thật dễ chịu không thể tưởng tượng được.
Tôi đã thành thạo về cái khoản trị rết. Trong vòng sáu tháng tôi chỉ bị cắn có một lần, tôi đã tự chủ được hoàn toàn những khi thức giấc mà cảm thấy có một con rết đang bò trên thân thể trần truồng của tôi. Cái gì rồi người ta cũng quen đi, chẳng qua đấy là vấn đề tự điều khiển, vì cái cảm giác nhột nhột do chân và râu gây ra hết sức khó chịu. Nhưng nếu không khéo bắt nó thì bị cắn ngay. Tốt hơn là nên đợi cho nó tự bò xuống, rồi sau đó mới tìm nó mà xéo cho chết đi. Trên cái ghế xi măng của tôi lúc nào cũng để sẵn hai ba mẩu bánh mì nho nhỏ. Thế nào mùi bánh mì cũng hấp dẫn rết đến. Lúc bấy giờ tôi cứ việc giết.
Tôi luôn luôn phải xua đuổi một ý nghĩ cứ ám ảnh tôi hoài. Tại sao tôi không giết thằng Bébert Celier ngay cái hôm anh em bắt đầu nghi ngờ hắn có những ý định khốn nạn ấy? Mỗi lần câu hỏi ấy hiện ra tôi lại phải tranh luận với bản thân: trong trường hợp nào ta có quyền giết. Rồi kết luận: mục đích biện hộ cho phương tiện. Mục đích của tôi là vượt ngục cho bằng được; tôi đã có cái may mắn là đóng xong được một chiếc bè tốt và giấu được bè vào một nơi an toàn. Việc ra đi chỉ còn tính từng ngày. Một khi tôi đã biết rằng Celier là một mối nguy cơ cho cái bộ phận cuối cùng của chiếc bè, mà do một sự may mắn lạ lùng đã đem cất giấu được, thì lẽ ra tôi phải hành quyết nó ngay, không chút do dự.
Thế nếu tôi nhầm, nếu cái mối nguy cơ ấy chỉ là một ảo giác do những hiện tượng bề ngoài sinh ra thì sao? Thì tôi đã giết một người vô tội. Như thế khủng khiếp quá! Nhưng mày đặt vấn đề như thế thật là phi lô-gích, vì mày là một tên tù khổ sai kia mà! Hơn thế nữa, mày là tù chung thân đã bị xử tám năm cấm cố kia mà!
Mày nghĩ vớ vẩn gì thế, hở cái đồ cặn bã bị coi như rác rưởi hôi tanh của xã hội? Mày thử tự hỏi xem mười hai miếng pho-mát kia - mười hai tên bồi thẩm đã xử mày, - có bao giờ tự vấn lương tâm, dù chỉ một lần thôi, xem thử chúng nó xử mày nặng như vậy có công bằng hay không? Xem viên biện lý - mà tôi chưa quyết định được là sẽ dùng cái gì để rút lưỡi hắn ra - cũng có tự hỏi xem bản cáo trạng của hắn có gì quá đáng hay không? Ngay các trạng sư đã bênh vực tôi chắc chắn là cũng không còn nhớ đến tôi nữa. Có chăng, chắc họ chỉ nhớ chung chung đến “Cái vụ án đáng buồn xử thằng Papillon” ở Tòa Đại hình 1932: các bạn đồng nghiệp ạ, hôm ấy tôi không được sung sức cho lắm, trong khi luật sư Pradel thì lại đang lúc phong độ lên đến tột đỉnh. Ông ta đã làm cho bên nguyên thắng cuộc một cách oanh liệt. Đó quả là một đối thủ hạng cừ khôi”.
Tôi nghe thấy những điều đó như thể tôi đang đứng cạnh trạng sư Raymond Hubert trong một cuộc chuyện trò giữa mấy ông luật sư, hay trong một buổi dạ hội của giới thượng lưu, hay có lẽ đúng hơn là trong một dãy hành lang của Tòa án.
Chắc chắn là chỉ có một người có thể có được lập trường của một vị quan tòa trung thực và lương thiện, đó là ông chánh án Bé vin. Con người trung chính vô tư ấy rất có thể, nhân một buổi bàn luận giữa những người đồng nghiệp hay một cuộc hội họp của giới thượng lưu bàn cãi về cái nguy cơ xử oan một con người khi dựa vào ý kiến của bọn bồi thẩm. Chắc chắn ông ta phải nói, dĩ nhiên là với những từ ngữ tế nhị, rằng mười hai miếng pho-mát của hội đồng bồi thẩm không hề được đào tạo hay trang bị gì để đảm đương một trách nhiệm lớn như vậy, rằng họ quá dễ bị nghệ thuật ngôn từ của bên nguyên hay bên bị mê hoặc, tùy theo tương quan lực lượng giữa hai bên trong cuộc đấu khẩu; rằng họ có thể tha bổng quá nhanh, hoặc ngược lại lên án quá dễ dàng mà chẳng biết rõ cho lắm là mình căn cứ vào cái gì, tùy theo cái không khi tích cực hay tiêu cực mà phía có tài hùng biện hơn đã gây nên được.
Ông chánh án và cả gia đình tôi nữa cũng thế, đúng; nhưng có lẽ gia đình tôi cũng oán hận tôi chút ít vì chắc chắn là tôi đã gây cho gia đình những chuyện phiền hà. Chỉ có một người duy nhất, cha tôi, vâng, người cha tội nghiệp của tôi, là không than phiền về cây thập tự mà đứa con trai đã đặt lên vai người, tôi tin chắc như vậy. Cây thập tự nặng nề ấy người vẫn cố kéo lê đi mà không lên án thằng con trai, không hề trách móc, mặc dầu, vốn là một người thầy giáo, người phải kính trọng pháp luật và, hơn nữa phải dạy cho học trò hiểu và chấp nhận pháp luật. Tôi tin chắc rằng trong đấy lồng ngực cha tôi, trái tim hiền hậu của người phải quát lên: “Quân khốn nạn, chúng bay đã giết con ta, tệ hơn nữa, chúng bay đã đày đọa cho nó chết dần chết mòn, trong khi nó mới hai mươi lăm tuổi! Giá người biết thằng con trai của người đang ở đâu, người ta đang hành hạ nó như thế nào, rất có thể người đã trở thành một kẻ vô chính phủ.
Đêm hôm nay, cái nhà pha ăn thịt người đã xứng đáng với danh hiệu của nó hơn bao giờ hết. Tôi được biết là có hai người tù đã treo cổ chết và một người đã tự làm mình chết ngạt bằng cách nhét giẻ vào mồm và vào hai lỗ mũi. Buồng giam 127 ở gần chỗ bọn cảnh sát đổi gác, cho nên thỉnh thoảng tôi nghe được từng mẩu những câu chuyện họ trao đổi với nhau. Sáng nay chẳng hạn, họ nói khẽ, nhưng chưa đủ khẽ để cho tôi đừng nghe những điều họ kể cho nhau nghe về những sự cố đã diễn ra trong đêm vừa qua.
Lại thêm sáu tháng nữa trôi qua. Tôi đã tính sổ, và tôi vừa khắc lên gỗ một con số “14” rất đẹp. Tôi có một cái đinh, cứ sáu tháng mới dùng đến một lần. Vâng, tôi đã tính sổ và nhận định tình hình: sức khỏe tôi vẫn tốt và tinh thần tôi rất vững.
Nhờ những chuyến du hành những các vì sao, rất ít khi tôi bị những cơn tuyệt vọng kéo dài. Những lần lâm vào tình trạng ấy, tôi khắc phục nỗi tuyệt vọng khá nhanh và tổ chức thật chu đáo một chuyến du hành thực sự hay tưởng tượng nó xua tan hết những ý nghĩ bi quan. Cái chết của Celier đã giúp cho tôi nhiều trong việc chiến thắng những cơn khủng hoảng tinh thần ác liệt ấy Tôi tự nhủ: còn ta, ta vẫn sống, ta đang sống nhăn răng ra đây này, và ta phải sống, sống nữa, sống nhiều nữa để một ngày kia sẽ sống lại thành một người tự do. Hắn đã phá hỏng cuộc vượt ngục của ta, nhưng hắn đã chết và sẽ không bao giờ được tự do như ta sẽ được tự do sau này: một ngày kia ta sẽ tự do, đó là điều chắc chắn. là điều tất nhiên. Dù có sao chăng nữa, nếu ta ra khỏi nhà lao cấm cố vào tuổi ba mươi tám, ta cũng chưa già, và cuộc vượt ngục tiếp theo sẽ nhất định thành công, chắc chắn là như vậy.
Một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay: một, hai, ba, bốn, năm, đằng sau quay. Từ mấy hôm nay hai chân tôi đen lại, chân răng tôi là máu..Khai ốm chăng? Tôi lầy ngón tay cái bấm vào cổ chân: khi buông ra, vết bấm vẫn lõm sâu vào. Có thể tưởng chừng như trong người tôi toàn nước. Từ một tuần nay tôi chỉ còn đi được mười cho đến mười hai tiếng một ngày, chỉ đi hai lần sau tiếng mà tôi đã mệt lả ra rồi. Mỗi lần chùi răng bằng khăn mặt rám tẩm xà-bông, tôi thầy đau lắm, và ra máu nhiều. Thậm chí hôm qua có một cái răng tự nhiên rụng ra - một cái răng cửa hàm trên.
Đợt sáu tháng tiếp theo kết thúc bằng một cuộc cách mạng thực sự. Thật vậy, hôm qua họ bắt tù nhân thò đầu cả ra người ghi-sê, một bác sĩ đi rảo qua, banh môi từng người lên. Và sáng nay, đúng mười tám tháng sau khi tôi vào nhà tù cấm cố này, buồng giam của tôi được mở ra, và họ nói với tôi:
- Ra đi, đứng quay mặt vào tường và đợi đấy.
Tôi là người đầu tiên kể từ cửa lớn. Cả thảy gần bảy mươi người đã ra. “Quay trái, quay?” Tôi là người đi sau cùng trong một dãy dài được dẫn ra đầu phía kia của nhà giam và được đưa ra sân.
Lúc bấy giờ là chín giờ. Một bác sĩ trẻ tuổi mặc áo sơ mi ka ki cộc tay đang ngồi giữa sân, sau một cái bàn nhỏ bằng gỗ. Bên cạnh ông ta là hai anh y tá phạm nhân và một viên giám thị y tá. Trong cả bốn người nay tôi không biết mặt một người nào, kể cả ông bác sĩ. Mười viên cảnh sát cầm súng trường đứng gác xung quanh. Viên chỉ huy nhà tù cấm cố và tốp giám thị trưởng đứng nhìn, không nói một câu.
- Tất cả, cởi hết ra, - viên giám thị trưởng hô - Quần áo cặp nách. Người thứ nhất. Tên là gì?
- Mỗ...
- Há miệng ra, giang chân ra. Nhổ ngay ra 3 cái răng này. Tra cồn pha i-ốt trước, sau đó là xanh méthylène. Xi-rô Cochleria mỗi ngày hai lần trước bừa ăn.
Tôi là người cuối cùng.
- Tên gì?
- Charrière.
- Chà! Anh là người duy nhất có một thân thể còn coi được. Mới đến à?
- Không.
- Giam ở đây bao lâu rồi?
- Mười tám tháng.
- Tại sao anh không gầy như mọi người khác.
- Tôi không biết.
- Được, tôi sẽ nói cho anh biết. Tại vì anh ăn khá hơn, nếu không phải là vì anh thủ dâm ít hơn. Há miệng xem. Chân. Mỗi ngày hai quả chanh: một sáng một chiều. Mút nước chanh, xong xát bã vào lợi, anh bị bệnh scorbut.
Họ dùng cồn pha i-ốt lau lợi cho tôi, rồi bôi thuốc xanh méthylène, đoạn phát cho tôi một quả chanh. Đằng sau quay. Tôi là người sau cùng trở về buồng giam.
Việc vừa xảy ra quả là một cuộc cách mạng: cho phạm nhân bị ốm ra tận ngoài sân, cho họ nhìn thấy mặt trời, cho bác sĩ khám từng người một. ở trại giam cấm cố chưa bao giờ có như vậy. Có chuyện gì xáy ra thế nhỉ? Phải chăng, do một sự tình cờ nào đấy, rốt cục đã có một ông bác sĩ không chịu làm kẻ tòng phạm câm lặng cửa cái quy chế trứ danh này? Cái ông bác sĩ này, về sau sẽ trở thành bạn tôi, tên là Germain Guibert. Bây giờ thì ông chết rồi, chết ở Đông Dương. vợ ông ta có gửi thư đến Macaraibo, ở Venezuela, báo cho tôi biết, khá nhiều năm sau cái ngày ấy.
Cứ mười ngày lại có một buổi được ra nắng. Thuốc men vẫn chỉ có thế: cồn pha i-ốt, xanh méthylène, hai quả chanh. Tình trạng của tôi không trầm trọng thêm nhưng cũng không thuyên giảm. Đã hai lần tôi xin xi- rô Cocheléria và đã hai lần bác sĩ không chịu cho, điều đó bắt đầu làm cho tôi xì-nẹc, vì tôi vẫn không đi được sáu tiếng mỗi ngày, và hai cổ chân tôi vẫn còn sưng phù và bầm đen lại.
Một hôm, trong khi chờ đến lượt khám, tôi chợt nhận ra rằng cái cây còm cõi mà tôi đang dùng để nấp chút đỉnh cho đỡ nắng là một cây chanh không ra quả. Tôi bứt một cái lá chanh bỏ vào miệng nhai, rồi một cách lơ đễnh, không hề có chủ đích, tôi bẻ một nhánh cây có dăm chiếc lá cầm chơi. Đến khi ông bác sĩ gọi đến tên tôi, tôi cắp cái nhánh cây sau đít, nói:
- Thưa bác sĩ, tôi không biết có phải tại mấy quả chanh của bác sĩ không, nhưng xin bác sĩ xem giùm thứ cái gì mọc sau đít tôi đây này.
Nói đoạn tôi quay người lại cho bác sĩ xem cái nhánh cây cắm sau đít.
Thoạt tiên bọn cảnh sát cười phá lên, nhưng rồi viên giám thị trưởng nói:
- Papillon anh sẽ bị phạt vì đã có thái độ bất kính đối với bác sĩ.
- Không hề có như thế, - bác sĩ nói. - ông không được phạt người này, vì tôi có phàn nàn gì đâu. Anh không muốn dùng chanh nữa à? ý anh muốn nói như vậy phải không?
- Vâng, thưa bác sĩ, tôi chán chanh lắm rồi: mãi có khỏi đâu. Tôi muốn xin xi-rô Cochléria uống thử xem.
- Trước đây tôi không cho anh vì tôi chỉ có được rất ít, phải dành cho những người bệnh nặng. Tuy vậy tôi sẽ cho anh mỗi ngày một thìa, nhưng vẫn phải tiếp tục dùng chanh.
- Thưa bác sĩ, tôi đã có dịp trông thấy người Anh-điêng họ ăn rong biển, thứ rong này ở Royale tôi cũng thấy có.Chắc ở Saint-Joseph cũng phải có thứ rong này.
Anh đã gợi cho tôi một ý tuyệt hay. Chính tôi cũng đã thấy có một thứ rong gì đấy ở bờ biển. Tôi sẽ cho vớt và phát cho các anh mỗi ngày một ít. Người Anh-điêng họ ăn sống hay đem nấu lên?
- Họ ăn sống.
- Được Cám ơn. Và nhất là, thưa ông chỉ huy, tôi yêu cầu đừng phạt người này, xin ông cam kết với tôi như vậy.
- Tôi đồng ý, bác sĩ ạ.
Quả là một phép lạ. Cứ tám ngày lại được ra nắng hai tiếng đồng hồ, đợi đến lượt mình khám bệnh hoặc chờ cho những người khác được đưa ra, được trông thấy những gương mặt, được thì thầm với nhau vài câu: trước kia ai mà dám mơ ước những điều kỳ diệu như vậy?
Đây là một sự thay đổi huyễn hoặc đối với mọi người, những xác chết đã đứng dậy và bước đi dưới ánh nắng; những con người bị chôn sống ấy nay đã nói lên được đôi lời. Đó là một bình dưỡng khí thổi sự sống vào cơ thể và tâm hồn của mỗi chúng tôi.
Clac, clac, hằng hà sa số những tiếng clac mở tất cả các cửa ngục vào một buổi sáng thứ năm lúc chín giờ. Mỗi người đều phải ra đứng ở ngang ngưỡng cửa phòng giam. Một tiếng gọi: “Các phạm nhân cầm cố! Quan thống đốc đi thanh tra”.
Cùng đi với năm viên sĩ quan của quân đội thuộc địa, chắc hẳn đều những sĩ quan quân y, một người cao lớn, trang nhã, tóc màu hoa râm có ánh bạc, bước chậm rãi đọc hành lang đi qua trước từng khung cửa phòng giam. Tôi nghe tiếng một viên cảnh binh báo cáo cho ông ta biết những hình án nặng và những nguyên do đã dẫn đến nó. Trước khi đi ngang chỗ tôi, họ phải ra lệnh cho một người đứng dậy, vì người này đứng đợi lâu quá đã ngồi thụp xuống. Đó là một trong toán tù vượt ngục ăn thịt người: Graville. Một viên sĩ quan nói:
- ồ, tên này chỉ còn là cái xác biết đị!
Quan thống đốc đáp:
- Tình trạng tất cả các tù nhân đều thảm hại.
Đoàn thanh tra đến chỗ tôi. Viên chỉ huy nhà lao nói:
- Người này là tù nhân bị án hình nặng nhất trong nhà lao.
Anh tên gì? - Quan thống đốc nói.
- Charrière.
- Hình án?
- Tám năm vì tội lấy trộm vật tư của nhà nước và giết người, ba cộng năm năm cấm cố, không có phối án.
- Đã ngồi được bao lâu?
- Mười tám tháng.
- Hạnh kiểm ra sao?
- Tốt. - Viên chỉ huy nhà lao nói.
- Sức khoẻ ra sao?
- Tạm được, - ông bác sĩ nói.
- Anh có muốn nói gì không?
- Có: cái chế độ cấm cố này là vô nhân đạo và không xứng đáng với một dân tộc như nước Pháp.
- Tại sao?
- Im lặng tuyệt đối, không được đi dạo, và trước đây ít hôm không hề có lệ khám sức khỏe.
- Anh hãy cố gắng có hạnh kiểm tốt, có lẽ anh sẽ được ân giảm nếu tôi còn làm thống đốc.
- Cám ơn ông.
Kể từ ngày ấy, theo lệnh quan thống đốc và bác sĩ trưởng từ Martinique và từ Cayenne tới, hôm nào chúng tôi cũng được một buổi đi dạo và tắm biển trong một thứ bể bơi giả, có những tảng đá lớn ngăn với biển cho cá mập khỏi vào.
Mỗi buổi sáng cứ đến chín giờ, từng toán tù nhân một trăm người một từ nhà lao cấm cố kéo xuống tắm, mình trần như nhộng. Vợ con của bọn giám thị phải ở nhà, để khỏi thấy cái cảnh lõa lồ đó.
Chế độ này kéo dài đã được một tháng. Sắc diện của lũ tù đã khác hẳn. Buổi đi dạo giữa nắng, buổi tắm nước mặn, cái quyền được nói mỗi ngày một giờ, đã làm cho bầy tù cấm cố, cái bầy người đau ốm về tinh thần và thể chất ấy, thay đổi tận gốc.
Một hôm tôi đang đi ở các hàng sau trên đường từ chỗ tắm về nhà lao cấm cố, bỗng nghe có tiếng một người đàn bà hét lên thất thanh và hai phát súng lục.
- Cứu với! Cứu với! Con tôi chết đuối mất?
Những tiếng kêu la ấy từ phía bến đưa lại. Bến đây chỉ là một đường dốc xây xi-măng để cho thuyền đậu. Lại nghe tiếng xôn xao:
- Cá mập! Cá mập!
Rồi lại hai tiếng súng lục nữa. Trong khi ai nấy đều quay đầu về phía có tiếng kêu cứu và tiếng súng lục, tôi xô một tên lính gác ra, không hề suy tính, và người vẫn trần truồng như thế, tôi chạy thẳng ra bến. Đến nơi, tôi trông thấy hai người đàn bà đang la hét như điên, cạnh đấy có hai tên lính gác và hai thằng A-rập.
- Nhảy xuống đi? - người đàn bà hét. - Nó chưa trôi xa đâu! Tôi không biết bơi, chứ biết thì tôi đã xuống rồi. Hèn nhát cả một lũ!
- Cá mập! Một tên lính gác nói, đoạn lại chĩa súng bắn xuống biển.
Một đứa bé gái mặc chiếc áo dài màu xanh nối trắng đang trôi lềnh bềnh trên mặt biển, bị một dòng hải lưu yếu đưa từ từ ra xa. Nó trôi thẳng về phía các hải lưu quy tụ lại, vốn là chỗ dùng làm nơi mai táng các phạm nhân, nhưng hãy còn xa mới đến chỗ ấy. Bọn lính gác nổ súng liên tục, và chắc hẳn họ đã bắn trúng nhiều con, vì quanh con bé có những chỗ nước cuộn lên sùng sục.
- Đừng bắn nữa! - tôi quát.
Rồi không suy nghĩ đắn đo, tôi nhảy xuống biển.
Được dòng hải lưu đẩy đi, tôi bơi rất nhanh về phía con bé bấy giờ vẫn nổi lềnh bềnh nhờ cái áo dài căng phồng lên. Tôi vừa bơi vừa đạp chân thật mạnh đế cho cá mập khỏi đớp trúng.
Tôi chỉ còn cách con bé có ba bốn chục mét thì một chiếc xuồng từ đảo Royale vừa chèo ra đến nơi: bên ấy đã nhìn thấy cái cảnh này từ xa. Người trên thuyền vớt đứa bé lên. Tôi ức phát khóc lên được khi đến lượt tôi được kéo lên thuyền, ức đến nỗi quên khuấy cả lũ cá mập: tôi đã liều thân một cách hoàn toàn vô ích.
Nói cho đúng hơn, lúc bấy giờ tôi tưởng là hoàn toàn vô ích, vì một tháng sau, bác sĩ Germain Guibert đã vận động cho tôi được miễn cấm cố vì lý do sức khỏe, và chỉ huy trại đã chuẩn y, coi như đây là một cách thường công cho tôi đã liều mình lao xuống biển để cứu đứa bé.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
VIII. Trở lại đảo Royale
Trở lại đảo Royale
Như vậy quả thật là nhờ một phép màu mà tôi được trở lại đảo Royale với chế độ phạm nhân chịu án bình thường. Tôi rời Royale ra với một án tám năm tù cấm cồ và nhờ liều thân cố che một người bị nạn, mười chín tháng sau, tôi lại được trở về.
Tôi đã gặp lại các bạn cũ: Dega, vẫn làm kế toán, Galgani đi phát thư, Garbonieri, đã được trắng án sau vụ tôi vượt ngục, Graldet, Bourset thợ mộc, cùng hai anh em Đẩy Xe: Naric và Quenier, Chatal ở bệnh xá, người đã đồng lõa với tôi trong chuyến vượt ngục đầu tiên, và Maturette vẫn ở đảo Royale làm phụ y tá.
Tất cả bọn lục lâm vùng rừng núi đảo Corse cũng còn cả đây: Essari, Vicioli, Cesari, Razori, Fosco, Maucuer và Chapa đã từng làm cho La Griffe bị chết chém vì câu chuyện chứng khoán ở Marseille. Tất cả các minh tinh của những vụ tội phạm từ năm 27 đến năm 35 đều còn tại đây.
Marino, người đã giết Dufréne, vừa chết bệnh cách đây một tuần. Ngày ấy, lũ cá mập đã được một bừa thịnh soạn. Một chuyên viên bậc nhất về đá quý của thủ đô Paris đã được dọn cho chúng chén.
Barrat, biệt danh là “Nữ diễn viên”, còn là nhà triệu phú kiêm vô địch quần vợt ở Limoges, kẻ đã giết một người tài xế cùng cậu bạn thân, quá thân là khác, của y. Barrat là trưởng phòng thí nghiệm và là dược sĩ của bệnh viện đảo Roycale. Một bác sĩ có tính hay bông lơn nói rằng, ở đảo, người ta bị bệnh lao theo quyền cọ vế.
Tóm lại, việc tôi trở về đảo Royale chẳng khác nào một phát đại bác. Tôi trở lại nhà giam những kẻ cứng đầu, vào một buổi sáng thứ bảy. Gần như ai nấy đều có mặt đông đủ, và mọi người không từ ai, đều đến chào tôi, hết sức niềm nở. Cả cái anh thợ sửa đồng hồ, vốn câm nín không nói bao giờ từ cái buổi sớm trứ danh mà anh ta suýt bị chết chém vì nhầm lẫn, cũng đến chào tôi.
- Thế nào, các bạn, khỏe cả chứ!
- Khỏe cả, Papi ạ, hoan nghênh cậu đã trở về.
- Chỗ của cậu vẫn còn đấy, Grandet nói. Từ khi cậu đi vẫn để trống.
- Cảm ơn tất cả. Có gì mới không?
- Có một tin vui.
- Gì vậy?
- Đêm qua, trong nhà xí, trước mấy cái ống thoát nước, người ta đã tìm thằng cha dạo nọ treo lên ngọn dừa để rình và tố giác cậu, bị giết chết. Chắc một người bạn thân của cậu vì không muốn để cập gặp mặt thằng cha ấy đã tiết kiệm hộ cậu cái việc ấy.
- Tớ rất muốn biết cậu đó là ai để cảm ơn.
- Chắc sẽ có ngày cậu ấy sẽ nói ra với cậu thôi. Vào giờ điểm danh sáng nay, người ta thấy thằng cha ấy bị một nhát dao vào tim. Chẳng ai trông thấy hay nghe thấy gì cả.
- Thế là hơn. Còn bài bạc ra sao?
- Vẫn vậy. Chỗ của cậu vẫn còn đấy.
- Hay lắm. Thế thì có thể bắt đầu sống trở lại cái cảnh khổ sai chung thân rồi. Chả biết chuyện này sẽ chấm dứt ra sao và vào lúc nào.
- Papi này, thật tình bọn tớ choáng người đi khi biết là cậu phải lãnh tám tấm lịch. Bây giờ cậu đã trở về đây, tớ nghĩ rằng trên đảo này, không ai lại có thể từ chối, không chịu giúp đỡ cậu về bất cứ việc gì, dù mạo hiểm đến mấy.
- Ông chỉ huy gọi anh đấy, - một tên lính da đen nói.
Tôi theo hắn ra. ở vọng gác, có vài tên cảnh sát nói vui vài câu với tôi. Tôi theo tên đến gọi tôi và gặp thiếu tá Prouillet.
- Khỏe chứ, Papillon?
- Thưa chỉ huy, khỏe.
- Tôi mừng thấy anh được đặc xá, và tôi cũng khen anh về hành động can đảm của anh đối với đứa con gái nhỏ của người bạn đồng sự của tôi.
- Xin cảm ơn ông.
Tôi giao cho anh việc chăn trâu cho đến lúc anh được trả về với việc đổ thùng và được quyền đi câu.
- Nếu điều này không có gì phiền đến ông nhiều quá tôi xin tuân lệnh.
- Đấy là việc của tôi. Giám thị của xưởng không còn ở đây, còn tôi trong ba tuần nữa, tôi cũng về Pháp. Thế là mai, anh đến nhận việc nhé.
- Thưa chỉ huy, tôi không biết cảm ơn ông bằng cách nào.
- Bằng cách chờ một tháng nữa rồi hãy tìm cách vượt ngục, được không? - Prouillet vừa cười vừa nói.
Trong phòng giam, tôi thấy vẫn những người ấy, với cách sinh hoạt hàng ngày vẫn như trước khi tôi đi. Những dân mê cờ bạc thuộc một loại người riêng biệt, chỉ suy nghĩ và sống vì bài bạc. Những ai có một thằng “bạn trẻ” thì cùng ở, cùng ăn, cùng ngủ với nó. Đấy là những cặp vợ chồng thật sự, và sự đam mê cùng tình yêu giữa đàn ông với nhau chiếm hết tâm tư của họ, cả ngày lẫn đêm. Cũng có những cảnh ghen tuông, những dục vọng không kiềm chế nổi, làm cho “chồng” và “vợ”, cứ rình mò lẫn nhau và gây ra những vụ giết người không sao tránh khỏi nếu một trong hai “vợ chồng” chán người kia và bay đi tìm những mối tình mới.
Tuần qua, vì người đẹp Charlie (tức Barrat), một tù nhân da đen tên là Simplon đã đâm chết một người tên là Sidero. Đây là người thứ ba bị Simplon đâm chết do yêu Charlie.
Tôi về trại mới được vài giờ đã có hai thằng cha đến tìm tôi.
- Này, Papillon, tôi muốn biết Maturetté có phải là của anh không?
- Hỏi để làm gì?
- Tôi có lý do riêng của tôi.
- Anh hãy nghe tôi nói. Maturette đã vượt ngục đi với tôi một chuyến dài 2500 kilômét, và cậu ấy đã xử sự như một người đàn ông chân chính. Tôi chỉ nói với anh có vậy thôi.
- Tôi muốn biết cậu ấy có thuộc về anh không?
Không, tôi không hề biết Maturette trong vấn đề tình dục. Tôi quý trọng cậu ấy như một người bạn thân, ngoài ra, tôi không quan tâm đến cái gì hết trừ phi có ai muốn hãm hại cậu ấy.
- Nếu có ngày cậu ấy là vợ tôi thì sao?
- Lúc đó nếu cậu ấy bằng lòng, thì tôi không xen vào làm gì. Nhưng nếu anh hăm dọa cậu ấy để buộc cậu ấy theo anh, thì anh sẽ có chuyện với tôi đấy.
Những kẻ đồng tình luyến ái thì dù bị động hay chủ động, đều như nhau, vì cả hai loại người đó khi đã đam mê rồi thì chẳng còn nghĩ đến cái gì khác. Tôi đã gặp cậu người ý có cái plan bằng vàng cùng đi một chuyến tàu với tôi. Cậu ta đến chào tôi. Tôi hỏi:
- Cậu vẫn ở đây à?
- Tôi đã xoay đủ cách. Mẹ tôi gửi cho tôi 12000 francs, thằng lính lấy công sáu ngàn, tôi chi mất bốn ngàn để khỏi bị nhốt, tôi lại được đưa đi chiếu X quang ở Cayenne rồi cũng chẳng được việc gì. Sau đấy tôi lại bị buộc tội là đã làm một người bạn bị thương. Anh biết nó đấy, nó là Razori, dân kẻ cướp đảo Corse đấy.
- ừ! rồi sao nữa?
- Nó thỏa thuận với tôi, nó tự gây ra một vết thương ở bụng, và tôi sẽ ra tòa án binh với nó, nó thì là người buộc tội, còn tôi là người có tội. Bọn tôi còn không được lên đảo nữa. Chỉ có 15 ngày là xong hết. Tôi lãnh án sáu tháng cấm cố. ấy là chuyện ở năm ngoái. Anh còn không biết tôi ở đấy nữa cơ. Papi ơi, tôi chịu hết nổi rồi. Tôi muốn tự vẫn đi cho xong.
- Thà chết trong một chuyến vượt ngục còn hơn, ít ra cậu được chết tự do.
- Anh nói đúng, tôi đã sẵn sàng để làm đủ mọi việc Anh có tính chuyện gì, cho tôi biết với nhé.
- Đồng ý.
Cuộc sống ở đảo Royale cứ tiếp tục. Và tôi đã đi chăn trâu. Tôi phải trông một con trâu đực tên là Brutus. Nó nặng hai tấn, khét tiếng là dữ: nó đã giết hai con trâu đực. Viên giám thị Angosti, chuyên trách phần công việc này, nói với tôi: “Đây là lần cuối cùng. Nó còn giết một con nữa là phải thịt nó thôi”. Sáng nay, tôi làm quen với Brutus. Anh chàng da đen người Martnique vẫn chăn dắt nó, phải ở lại một tuần để chỉ dẫn cho tôi. Tôi đã kết thân được với Brutus ngay từ đầu bằng cách đái vào mũi nó: cái mũi to và dài của nó ưa liếm chất mặn. Rồi tôi cho nó vài trái xoài ương mà tôi hái được ở vườn bệnh viện. Tôi thắng nó vào một chiếc xe bò thô sơ, xứng với cái xe bò cổ lỗ của các đời Vua Lười Biếng xa xưa, và dắt nó đi.
Trên xe, có một thùng ton-nô chứa ba ngàn lít nước. Công việc của tôi cùng anh bạn Brutus là xuống bờ biển, đổ nước vào thùng rồi chở lên cái dốc khủng khiếp này đến tận bãi bằng. Tối đó, tôi mở nắp cho nước chảy vào các cống rãnh cuốn cho hết chất bẩn còn lại từ buổi sớm. Tôi bắt đầu làm từ sáu giờ, khoảng chín giờ thì xong việc.
Sau bốn ngày, anh chàng người Martinique tuyên bố là tôi đã có thể xoay xở một mình được. Chỉ có một chuyện phiền: năm giờ sáng, tôi đã phải bơi đi tìm Brutus trốn trong ao, vì nó không muốn làm việc. Điểm yếu của nó là ở lỗ mũi cho nên tôi đặt một cái vòng xuyên qua mũi nó, và thường xuyên buộc với một đoạn dây dài 50 phân. Khi tôi tìm được nó, nó lủi đi, lặn xuống nước rồi nhô lên ở một chỗ xa hơn. Đôi khi tôi mất cả tiếng đồng hồ mới tóm được nó trong cái ao nước tù hãm hôi tanh, đầy những sâu bọ và hoa súng. Tôi cáu kỉnh rủa một mình: “Đồ khốn nạn. Đồ mặt dày? Cứng đầu cứng cổ đến thế nữa! Mày có chịu ra không thì bảo!” Nó chỉ chịu nghe khi tôi đã nắm được sợi xích của nó. Còn chửi rủa, nó cóc cần. Nhưng cuối cùng, khi nó ra khỏi ao thì nó lại trở thành bạn của tôi.
Tôi có hai cái can trước kia đựng mỡ, nay dùng để chứa nước ngọt. Tôi bắt đầu tắm cho hết nước nước nhớp nhúa ở ao. Khi tôi sát xà-phòng và kỳ cọ cấn thận cho mình rồi, còn lại đến hơn nửa thùng nước ngọt, tôi lấy nắm xơ dừa để cọ rửa cho Brutus. Tôi kỳ cọ thật kỹ những chỗ kín của nó, vừa cọ vừa dội nước. Thế là Brutus cọ đầu vào tay tôi rồi tự nó đến đứng trước càng xe. Không bao giờ tôi dùng gậy nhọn thúc nó đi như anh chàng người Martinique vẫn làm. Chắc nó cũng biết ơn tôi, vì với tôi, nó rảo bước nhanh hơn. Có một con trâu cái nhỏ rất đẹp mê Brutus. Nó luôn đi bên cạnh chúng tôi. Khác với anh chàng kia, tôi không xua đuổi nó~tôi để cho nó hôn Brutus và theo chúng tôi đi bất cứ đâu. Ví dụ, khi chúng hôn nhau, tôi không phá bao giờ, và Brutus đã chịu ơn tôi, vì nó đã kéo ba ngàn lít nước với một tốc độ nhanh không ngờ. Hình như nó muốn dành lại khoảng thời gian nó đã làm mất đi những khi dừng lại liếm láp Marguerite (đó là tên con trâu cái).
Hôm qua, trong buổi điểm danh sáu giờ, có một câu chuyện bê bối nho nhỏ do Marguerite gây ra. Hình như anh chàng da đen người Martinique đã leo lên một bức tường thấp và ở đó ngày nào chàng ta cũng hôn hít Marguerite. Bị lính gác bất ngờ tóm được, cậu ta lĩnh mười ngày xà-lim. Về tội “giao cấu với súc vật”. Theo đúng quy chế chính thức. Thế mà hôm qua, khi điểm danh, Marguerite lại dẫn xác vào trại, cô nàng đi ngang qua hơn sáu chục người và đến trước anh chàng da đen, cô nàng chổng mông lại, giơ đít ra cho chàng kia. Ai nấy đều cười phá lên và chàng da đen xấu hổ đến xám mặt.
Mỗi ngày tôi phải ba lần di chuyển nước. Lâu nhất là việc chờ hai người phụ tôi đổ nước vào đầy thùng chứa, nhưng công việc cũng khá nhanh. Đến chín giờ, tôi đã xong việc, được quyền đi câu.
Tôi đã liên minh với Marguerite để kéo Bratus ra khỏi ao. Cứ gãi vào tai là cô ta nghé ọ, nghe giống như thằng ngựa cái động đực. Và Brutus tự động lên khỏi ao. Tuy tôi không phải tắm rửa cho mình nữa, tôi vẫn cọ rửa cho nó, còn cẩn thận hơn trước. Sạch sẽ, không còn bị mùi hôi hám của nước ao tù bám suốt đêm trong lúc nó ngủ ở ao, nó càng được Marguerite ưa thích hơn và điều đó làm cho nó linh hoạt hẳn lên.
Từ bờ biển đi lên, lưng chừng dốc, có một khoảng bằng; ở đấy có một hòn đá to. Brutus quen nghỉ xả hơi năm phút ở chỗ đó, tôi lấy đá chèn bánh xe lại: làm như vậy, nó yên tâm nghỉ ngơi hơn. Nhưng buổi sáng hôm đó, một con trâu khác, tên là Danton, cũng to như Brutus, nấp sau những cây dừa nhỏ chỉ có lá không, bởi vì đây là một vườn ươm cây. Chờ sẵn chúng tôi tại đấy Danton xồ ra tấn công Brutus. Con này nhảy sang bên, tránh được cú đánh, con kia đụng phải cái xe. Một bên sừng của nó cắm vào thùng ton-nô. Danton cố hết sức để gỡ sừng ra, tôi tháo dây thắng cho Brutus ra khỏi càng xe. Thế là Brutus chạy lấy đà lên phía trên cao, ít ra cũng chừng 30 mét rồi phi nước đại lao vào Danton. Không biết vì sợ hay do tuyệt vọng, trước khi con trâu của tôi tới được chỗ nó, con Danton đã giật được sừng ra khỏi thùng tuy một mẩu sừng bị gãy còn mắc tại đấy, nhưng Brutus không hãm lại kịp thời nên xô vào và lật đổ cái xe.
Đến đây tôi được chứng kiến một chuyện kỳ quái nhất. Brutus và Danton đã chạm sừng vào nhau mà không xô đẩy nhau, chúng chỉ cọ cặp sừng kếch xù của chúng vào nhau thôi. Dường như chúng nói với nhau, nhưng chúng lại không kêu rống lên mà chỉ thở phì phò. Con trâu cái từ từ leo lên dốc, theo sau là hai con đực Thỉnh thoảng hai con này dừng lại, cọ đầu và đan sừng vào nhau. Thấy lâu lắc quá, Marguerite rên rỉ một cách uể oải rồi lại đi về phía bãi bằng ở trên đảo. Hai con vật khổng lồ kia vẫn đi song hàng, theo sau.
Sau ba lần dừng lại với những nghi thức như vậy, chúng tôi đã lên tới bãi bằng. Chỗ chúng tôi đứng lại ở trước cây đèn pha là một khoảng trống dài chừng ba trăm mét. Một phía là trại tù, bên trái và bên phải là hai tòa nhà của bệnh viện: một cho tù nhân, một cho cảnh binh. Danton và Brutus vẫn đi phía sau cách hai mươi bước. Còn Marguerite, nó bình thản đến giữa khoảng đất và dừng lại. Hai con trâu thù địch tiến lên ngang nó. Thỉnh thoảng nó lại rống lên một tiếng dài nghe ai oán và rõ ràng là khêu gợi. Hai con kia lại chạm sừng vào nhau một lần nữa nhưng lần này tôi có cảm giác là chúng thật sự nói chuyện với nhau vì lẫn với hơi thở của chúng, có cả những âm thanh chắc chắn là có một ý nghĩa nào đó.
Sau cuộc nói chuyện này, một con trâu chậm chạp đi về phía bên phải, còn con kia về phía trái. Chúng đến đứng tận hai đầu khoảng trống. Marguerite vẫn đợi ở chính giữa. Tôi hiểu ngay: đây là một cuộc quyết đấu tay đôi theo đúng thể thức, được cả hai phía chấp nhận, trong đó con trâu cái sẽ là chiến lợi phẩm. Con trâu cái non tơ cũng có vẻ đồng ý, nó còn tỏ ra hãnh diện chẳng kém hai chàng mê gái sắp đánh nhau vì cô nàng.
Marguerite cất tiếng rống lên hai con trâu đực mới lao vào nhau. Trong đoạn đường mà mỗi con vượt qua, mỗi phía dài độ một trăm năm mươi mét, không cần phải kể rằng cái khối nặng hai ngàn ki-lô của chúng được nhân lên gấp bội với tốc độ chạy của chúng. Hai cái đầu va phải nhau, mạnh đến nỗi cả hai chết lặng đi đến năm phút. Con nào cũng khuỵu xuống. Brutus đã hồi sức lại trước và dậy được, nó phi về chỗ cũ. Cuộc chiến đấu kéo dài hai giờ. Lính gác muốn giết chết Brutus, nhưng tôi không chịu, và đèn lúc chạm sừng. Danton bị gẫy rời hẳn đoạn sừng bị hỏng khi mắc vào chúng ton-nô. Nó bỏ chạy, Brutus đuổi theo. Cuộc chiến đấu còn kéo dài sang ngày hôm sau. Chúng chạy qua chỗ nào: vườn tược, nghĩa địa, xưởng giặt, thì chỗ đó bị tàn phá tan tành. Chỉ sau khi đã quần nhau suốt đêm, mãi tận sớm hôm sau, lúc bảy giờ sáng, Brutus mới dồn được Danton vào chân tường lò sát sinh ở gần bờ bể và tại đấy, nó đã dùng sừng đâm thủng bụng con Danton. Để kết thúc hẳn địch thủ, Brutus lăn đi lăn lại hai lần để cho sừng xoáy sâu vào bụng con Danton và con này đã ngã gục xuống chết, trong một suối máu lẫn với lòng ruột. Cuộc chiến đấu giữa hai con vật khổng lồ làm Brutus kiệt sức đến nỗi tôi phải đỡ sừng cho nó, nó mới đứng lên được. Nó loạng choạng rời khỏi nơi ấy theo con đường ven bờ biển và con Marguerite đã tới đi bên nó, dùng cái đầu không có sừng của mình để đỡ cái cổ đồ sộ của anh bạn thắng cuộc.
Tôi không được chứng kiến đêm tân hôn của chúng, vì tên lính gác coi đàn trâu đổ tội cho tôi là đã cởi dây thắng cho Brutus nên tôi bị mất việc chăn trâu: Tôi xin được gặp chỉ huy để nói chuyện về Brutus. - Chuyện xảy ra thế nào vậy, Papillon? Phải giết Brutus thôi, nó nguy hiểm quá. Nó đã giết mất ba con trâu tốt rồi.
- Thưa, tôi đến để xin ông hãy cứu lấy Brutus. Người gác trông coi việc trồng trọt, chuyên lo lũ trâu không hiểu gì hết. Xin ông cho phép tôi được kể lại là Brutus đã tự vệ chính đáng ra sao
Viên trại trưởng mỉm cười:
- Tôi nghe đáy.
- Như vậy, như ông chỉ huy đã thấy, con trâu của tôi bị tấn công trước. - Sau khi kể các chi tiết, tôi kết luận như vậy. - Hơn thế nữa, nếu tôi không cởi dây cho Brutus thì con Danton đã đâm chết nó mà nó không thể chống đỡ được vì nó còn bị buộc vào càng xe.
- Đúng vậy- trại trưởng nói.
Vừa lúc đó người gác kia tới.
- Xin chào thiếu tá. Còn Papillon, tôi đang tìm anh, vì sáng nay anh đi trên đảo như đi làm vậy, mà anh lại không có việc làm.
- Thưa ông Angosti, tôi đi ra để xem có thể ngăn không cho hai con trâu đánh nhau được không, nhưng chẳng may, cả hai con đã điên tiết lên cả rồi.
- Có thể là như thế, nhưng bây giờ anh không chăn trâu nữa, tôi đã nói với anh rồi. Vả lại, sớm chủ nhật này, cũng phải mổ nó để lấy thịt cho trại giam.
- Ông không làm thế được.
- Anh không thể ngăn tôi đâu.
- Tôi không thể ngăn ông nhưng thiếu tá ngăn được Nếu thế cũng chưa đủ tôi sẽ nhờ bác sĩ Germain Guibert can thiệp để cứu Brutus.
- Anh xen vào chuyện này để làm gì?
Vì chuyện này có dính dáng đến tôi. Chính tôi chăn dắt con trâu, và nó là bạn của tôi.
Trâu mà là bạn của anh à? Anh giỡn với tôi đấy hả?
- Ông Angosti, xin phép ông, ông cho tôi nói một chút chứ?
- Thì cứ để cho anh ta bênh vực con trâu của anh ta xem, - ông thiếu tá nói.
- Được anh nói đi.
- Ông có tin là súc vật cũng nói với nhau được không, ông Angosti?
- Sao lại không, nếu chúng muốn giao thiệp với nhau?
- Nếu vậy thì Brutus và Danton đã cùng thỏa thuận là sẽ đấu với nhau.
Rồi tôi kể lại sự việc một lần nữa, từ đầu đến cuối.
- Trời đất quỷ thần - viên gác người Corse nói.
- Anh thật đến là kỳ cục, Papillon ạ. Anh thu xếp làm sao với Brutus thì làm, nhưng lần sau nó còn giết một con nào nữa, thì không ai, kể cả thiếu tá, có thể cứu được mạng nó. Tôi lại để anh đi coi trâu vậy. Nhưng phải bắt Brutus làm việc đi.
Hai ngày sau, chiếc xe đã được thợ ở công xưởng sửa lại, và Brutus, với cô vợ chính thất là Marguerite kèm bên, lại tiếp tục công việc chuyên chở nước hàng ngày. Còn tôi, mỗi lần đến nơi nghỉ, khi chiếc xe đã được chèn đá cẩn thận, tôi lại hỏi, “Danton đâu rồi, Brutus?” Và con vật khổng lồ kia, kéo mạnh chiếc xe, chân bước lâng lâng, với tư thế của kẻ chiến thắng, đi một mạch về tới nơi.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Cuộc nổi loạn ở đảo Sant-Joseph
Tình hình trên các đảo cực kỳ nguy hiểm do cảm giác tự do giả tạo mà đám tù nhân được hưởng. Tôi buồn khi thấy mọi người đều thu xếp cảnh sinh hoạt để sống cho thật an nhàn. Người thì đợi ngày mãn hạn tù, kẻ thì chẳng làm gì, chỉ ngập ngụa trong những thói hư tật xấu của mình.
Đêm đó, tôi nằm dài trên võng, phía cuối phòng có một sòng bạc lớn đến nỗi cả hai bạn tôi, Carbonieri và Grandet, phải cùng điều khiển mới nổi. Một người trông không xuể. Tôi thì đang ôn lại những hồi ức của dĩ vãng. Những kỷ niệm ấy không chịu đến với tôi: cứ như thể chưa hề bao giờ có cái phiên tòa đại hình ấy. Tôi cố hết sức làm cho sáng tỏ những hình ảnh mơ hồ của cái ngày tiền định nọ, nhưng vẫn không thấy rõ nét một nhân vật nào. Chỉ có viên chưởng lý hiện ra với tất cả sự thật tàn nhẫn. Tiên sư đời. Tôi tưởng đã hoàn toàn thắng được số kiếp khi tôi đến Trinidad, ở với gia đình Bowen. Mi đã yểm bùa gì cho ta để đến nỗi sáu chuyến vượt ngục rồi mà ta vẫn chưa được tự do, hỡi quân đểu cáng? Qua chuyến thứ nhất, khi nhận được tin tức của ta do phạm nhân kể lại, mi có ngủ yên được không? Ta muốn biết, mi có sợ không hay mi chỉ bực tức vì thấy con mồi của mi đã sổng chuồng sau 43 ngày đi trên đường đến cái nơi thối nát mà mi đày ta đến? Tôi đã phá được cái lồng. Nghiệp chướng nào đã đeo đuổi tôi để tôi phải trở về nhà tù này mười một tháng sau? Có thể Trời đã trừng phạt tôi vì đã dám khinh thường cuộc sống nguyên thủy nhưng đẹp đẽ biết bao mà tôi có thể kéo dài mãi mãi chừng nào tôi còn muốn?
Lali và Zoraima, hai mối tình của tôi, cái bộ lạc không có cảnh sát, không có luật lệ gì ngoài sự hiểu biết lẫn nhau tường tận giữa những con người làm thành viên của nó. Phải, tôi về đây chỉ tại tôi thôi, nhưng tôi cũng chỉ tự cho mình phải nghĩ đến một điều duy nhất là vượt ngục, vượt ngục hay là chết: Nếu như mi biết rằng ta đã bị bắt và phải trở lại nơi lưu đày, mi sẽ lại nở nụ cười chiến thắng như tại phiên tòa đại hình nọ và mi sẽ thầm nhủ: “Thế là đẹp rồi, nó lại phải đi trên con đường đến nơi ruỗng nát mà ta đã đặt nó vào!”. Nhưng mi đã lầm. Không bao giờ tâm hồn ta, trí óc ta thuộc về con đường ô nhục ấy đâu. Mi chỉ nắm được thân thể ta thôi, những tên lính gác của mi, cả hệ thống lao tù của mi mỗi ngày hai lần ghi nhận là ta có mặt; với mi, thế là đủ. Sáu giờ sáng: “Papillon đâu?” - “Có tôi”. Sáu giờ chiều: “Papillon? – “Có tôi”. Mọi việc thế là ổn rồi. Chúng ta tóm được nó đã gần sáu năm, chắc nó đã bắt đầu rữa ra rồi, chỉ cần chút xíu nữa là có ngày chuông sẽ gọi lũ cá mập đến tiếp nhận nó với đầy đủ nghi thức, trong bữa tiệc hàng ngày mà chế độ đào thải theo lối giũa cho mòn của mi vẫn cho không lũ cá nọ.
Mi nhầm rồi, những tính toán của mi không đúng đâu. Sự hiện diện về vật chất của ta không liên quan gì đến sự tồn tại về tinh thần của ta. Mi có muốn ta nói cho mi biết điều này không? “Tôi không thuộc về chốn lao tù này, tôi không bị đồng hóa chút nào với những thói quen của các bạn tù, ngay cả với những bạn tù thân thiết nhất. Tôi là người luôn luôn có mặt trong các chuyến vượt ngục”.
Tôi đang đối thoại với kẻ buộc tội tôi ở tòa đại hình thì có hai người đến gần võng tôi.
- Cậu ngủ à, Papillon?
- Chưa.
- Chúng tớ muốn nói chuyện với cậu.
- Cứ nói đi, không có ai ở đây, nói nho nhỏ, không ai nghe được đâu.
- Thế này nhé. Chúng tớ đang chuẩn bị một cuộc nổi loạn.
- Kế hoạch của các anh ra sao?
- Chúng tớ giết hết bọn A-rập, bọn lính gác, tất cả vợ con bọn lính vì đấy là những mầm mống của sự thối nát. Để làm được như vậy, tớ đây, Arnaud, bạn tớ, Hautin, và bốn người nữa, đã thỏa thuận sẽ tấn công kho vũ khí của bọn chỉ huy. Tớ làm việc ở đấy, tớ chuyên bảo trì vũ khí cho tốt. Có hai mươi ba khẩu súng máy và hơn tám mươi khẩu súng trường mút-cơ-tông và Lebel. Chúng tớ bắt đầu hành động từ...
- Thôi, đừng nói thêm gì nữa. Tôi không tham gia đâu Tôi cảm ơn các anh đã tin tôi nhưng tôi không tán thành.
- Bọn tớ nghĩ cậu sẽ nhận chỉ huy cuộc nổi loạn này. Cậu cứ để tớ nói hết các chi tiết bọn tớ đã nghiên cứu và cậu sẽ thấy là không thể nào thất bại được. Chúng tớ chuẩn bị việc này đã năm tháng nay. Đã có hơn năm mươi người tán thành chúng tớ.
- Đừng kể tên ai ra, tôi từ chối việc chỉ huy, và cũng không muốn tham gia vào việc này.
- Sao vậy? Cậu phải giải thích cho bọn tớ sau khi bọn tớ đã tin cậu và kể hết cho cậu nghe.
- Tôi không yêu cầu các anh kể cho tôi nghe dự định của các anh. Sau nữa, ở đời, tôi chỉ làm điều gì người khác muốn. Vả lại, tôi cũng không phải là một kẻ giết người hàng loạt. Tôi có thể giết chết kẻ nào làm điều gì có hại đối với tôi chứ tôi không giết đàn bà trẻ con, họ chẳng làm gì hại đến tôi cả. Điều nghiêm trọng nhất, các anh không thấy ra, và tôi sẽ nói cho các anh thấy là: dù cuộc nổi loạn của các anh đạt được kết quả, các anh cũng thất bại.
- Sao vậy?
- Bởi vì việc chính, tức thoát ra khỏi chốn lao tù, sẽ không thực hiện được. Cho là có một trăm người tham gia cuộc nổi loạn, họ sẽ đi bằng cách nào? Trên đảo chỉ có hai chiếc xuồng. Cả hai chiếc chở hết mức cũng không được hơn bốn mươi người. Còn sáu mươi người còn lại, các anh tính sao?
Chúng ta sẽ ở trong số bốn mươi người đi trên hai chiếc xuồng đó.
Các anh tưởng thế thôi. Những người khác không ngốc hơn. các anh đâu, họ cũng có súng như các anh, và nếu mỗi người ấy biết suy nghĩ một chút xíu, thì khi anh nói với những người ấy rằng họ sẽ bị bỏ lại, hai bên khắc sẽ bắn nhau để dành quyền được đi trên xuồng. Điều quan trọng hơn nữa là hai chiếc xuồng đó sẽ không có nước nào muốn nhận, vì điện tín sẽ báo tin này cho tất cả các nước mà các anh có thể đến được, và báo ngay từ trước khi các anh đến nữa, nhất là với số người chết đông đảo mà các anh để lại. Các anh đến đâu cũng sẽ bị giữ lại lại và bị trao trả cho nước Pháp. Các anh biết là tôi từ Colombia trở về chứ, tôi biết rõ điều tôi nói. Tôi bảo đảm với các anh là sau chuyện ấy, ở đâu người ta cũng trả các anh về.
- Thôi được. Thế là cậu từ chối phải không?
- Phải.
- Lời cuối cùng của cậu đấy chứ
- Quyết định không thay đổi của tôi đấy.
- Vậy chúng tớ chỉ còn rút lui thôi.
- Chờ một chút đã, Tôi xin các anh đừng nói về dự định ấy với bất cứ bạn nào của tôi.
- Sao vậy?
- Vì tôi biết trước là họ sẽ từ chối, cho nên các anh đừng nói mà mát công.
- Được lắm.
Các anh không thể từ bỏ kế hoạch này được sao?
- Thật tình mà nói, không được đâu, Papillon ạ.
- Tôi không hiểu nổi lý tưởng của các anh là gì, bởi vì tôi đã nói một cách rất đứng đắn với các anh là dù cuộc nổi loạn có thành công, các anh cũng không được tự do.
- Chúng tớ chỉ muốn trả thù. Và bây giờ cậu đã giải thích cho chúng tớ thấy là không thể đến đâu được, rằng không nước nào tiếp nhận chúng tớ, vậy, chúng tớ sẽ vào rừng và tụ tập thành một toán ở rừng vậy.
- Tôi hứa với các anh là sẽ không nói việc này ra với ai, ngay cả bạn chí thân.
- Chúng tớ cũng tin như vậy.
- Tốt. Một điều cuối cùng nữa: các anh tin cho tôi biết trước tám ngày để tôi đến đảo Saint-Joseph chứ không ở đảo Royale khi sự việc xảy ra.
- Cậu sẽ được báo trước kịp thời để có thể chuyển đến đảo khác.
- Tôi không thể làm gì để các anh thay đổi ý kiến được sao? Các anh có thể phối hợp với tôi làm điều gì khác được không? Chẳng hạn, ăn cắp bốn khẩu súng trường, và vào một đêm nào đó, tấn công vọng gác ca-nô, không giết ai cả, chỉ lấy một chiếc xuồng rồi cũng nhau trốn đi.
- Không, chúng tớ đã chịu đựng quá nhiều rồi. Cái chính đối với chúng tớ là trả thù, dù có phải chết.
- Thế còn những đứa nhỏ, những người đàn bà thì sao?.
- Tất cả đều cùng một lò, cùng một giòng máu mà ra. Tất cả phải chết.
- Thôi đừng nói chuyện này nữa.
- Cậu không chúc chúng tớ được may mắn?
Không, tôi chỉ nói với các anh là hãy thôi việc ấy đi, có nhiều việc đáng làm hơn cái chuyện tồi tệ đó.
- Cậu không chấp nhận quyền được trả thù?
- Có chứ, nhưng không phải là bằng cách sát hại những người vô tội. Chào các anh.
- Chào cậu. Vậy là chúng ta không hề nói gì với nhau đấy nhé, phải không, Papi?
- Đồng ý.
Cả Hautin và Arnaud đã rút lui. Chuyện này thật là tức cười. Hai thằng cha đúng là khùng ngoài ra lại còn năm sáu chục thằng khác có liên can, rồi đến giờ H số ấy còn lên tới một trăm nữa. Thật là chuyện quái đản. Trong số các bạn tôi không hề có ai đả động gì đến việc này. Như vậy là hai thằng cha nọ chắc chỉ bàn với bọn trưởng giả thôi. Không hề có những tay thuộc giới giang hồ tham gia vụ này. Điều nghiêm trọng hơn nữa, là những kẻ trưởng giả giết người lại là những tên sát nhân thật sự, những kẻ giết người trong giới giang hồ thì khác hẳn.
Trong tuần này, tôi đã điều tra rất kín đáo về Arnaud và Hautin. Hình như Arnaud lãnh oan án chung thân về một tội không đáng tới mười năm tù. Các bồi thẩm kết tội hắn nặng như vậy do năm trước, anh của hắn đã bị chết chém vì giết một cảnh sát. Còn hắn thì do công tố viên nói nhiều đến người anh của hắn để tạo một không khí thù địch, nên hắn bị xử án nặng ghê gớm đến thế. Hắn lại còn bị tra tấn rất tàn nhẫn trong lúc bị bắt, cũng vẫn do những việc làm của người anh.
Hautin chưa được hưởng tự do bao giờ, hắn ở tù từ năm lên chín. Vào hồi mười chín tuổi, hắn đã giết một người ngay trước khi ra khỏi nhà trừng giới một ngày để đăng lính hải quân, với mục đích thoát khỏi tù. Hắn ta có lẽ cũng hơi điên, vì dự định của hắn hình như là sang Venezuela, vào làm việc tại một mỏ vàng bên đó rồi sẽ tìm cách tự làm cho gẫy một chân để được hưởng một khoản tiền bồi thường lớn. Cái chân đó bị tê cứng do hắn tự chích thuốc gì tôi không rõ, từ hồi ở Saint- Martin-de-Ré.
Có sự thay đổi bất ngờ. Sáng nay, trong buổi điểm danh, Arnaud, Hautin và em của Matthieu Carbonieri đã bị gọi đi. Cậu em tên Jean, là thợ làm bánh mì, nghĩa là làm việc tại bến cảng, gần nơi thuyền đậu. Họ bị chuyển đi đảo Saint Joseph mà không được giải thích gì, và cũng không có lý do rõ rệt. Tôi cố tìm hiểu. Không ai biết chút gì, thế mà Arnaud trông coi vũ khí đã bốn năm rồi, còn Jean Carbonieri là thợ làm bánh mì đã năm năm. Không thể là chuyện ngẫu nhiên.
- Chắc phải có rò rỉ ở đâu, nhưng rò rỉ như thế nào và đến mức nào?
Tôi quyết định bàn chuyện đó với ba người bạn thân: Matthieu Carbonieri, Grandet và Galgani. Cả ba đều không biết chút gì. Thế là Arnaud và Hautin chỉ rủ rê những tay sừng sỏ không thuộc giới giang hồ.
- Vậy thì sao bọn họ lại nói với tớ?
- Bởi vì tất cả ai ai cũng biết là cậu tính vượt ngục với bất kỳ giá nào.
- Nhưng không phải với giá đó.
- Bọn ấy không hiểu nồi sự khác biệt.
- Thế còn thằng Jean, em cậu?
Làm sao mà biết được vì lý do gì nó lại đâm đầu vào làm cái việc ngu ngốc đó.
- Có thể có thằng kéo nó vào cuộc rồi quay ra giao động, và thằng em cậu không biết gì cả chăng?
Sự việc diễn biến thật mau lẹ. Đêm ấy Girasolo bị giết khi vào nhà cầu. áo của anh da đen chăn trâu người Martinique có dính máu. Mười năm ngày sau một cuộc điều tra chớp nhoáng diễn ra và qua lời khai của một tên da đen khác bị cách ly, anh chăn trâu bị một tòa án đặc biệt kết án tử hình.
Một gã giang hồ nhiều tuổi, tên là Garvel, dân Savoie, đến nói chuyện với tôi ở chỗ giặt áo quần ở ngoài sân.
- Papi này, tớ khó chịu quá vì tớ đã giết Girasolo. Tớ muốn cứu thằng nhỏ nhưng lại sợ bị chặt đầu. Phải trả cái giá ấy, thì tớ không nói đâu. Nếu nghĩ lại cái mẹo nào chỉ bị độ ba hay năm năm thì tớ tự thú rồi.
- án khổ sai của anh là bao nhiêu?
- Hai mươi năm.
- Anh đã ngồi được bao nhiêu lâu rồi?
- Mươi hai năm.
- Anh hãy bằng lòng chịu án chung thân đi, như vậy anh không phải vào nhà lao cấm cố.
- Biết làm sao bây giờ?
- Cứ để tôi nghĩ đã. Đêm nay tôi sẽ nói với anh.
Tôi đến, tôi nói với Garvel:
- Anh không thể tự thú và nhận đã làm việc đó được!
- Sao vậy?
Anh có thể bị án tử hình. Chỉ có một cách để tránh nhà lao cấm cố là lĩnh án chung thân. Anh cứ tự thú đi. Lý do: lương tâm anh không cho phép anh để một người vô tội bị chết oan. Anh hãy tìm một cảnh binh người Corse để nhờ bào chữa cho anh. Tôi sẽ nói cho anh biết tên người đó, để tôi hỏi ý nó trước đã.
- Phải làm mau mau mới được. Không nên để thằng cha bị chặt đầu quá nhanh. Anh hãy cho hai ba ngày nữa.
Tôi đã bàn việc này với viên giám thị Collona. Anh ta đã mách cho tôi một ý kỳ: tôi sẽ dẫn hắn đến gặp thiếu tá chỉ huy. Và tôi nói là Garvel xin tôi bênh vực hắn, đưa hắn đến gặp ông để nhận tội. Tôi bảo đảm với hắn rằng, với hành động cao thượng này, không thể kết án tử hình hắn được, nhưng hắn cũng biết trường hợp của hắn là nghiêm trọng, và đã tính trước là sẽ lãnh án chung thân.
Mọi việc đều diễn ra một cách ổn thỏa. Garvel đã cứu được cậu oẳn da đen, cậu này được thả ngay lập tức. Kẻ làm chứng giả để buộc tội hắn lãnh một năm tù còn Garvel thì chung thân..
Hai tháng đã trôi qua. Bây giờ, khi mọi việc đã chấm dứt, Garvel mới kể cho tôi nghe đầu đuôi câu chuyện Girasolo, sau khi nhận lời tham gia cuộc nổi loạn và được biết những chi tiết của âm mưu này, đã tố cáo Arnaud, Hautin và Carbonieri, may mà nó không biết thêm tên ai.
Được nghe tố cáo cái chuyện tầy đình này, bọn cảnh sát không tin. Tuy vậy, để phòng ngừa, chúng cũng chuyển đi Saint-Joseph ba tên tù bị nêu tên đó, nhưng không nói gì với chúng, không lục vấn chúng và không làm gì cả.
- Còn cậu Garvel, vì sao cậu giết nó?
Tớ viện cớ là nó đã ăn cắp plan của tớ. Rằng chỗ tớ nằm đối diện với chỗ nó - đó là sự thật - và ban đêm, tớ lấy plan ra giấu vào cái mền vẫn để gối đầu Có đêm tớ đi cầu, khi tớ về chỗ thì plan của tớ bị mất. Lúc bấy giờ, quanh chỗ tớ, chỉ có một người thức, đó là Girasolo. Bọn lính tin cách giải thích của tớ. Họ cũng không nói cho tớ biết là nó đã tố giác một vụ nổi loạn.
- Papillon! Papillon ra điểm đanh! - Ngoài sân có tiếng gọi.
- Có tôi đây
- Thu xếp đồ đạc. Lên đường đi Saint-Joseph ngay bây giờ.
- Chà! Mẹ kiếp!
Chiến tranh vừa nổ ra ở Pháp. Tình hình buộc phải có một lý luật mới: những viên chức đầu ngành mà để xảy ra một cuộc vượt ngục là bị cách chức ngay.
Tù nhân nào bị bắt khi đang vượt ngục, sẽ bị tử hình. Việc vượt ngục bị coi như có động cơ muốn gia nhập các lực lượng của phe Nước Pháp Tự do đang phản bội tổ quốc. Việc gì cũng có thể dung thứ được, chứ vượt ngục thì dứt khoát là không.
Thiếu tá Prouillet đi đã được hai tháng. Tôi chưa biết người chỉ huy mới, mà cũng chẳng biết làm gì. Tôi chào các bạn. Tám giờ, tôi đã ở trên tàu đi Saint-Joseph.
Bố của Lisette không còn ở trại Saint-Joseph nữa. Tuần qua, ông đã cùng gia đình dời đi Cayenne. Chỉ huy tàu giao ngay tại bến cho tên lính trực cùng với giấy tờ kèm theo.
- Anh là Papillon hả?
- Thưa thiếu tá, vâng.
- Anh là một nhân vật kỳ cục lắm - Ông ta vừa nói vừa lật giấy tờ của tôi ra xem.
- Tại sao tôi lại là kỳ cục?
- Bởi vì một mặt, anh bị ghi là nguy hiểm về mọi phương diện, nhất là có một lời ghi chú bằng mực đỏ : “thường xuyên chuẩn bị vượt ngục” rồi lại, có ghi thêm: “bị cá mập bao vây, vẫn cố cứu con gái thiếu tá chỉ huy đảo Saint-Joseph”. Tôi có hai con gái nhỏ, Papillon à, anh có muốn gặp chúng không?
Ông gọi hai đứa trẻ, lên ba và năm tuổi vào phòng làm việc của ông. Cả hai đều cô mái tóc vàng, đi vào theo sau chúng là một tên A-rập còn trẻ, mặc toàn trắng và một phụ nữ tóc đen, rất xinh.
- Em ơi, em thấy người này không, anh ta đã cố cứu Lisette, con đỡ đầu của em, đấy.
- Ôi! Cho tôi được bắt tay anh nào, - người thiếu phụ nói.
Bắt tay một người tù khổ sai! Tính hồn nhiên và cái cử chỉ tự phát của bà ta làm tôi cảm động.
- Phải, tôi là mẹ đỡ đầu của Lisette. Chúng tôi rất thân với gia đình Frandoit. Thế mình có định làm gì cho anh này không, hả mình?
Anh ta phải về trại giam đã. Rồi anh sẽ cho tôi biết anh muốn tôi phân cho anh việc gì nhé.
- Xin cảm ơn thiếu tá, cảm ơn bà. Xin ông cho tôi biết lý do vì sao tôi phải chuyển đến Saint-Joseph. Đối với tôi, đó gần như là một hình phạt.
- Theo tôi nghĩ thì không có lý do gì. Chẳng qua ông chỉ huy mới sợ anh vượt ngục.
- Ông ấy nghĩ không sai.
- Các hình phạt đối với những ai để tù vượt ngục đã được tăng lên. Trước chiến tranh, có khả năng bị mất một lon; bây giờ, đó là điều tất nhiên rồi, chưa kể các hình thức khác nữa. Vì vậy ông ta đưa anh đến đây, ông ta thà để anh vượt ngục từ Saint-Joseph không thuộc phạm vi của ông, còn hơn là từ Royale là nơi ông phải chịu trách nhiệm.
- Thưa thiếu tá, ông phải ở đây bao nhiêu lâu?
- Mười tám tháng.
- Tôi không thể nào chờ lâu đến thế được, nhưng tôi sẽ kiếm cách trở về Royale để khỏi phương hại đến ông.
- Cám ơn anh, - vợ ông ta nói. - Tôi rất sung sướng thấy anh xử sự cao thượng như vậy. Anh cần gì, cứ đến đây đừng ngần ngại. Bà này, ba ra lệnh cho vọng gác để Papillon có thể đến gặp em khi nào anh ta yêu cầu nhé.
- Được thôi, em yêu. Mohammed, đi theo Papillon về trại, còn anh, anh có thể chọn phòng anh muốn ở.
- ồ, tôi thì rất dễ: tôi xin ở nhà giam những tù nguy hiểm.
- Điều đó không khó, thiếu tá cười, đoạn viết mấy chữ vào một tờ giấy đưa cho Mohammed. Tôi rời căn nhà vừa là nhà ở vừa là văn phòng của thiếu tá bên bến tàu, đó là nhà ở trước đây của Lisette. Tôi đi về trại, theo sau là tên A-rập trẻ. Chỉ huy trạm gác là một người Corse, rất hung hãn, y là tay chuyên giết người mà ai cũng biết. Tên y là Filissari.
- Papillon, anh đến rồi đấy hả? Anh biết tính tôi đấy, tốt thì thật tốt, xấu cũng thật xấu. Anh đừng giở trò vượt ngục với tôi nhé, vì anh mà thất bại là tôi giết anh như giết con dán vậy. Hai năm nữa, tôi sẽ về hưu. Vì vậy bây giờ không phải là lúc gặp chuyện phiền toái.
- Ông biết rằng tôi vốn là bạn của tất cả những người Corse. Tôi không nói với ông là tôi sẽ không vượt ngục, nhưng nếu tôi vượt ngục, tôi sẽ thu xếp để việc đó không xảy ra vào phiên trực của ông.
- Vậy thì được, Papillon. Chúng ta không phải là kẻ thù của nhau rồi. Anh cũng hiểu đấy, bọn trẻ họ có thể chịu đựng những chuyện bực mình do một cuộc vượt ngục gây ra, còn tôi thì anh lạ gì? Với tuổi tôi, lại sắp về hưu giữa! Rồi, thế là hiểu nhau nhé. Còn bây giờ thì về chỗ ở đã chỉ định.
Thế là tôi lại vào trại, trong một văn phòng giống y như ở đảo Royale, chứa từ một trăm đến một trăm hai tù nhân. ở đấy có thằng Pierrot rồ, Hautin, Arnaud và Jean Carbonieri. Đáng lẽ tôi phải về cùng nhóm với Jean vì nó là em Matthieu nhưng Jean không có cỡ như Matthieu, và do nó đánh bạn với Hautin. Arnaud tôi thấy không hợp. Cho nên, tôi gạt nó ra và về ở với Carrier, người Bordeaux, còn gọi là thằng Pierrot rồ.
Đảo Saint-Joseph hoang đã hơn đảo Royale, hơi nhỏ hơn Royale một chút nhưng vì dài hơn, nên trông như lớn hơn. Trại ở lưng chừng cao điểm của đảo, giữa hai khoảng đất bằng làm thành hai tầng kế tiếp nhau. Trại giam ở tầng thứ nhất; còn ở tầng trên là nhà lao cấm cố trứ danh mà mọi người ghê sợ. Nhân tiện cũng xin nói là phạm nhân bị giam cấm cố hàng ngày vẫn được đi tắm một giờ. Hy vọng rằng việc đó sẽ còn tiếp tục.
Hàng ngày, vào buổi trưa, tên A-rập làm việc cho thiếu tá đưa đến cho tôi ba cái cà-mèn xếp lồng vào một miếng sắt dẹt ở đầu có tay xách bằng gỗ. Hắn để ba ngăn cà-mèn lại và lấy những ngăn cà-mèn hôm trước về. Bà mẹ đỡ đầu Lisette hàng ngày gửi cho tôi những món mà bà đã nấu nướng cho gia đình bà ăn.
Chủ nhật, tôi đến thăm và cảm ơn bà. Tôi ở đấy cả buổi chiều để chuyện trò với bà và chơi với các con bà, vuốt mớ tóc vàng của chúng, tôi tự nhủ, nhiều khi khó mà biết đâu là bổn phận của mình. Nguy cơ đang đè nặng lên gia đình này trong trường hợp hai thằng ngu kia vẫn giữ ý định thật là ghê gớm. Girasolo đã tố giác câu chuyện ra rồi mà bọn lính chẳng tin. Đến nỗi chúng không chịu tách mấy thằng kia ra, mà chỉ chuyển chúng đến Saint-Joseph. Nhưng nếu tôi nói thêm một câu để người ta tách chúng riêng ra từng thằng một, hóa ra tôi lại xác nhận sự kiện là có thật, cùng tính chất nghiêm trọng của chuyện tố giác nọ. Nếu thế thì phản ứng của cai tù sẽ ra sao? Tốt hơn cả là câm miệng lại.
ở trại, Arnaud và Hautin hầu như không nói với tôi Thế lại hóa hay, chúng tôi đối xử với nhau nhã nhặn nhưng không thân mật, Jean Carbonieri không nói chuyện với tôi, nó tức vì tôi đã không về ở cùng nhóm với nó. Chúng tôi có bốn người: Pierrot rồ, Marquetti, đã từng đoạt giải nhì trong cuộc thi vĩ cầm ở Roma, nhiều khi cậu ta chơi đàn mấy giờ liền, làm tôi cũng buồn mang mác, và cả Marsori, dân Corse, vùng Sète, cũng vậy.
Tôi không nói gì với ai, tôi có cảm giác là ở đây cũng không ai biết gì về cuộc chuẩn bị nổi loạn bị dang dở ở đảo Royale. Họ còn giữ những ý định ấy không? Cả ba đang làm lao dịch nặng nhọc. Họ phải kéo lê dưới nước những tảng đá to để xây một hồ bơi ngoài biển. Một tảng đá to được buộc chặt bằng xích, một sợi dây khác từ mười lăm đến hai mươi mét được nối vào đấy ở bên phải và bên trái. Mỗi tù nhân chẳng dây kéo của mình vào thân hay vào vai, móc đây đó vào một khâu của sợi xích dài. Rồi cùng một lúc, y như những con vật, họ phải kéo các tảng đá đến nơi đã định. Dưới trời nắng chói chang, đấy là một công việc nặng nhọc và chán ngấy.
Có tiếng súng trường, súng mút-cơ-tông và súng ngắn nổ vang ở phía bến tàu. Tôi hiểu ngay, lũ điên khùng đã hoạt động. Việc gì đã xảy ra vậy? Ai thắng? Tôi ngồi trong phòng, không động đậy. Những tay tù sừng sỏ đều nói: “Họ nổi loạn rồi!”.
- Nổi loạn à? Nổi loạn thế nào? - Tôi cố tình tỏ ra cho mọi người thấy là tôi không biết gì. Jean Carbonieri hôm đó không đi làm, sáng lại gần tôi, mặt tuy rám nắng mà vẫn tái mét như đã chết rồi. Nó nói lí nhí, “Nổi loạn đấy, anh Papi ạ”. Tôi lạnh lùng hỏi nó: “Loạn gì? Tao không biết”.
Tiếng súng mút-cơ-tông vẫn tiếp tục nổ. Pierrot rồ chạy vào phòng.
- Nổi loạn nhưng hình như thất bại thì phải. Thật là một lũ điên? Papillon, mở dao ra đi. ít ra ta cũng phải giết được thật nhiều lính rồi có chết mới chết.
- Phải, - Carbonieri nói, - phải giết càng nhiều lính càng tốt. Chissilia lấy ra một con dao cạo. Người nào cũng lăm lăm một con dao đã mở sẵn. Tôi nói với họ:
- Đừng có xử sự như những thằng ngu. Chúng ta có bao nhiêu mống?
- Chín.
- Bảy cậu hãy bỏ vũ khí -xuống. Cậu nào hăm dọa lính gác, tôi sẽ giết ngay. Tôi không muốn bị bắn như thỏ trong căn phòng này. Cậu có tham gia vào vụ này không?
- Không.
- Còn cậu?
- Cũng không.
- Thế cậu này?
- Tôi chẳng biết nếp tẻ gì cả.
- Tốt. Chúng ta ở đây đều là dân giang hồ, không ai biết gì về cuộc nổi loạn của bọn trường giả cả. Hiểu không nào?
- Được rồi.
Đứa nào đi tố giác và nhận rằng có biết ít nhiều điều gì là sẽ bị bắn chết ngay đấy. Bởi vậy, thằng nào ngờ nghệch nói ra là chẳng ăn cái giải gì đâu. Các cậu vứt cả vũ khi vào thùng phân đi. Bọn lính chắc cũng sắp đến đây rồi.
- Thế nhỡ cánh tù thắng thì sao?
- Nếu cánh tù thắng, ta cứ để cho chúng thu xếp và hoàn thành chiến thắng của chúng bằng một cuộc vượt ngục. Còn tôi, với cái giá này, tôi không ham. Các cậu thì sao?
- Chúng tôi cũng vậy, - tám người kia cùng đồng thanh nói, kể cả Jean Carbonieri.
Tôi không ho hé về những gì tôi vừa nhận thấy: không còn tiếng súng nổ nữa, và như thế nghĩa là cánh tù đã thất bại. Quả thật là cuộc tàn sát đã được dự tính từ trước chưa thể nào mới đến giờ này mà đã xong xuôi được
Bọn lính vừa chạy như điên đến, vừa dùng báng súng, gậy, và chân thúc mấy người tù đi chuyển đá về.
Chúng lùa họ vào căn nhà kế bên rồi cũng vào trong đó luôn. Đàn ghi-ta, măng-đô-lin, bàn cờ vua, cờ đam, đèn dầu, ghế băng, các chai đựng dầu, đường, cà phê, quần áo trắng, tất cả đều bị chà đạp phá hủy và bị vất ra ngoài. Bọn lính đập phá tất cả những gì mà quy chế không chính thức cho phép các phạm nhân được giữ.
Có hai tiếng súng nổ, chắc chắn là tiếng súng ngắn. Trại giam có tám tòa nhà. Bọn lính hành động như vậy ở cả tám tòa nhà, thỉnh thoảng còn dùng bán súng để phá. Một người trần truồng, rõ ràng là bị bọn lính giải về xà-lim để đánh cho nhừ tử, đã chạy về phía nhà giam.
Bọn chúng đã đến các nhà ở phía trước và bên phải chỗ chúng tôi. Bây giờ chúng đang ở nhà thứ bảy. Chỉ còn lại căn nhà của chúng tôi. Cả chín đứa chúng tôi ai nấy đều vẫn ngồi yên ở chỗ của mình. Những người đi làm ở ngoài cũng chưa ai về. Người nào cũng chết dí tại chỗ của người nấy. Không ai nói gì. Miệng tôi khô rang, tôi đang nghĩ: “Mong cho đừng có thằng khốn nào lợi dụng lúc hỗn quân hỗn quan này để hạ thủ mình một cách vô tội vạ”.
- Chúng nó đến đây rồi kia, - Carbonieri nói, hắn không còn hồn vía nào nữa.
Bọn lính, hơn hai mươi tên, ùa vào, súng mút cơ- tông hay súng ngắn lăm lăm trong tay sẵn sàng nhả đạn. Filissari la lối:
- Này, chúng mày chưa cởi hết quần áo ra à? Còn chờ gì nữa, đồ chó chết? Chúng mày sẽ bị bắt cả lũ.
- Cởi hết quần áo ra, chúng ta không muốn lột quần áo ở xác chúng mày ra.
- Thưa ông Fillissari...
- Câm mồm đi, Papillon. Đừng có xin tha tội ở đây. Cái chuyện chúng mày bày đặt ra nó quá ư nghiêm trọng. ở trong phòng tù nguy hiểm này, chắc chắn cả bọn chúng mày đã tham gia.
Mắt y trợn trừng lên vằn đỏ những tia màu, ánh mắt tràn đầy sát khí.
- Chúng tôi có quyền, Pierrot nói.
Tôi quyết định đánh bài liều.
- Tôi ngạc nhiên thấy một người Corse như ông mà lại đi tàn sát những người vô tội? Ông muốn bắn hả? Được, không cần phải dài giòng làm gì, chúng tôi không thiết nữa đâu. Ông bắn đi, bắn cho mau đi. Trời đất ơi! Tôi tưởng ông cũng là một con người chứ, ông Filissari kia, một đệ tử chân chính của Napoléon! Nhưng tôi đã lầm. Cũng chẳng sao. Thậm chí tôi cũng những muốn nhìn thấy ông khi ông bắn chúng tôi nữa cơ. Tôi quay lưng lại đây. Này, các cậu quay lưng cả lại để người ta không nói là chúng mình định tấn công họ. Và tất cả mọi người như một, đã quay lưng lại bọn lính. Bọn họ sững sờ trước thái độ của tôi, càng ngạc nhiên hơn vì trước đấy (việc này về sau tôi mới biết) Filissari đã bắn chết hai phạm nhân ở các nhà khác.
- Mày còn muốn nói gì nữa không, Papillon?
Vẫn quay lưng lại, tôi đáp:
- Chuyện nổi loạn này, tôi không tin chút nào. Sao lại nổi loạn? Để giết lính à? Rồi vượt ngục? Rồi đi đâu? Tôi đây, là chuyên viên vượt ngục, tôi từ ở rất xa, tận Colombia trở về. Tôi thử hỏi có nước nào lại chứa chấp những kẻ giết người rồi vượt ngục? Tên cái nước ấy là gì vậy? Đừng có ngu như thế, không một ai xứng đáng với danh hiệu một con người lại dính vào chuyện này làm gì.
- Mày, thì may ra có thể như thế, nhưng còn Carbonieri? Tao chắc chắn nó có tham gia, vì sáng nay thằng Arnaud và thằng Hautin ngạc nhiên thấy nó báo bệnh để không đi làm.
- Ông tưởng thế thôi, tôi bảo đảm là như vậy. Và tôi quay mặt lại với y. Tôi nói để ông hiểu ngay nhé. Carbonieri là bạn tôi, anh ta biết mọi chi tiết về chuyến vượt ngục của tôi, anh ta không có ảo tưởng gì hết, anh ta biết rõ hậu quả của một cuộc vượt ngục bằng cách nổi loạn.
Đúng lúc đó, thiếu tá chỉ huy đến. Ông ta đứng bên ngoài. Filissari đi ra. Thiếu tá gọi:
- Carbonieri.
- Có tôi
- Cho nó vào xà lim nhưng không được ngược đãi. Giám thị này, đi theo nó. Tất cả đi ra ngoài hết, chỉ các giám thị trưởng ở lại đây thôi. Đưa tất cả các tù nhân còn rải rác ở đảo về trại. Không được giết ai, cho tất cả về trại, không trừ một ai.
Thiếu tá chỉ huy trại, viên chỉ huy phó và Filissari cùng bốn lính gác bước vào phòng giam. Thiếu tá nói.
- Papillon, có một việc rất nghiêm trọng vừa xảy ra. Với tư cách chỉ huy trại giam, tôi có trách nhiệm rất nặng nề. Trước khi có vài biện pháp đối phó, tôi cần biết ngay một số tin tức. Tôi biết là trong thời điểm ngặt nghèo này, anh sẽ từ chối không nói chuyện riêng với tôi, vì thế, tôi đã đến đây. Giám thị Ductos đã bị giết. Bọn chúng còn muốn lấy vũ khi cất ở nhà tôi đây là một cuộc nổi loạn. Tôi chỉ có vài phút thôi, tôi tin anh. Tôi hỏi ý kiến anh về việc này, thế nào?
- Nếu có nổi loạn, sao chúng tôi không biết gì cả? Sao không ai nói gì với chúng tôi? Có bao nhiêu người liên quan đến vụ này? Tôi đặt ra ba câu hỏi đó với ông thiếu tá và tôi sẽ trả lời, nhưng trước tiên, ông phải cho tôi biết, là sau khi họ giết giám thị và đoạt được súng của ông ấy rồi, tôi đoán chắc vậy, có bao nhiêu người đã hành động?
- Ba người.
Đó là những ai?
- Arnaud, Hautin và Marceau.
- Tôi hiểu rồi. Dù ông muốn hay không, ông nghĩ thế nào tùy ý nhưng không có cuộc nổi loạn nào cả.
- Papillon, anh nói láo. - Filissari nói - Cuộc nổi loạn này đáng lẽ xảy ra ở đảo Royale, Girasolo đã tố giác, chúng tôi không tin là có. Nhưng bây giờ, rõ ràng những gì nó nói ra là đúng. Vậy là anh có ý bịp chúng tôi Pappillon!
Nếu như ông nói là đúng, thì tôi đây, tôi là thằng đi tố cáo chăng, rồi cả Pierrot rồ nữa, rồi Carbonieri và Galgani cùng tất cả cánh lục lâm Corse ở đảo Royale, rồi cả cánh giang hồ nữa. Bất chấp những sự việc đã xảy ra tôi vẫn không tin vào chuyện ấy. Nếu có cuộc nổi loạn, thì chúng tôi cầm đầu chứ không có ai khác.
- Anh nói chuyện gì mà lạ vậy? Không có ai liên quan đến việc này sao? Vô lý.
- Thế hành động của những kẻ khác là thế nào? Có ai ngoài ba thằng khùng ấy làm gì không? ở đây, có ai nhúc nhích chân tay để chiếm vọng gác có bốn giám thị có súng, lại có cả ông xếp Filissari cũng có súng mút-cơ-tông nữa không? Có bao nhiêu tàu ở Sain- Joseph nào? Chỉ có một chiếc sà-lúp thôi? Thế là một sà-lúp dùng cho sáu trăm người à? Chúng tôi có ngu đâu? Rồi giết người để vượt ngục? Cứ cho là có hai mươi người đi được, thì rồi cũng sẽ bị bắt và phải đầu hàng ở bất cứ chỗ nào. Thưa thiếu tá, tôi không biết người của ông hay chính tay ông giết bao nhiêu tù, nhưng gần như chắc chắn đấy là những người vô tội.
Và bây giờ lại đi phá tất cả các đồ đạc mà chúng tôi có được là nghĩa lý gì? Các ông tức giận có lý đấy, nhưng xin các ông đừng quên rằng ngày mà các ông không để cho đời sống của tù nhân được dễ chịu đôi chút, thì ngày đó đúng là sẽ có một cuộc nổi loạn, một cuộc nổi loạn của những kẻ tuyệt vọng, nổi loạn để cùng tự vẫn với nhau, đã chết thì chết chùm cả một thể: lính cũng như tù. Thưa ông Dutain, tôi nói với ông hết sức thành thật đấy, tôi cho là ông đáng được đối xử như vậy, chỉ vì ông đã đến tìm chúng tôi hỏi rõ tình hình trước khi quyết định. Xin ông để cho chúng tôi được yên.
- Thế còn những thằng đã liên quan đến vụ này? Filissan lại nói.
- Đó là việc các ông phải tìm ra. Chúng tôi không biết gì cả, về chuyện này, chúng tôi không giúp được gì cho các ông đâu. Tôi xin nhắc lại, đây là chuyện điên rồ của những thằng trưởng giả, chúng tôi không dính dáng vào đấy.
- Ông Filissarn, khi nào người ở phòng tù nguy hiểm này về hết, ông khóa cửa lại cho đến khi có lệnh mới. Đặt hai người gác ở cửa, không được đánh đập ai và đừng có phá phách các thứ của họ. Đi thôi
Nói đoạn ông ta bỏ đi cùng với cả bọn cảnh sát.
Phào! Phào! Hú vía!
Vừa đóng cửa lại. Filissari vừa nói với tôi:
- Phúc tổ cho mày là tao lại là dân Corse!
Chưa đầy một giờ sau, gần hết những người thuộc căn nhà của chúng tôi đã về cả. Chỉ thiếu mười tám người: bọn gác đã nhận ra rằng trong lúc hốt hoảng cuống quít họ đã nhốt lầm mấy người này vào một nhà khác Khi tất cả đã cùng trở về, ở đâu về đó, chúng tôi mới biết rõ sự việc đã xảy ra như thế nào, vì tất cả những người đó đều đang đi làm cỏ-vê. Một anh kẻ trộm người Saint-Etienne đã thầm thì kể với tôi:
- Papi này, anh thử tưởng tượng là chúng tôi đang kéo một tảng đá nặng gần một tấn trên quãng đường dài gần bốn trăm mét. Con đường kéo đá không có đoạn nào gay go lắm, và chúng tôi đến một cái giếng cách nhà trại trưởng chừng năm mươi mét. Cái giếng vẫn là nơi nghỉ chân từ trước đến nay. Nó vừa có bóng dừa mát, lại ở giữa đoạn đường phải đi tiếp. Cho nên chúng tôi đã dừng lại như mọi ngày, chúng tôi kéo một xô nước giếng mát lịm lên uống, có mấy thằng thấm nước vào khăn để che lên đầu. Mỗi lần nghỉ thường là mười phút, thằng lính gác cũng đến ngồi ở thành giếng. Hắn bỏ mũ ra, đang lấy khăn tay ra lau đầu và mặt thì Arnaud từ đằng sau tới tay cầm một cái cuốc, buông thõng xuống cho nên không ai biết mà báo cho thằng lính đề phòng. Giơ cuốc lên và dùng phía lưỡi bén bổ vào giữa đầu người lính chưa mất đến một giây đồng hồ. Đầu bị tách ra làm hai mảnh, người lính ngã sóng soài ra đất không kêu được một tiếng. Hautin đã đứng sẵn từ trước ở đó, chộp ngay lấy khẩu mút-cơ-tông, còn Marceau thì cởi thắt lưng và lấy khẩu súng ngắn. Có súng trong tay, Marceau quay lại nói với cả bọn tù: “Đây là một chốc nổi loạn, ai theo chúng tôi, thì đi cùng chúng tôi”. Không có một tên giữ chìa khóa nào nhúc nhích hay kêu la, không có tù nhân nào tỏ ý muốn theo họ” –
Cậu ta kể tiếp:
-Arnaud nhìn chúng tôi khắp lượt rồi nói: “Đồ hèn! Cả lũ chúng mày ấy. Rồi chúng tao sẽ cho chúng mày thấy đã làm người thì phải thế nào?” Arnaud lấy khẩu mút-cơ-tông từ tay Hautin rồi cả hai chạy về phía nhà thiếu tá. Marceau ở lại nhưng đứng tách riêng ra một bên. Cậu ta cầm một khẩu súng ta và ra lệnh: “Không được động đậy, không được nói, không được la hét. Còn bọn A-rập kia, nằm úp sấp xuống đất”. ở chỗ tôi đứng, tôi nhìn thấy rõ lắm.
Arnaud đang lên bậc thềm nhà thiếu tá thì thằng A-rập giúp việc ở đấy mở cửa đi ra, với hai đứa bé gái, một đứa dắt tay, một đứa bế bên hông. Cả hai bên đều sửng sốt, thằng A-rập đang bế đứa bé đá cho Arnaud một cái. Arhaud muốn giết hắn nhưng hắn đã thẳng tay đưa đứa bé ra để đỡ. Không ai kêu la, cả thằng A-rập lẫn những người khác. Khẩu mút-cơ-tông chĩa vào thằng A-rập đến bốn năm lần, ở đủ các góc độ khác nhau. Cứ mỗi lần như thế là đứa bé lại bị giơ ra trước nòng súng. Hautin không leo lên bậc mà đứng bên kéo ống quần của thằng A-rập. Thấy mình sắp ngã đến nơi, nó quẳng cả đứa bé gái vào khẩu mút-cơ-tông của Arnaud. Bị mất thăng bằng trên bậc thang, Arnaud, đứa bé gái, thằng A-rập bị Hautin kéo chân, tất cả đều ngã đè lên nhau lỏng chỏng. Lúc đó mới có những tiếng la hét đầu tiên, trước hết là của hai đứa bé, rồi của thằng A-rập, rồi tiếng chửi rủa của Arnaud và Hautin. Thằng A-rập, nhanh tay hơn hai gã kia, đã nhặt được khẩu súng nhưng nó chi nắm được cái nòng, lại nắm bằng tay trái. Hautin lại tóm dược cẳng hắn. Còn Arnaud thì nắm lấy cánh tay phải của hắn và bẻ xoắn lại. Thằng A-rập ném khẩu mút-cơ-tông ra cách xa mười mét.
Trong khi cả ba xông tới để cướp khấu mút-cơ- tông, thì có tiếng súng nổ lần đầu tiên, do người lính coi tù đi quét lá bắn tới. Ông thiếu tá hiện ra ở cửa sổ và bắn phát một, vì sợ bắn phải thằng A-rập, nên ông ta chỉ nhằm vào chỗ khẩu mút~cơ-tông rơi. Hautin và Arnand chạy trốn về phía trại theo con đường ven bờ biển, và vẫn bị súng bắn theo. Hautin chân bị tê cứng nên chạy không được nhanh, và đã bị hạ trước khi tới mép nước. Còn Arnaud thì lội xuống nước, khoảng giữa chỗ tù tắm và hồ bơi của lính. Chỗ ấy lúc nào cũng đầy cá mập. Arnand bị bao vây giữa những phát súng của một tên lính nữa vừa đến trợ lực và một tên lính coi tù đi quét lá. Y nấp sau một tảng đá to.
- Đầu hàng đi, sẽ được sống, - bọn lính kêu to.
- Không bao giờ, - Arnaud đáp lại, - tao thà cho cá mập phanh thây còn hờn là nhìn thấy bộ mặt khả ố của chúng mày.
Và y lội xuống biển, thẳng vào chỗ lũ cá mập tập trung ở đấy. Hình như y bi trúng một viên đạn vì y có dừng lại một lát. Thấy thế, bọn lính tiếp tục bắn. Arnaud lại đi chứ không bơi, thân trên trên y còn nhô lên trên mặt nước thì lú cá mập đã tấn công y. Trông rất rõ y đâm một con cá mập đã phóng nửa người lên mặt nước để lao vào y. Rồi y đã bị phanh xác ra - hiểu theo nghĩa đen - vì lũ cá mập kéo tứ phía mà không cắn đứt chân tay y ra được. Chưa đầy năm phút sau y đã biến mất.
Bọn lính đã bắn ít ra là một trăm phút súng xuống chỗ Arnaud và lũ cá mập đang quần nhau. Chỉ có một con cá mập bị chết; nó đã dạt vào bờ, ngửa bụng lên.
Thấy bốn phía đều có cảnh binh kéo tới, Marceau vất súng xuống giếng, hòng cứu lấy mạng mình, nhưng bọn A-rập đã đứng lên, dùng gậy và tay đấm, chân đá, dồn hắn về chỗ bọn lính, nói rằng nó có ở trong cuộc. Tuy hắn bê bết máu và đã giơ tay lên, bọn lính cũng dùng súng lục và mút-cơ-tông bắn vào hắn, và cuối cùng, một tên lính còn cầm đầu nòng khẩu mút-cơ-tỏng phang báng súng vỡ đầu ra cho chết hẳn.
Bợn cảnh binh cũng xả đạn vào Hautin. Có cả thảy ba mươi tên, mỗi tên bắn sáu phát, và chúng đã cho cậu này ăn trước sau hơn một trăm ha mươi phát đạn. Filissari bắn chết những đứa bị bọn A-rập tố cáo là đã nhúc nhích định theo Arnaud nhưng sau lại chùn bước.
Đó là chuyện bịa đặt một trăm phần trăm vì tuy có thể có những thằng đồng lõa, song không hề có một ai cựa quậy cả.
Đã hai ngày hôm nay, tất cả những tù nhân bị nhốt trong mấy căn phòng giam dành riêng cho từng loại rồi không ai được ra đi làm. ở cửa, linh gác cứ hai giờ thay phiên một lần. Giữa các nhà, lại có những lính gác khác. Cấm nói từ nhà này sang nhà kia. Giữa hai hàng võng là lối đi; đứng tại lối đi đó, hơi chếch một chút, có thể nhìn ra sân qua cửa sát. Có cả những cảnh binh được đưa từ đảo Royale đến để tăng cường. Không một tù nhân nào được ở bên ngoài. Kể cả bọn A-rập giữ chìa khóa cũng vậy. Tất cả đều bị nhốt. Thỉnh thoảng, có một người trần truồng theo sau là lính, bị đưa đến khu xà lim giam tù bị phạt nhưng không thấy có tiếng kêu la hay tiếng đánh đập. Bọn lính thường đứng nhìn vào trong qua các cửa sổ bên hông nhà. ở mỗi cửa ra vào, có hai lính gác, một ở bên trái, một ở bên phải. Thời gian gác ngắn, chỉ hai giờ nhưng họ không bao giờ ngồi, cũng không đeo súng lên vai: khẩu mút-cơ-tông tì vào cánh tay trái, luôn sẵn sàng nhả đạn.
Tù nhân quyết định đánh bài poker, từng nhóm năm người một. Không đánh bài Marseillaise, cũng không chơi những thứ bài ăn lớn vì như thế quá ồn ào. Marquetti đang kéo một bài sonate của Beethoven cũng bị ngăn lại.
- Không được chơi thứ nhạc ấy nữa, lính chúng tôi đang có tang. Một không khí căng thẳng khác thường đè nặng không phải chỉ trên trại giam mà trên toàn trại. Không có cà phê, không có xúp. Buổi chiều chỉ có một mẩu bánh mì, trưa thịt hộp, chiều thịt hộp, bốn người một hộp. Vì các thứ đồ lề của chúng tôi không bị phá hủy, nên chúng tôi có cà phê và thực phẩm: bơ, dầu, bột mì, v.v.... Các nhà khác không còn gì. Khi chúng tôi đun nước pha cà phê và khói ở trong nhà xí bay ra, một tên cảnh binh bắt tắt lửa đi. Người đun nước là một tù nhân thuộc giới giang hồ trở về già, người Marseille, tên là Niston, thường pha cà phê để bán.
Lão đã trả lời lính gác một cách xấc xược:
- Anh có muốn tắt lửa thì vào mà tắt lấy đi.
Thế là tên lính bắn qua cửa sổ mấy phát súng. Cà phê và lửa đành biến vội. Niston bị trúng đạn vào chân. Mọi người đều cảm thấy quá căng và tưởng lính bắt đầu bắn chúng tôi nên ai nấy liền nằm sấp xuống đất.
Chỉ huy phiên gác vào giờ đó lại vẫn là Filissari. Y chạy như điên đến, theo sau có bốn lính. Người lính vừa bắn xong, gốc vùng Auvergne, đang trình bày sự việc xảy ra. Filissari chửi anh ta bằng tiếng Corse, còn anh nọ không nghe được gì, chỉ biết nói:
- Tôi không hiểu gì cả.
Chúng tôi lại lên võng ngồi. Chân Niston bị chảy máu.
- Đứng nói là tôi bị thương. Chúng nó sẽ khử tôi luôn ở ngoài đó mất.
Filissari đến gần cửa sắt. Marquetti nói gì với y bằng tiếng Corse.
- Cứ làm cà phê, chuyện này sẽ không xảy ra nữa. Nói xong y bỏ đi.
May cho Niston là viên đạn không nằm trong chân: gặp đoạn cơ bắp, nó ra ở phía nửa chân bên kia. Bọn tôi buộc ga rô cho lão, máu ngưng chảy và sau đó lão được băng bó với nước giấm.
- Papillon, ra đây - Lúc bấy giờ đã tám giờ rồi: bên ngoài trời tối đen..
Tôi không biết mặt người lính đã gọi tôi, có thế đấy là một người gốc Bretagne.
- Tại sao tôi lại phải ra ngoài vào giờ này? Tôi chẳng có việc gì ở ngoài ấy cả.
- Thiếu tá muốn gặp anh.
- Bảo ông ta đến đây. Tôi không ra đâu.
- Anh từ chối không đi hả?
- Phải, tôi từ chối không đi đấy.
Các bạn tôi vây thành một vòng quanh tôi. Người gác nói qua cánh cửa vẫn đóng kín. Marquetti ra cửa nói:
- Chúng tôi không để Papillon ra khỏi đây nếu không có thiếu tá.
- Thì chính ông ta cho kiếm Papillon đấy mà.
- Vậy thì bảo ông ấy cứ lại đây.
Mót giờ sau. hai tên lính trẻ đến trước cứa phòng có tên A-rập giúp việc ở nhà thiếu tá đi theo. Tên này đã cứu ông và ngăn chặn được cuộc nổi loạn.
- Papillon ơi, tôi là Mohammed đây. Tôi đến tìm anh, thiếu tá muốn gặp anh, ông ấy không thể đến đây được
Marquetti nói với tôi:
- Papi này, thằng cha ấy mang súng mút-cơ-tông đấy
Tôi ra khỏi vòng người do các bạn tôi quây thành và lại gần cửa. Quả thật Mohammed đang cầm trong tay một khẩu súng trường. Một tên tù khổ sai lại được chính thức mang súng trường? Chuyện khó tin lại có thật.
- Đi thôi, tên A-rập nói. Tôi đến đây để cùng đi theo anh và để bảo vệ anh, nếu cần.
- Nhưng tôi không tin là cần.
Tôi ra ngoài, Mohammed đi cạnh tôi, có hai tên lính đi theo sau. Tôi đến sở chỉ huy. Đi ngang qua vọng gác ở ngoài cổng trại. Filissari nói với tôi:
- Papillon, tôi mong anh không có gì phải phàn nàn về tôi đấy.
- Riêng tôi thì không có gì, trong phòng giam tù nguy hiểm cũng không ai có gì phàn nàn về ông. Còn ở chỗ khác thì tôi không biết.
Chúng tôi đi xuống nhà thiếu tá. Căn nhà và bến tàu được thắp đèn đất cốt tỏa ánh sáng ra xung quanh nhưng chẳng được bao nhiêu. Trong khi đi đường. Mohammed đưa cho tôi một bao thuốc lá Gauloises.
Khi bước vào gian phòng được hai cây đèn đất chiếu sáng, tôi thấy có thiếu tá chỉ huy đảo Royale, viên chỉ huy phó của ông ta, thiếu tá chỉ huy Saint-Joseph, viên chỉ huy và viên chỉ huy phó của nhà lao cấm cố trên đảo Saint-Joseph.
Bên ngoài tôi thấy bốn tên A-rập, và có bốn cảnh binh giám sát. Tôi nhận ra hai tên thuộc toán cỏ-vê hữu quan.
- Papillon đến rồi ạ - Tên A-rập nói.
- Chào anh, Papillon, - thiếu tá trại trưởng Saint- Joseph nói.
- Chào ông.
- Anh ngồi xuống ghế này.
Tôi ngồi đối mặt với tất cả mọi người. Cửa phòng để mở, trông vào bếp, tôi thấy bà mẹ đỡ đầu Lisette giơ tay thân mật chào tôi.
- Papillon này, - thiếu tá trại trường Royale nói, anh được thiếu tá Dutain coi là người có thể tin cậy được Anh đã chuộc tội bằng cách cố cứu sống đứa con đỡ đầu của bà ấy. Tôi thì chỉ biết anh qua những báo cáo chính thức, coi anh là một tù nhân nguy hiểm về mọi mặt. Tôi muốn bỏ qua các báo cáo ấy và tin vào ông Dutain đồng sự của tôi. Chắc chắn rồi sẽ có một phái bộ đến đây để điều tra, và các tù nhân các loại ai cũng phải khai ra những điều gì mình biết. Chắc chắn là anh và một vài người nữa, có uy tín lớn đối với các tù nhân, và họ sẽ răm rắp nghe lời anh. Chúng tôi muốn biết ý kiến anh về cuộc nổi loạn và cả những điều mà anh đã ít nhiều thấy trước là những người trong khối anh, rồi sau đó là những người khác, có thể khai ra.
- Tôi không có gì để khai ra cả, cũng không có bổn phận gây ảnh hưởng gì đối với lời khai của những người khác Nếu có một phải bộ đến để điều tra thật sự, thì trong tình hình hiện nay, các ông sẽ bị cách chức hết.
- Anh nói gì lạ vậy, Papillon? Tôi và các đồng sự của tôi ở Saint-Joseph đã ngăn chặn được cuộc nổi loạn kia mà!
- Có lẽ riêng ông, ông sẽ thoát được, nhưng các ông chỉ huy ở Royale thì không thoát được đâu.
- Anh hãy nói cho rõ đi nào. - Hai viên chỉ huy ở đảo Royale đứng lên rồi lại ngồi xuống.
- Nếu các ông cứ chính thức nói là có cuộc nổi loạn, các ông đều sẽ lãnh đủ. Nếu các ông chịu chấp nhận các điều kiện của tôi, tôi sẽ cứu tất cả các ông trừ Filissari.
- Điều kiện gì?.
- Thứ nhất, sinh hoạt ở đây phải trở lại nếp bình thường ngay lập tức, bắt đầu từ ngày mai. Chỉ khi nào chúng tôi nói chuyện được với nhau bình thường, chúng tôi mới tác động được vào mọi người về những điều phải khai với ban thanh tra. Có đúng không nào?
- Đúng - Dutain nói. - Nhưng tại sao lại phải cứu chúng tôi?
- Bởi vì từ đảo Royale, các ông không phải chỉ huy đảo Royale mà chỉ huy cả ba đảo nữa.
- Đúng.
- Và các ông đã dược Girasolo báo cáo là có một cuộc nổi loạn đang được âm mưu chuẩn bị. Cầm đầu là Hautin và Arnau chứ gì.
- Cả Carbonieri nữa, tên lính gác nói.
Không, điều đó là sai. Girasolo có thù riêng với Carbonieri từ khi còn ở Marseille. Nó đã tố giác thêm anh ta một cách vô căn cứ. Nhưng các ông có tin là có nổi loạn đâu. Tại sao vậy? Vì hắn nói là cuộc nổi loạn này nhằm mục đích giết đàn bà, trẻ con, bọn A-rập và các cảnh binh. Điều đó có vẻ khó tin. Mặt khác, ở Royale có tám trăm người mà chỉ có hai chiếc sà-lúp, còn ở Saint-Joseph có sáu trăm người mà chỉ có một chiếc sà-lúp. Không một người chín chắn nào lại đi chấp thuận một mưu đồ như thế.
- Làm sao anh biết được tất cả những điều đó?
- Đấy là việc của tôi. Nhưng nếu các ông cứ nói mãi về cuộc nổi loạn, dù cho các ông có thủ tiêu tôi đi, và nhất là khi các ông làm thế thật, thì tất cả những điều ấy sẽ lộ rõ và sẽ được chứng minh rành rọt. Do đó trách nhiệm sẽ thuộc về đảo Royale, đã chuyển những người kia đi Saint-Joseph, lại không tách rời họ ra. Quyết định hợp lý duy nhất - cho nên nếu cuộc điều tra thấy được thì các ông sẽ không tránh khỏi những hình thức kỷ luật nặng nề đấy - là đưa người này đến đảo Quỷ, người kia đến Saint-Joseph. Nhưng tôi vẫn thừa nhận là khó có thể tin được câu chuyện đó do lũ điên rồ ấy bày ra được. Tôi nhấn mạnh là nếu các ông nói đến nổi loạn, các ông sẽ sa lầy đấy. Vậy nếu các ông chấp nhận điều kiện của tôi, thì thứ nhất là, như tôi đã nói, mọi việc phải trở lại bình thường ngay từ ngày mai; thứ hai, tất cả những ai bị nhốt vào xà lim vì tình nghi có âm mưu nổi loạn phải được thả ngay - cũng không được tra hỏi những người đó về phần đồng lõa của họ trong cuộc nổi loạn, bởi vì không làm gì có nổi loạn; thứ ba là ngay bây giờ, Filissari phải được đưa tức khắc về đảo Royale trước hết để đảm bảo an toàn cho chính ông ta: bởi vì một khi không hề có nổi loạn thì làm thế nào biện bạch được việc giết chết ba người kia? Sau nữa vì ông ta là một kẻ giết người ti tiện, và khi sự việc xảy ra ông ta đã hành động trong một tâm trạng sợ hãi đến cùng cực: ông ta toan giết chết tất cả mọi người, kể cả chúng tôi ở trong phòng giam. Nếu các ông chấp nhận những điều kiện đó, tôi sẽ thu xếp để tất cả mọi người đều phát biểu là Arnaud, Hautin và Marcean đã hành động với mục đích làm sao gây ra thật nhiều tai họa trước khi chết. Những gì họ làm không thể lường trước được. Họ không có tòng phạm, không hề tâm sự với ai. Theo nhận xét của toàn thể phạm nhân, dó là những kẻ đã quyết định tự vẫn bằng cách ấy, giết càng nhiều người càng tốt, trước khi họ bị giết: mục đích của họ là làm sao khiêu khích cho lính bắn vào họ. Nếu các ông ai muốn, tôi xin vào trong bếp để các ông bàn luận và trả lời cho tôi sau.
Tôi đi vào bếp và đóng cửa lại. Bà Dutain bắt tay tôi và đưa cà phê với cả rượu cô nhắc chó chúng tôi uống. Tên A-rập Mohammed nói: Anh không nói gì cho tôi à?
- Đó là việc của ông thiếu tá. Một khi ông ấy đã giao súng cho cậu, tức là ông ấy định tha tội cho cậu đấy
Bà mẹ đỡ đầu của Lisette nhẹ nhàng nói với tôi:
- Các ông ở đảo Royale lần này thì lãnh đủ nhé. Tất nhiên rồi, thừa nhận có cuộc nổi loạn ở Saint- Joseph mà ai cũng bắt buộc phải biết rõ, trừ ông chồng bà, đối với họ dễ quá.
- Papillon này, tôi nghe được hết và tôi hiểu ngay là anh muốn làm điều tốt cho chúng tôi.
- Đúng vậy, thưa bà Dutain.
Cửa mở ra và một lính vào gọi.
- Papillon, qua đây.
- Anh ngồi xuống đi, - thiếu tá chỉ huy đảo Royale nói. - Sau khi bàn luận với nhau, chúng tôi nhất trí kết luận là anh nói đúng: không hề có nổi loạn. Ba tù nhân đó đã quyết định tự vẫn và trước khi chết, họ cố giết được càng nhiều người càng tốt. Vậy là mai mọi việc hàng ngày sẽ lại như cũ. Ngay đêm nay, ông Filissari sẽ được chuyển về đảo Royale. Giải quyết trường hợp của ông ta là việc của chúng tôi, nên chúng tôi cũng không yêu cầu anh cộng tác với chúng tôi. Chúng tôi trong vấn đề này chỉ mong anh giữ lời hứa.
- Các ông cứ tin ở tôi. Xin chào các ông.
- Mohammed và hai ông giám thị hãy đưa Papillon về phòng. Và mời ông Filissari vào đây. Ông ta sẽ đi với chúng tôi về đảo Royale ngay.
Trên đường về, tôi nói với Mọhammed rằng tôi hy vọng là anh ta sẽ được thả. Anh ta cảm ơn tôi.
- Bọn chỉ huy muốn cậu làm gì thế?
Trong cảnh im lặng hoàn toàn, tôi kể lại rõ ràng và tỉ mỉ từng câu một, những gì đã xảy ra.
- Nếu có ai không đồng ý hay có gì chỉ trích những gì tôi đã nhân danh tất cả mà thỏa thuận với các cấp chỉ huy ở đây, xin cứ nói ra.
- Tất cả đều nhất trí tán thành.
- Cậu cho rằng họ tin là không còn ai liên quan đến vụ này sao?
- Không đâu, nhưng nếu họ không muốn bị cách chức thì họ bắt buộc phải tin như vậy. Cả chúng ta nữa, nếu chúng ta không muốn gặp chuyện rắc rối, chúng ta cũng phải tin như vậy.
Bảy giờ sáng hôm nay, tất cả các tù nhân bị giam ở xà lim đều được thả về chỗ cũ. Có trên một trăm hai mươi người. Chưa ai đi làm nhưng tất cả các phòng giam đều được mở cửa và ngoài sân đầy những tù nhân được tự do hút thuốc, thoải mái chuyện trò, ngồi ngoài nắng hay trong bóng râm. Niston đã được đưa đi bệnh viện. Carbonieri cho tôi biết là có những tấm bìa ghi hàng chừ: “Tình nghi tham gia vào vụ nổi loạn” được treo trước cửa ít ra từ tám mươi đến một trăm xà-lim.
Lúc này đây, được tập trung đông đủ, chúng tôi mới biết rõ sự thật. Filissari chỉ giết có một người, những người khác bị hai tên lính trẻ giết, hai tên này bị mấy phạm nhân giết, trong bước đường cùng: tưởng mình sắp bị giết, các phạm nhân này đã cầm dao lao bừa vào lính, cố giết lấy một người trước khi chết. Thế là một vụ nổi loạn thật sự may sao đã phá sản ngay từ đầu để trở thành một cuộc tự vẫn kỳ quặc của ba tù nhân khổ sai: đấy là luận đề hình thức được mọi người, cả ban Quản trị lẫn tù nhân, công nhận. Còn lại là truyền thuyết hay chuyện thật, tôi không biết nói thế nào cho chính xác.
Hình như việc mai táng ba người bị giết ở trại cùng với Hautin và Marceau được tiến hành như sau: vì chỉ có một cỗ quan tài có rãnh trượt để thả các thi hài xuống biển, nên bọn lính đặt tất cả các xác chết xuống lòng thuyền rồi cả năm cái xác được ném bằng tay xuống cho cá mập. Khi tiến hành việc liệng xác, họ tính rằng, trong lúc những thi thể ném xuống trước đang bị cá mập cắn xé thì những thi thể ném sau đã được buộc đá vào chân có đủ thời gian chìm sâu xuống nước. Tôi được nghe kể lại rằng không có cái xác nào chìm xuống nước cả, và cả năm cái xác đó, được liệm vải trắng vào lúc chập choạng tối, đã nhảy múa như những con rối thật sự, được miệng và đuôi lũ cá mập đưa đẩy trong một bữa tiệc thịnh soạn xứng với Nabuchodonozor. Cảnh tượng hãi hùng đó đã làm cho đám tù chèo thuyền và đám lính gác hốt hoảng tháo lui
Một ban thanh tra đã tới, ở lại gần năm ngày trên đảo Saint-Joseph, và hai ngày trên đảo Royale. Tôi không bị tra hỏi riêng mà cũng chỉ như mọi người. Qua thiếu tá Dutain, tôi biết là mọi việc đều êm thấm. Filissari được nghỉ phép chờ ngày về hưu, như vậy là lão ta sẽ không trở lại đảo này nữa. Mohammed được ân xá hoàn toàn, và thiếu tá Dutain được gắn thêm một lon.
Vì thế nào cũng có những kẻ không được vừa lòng nên hôm qua, một tù nhân người Bordeaux đã hỏi tôi:
- Giúp đỡ cho bọn coi tù như vậy, phỏng chúng ta có được xơ múi gì?
Tôi nhìn thẳng vào y:
- Chẳng được gì mấy: chỉ có độ năm, sáu chục tù không bị giam vào ngục cấm cố về tội tòng phạm, cậu thấy thế là không có gì hả?
May mắn là cơn giông tố đó đã dịu dần. Một sự thỏa thuận ngầm giữa cai tù và tù đã hoàn toàn vô hiệu hóa ban thanh tra trứ danh nọ, mà có lẽ chính ban thanh tra cũng chỉ mong sao mọi việc được ổn thỏa cho rồi.
Về phần tôi, tôi chẳng được gì cũng chẳng mất gì nếu không nói đến sự biết ơn của các bạn tôi đã không phải chịu đựng một kỷ luật khắt khe hơn. Trái lại, lao dịch kéo đá đã được bãi bỏ. Đó là một lao dịch kinh khủng. Bây giờ trâu kéo đá, tù nhân chỉ xếp đá vào chỗ đã định. Carbonieri được trả về lò bánh mì. Tôi tìm cách trở về đảo Royale. ở đây thì không có công xưởng nên không thể đóng bè được.
Việc Pétain lên cầm quyền ở Pháp làm quan hệ giữa tù nhân và giám thị nặng nề thêm. Tất cả các nhân viên thuộc chính quyền đều lớn tiếng tuyên bố theo phải Pétain, và có một lính gác người Normandie đã nói với tôi:
- Cậu có muốn nghe tôi nói với cậu điều này không, Papillon? Tôi chưa bao giờ theo phải Cộng hòa cả. ở đảo, không ai có máy thu thanh và không ai biết được tin tức gì. Ngoài ra, lại có tin đồn là chúng tôi tiếp tế cho tàu ngầm Đức ở Martinique và Guadeloupe. Thật không sao hiểu nổi. Luôn luôn nổ ra những cuộc tranh luận.
- Mẹ kiếp! Cậu có muốn tớ nói cho cậu biết không, Papi? Bây giờ mới là lúc nổi loạn, để trao các đảo cho nước Pháp của De Gaulle.
- Cậu cho là ông Charlot cao kều ấy cần nơi giam tù khổ sài à? Để làm gì?
- Thì để có được hai ba ngàn quân chứ còn sao?
- Những thằng hủi, những thằng ngớ ngẩn, lao phổi, kiết lỵ hả? Cậu không đùa đấy chứ? Ông ta không ngốc đến nỗi phải ôm lấy lũ tù khổ sai đau.
- Thế hai ngàn tù còn khỏe mạnh thì sao?
Đấy lại là chuyện khác. Đúng là người, nhưng không phải là những người có khả năng cầm súng. Cậu tưởng chiến tranh giống như đi ăn cướp đấy hả? Ăn cướp chỉ mười lăm phút là xong, chiến tranh kéo dài hàng năm. Muốn trở thành một chiến sĩ tốt, phải có lòng tin của người yêu nước. Cậu có tin hay không mặc cậu, tớ không muốn ở đây có lấy một thằng nào dám hy sinh thân mình cho nước Pháp.
- Hy sinh làm quái gì, sau khi nước Pháp đã đối xử với chúng ta như thế này?
- Cậu đã thấy tớ nói có lý chưa? May mà ông Charlot cao kều đã có những người khác các cậu để tiến hành chiến tranh. Nhưng cũng phải nhớ là bọn Đức khốn nạn đang ở trên đất nước chúng ta! Lại có những thằng Pháp đi với tụi chúng nữa. Tất cả quan và lính ở đây, không trừ ai, đều nói là chúng ủng hộ Pétain.
Bá tước Bérac nói: “Giá có thể liều thân đánh nhau với Đức thì đó cũng là một cách để chúng ta chuộc tội”.
Thế là sinh ra cái hiện tượng sau đây: trước kia chưa có tù nhân nào nói đến việc chuộc tội. Thế mà bây giờ tất cả mọi người, từ dân giang hồ đến dân trưởng giả, tất cả các phạm nhân khổ sai khốn khổ ấy đều thấy lóe lên một tia hy vọng.
- Thế để được gia nhập vào hàng ngũ của De Gaulle, chúng mình sẽ nổi loạn chứ hả Papillon?
- Đáng tiếc là tớ chẳng cần phải chuộc tội đối với bất cứ ai cả. Tớ ngồi xổm lên cái công lý của nước Pháp với cái mục “phục hồi nhân phẩm” của nó. Tớ sẽ tự tay mình chứng minh là tớ đã “phục hồi nhân phẩm” rồi. Nhiệm vụ của tớ là vượt ngục, để khi được tự do, sẽ trở thành một người bình thường, sống trong xã hội mà không gây nguy hại gì cho xã hội đó. Tớ không tin rằng một con người có thể chứng minh một cái gì khác bằng một cách gì khác được. Tớ sẵn sàng tham gia bất cứ hành động nào để đạt mục đích vượt ngục. Trao quần đảo này cho ông Charlot cao kều không phải là việc của tớ, và tớ chắc rằng ông ta cũng chẳng thiết. Vả lại nếu ta làm như vậy, cậu có biết những thằng cha ngồi trên chóp bu sẽ nói gì không? Rằng chúng mình chiếm đảo để được tự do, chứ không phải để làm một nghĩa cử vì nước Pháp tự do. Mà cậu nào có biết ai đúng, ai sai. De Gaulle hay Pétain? Tớ thì tớ chẳng biết cái cóc khô gì cả. Đất nước bị chiếm đóng, tớ cũng đau khổ như mọi người dân thường, tớ nghĩ đến những người thân của tớ, đến bố mẹ, đến các chị em tớ, đến các cháu tớ.
- Chúng ta lo lắng như vậy cho cái xã hội chẳng thương xót gì chúng ta ấy làm quái gì nhỉ.
- Điều ấy cũng là bình thường, vì bọn cảnh sát và bộ máy luật pháp của nước Pháp, bọn hiến binh, bọn cảnh sát, chúng không phải là nước Pháp. Đấy là cả một tầng lớp riêng biệt, gồm những kẻ tâm địa hoàn toàn méo mó. Bây giờ có biết bao nhiêu kẻ như thế sẵn sàng trở thành đầy tớ cho bọn Đức? Tớ cá với cậu là cảnh sát Pháp đang bắt bớ đồng bào của chúng để giao cho bọn cầm quyền Đức. Thôi nhé. Tớ đã nói và tớ nhắc lại rằng tớ không tham gia vào một cuộc nổi loạn, với bất cứ lý do gì. Trừ phi là để vượt ngục, nhưng cũng còn phải xem vượt ngục như thế nào đã.
Những cuộc tranh cãi rất gay gắt đã nổ ra giữa các phe phái trong trại. Kẻ ủng hộ De Gaulle, kẻ ủng hộ Pétain. Thật ra chẳng ai hiểu gì cả, vì như tôi đã nói, cả giám thị lẫn tù nhân, không ai có cái máy thu thanh nào. Tin tức có được đều do các tàu đi ngang qua đem đến cho chúng tôi một ít bột mì, rau khô và gạo. Đối với chúng tôi, chiến tranh đứng từ xa như vậy mà nhìn, thật khó hiểu.
Nghe đâu như có một người đến Saint-Laurent- du-Maroni để tuyển mộ lính cho lực lượng tự do. Tù nhân chẳng biết gì hết, chỉ biết một điều là bọn Đức đóng khắp nước Pháp.
Có một sự kiện vui vui: một linh mục đến đảo Royale có thuyết giảng sau khi làm lễ. Ông ta nói:
- “Nếu các đảo bị tấn công, các anh sẽ được phát súng để giúp các giám thị báo vệ đất đai của nước Pháp” Chuyện thật mười mươi đấy. Ông cha ấy ngộ nghĩnh thật, và không biết ông ta hiểu về chúng tôi ra thế nào mà lại đi thuyết giảng như vậy được. Chắc ông ta đánh giá trí khôn của chúng tôi chẳng cao chút nào. Kêu gọi tù nhân đi bảo vệ nhà giam của họ. Thật là chuyện kỳ quặc khó nghe nổi.
Đối với chúng tôi, chiến tranh có nghĩa là: người gác tăng gấp đôi từ lính quèn đến chỉ huy trưởng và chánh giám thị; rất nhiều thanh tra, một số thanh tra nói giọng Đức hay giọng Alsace rất rõ; rất ít bánh mì: chỉ còn bốn trăm gam; rất ít thịt.
Chỉ có một thứ được tăng là giá biểu phải trả cho một cuộc vượt ngục thất bại: tử hình. Vì thêm vào bản án về tội vượt ngục là: “mưu toan chạy sang hàng ngũ những kẻ thù của nước Pháp”.
Tôi ở đảo Royale đã được bốn tháng nay. Tôi đã có một người bạn lớn là bác sĩ Germain Guibert. Vợ bác sĩ, một người đàn bà khác thường, đã nhờ tôi trồng cho bà một vườn rau để giúp bà sống được trong cái chế độ ăn uống hạn chế này. Tôi đã trồng trong vườn của bà nào rau xà lách, nào cải củ, đậu đũa, nào cà chua, và cà tím. Bà rất khoái và coi tôi như một người bạn tốt
Ông bác sĩ này không bao giờ bắt tay một viên giám thị, bất kể ở cấp bực nào, nhưng lại thường bắt tay tôi và một vài tù nhân khác mà ông đã biết rõ và đem lòng quý trọng.
Sau này, khi được tự do, tôi đã liên hệ lại với bác sĩ Germain Guibert qua bác sĩ Rosenberg. Ông đã gởi cho tôi một tấm hình ông chụp cùng với vợ trên bến Canebière ở Marseille. Ông đã chết ở Đông Dương vì cố cứu một thương binh rơi lại phía sau. Ông là một con người phi thường và vợ ông cũng tương xứng với ông. Năm 1976, khi về Pháp, tôi định đến thăm bà. Sau tôi lại thôi vì bà đã không viết thư cho tôi sau khi bà cho tôi một giấy chứng nhận mà tôi cần xin bà. Từ đó,tôi không được tin tức gì của bà nữa. Tôi không biết lý do của sự im lặng này, nhưng trong đáy lòng tôi vẫn giữ mãi một mềm tri ân sâu sắc đối với cả hai ông bà về cách họ đối xử với tôi trong gia đình họ ở Royale.
Vài tháng sau, tôi đã có thể trở về đảo Royal rồi
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
IX. Đảo Saint-Joseph
Cái chết của Carbonieri
Ngày hôm qua, Matthieu Carbonieri bạn tôi đã bị một nhát dao trúng tim. Vụ giết người đã kéo theo một loạt những vụ giết người khác. Anh ta đang tắm trần truồng ở xưởng giặt, và khi bị đao đâm, mặt còn đầy xà phòng. Khi đang tắm gương sen, chúng tôi có thói quen mở sẵn dao và dấu dưới quần áo, để kịp thời lấy được ngay nếu có người nào vẫn được coi là kẻ thù của mình bất thần ập đến. Vì lần này không làm như vậy nên anh đã thiệt mạng, kẻ giết bạn tôi là một tên Armeni, suốt đời làm mướn.
Được thiếu tá cho phép, và có một người phụ giúp tôi đưa xác anh xuống tận bến. Anh ta nặng ký nên khi xuống đốc, tôi phải nghỉ ba lần. Tôi buộc vào chân anh ta một tảng đá to và chẳng bằng một sợi dây thép thay cho sợi dây thừng thường lệ. Làm như vậy, cá mập không thể cắn đứt dây được và xác anh sẽ chìm xuống đáy mà không bị chúng ăn.
Chuông nhà thờ vang lên khi chúng tôi đến bến tàu. Đã sáu giờ chiều. Mặt trời lặn ở cuối chân trời. Chúng tôi lên ca nô. Trong cái hòm thường ngày, được dùng cho tất cả mọi người, nắp đã được đậy lại Matthieu nằm yên trong giấc ngủ vĩnh viễn. Với anh ta thế là hết.
“Chèo đi nào”, - viên cảnh binh cầm lái nói. Chưa đầy mười phút, chúng tôi đã tới dòng lạch chảy giữa hai đảo Royale và Saint-Joseph. Tự nhiên, tôi thấy cổ nghẹn lại. Cả chục cái vây cá mập nhô lên khỏi mặt nước, quay vòng rất nhanh trong một khoảng chật hẹp chưa tới bốn trăm mét. Bọn cá ăn thịt tù đây. Chúng đến thật đúng giờ hẹn và điểm hẹn chính xác. Cầu trời cho chúng không đớp kịp bạn tôi. Các mái chèo đã được dựng đứng, để chào vĩnh biệt. Cái quan tài đã được nâng lên. Thi hài của Matthieu, liệm trong mấy cái bao bột mì, bị sức nặng của tảng đá lớn lôi theo, đã trượt nhanh xuống biển.
Kinh khủng quá! Cái thi hài vừa rơi xuống nước, tôi tưởng nó chìm nghỉm thì nó lai bị dội lên mặt nước do bảy, mười hay hai mươi con cá mập - ai biết được, nâng bổng lên. Trước khi chiếc thuyền quay mũi, những bao bột mì liệm xác đã bị rách tan nát và một điều không sao hiểu được đã xảy ra. Matthieu đứng thẳng trên mặt nước chừng hai, ba giây. Cánh tay phải đã mất. Nứa thân người anh tiến thẳng về phía thuyền rồi bị một cái xoáy rất mạnh hút xuống, anh đã biến mất. Lũ cá mập lao vun vút ở phía dưới va phải đáy thuyền, làm một người mất thăng bằng suýt ngã xuống nước.
Tôi bước chậm chạp đi từ bến về trại. Không ai đi theo tôi. Tôi mang cái cáng trên vai và tới quãng bằng nơi con Brutus tấn công con Danton dạo nọ. Tôi dừng lại và ngồi xuống. Trời đã tối, nhưng bấy giờ môi có bảy giờ. Về phía Tây, bầu trời còn le lói vài tia sáng nhạt của vầng dương đã khuất dưới chân trời. Còn lại là một màu đen tối, chỉ thỉ thoảng mới có ánh đèn pha của đảo quét thành một đường sáng. Lòng tôi nặng chĩu. Rõ khỉ! Mày đã muốn xem đám ma, lại là đám ma bạn mày nữa! Thì mày đã được xem, lại được xem kỹ nữa còn gì! Có cả tiếng chuông tiếng chiếc đầy đủ lệ bộ: mọi thứ! Mày đã được hài lòng rồi chứ? Cái tật tò mò bệnh hoạn của mày được thỏa mãn rồi còn gì? Bây giờ còn cái việc thanh toán thằng khốn đã giết bạn mày vào lúc nào? Đêm nay. Tại sao lại đêm nay? Chưa được đâu. Hãy còn sớm quá, thằng cha chắc hẳn đang thủ thế đề phòng hết mức. Nhóm của hắn có đến mười thằng. Tôi không thể để cho mình mắc bẫy, tự dẫn xác đến cho chúng hạ thủ. Nhưng cũng không thể để cho chúng tranh thủ đánh phủ đầu trước được. Thử tính xem tôi có thể có bao nhiêu người trợ thủ nào? Có bốn người, kể cả tôi là năm. Được! Phải thanh toán nó và nếu có thể, tôi sẽ xin chuyển sang đảo Quỷ. Tại đấy, không cần bè, không cần chuẩn bị gì cả; chỉ hai bao dừa khô, là tôi lao xuống biển được rồi. Khoảng cách đến bờ biển tương đối gần, bốn mươi ki-lô-mét theo đường chim bay. Tính thêm sóng gió và nước thủy triều, cho là một trăm hai mươi ki~lô-mét đi. Còn lại là vấn đề chịu đựng được hay không. Tôi còn khỏe, và hai ngày cưỡi lên túi dừa, lênh đênh trên biển chắc tôi sẽ chịu được.
Tôi nhấc cáng và lên đường về trai. Đến cửa, tôi bị lục soát, một việc khác thường. Chưa bao giờ tôi bị như vậy. Tên lính gác đoạt con dao của tôi.
- Ông muốn tôi bị giết hả? Tại sao ông lại lấy dao của tôi? Ông có biết làm như vậy là ông giết tôi không? Tôi mà chết là tội ông đấy.
Không ai trả lời tôi, từ lính gác đến bọn A rập giữ chìa khóa. Họ mở cửa và tôi bước vào phòng: “Sao tối mò thế này? Mọi ngày có ba cái đèn, sao hôm nay lại chỉ có một?
Grandet kéo tay áo tôi.
- Papi lại đây.
Căn phòng không ồn ào lắm. Hình như có việc gì nghiêm trọng sắp xảy ra hoặc đã xảy ra.
- Tôi bị tước mất dao rồi. Bọn nó khám tôi lấy luôn.
- Dêm nay cậu không cần đến nó.
- Sao vậy?
- Thằng Armeni và bạn nó đã ở trong nhà tiêu.
- Chúng làm gì ở trong ấy?
- Chúng chết rồi.
- Ai giết chúng?
- Tớ
- Mau nhỉ. Còn những đứa khác thì sao?
Trong nhóm chúng còn bốn đứa. Paulo đã hứa danh dự với tớ là chúng sẽ không làm gì, chúng chờ gặp cậu để hỏi xem cậu có bằng òng cho chuyện này chấm dứt ở đây không.
- Đưa cho tớ con dao.
- Đây cầm lấy dao của tớ. Ra nói chuyện với bọn đó đi, tớ ở lại đây
Tôi tiến lại phía nhóm của họ. Mắt tôi lúc này đã quen dần với bóng tối lờ mờ. Rồi tôi cũng nhận ra nhóm họ. Bọn họ đang đứng túm tụm vào nhau, trước võng.
- Paulo, anh muốn nói chuyện với tôi phải không? Phải.
- Nói một mình hay có cả các bạn anh? Anh muốn gì?
Tôi thận trọng để một khoảng cách một mét rưỡi giữa chúng tôi. Dao đã được mở sẵn, giấu trong cánh tay áo trái, chuôi dao nằm gọn trong lòng bàn tay tôi.
- Tôi muốn nói, tôi cho rằng bạn của anh thế là đã được trả thù xứng đáng rồi. Anh mất người bạn thân nhất, còn chúng tôi mất hai. Theo ý tôi, thế là đủ. Anh nghĩ sao?
- Tôi sẽ xét đề nghị của anh, Paul ạ. Điều ta có thể làm được, nếu các anh đồng ý, là hai nhóm thỏa thuận sẽ không làm gì trong vòng tám ngày. Chịu không?
- Được.
Và tôi rút về.
- Bọn chúng nó nói những gì với cậu?
Chúng nó cho là, với cái chết của thằng Armeni và thằng Vô Lô, Matthieu đã được trả thù đủ rồi.
- Không được - Galgani nói.
Garandet không nói gì. Jean Castelli và Louis Gravon đồng ý là phải thỏa thuận đình chiến.
- Còn ý cậu thì sao Papi?
- Trước hết, ai giết Matthieu? Thằng Armeni phải không? Tôi đã đưa ra một điều thỏa thuận. Tôi đã hứa và bọn kia cũng vậy, là trong vòng tám ngày, hai bên sẽ không có ai hành động gì để hại nhau.
- Cậu không muốn trả thù cho Matthieu hả? Galgani hỏi.
- Bây giờ, Matthieu đã được trả thù rồi, vì cậu ấy mà hai thằng đã chết. Còn giết những thằng khác làm gì?
- Chúng có biết như vậy không đã chứ? Phải tìm hiểu điều gì?
- Xin lỗi và chào tất cả. Tớ cố ngủ một chút đây. ít ra tôi cũng cần được yên tĩnh một mình. Tôi nằm dài trên võng. Tôi cảm thấy có một bàn tay lướt trên người tôi, nhẹ nhàng rút con dao của tôi. Trong đêm tối, một giọng nói thì thầm:
- Papi cố ngủ đi, nếu ngủ được cứ yên tâm mà ngủ. Bọn tớ dù thế nào cũng thay nhau canh gác.
Cái chết tàn nhẫn, khốn nạn của bạn tôi là không có lý do chính đáng. Tên Armeni giết anh vì trong đêm đánh bạc, Matthieu đã bắt nó phải trả ngay một trăm sáu mươi francs. Thằng chó đẻ mất thể diện vì bị buộc phải bỏ tiền ra trước mặt bốn chục con bạc khác. Bị Matthieu và Gandet kẹp hai bên, nó chỉ có cách tuân lệnh.
Và nó đã giết một cách hèn nhát một tay giang hồ kiểu mẫu, trong sạch và thẳng thắn với giới của mình. Vố này đã làm tôi xúc động mạnh, có một điều làm tôi thỏa mãn là bọn giết người chỉ sống được vài giờ sau khi chúng phạm tội ác: cũng chẳng được bao năm. Grandet, khác nào một con hổ, với tốc độ của một nhà vô địch, đã thọc con dao vào cổ từng đứa một, trước khi chúng có thì giờ thủ thế. Tôi hình dung chỗ chúng gục xuống chắc phải ngập ngụa máu. Tôi tự hỏi một cách ngớ ngẩn: “Không biết ai đã kéo xác chúng vào nhà xí?”. Nhưng tôi không nói ra. Mắt nhắm nghiền, tôi hình dung thấy những tia sáng cuối cùng của mặt trời đỏ và tím một màu thê thảm đã chiếu sáng cái cảnh rùng rợn này: lũ cá mập đang tranh giành thi thể bạn tôi... Và cái thân trên thẳng đứng, đã cụt một cánh tay, đang tiến về phía ca-nô?... Rõ ràng là tiếng chuông đã gọi lũ cá mập đến, và lũ khốn kiếp ấy biết rằng khi có tiếng chuông là chúng sắp được ăn. Tôi còn thấy hàng chục cái vây cá lóe lên một ánh bạc ảm đạm, lượn tới lượn lui như những chiếc tàu ngầm. Chắc phải tới hơn trăm con.. Với Matthieu, với bạn tôi thế là hết! Con đường thôi nát đã đưa anh đến tận cùng.
Chết ở tuổi bốn mươi vì một nhát dao do một chuyện tầm phào. Tội nghiệp cho bạn tôi. Tôi chịu hết nổi rồi. Không, không được. Không được đâu. Tôi muốn cho lũ cá mập ăn thịt tôi trong khi tôi còn sống, liều mình đi tìm tự do, không bị bọc trong mấy cái túi bột mì, không bị buộc vào đá, trói vào dây. Và không có một ai chứng kiến lúc đó, dù là tù nhân hay là lính gác. Không có tiếng chuông nhà thờ. Nếu tôibị ăn thịt, thì... chúng sẽ chén tôi lúc tôi còn sống, trong khi tôi đang vật lộn với thiên nhiên để tới được đất liền.
Thôi đi. Thôi hẳn đi. Không còn những cuộc vượt ngục chuẩn bị qua quá kỹ càng nữa. Từ đảo Quỷ, chỉ cần hai bao tải đựng đầy dừa, rồi phó mặc cho số mạng, nhờ ơn Trời?
Nói cho cùng, đây chỉ là vấn đề chịu đựng của thể xác. Bốn mươi tám giờ hay sáu mươi giờ? Một thời gian ngâm mình trong nước biển lâu như vậy, cộng với sức lực của cơ đùi phải bỏ ra để kẹp chặt lấy các bao tải dừa, đến một lúc nào đó, liệu có làm chân tôi tê cứng lại không? Nếu tôi may mắn đến được đảo Quỷ, tôi sẽ thử. Trước hết phải rời đảo Royale, và đến đảo Quỷ đã. Sau rồi sẽ liệu.
- Cậu ngủ chưa, Papi?
- Chưa.
- Cậu uống cà-phê không?
- Nếu có.
Và tôi ngồi trên võng, cầm ca cà~phê nóng Grandet đưa cho tôi cùng một điếu Gauloise đã châm sẵn.
- Mấy giờ rồi?
- Một giờ. Tớ bắt đầu gác từ nửa đêm, tớ thấy cậu cứ trằn trọc hoài, tớ biết là cậu không ngủ được.
- Đúng đấy. Matthieu chết làm tôi ngao ngán quá chừng, nhưng việc mai táng cậu ấy chỗ lũ cá mập còn làm tôi đau lòng hơn. Thật là khủng khiếp.
- Tớ không muốn nghe chuyện ấy đâu, Papi ạ. Tưởng tượng cũng thấy được. Lẽ ra cậu không nên đi thì hơn.
- Trước kia tôi cứ nghĩ câu chuyện về tiếng chuông là bịa đặt. Rồi với dây thép chẳng vào đá, tôi nghĩ là không bao giờ cá mập có thể đớp được cậu ấy khi đang chìm xuống đáy. Tội nghiệp cho Matthieu, tôi sẽ còn nhìn thấy cái cảnh rùng rợn đó mãi cho đến chết. Còn cậu, cậu làm thế nào để khử được thằng Armeni với thằng Vô Lô lẹ vậy?
- Tớ ở phía cuối đảo, đang ghép một cánh cửa cho cửa hàng thịt thì nghe tin chúng nó giết bạn của ta. Lúc ấy là giữa trưa. Đáng lẽ về trại, tớ lại đến xưởng, lấy cớ cần phải sửa ổ khóa. Tớ đã lồng vào một cái ống dài một thước một con dao găm hai lưỡi. Chuôi dao và ống đều rỗng cả. Năm giờ khi về trại, tớ mang cái ống ấy về. Tên lính gác hỏi để làm gì, tớ nói là cái xà treo võng của tớ bị gãy và đem nay tớ sẽ dùng cái ống này để thay tạm. Khi tớ về đến phòng, trời còn sáng, nhưng tớ đã để cái ống đó ở chỗ giặt quần áo. Trước khi điểm danh, tớ mới ra lấy về. Trời bắt đầu tối. Các bạn đứng quanh che cho tớ lồng con dao vào cái ống. Thằng Armeni và thằng Vô Lô đứng tại chỗ trước võng của chúng. Paulo hơi lùi về sau một chút. Cậu biết là Jean Castelli và Louis Gravon can đảm đấy, nhưng già rồi, cũng không đủ nhanh nhẹn nếu hai bên dàn trận ra đánh nhau. Tớ muốn hành động trước khi cậu trở về để tránh cho cậu khỏi bị dính dáng vào việc này. Với thành tích cũ của cậu, nếu cánh ta bị gì, thì cậu sẽ lãnh án tối đa. Jean đứng ở cuối phòng và đã tắt bớt ngọn đèn ở đấy, Gravon ở đầu phòng đằng kia cũng làm như vậy. Cả gian phòng gần như tối mò, chỉ có một cây đèn dầu ở chính giữa. Tớ có một cây đèn pin của Dega cho. Jean đi trước, tớ theo sau. Đến ngang chỗ bọn chúng, Jean cầm đèn chiếu thẳng vào mặt chúng. Thằng Armeni bị lóa, đưa tay lên che mắt. Tớ có đủ thì giờ lao cả ngọn dao vào cổ nó. Đến lượt thằng Vô Lô, cũng bị lóa, nó đã rút dao và chĩa ra phía trước nhưng chẳng biết đâm vào đâu. Tớ cũng lao mạnh đến nỗi con dao xuyên qua cổ sang tận bên kia. Paulo nhào xuống sàn và lăn vào dưới võng. Jean đã tắt đèn, tớ thôi không đuổi theo Paulo ở dưới võng, cho nên nó mới thoát chết.
- Ai kéo chúng vào nhà cầu?
- Tớ không biết. Tớ cho là chính bọn cùng nhóm với chúng đã kéo chúng vào đấy để moi hai cái plan dấu trong bụng chúng.
- Chắc phải có đến một ao máu nhỉ?
- Chứ còn gì nữa. Chúng nó đúng là bị chọc tiết nên máu phải ra đến hết. Tớ nghĩ ra mẹo dùng đèn pin trong khi chuẩn bị cái lao. ở xưởng tớ tình cờ trông thấy một tên lính gác thay pin cho cái đèn của nó. Tớ nghĩ ngay đến cái mẹo ấy, liền nhờ Dega kiếm cho một cây đèn pin. Bây giờ thì chúng tha hồ lục soát. Cây đèn pin và cá con dao găm nữa, đã được một thằng A-rập giữ chìa khóa lấy trong xưởng mang đến cho Dega. Về phần ấy, không lo bị lộ. Tớ cũng chẳng có gì tự trách mình. Bọn chúng giết Martthieu trong khi mắt cậu ấy đầy bọt xà phòng, còn tớ đã giết chúng trong khi mắt chúng đầy ánh đèn pin? Thế là xong nợ. Cậu nghĩ sao, Papi?
- Cậu làm đúng đấy. Tôi không biết phải cảm ơn cậu như thế nào vì cậu đã hành động mau như vậy để trả thù cho bạn, hơn thế, cậu còn nghĩ cách giữ cho tôi được đứng ngoài cuộc trong vụ này.
- Đừng bận tâm đến chuyện ấy. Tớ chỉ làm bổn phận của tớ. Cậu đã chịu đựng nhiều và cậu khát khao được tự do quá đỗi nên tớ phải làm việc ấy.
- Cảm ơn cậu, Grandet ạ. Phải, bây giờ tớ lại càng muốn đi cho thoát hơn bao giờ hết. Vậy cậu hãy giúp đỡ làm sao cho việc này ngưng lại đây nhé. Thắng thắn mà nói, tớ rất ngạc nhiên nếu thằng Armêni, trước khi hành động, đã báo cho nhóm nó biết. Paulo không bao giờ chấp nhận một vụ giết người hèn nhát đến thế đâu. Nó biết rõ những hậu quả sẽ phải chịu.
- Tớ cũng nghĩ vậy. Nhưng Galgani thì nói là tất cả bọn chúng có tội hết.
- Chờ đến sáu giờ xem việc gì sẽ xảy ra. Tôi sẽ không ra ngoài để đổ thùng đâu. Tôi sẽ cáo bệnh để ở lại xem tình hình diễn biến ra sao.
Năm giờ sáng. Bác Trưởng khối đến chỗ chúng tôi: “Các cậu này, ta có nên gọi vọng gác không nhỉ? Tao vừa thấy hai xác chết trong nhà tiêu. Người tù già bảy mươi tuổi này muốn cả chúng tôi cũng tin rằng từ sáu giờ rưỡi tối qua, giờ hai thằng ấy bị giết, bác ta không biết gì cả. Gian phòng chắc bê bết máu, vì vũng máu ở đúng giữa lối đi, mọi người đi qua đi lại bắt buộc phải dẫm vào đấy. Grandet cũng trả lời với cái vẻ thơ dại như người tù già:
- Sao, có hai người chết ở trong nhà tiêu à? Từ lúc nào vậy?
- Mày đi mà hỏi xem - ông già nói - Tao ngủ từ sáu giờ. Bảy giờ, tao đi tiểu, tao bị trượt chân ngã suýt vỡ mặt ra. Tao bật máy lửa lên, mới biết là máu và trong nhà tiêu, tao trông thấy hai thằng đó.
- Thôi bác cứ gọi đi, rồi xem sao.
- ối giám thị ơi, giám thị?
- Làm gì mà to mồm vậy, lão già kia. Cháy nhà hẳn?
- Không đâu, sếp ơi, có hai người chết ở nhà xí.
- Bọn bay muốn tao làm gì nào? Làm cho chúng sống lại chắc? Bây giờ là năm giờ mười lăm chờ đến sáu giờ hẵng hay. Không được cho ai vào cầu tiêu đấy.
- Ông nói thế không được đâu. Vào giờ này, sắp dậy cả rồi, ai cũng phải đi là, đi đái chứ.
- Được rồi, chờ đấy đã. Để tao đi gọi sếp gác. Ba lính gác, một cai giám thị và ba người nữa đã tới. Tưởng họ vào phòng giam nhưng không, họ đứng bên ngoài cánh cứa sắt.
- Có hai người chết ở nhà xí hả?
- Thưa sếp, vâng.
- Từ mấy giờ?
- Tôi không biết. Tôi vừa đi đái thì trông thấy họ.
- Những ai vậy?
- Tôi không biết.
- Vậy thì, lão gàn này, tôi nói cho lão biết. Một thằng chét là thằng Armeni, vào xem đi.
- Đúng rồi, đấy là thằng Armeni và thằng Vô Lô. Chờ đến lúc điểm danh thôi.
Rồi cả bọn bỏ đi.
Sáu giờ sáng, chuông reo lần thứ nhất. Cửa được mở và có hai người phát cà-phê đi từ chỗ người này đến chỗ người kia, theo sau là những người phát bánh mì.
Sáu giờ rưỡi, là hồi chuông thứ hai. Ngày đã rạng. Và lối đi đầy những vết chân đã dẫm vào máu đêm qua.
Hai viên trại trường đến. Trời đã sáng rõ. Tám giám thị và một bác sĩ cũng đến theo.
- Tất cả cởi hết quần áo, đứng nghiêm trước võng của mình. Trời đất ơi! Đây đúng là cái lò sát sinh. Chỗ nào cũng đầy máu là máu.
Phó trại trưởng vào nhà tiêu trước. Khi trở ra, mặt ông ta trắng bệch. “Đúng là họ bị chọc tiết. Dĩ nhiên, không ai trông thấy hay nghe thấy gì, phải không?”.
Im lặng hoàn toàn.
- Ông già, ông là trưởng khối này, hai người kia đã cạn hết máu.
- Xin bác sĩ cho biết họ chết chừng được bao lâu rồi.
- Từ tám đến mười giờ. - bác sĩ nói.
- Thế mà đến tận năm giờ lão mới thấy họ? Lão không trông thấy, không nghe thấy gì chứ?
- Phải, tôi vốn nặng tai. Tôi nhìn cũng chẳng rõ, hơn nữa tôi đã bảy mươi tuổi, đã bốn mươi năm trong tù. Cho nên, các ông hiểu cho, tôi ngủ. Sáu giờ tôi đã ngủ, vì mót đi tiểu, tôi mới phải dậy lúc 5 giờ sáng. Cũng may, vì thường ngày tôi chỉ dậy khi có tiếng chuông.
- Lão nói đúng, cũng may mà lão mới nhìn thấy đấy nhỉ, - thiếu tá nói, giọng châm biếm - Ngay với chúng tôi, tất cả mọi người, giám thị cũng như tù, tất cả đều ngủ ngon lành suốt dêm. Ai khiêng cáng đây, đưa hai cái xác này đi, đem tới bệnh viện, để bác sĩ khám nghiệm. Còn tất cả, đi ra sân, từng người một cứ trần truồng như thế.
Từng đứa chúng tôi đi ngang qua mấy viên chỉ huy và bác sĩ. Tất cả các bộ phận trên thân thể chúng tôi đều dược xem xét tỉ mỉ. Không ai có thương tích, nhiều người bị vấy máu. Họ đều nói là họ trượt chân khi bị vào nhà tiêu. Grandet, Galgani và tôi bị kiểm tra tỉ mỉ hơn mọi người.
- Papillon, chỗ anh nằm dâu? - Họ lục soát đồ đạc của tôi - Con dao của anh đâu?
- Dao của tôi bị ông giám thị tịch thu ngay từ cửa, lúc bảy giờ.
- Phải - người lính nói - Anh ta còn làm toáng lên, nói là người ta định giết mình.
- Grandet, dao này của anh hả?.
- Vâng, nó ờ chỗ của tôi, vậy nó là của tôi. Con dao sạch như một đồng xu mới, không có lấy một dấu vết, được xem xét thật kỹ lưỡng.
Bác sĩ từ nhà tiêu trở ra nói:
- Hai người này bị đâm bằng một con dao hai cạnh. Cả hai bị đâm khi đang đứng thẳng. Chẳng làm sao hiểu nổi. Không tù nhân nào chịu để bị người ta giết như giết con thỏ mà không chống cự. Phải có ai ở đây bị thương.
- Nhưng bác sĩ thấy đấy, chẳng ai có lấy một vết xước
- Hai người này có nguy hiểm không?
- Đặc biệt nguy hiểm, bác sĩ ạ. Tên tù người Armeni hẳn là kẻ đã giết Carbonieri ở xưởng giặt chín giờ sáng hôm qua.
- Xếp việc này lại thôi, - thiếu tá nói, - nhưng cứ giữ dao của Grandet lại. Tất cả đi làm hết, trừ người bệnh. - Papillon, anh có báo bệnh không?
- Thưa thiếu tá, có.
- Anh không bỏ phí thì giờ để trả thù cho bạn nhỉ. Tôi không bị bịp đâu nhé. Đáng tiếc là tôi không nắm được chứng cớ gì, và tôi biết là sẽ không bao giờ tìm ra những chứng cớ ấy. Một lần nữa, ai có gì cần khai không? Ai có thể giúp chúng tôi có được chút ánh sáng về hai vụ giết người này, tôi hứa là người đó sẽ được ra khỏi trại và đưa về đất liền.
Im lặng hoàn toàn
Cả tổ của thằng Armeni đều báo bệnh. Thấy vậy, Grandet, Galgani, Jean Castelli và Louis Gravon cũng cáo bệnh vào phút cuối cùng. Một trăm hai mươi người ra cả, gian phòng vắng hẳn. Nhóm tôi có năm đứa, nhóm thằng Armeni, bốn đứa thêm người tù sửa đồng hồ và ông già khối trưởng luôn mồm càu nhàu không ngớt vì phải dọn dẹp chỗ máu, và một hay hai tù nhân khác trong đó có một tù nhân cao lớn người Alsace tên là Sylvain.
Anh này sống độc thân trong tù và được mọi người quý mến. Anh đã dám một mình làm một việc phi thường, vì vậy mà bị hai mươi năm tù. Đó là một con người hành động, rất được nể trọng. Chỉ có một mình, anh đã tấn công một toa xe lửa chở bưu kiện trên chuyến tàu tốc hành Paris-bruxelles, đánh gục hai người lính gác rồi ném xuống đường những túi bưu kiện, được đồng bọn đi dọc đường sắt thu nhặt lại, và có được một món tiền lớn
Sylvain thấy hai nhóm rầm rì nói chuyện ở góc của mình, và vì không biết rằng chúng tôi đã thỏa thuận không chống nhau, nên đã lên tiếng:
- Tôi hy vọng các anh không dàn trận đánh nhau kiểu ba chàng ngự lâm pháo thử chứ?
- Hôm nay thì không - Galgani nói - việc đó để sau hẵng hay.
- Sao lại để sau? Việc gì làm được hôm nay không nên để đến ngày mai - Paulo nói - nhưng tôi thấy không có lý do gì phải chém giết nhau. Anh thấy thế nào, Papillon?
- Tôi chỉ hỏi một câu: anh có biết thằng Armeni định làm gì không?
- Xin lấy danh dự mà nói rằng tôi không biết gì cả và anh có muốn tôi nói thêm điều này không? Nếu thằng Armeni không chết rồi, không biết tôi chịu đựng sao nổi việc này.
- Nếu vậy tại sao chúng ta không kết thúc chuyện này cho dứt khoát? - Grandet nói.
- Chúng tôi đồng ý. Chúng ta hãy bắt tay nhau và thôi không bàn tới câu chuyện đáng buồn này nữa.
- Tán thành.
- Tôi làm chứng nhé? - Sylvain nói - Tôi vui lòng thấy việc này được bỏ qua.
- Thôi không nói nữa.
Sáu giờ chiều, chuông nhà thờ vang lên. Nghe tiếng chuông, tôi không sao quên được cảnh ngày hôm qua, nửa thân trên của bạn tôi tiến về phía thuyền. Hai mươi bốn giờ đã trôi qua, mà hình ảnh ấy vẫn làm tôi xúc động đến nỗi tôi không mong thấy dù trong một giây, thằng Armeni và thằng Vô Lô bị lũ cá mập rước như vậy.
Galgani không nói một câu nào. Anh ta biết việc gì đã đến với Carbonieri. Anh ngồi trên võng, hai chân thõng hai bên, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng trống ở trước mặt. Grandet vẫn chưa về. Tiếng chuông vừa lặng đi được độ mười phút thì Galgani, chân vẫn đung đưa mắt không nhìn tôi, nói nho nhỏ: “Tớ chỉ mong con cá mập nào đã ăn Matthieu đừng đớp miếng thịt của thằng xỏ lá Armeni. Lúc sống thì tách biệt, lúc chết lại cùng năm trong bụng một con cá, nếu thế thì đời chó má quá!”.
Rõ ràng, việc mất người bạn cao thượng và thành thật ấy đã gây ra cho tôi một khoảng trống lớn. Tốt hơn cả là tôi đi khỏi Royale, và đi càng sớm càng tốt.
Ngày nào tôi cũng nhắc nhở với mình như vậy.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Một cuộc vượt ngục của người điên
- Vì đang có chiến tranh, các hình phạt lại được tăng lên nếu vượt ngục thất bại, lúc này không phải là lúc để lỡ chuyện, phải không, Salvidia?
Cậu người ý có hai plan bằng vàng trong đoàn tàu đang bàn với tôi ở chỗ giặt áo quần sau khi đọc tờ yết thị thông báo về những biện pháp mới đối với các trường hợp vượt ngục. Tôi nói với y:
- Cái án tử hình ấy không làm cho tôi từ bỏ ý định vượt ngục được đâu. Còn cậu thì sao?
- Papillon ơi, tôi chịu hết nổi rồi và tôi cũng muốn tếch thẳng luôn. Muốn ra sao thì ra. Tôi đã xin vào làm y tá ở nhà thương điên. Tôi biết là tại phòng cung tiêu của nhà thương lấy có hai cái thùng tôn-nô chứa được 225 lít tức là thừa sức ghép thành bè. Một thùng chứa đầy dầu ô-liu, một thùng đầy dấm. Hai cái thùng ấy mà chằng kỹ vào nhau, sao cho nó không thể tách ra được tôi thấy có cơ may về được Đất liền đấy. Phía bên ngoài tường bao quanh nhà thương điên không bị kiểm soát. Phía trong thường ngày chỉ có một tên lính y tá gác, có tù phụ giúp, luôn luôn kiểm soát xem bệnh nhân làm gì. Sao cậu không đến đấy với tôi?
- Làm y tá à?
- Không được đâu. Cậu biết thừa là không bao giờ cậu được làm việc ở nhà thương điên. Vừa xa trại giam vừa ít bị kiểm soát, tất cả những điều đó làm cho người ta không đưa cậu đến làm việc ở đây. Nhưng cậu có thể vào đây với tính cách người mất trí.
- Khó đấy, Salvidia ạ. Khi một bác sĩ đã coi cậu là “điên”, ông ta cho cậu được quyền tha hồ muốn làm gì thì làm, không hơn không kém. Cậu được công nhận là không phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Cậu thử nghĩ đến trách nhiệm của một bác sĩ khi chấp nhận ký vào bản chẩn đoán ấy? Cậu có thể giết tù, giết cả lính hay vợ lính, hay một đứa con nít cũng không sao. Cậu có thể vượt ngục, phạm bất cứ tội gì luật pháp cũng vô phương đối với cậu. Quá lắm người ta cũng chỉ có thể lột truồng cậu ra rồi tống cậu vào một phòng giam có lót nệm, và cậu phải mặt áo trần lực của người điên. Chế độ ấy chỉ kéo dài một thời gian, rồi có ngày họ lại phải nới nhẹ cách chữa trị bằng vũ lực đó Kết quả là: với bất cứ hành động nghiêm trọng đến đâu, kể cá vượt ngục, cậu cũng chẳng mất mát gì.
Papillon ơi, tôi tin cậu, tôi muốn vượt ngục với cậu. Cậu hãy cố làm đủ mọi cách để vào được nhà thương điên với tôi đi. Với tư cách là y tá, tôi sẽ giúp cậu chịu đựng được tốt nhất và đỡ đần cậu những lúc gay go nhất. Tôi công nhận rằng không bị điên mà phải sống chung với những người nguy hiểm như vậy, cũng khủng khiếp thật.
- Cậu cứ về nhà thương điên đi, Roméo, tôi sẽ nghiên cứu thật kỹ vấn đề này và nhất là tìm hiểu những hiện tượng đầu tiên của bệnh điên để bác sĩ tin được Làm sao cho bác sĩ xếp mình vào loại không phải chịu trách nhiệm gì cũng là ý kiến hay đấy.
Tôi bắt đầu nghiên cứu vấn đề một cách nghiêm chỉnh. Thư viện của trại không có cuốn sách nào về vấn đề này. Cứ có dịp là tôi bàn luận với những người đã từng mắc bệnh điên trong một thời gian nào đấy.
Dần dần, tôi đã có ý niệm khá rõ ràng:
1. Tất cả những người điên đều đau đầu dữ dội.
2. Họ thường bị những tiếng ù ù trong tai.
3. Vì thần kinh họ bị kích thích nên họ không thể nằm lâu ở một tư thế mà không bị một cơn co giật thần kinh thực sự khiến cho cả cái thân thể bị căng thẳng đến tột độ của họ nấy bật lên như cái lò xo.
Vậy thì phải làm sao để đừng phô bày ra một cách lộ liễu mà người ngoài vẫn phát hiện ra những triệu chứng đó. Bệnh điện của tôi phải vừa đủ nặng để buộc bác sĩ quyết định gửi tôi đi bệnh viện nhưng không dữ dằn để phải đòi hỏi những biện pháp đối xử tồi tệ của các giám thị như: phải mặc áo trấn lực của người điên, bị đánh đập, phải nhịn ăn, phải chích bromure, phải tắm bằng nước lạnh nay nước nóng già v.v.... Nếu tôi đóng kịch khéo, tôi có thể làm cho bác sĩ cũng bị lừa.
Có một điều có lợi cho tôi: tại sao, vì lý do gì mà tôi phải giả bệnh? Bác sĩ không thể giải thích một cách hợp lý vấn đề này, chắc chắn tôi có thể thắng cuộc trong trò này. Đối với tôi không có giải pháp nào khác.
Họ đã từ chối không chịu đưa tôi đi đảo Quỷ. Tôi không còn chịu đựng nổi cảnh ở lại trại sau cái chết của Matthieu, bạn tôi. Do dự làm quái gì! Tôi phải quyết định thôi, thứ hai tôi sẽ báo các bệnh. Thế cũng không xong, tôi không thể tự mình khai bệnh được. Tốt hơn là để một người khác làm việc này, nhưng người ấy lại phải là người tin rằng tôi điên thật mới được. Tôi phải làm hai hay ba việc kỳ cục ở phòng giam. Rồi trưởng khối sẽ báo cáo với cai tù và cai tù sẽ ghi tên cho tôi đi khám bệnh.
Đã ba ngày nay, tôi không ngủ, không rửa ráy, cũng không cạo râu. Mỗi đêm tôi thủ dâm nhiều lần và ăn rất ít. Hôm qua tôi hỏi người nằm kề bên tôi sao anh ta lại lấy mất tấm hình tôi vẫn bày ở đầu võng (tấm hình này không hề có bao giờ ở chỗ tôi). Anh ta thề sống thề chết là không đụng đến đồ đạc của tôi. Anh ta sợ, và xin chuyển đi chỗ khác. Thông thường xúp vẫn được để ở chậu vài phút trước khi đem chia. Tôi đến gần chậu xúp và trước mặt đông đủ mọi người tôi đái vào đấy Ai nấy đều tỏ ý bực mình, nhưng cái vẻ mặt lầm lầm của tôi chắc đã làm cho mọi người thấy ngán nên không ai nói gì, chỉ có anh bạn Grandet nói với tôi
- Papillon, sao cậu làm thế?
- Vì họ quên chưa cho muối.
Rồi chẳng thiết để ý đến những người khác, tôi lấy ga-men của tôi đưa ra để trưởng khối sớt xuất của tôi vào đây
Trong một không khí im lặng hoàn toàn, mọi người đã đứng nhìn tôi ăn xúp.
Hai sự việc đó đã đưa đến kết quả là hôm nay, tôi được đưa đến bác sĩ mà không phải xin xỏ gì.
- Bác sĩ có khỏe không?
Tôi nhắc lại câu hỏi một lần nữa. Bác sĩ kinh ngạc nhìn tôi. Tôi nhìn lại ông với cặp mắt cố tình làm ra vẻ tự nhiên như không.
- Tôi vẫn khỏe, bác sĩ nói. Còn anh. Anh bị ốm phải không?
- Đâu có?
- Thế tại sao anh lại đi khám bệnh?
- Chẳng tại sao cả. Họ nói với tôi là bác sĩ bị ốm.
- Hóa ra không phải, cho nên tôi cũng mừng. Chào bác sĩ tôi về
- Khoan đã, Papillon. Anh ngồi xuống đây, trước mặt tôi. Anh nhìn vào tôi đi.
Rồi bác sĩ dùng một cái đèn gì chiếu ra một tia sáng nhỏ xíu soi vào mắt tôi.
- Bác sĩ không thấy cái mà bác sĩ muốn tìm à?
Đèn của ông không đủ sáng nhưng dù sao ông cũng đã hiểu chứ, phải không? Ông có thấy chúng nó không, ông cho tôi biết đi.
- Thấy gì? Bác sĩ hỏi.
- Ông đừng giở trò ngớ ngẩn, ông là bác sĩ hay là thú y? ông đừng nói với tôi là ông không có thì giờ trông thấy chúng trước khi chúng trốn mất, hoặc ông không muốn nói với tôi, hoặc ông cho tôi là một thằng ngu.
Mắt tôi ánh lên vì mệt mỏi. Bề ngoài của tôi, râu chưa cạo, mặt chưa rửa, đều góp phần vào màn kịch nhỏ của tôi. Bọn cảnh sát đứng nghe, sững sờ cả ra, nhưng tôi không hề có một cử chỉ dữ dằn nào khiến họ phải can thiệp. Bác sĩ có thái độ hòa giải và về hùa theo tôi để tôi khỏi bị kích động, ông ta đứng dậy và đặt tay lên vai tôi. Tôi vẫn ngồi yên.
- Phải, tôi không muốn nói cho anh biết, Papillon, nhưng tôi đã có đủ thì giờ để thấy chúng.
- Bác sĩ chỉ nói láo, mà mặt vẫn trơ trơ ra như thổ địa. Bởi vì tôi biết thừa là ông chẳng thấy quái gì cả ông đang tìm ba cái đốm đen ở trong mắt trái của tôi chứ gì? Ba cái đốm đen ấy, tôi chỉ trông thấy chúng khi tôi nhìn vào khoảng không hay lúc tôi đọc sách. Nếu lấy gương soi, tôi nhìn thấy mắt tôi rõ ràng, nhưng ba cái đốm thì đi đâu biệt tăm biệt tích. Hễ tôi cầm gương lên một cái là chúng biến đi đàng nào mất tang ngay tức khắc.
- Nhập viện ngay, - Bác sĩ nói - Không phải quay về trại nữa, Papillon, anh nói với tôi là anh không có bệnh phải không? Có thể đúng như vậy, nhưng tôi lại thấy anh mệt mỏi lắm, cho nên tôi để anh nghỉ vài ngày ở bệnh viện, anh bằng lòng chứ?
- Chẳng sao cả, được thôi. Bệnh viện hay trại thì cũng vẫn là ở đảo.
Bước đầu đã trót lọt. Nửa giờ sau, tôi đã ở bệnh viện, tại một phòng sáng sủa, giường sạch sẽ, nệm trắng tinh. Ngoài cửa treo tấm bảng “Đang theo dõi”. Dần dà, do sức ám thị lên đến cao độ, tôi đã thành người điên. Trò chơi này cũng nguy hiểm: cái tật làm cho mồm méo xệch đi và dùng hai hàm răng cửa cắn chặt môi dưới, tôi vẫn nghiên cứu với một cái gương soi nhỏ lén giấu được, tôi quen làm như vậy, nhiều lúc tôi tôi bắt gặp thấy mồm mình méo đi như thế tuy tôi không hề cố ý. Papi ơi, không nên sớm chơi với cái mẹo vặt này. Nếu cứ ép mình phải tự cảm thấy mình mất trí mãi có thể nguy hiểm và để lại cho mình những chứng tật vĩnh viễn. Nhưng tôi vẫn phải chơi trò này đến cùng nếu muốn đạt kết quả. Để vào nhà thương điên, được xếp vào loại không chịu trách nhiệm rồi vượt ngục với anh bạn. Vượt ngục! Hai tiếng kỳ diệu ấy đưa tôi bay bổng, tôi đã hình dung thấy mình ngồi trên hai chiếc thùng ton-nô, được sóng nước đẩy về đất liền, cùng với anh bạn thân y tá người ý của tôi.
Bác sĩ thăm bệnh hàng ngày. Ông khám tôi rất kỹ, và lần nào chúng tôi cũng nói chuyện với nhau, lễ độ và hòa nhã. Ông ta có vẻ lo nhưng chưa tin hẳn. Vậy thì tôi phải cho ông ta biết là tôi có những cơn đau nhói ở vùng gáy, và đấy là những triệu chứng đầu tiên.
- Thế nào Papillon? Anh ngủ được chứ?
- Vâng thưa bác sĩ, nói chung tôi cũng khỏe. Cám ơn bác sĩ đã cho tôi mượn tờ báo Match, nhưng ngủ thì lại là việc khác. ở sau phòng tôi, có một cái máy bơm, chắc để tưới cái gì đó: máy chạy suốt đêm, tiếng phòng phòng của nó cứ dội vào gáy tôi, cứ như là ở trong đầu tôi cũng có tiếng vang phòng phòng vậy. Cả đêm cứ thế, chịu không nổi. Cho nên tôi rất biết ơn nếu bác sĩ cho tôi được sang phòng khác.
Bác sĩ quay sang phía người lính y tá và hỏi nhỏ, rất nhanh.
- Có cái máy bơm à?
Y tá lắc đầu ra hiệu không có.
- Giám thị, cho anh ta sang phòng khác. Anh muốn ở phòng nào?
- Càng xa cái máy bơm chết tiệt này càng tốt, phía cuối hành lang. Cảm ơn bác sĩ.
Cửa đã được khép chặt, chỉ còn một mình tôi ở trong phòng. Một tiếng động rất nhỏ, báo cho tôi biết có người đang theo dõi tôi qua khe nhòm, chắc chắn đấy là ông bác sĩ, vì tôi không nghe tiếng chân ông đi xa dần khi ông ra khỏi phòng. Thế là tôi giơ nắm tay hướng về phía tường che khuất cái máy bơm tường tượng của tôi và tôi kêu lên, không to lắm “Tắt máy đi? Tắt máy đi! Đồ khốn kiếp. Đồ thợ vườn hạng bét, tưới gì tưới lắm thế?” Rồi tôi lăn ra giường, vùi đầu dưới gối.
Tôi không nghe được tiếng chiếc nắp đồng của khe nhòm đóng lại nhưng tôi nhận ra tiếng chân đi xa dần. Kết luận: người nhòm qua khe cứa đúng là bác sĩ. Buổi chiều, tôi được đổi phòng. Chắc tôi đã gây được ấn tượng tốt vào lúc sáng, vì đưa tôi đi dọc hành lang chỉ vài bước mà phải có đến hai người lính và một người tù y tá đi kèm. Họ chẳng nói gì nên tôi cũng không nói. Tôi chỉ lặng thinh đi theo họ. Hai ngày sau, tôi cho ra cái triệu chứng thứ hai: những tiếng ù trong tai.
- Khá chứ, Papillon? Anh đã xem tờ tạp chí tôi gửi cho anh chưa?
- Chưa, tôi chưa đọc được. Suốt ngày hôm qua và một phần đêm nữa, tôi đã cố tìm cách làm cho con ruồi hay con muỗi gì đấy vào làm tổ trong tai tôi phải chết ngạt. Tôi đã lấy bông nhét vào tai mà vẫn không ăn thua gì Cánh của nó cứ rung lên liên hồi không giây nào dứt, hết o-o-o lại đến di-di-di... Hơn thế nữa, lại còn thêm cái cảm giác nhột nhột buồn buồn khó chịu lắm. Đến loạn óc mất thôi, bác sĩ ạ! Bác sĩ thấy thế nào? Nếu tôi không làm cho nó chết ngạt được, ta có thể kiếm cách làm cho nó chết đuối vậy nhỉ, bác sĩ bảo sao?
Mồm tôi cứ máy máy liên hồi và tôi nhận thấy bác sĩ đã để ý đến điều đó, ông ta nắm tay tôi và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy ông bối rối và phiền lòng.
- Được rồi, Papillon ơi, chúng ta sẽ dìm cho nó chết. Chatal, anh rửa tay cho anh ấy đi. Mỗi sáng, những cảnh như vậy cứ lặp đi lặp lại có cải biên ít nhiều, nhưng bác sĩ vẫn chưa quyết định gửi tôi đi nhà thương điên.
Có lần, trong khi thích bromure cho tôi, Chatal báo trước cho tôi biết: “Bây giờ thì ổn rồi. Bác sĩ nghĩ nhiều lắm nhưng chắc cũng còn lâu, ông ấy mới gửi cậu đi bệnh viện. Nếu cậu muốn ông ta quyết định sớm, cậu phải làm cho ông ta thấy là cậu có thể trở nên nguy hiểm mới được.
- Anh thấy thế nào Papillon? - Bác sĩ, có hai y tá và Chatal đi theo, mở cửa vào phòng tôi, và thân mật hỏi tôi.
- Ông bỏ ngay lối chơi ấy đi, bác sĩ. - Tôi giở thái độ gây gổ ra. - ông biết thừa là không ổn rồi. Tôi muốn hỏi trong bọn ông, ai đã thông đồng với cái thằng vẫn hành hạ tôi?
- Anh hành hạ anh? Bao giờ? Hành hạ thế nào? - Trước hết, bác sĩ có biết các công trình của bác sĩ Arsonval không đã?
- Biết, tôi hy vọng là có biết.
- Ông biết là ông ta sáng chế ra một cái máy dao động có nhiều làn sóng để ion-hóa không khí xung quanh một bệnh nhân bị loét hành tá tràng. Với cái máy dao động ấy, người ta có thể phóng ra những giòng điện. Thế mà, một kẻ thù của tôi đã đánh cắp một cái máy như thế ở bệnh viện Cayenne. Cứ mỗi lần tôi ngủ yên, là nó ấn nút, làm điện giật vào đúng bụng và hai đùi tôi. Tôi giật mình, nẩy đến mười phân lên khỏi giường. Cứ thế ông bảo tôi chống đỡ và ngủ nghê sao được? Cả đêm, chẳng lúc nào ngừng. Tôi cứ vừa chợp mắt là pằng một cái, điện lại giật, cả người tôi cứ nẩy lên như lò xo. Bác sĩ ạ, tôi không chịu được nữa đâu ông báo cho mọi người biết là hễ tôi mà tóm được thằng nào tòng phạm với nó là tôi giết đấy. Tôi không có vũ khí thật nhưng tôi đủ sức bóp cổ nó cho đến chết, dù cho nó là ai. Biết được rồi thì liệu mà giữ lấy thân nhé. Ông cũng cút đi với cái lối: “khỏe không, Papillon?” cái lối chào hỏi giả dối của ông. Tôi nhắc lại cho ông biết đấy, bác sĩ ạ, ông bỏ ngay lối chơi ấy đi!
Sự việc này đã đem lại kết quả. Chatal cho tôi biết là bác sĩ đã dặn dò bọn gác phải hết sức cẩn thận. Không bao giờ được mở cửa phòng của tôi mà không có hai hay ba người. Phải nói năng ôn tồn với tôi. Tôi mắc chứng bách hại cuồng, bác sĩ nói thế, phải đưa tôi đi nhà thương điên càng sớm càng tốt.
- Tôi có thể đưa anh ấy đi nhà thương, chỉ cần một người phụ là đủ - Chatal đề nghị để tránh cho tôi khỏi phải mặc áo trấn lực của người điên.
- Papi, anh ăn được chứ?
- Ăn được, Chatal ơi, ăn ngon nữa.
- Anh có thể đi với tôi và ông Jeannus chứ?
- Đi đâu?
- Mang thuốc đến cho bệnh viện, như đi dạo một quãng thôi mà.
- Nào thì đi.
Thế là cả ba chúng tôi rời bệnh viện để đến nhà thương điên. Vừa đi Chatal vừa nói chuyện, và khi gần đến nói, Chatal bỗng hỏi: “Cậu ở trại mãi có chán không, Papillon?”
- ồ, chán đến tận cổ, nhất là từ khi Carbonieri bạn tôi không còn ở đấy nữa.
- Thế tại sao cậu không ở lại vài ngày ở nhà thương điên? Thằng cha có cái máy sẽ không tìm ra cậu để phóng điện vào người cậu nữa.
- ý hay đấy. Nhưng tớ không bị loạn óc, không biết họ có chịu nhận không?
- Cậu cứ để tôi lo việc này, tôi sẽ nói hộ cậu.
Tên cảnh sát nói, mừng vì thấy tôi rơi vào cái bẫy mà nó tưởng Chatal giăng ra để đánh lừa tôi. Tóm lại, tôi đã vào nhà thương điên ở với cả trăm người điên khác. Sống với người điên, thật chẳng dễ dàng chút nào. Chúng tôi ngồi từng tốp hai, ba chục người ở ngoài sân để thay đổi không khí, trong khi các y tá cọ rửa các phòng. Mọi người đều trần truồng suốt ngày đêm. May mà trời nóng. Riêng tôi họ để lại cho đôi bít tất ngắn.
Tôi vừa được y tá cho một điếu thuốc lá đã châm sẵn. Ngồi giữa nắng, tôi suy nghĩ và tính ra là ở đây đã năm ngày mà chưa liên hệ được với Salvidia.
Một người điên lại gần tôi. Tên anh ta là Fouchet. Tôi biết câu chuyện của anh. Mẹ anh bán nhà và gửi cho anh mười lăm ngàn francs nhờ một giám thị chuyển, để anh lấy tiền vượt ngục. Tên đó được năm ngàn và phải đưa cho anh mười ngàn. Nhưng y đã lấy tất rồi đi Cayenne. Khi Fouchet qua một đường dây khác biết được là mẹ anh đã gửi tiền cho anh và bà mẹ đã hy sinh tất cả một cách vô ích, anh ta nổi cơn điện và ngay hôm đó, anh đã tấn công các giám thị. Nhưng anh chưa kịp làm gì họ thì đã bị chế ngự ngay. Từ ngày ấy, cách đây đã ba, bốn năm, anh ở nhà thương điên.
- Cậu là ai?
Tôi nhìn con người đáng thương vừa hỏi tôi. Hắn còn trẻ, chỉ chừng ba mươi tuổi.
- Tớ là ai à? Một người đàn ông bình thường, như cậu thôi, không hơn không kém.
- Cậu trả lời ngớ ngẩn lắm. Tớ đã thấy rõ, cậu là đàn ông rồi. Tớ muốn hỏi cậu là ai? Nghĩa là cậu tên gì?
- Papillon.
- Papillon à? Cậu là con bướm à? Khổ cho cậu rồi. Bướm phải bay và có cánh, thế cánh của cậu đâu?
- Tớ đánh mất rồi.
- Phải tìm cho ra, có cánh mới vượt ngục được. Bọn lính không có cánh. Cậu sẽ ăn đứt chúng. Đưa thuốc lá của cậu cho tớ.
Tôi chưa kịp đưa, hắn đã giật lấy. Rồi hắn ngồi.. trước mặt tôi hút, vẻ say sưa.
- Còn cậu, cậu là ai?
- Tớ là thứ thịt để cho ôi. Cứ mỗi lần người ta đưa cho tớ cái gì của tớ, là người ta lại lừa tớ.
- Tại sao vậy?
- Nó là như vậy. Cho nên tớ giết bọn cai tù, càng nhiều càng tốt. Đêm nay, tớ đã treo cổ hai đứa. Nhưng đừng nói với ai nhé!
- Tại sao cậu lại treo cổ chúng?
- Chúng nó đã ăn cướp nhà của mẹ tớ. Mẹ tớ gửi nhà của bà cho tớ, chúng nó thấy nhà đẹp, chúng giữ lại và ở ngay tại đấy. Tớ treo cổ chúng lên, không hay sao?
- Cậu có lý. Như vậy chúng không thể lợi dụng nhà của mẹ cậu được.
- Thằng cai bự ở đằng kia, sau hàng rào sát ấy, cậu thấy không? Nó cũng ở nhà ấy đấy. Thằng đó, tớ cũng sẽ giết nó thôi, cậu cứ tin ở tớ.
Rồi anh ta đứng lên và bỏ đi.
Trời đất ơi! Sống giữa những người điên, chẳng có gì là vui thú, mà còn nguy hiểm nữa. Ban đêm, có tiếng kêu la ở khắp bốn phía và vào những đêm trăng rằm, những người điên lại càng bị kích thích hơn. Vì sao tuần trăng lại ảnh hưởng đến hành động của người điên? Tôi nhận xét thấy thế nhiều lần nhưng không giải thích nổi.
Bọn cai có nhiệm vụ báo cáo về những người điên phải theo dõi. Với tôi, chúng còn đối chiếu thêm với những việc khác. Chẳng hạn chúng cố tình quên không cho tôi ăn một bữa. Tôi có một cái gậy và một sợi dây, và tôi làm điệu bộ câu cá. Tên xếp gác hỏi tôi:
- Cá có cắn câu không, Papillon?
- Chúng không cắn mồi được. Có một con cá nhỏ cứ lẽo đẽo theo tôi hoài, mỗi khi cá lớn sắp đớp mồi, nó lại báo trước: “Chú ý, đừng đớp, Papilìon đang câu đấy”. Vì thế tôi chẳng được con nào bao giờ. Nhưng tôi vẫn cứ câu. Chắc có ngày sẽ có một con cá không tin con cá nhỏ kia.
Tôi nghe thấy tên lính đó nói với y tá: “Thằng cha này điên thật rồi”.
Khi tôi phải ngồi ăn ở bàn công cộng tại nhà ăn, tôi không sao ăn được đĩa đậu đũa của tôi. Có một thằng rất to con, cao ít ra đến một mét chín mươi, tay chân và ngực đầy lông lá trông như con khỉ, nó chọn tôi làm nạn nhân để nó hành. Thoạt tiên nó luôn luôn ngồi cạnh tôi. Đậu được dọn ra, đang rất nóng cho nên muốn ăn phải đợi cho nguội đã. Với chiếc muỗng gỗ, tôi xúc từng ít một và cứ thế ăn được vài thìa. Ivanhoe - thằng cha tưởng mình là trang kỵ sĩ thời Trung thế kỷ - cầm đĩa của nó lên, đổ vào lòng bàn tay và ăn hết trong năm phút. Rồi nó tự tiện lấy đĩa của tôi và cũng làm như vậy Khi đĩa đã nhẵn như chùi, nó đặt mạnh trước mặt tôi và nhìn tôi với cặp mắt to, vằn tia máu như muốn nói: “Mày đã thấy tao ăn đậu chưa?”. Tôi bắt đầu chán ngấy Ivanhoe, và vì tôi chưa được xếp hẳn vào loại điên nên tôi quyết định cho nó một đòn để gây tiếng vang. Hôm nay lại là ngày ăn đậu đũa, Ivanhoe không bỏ qua cho tôi. Nó đến ngồi cạnh tôi. Bộ mặt rồ dại của nó trông rạng rỡ hẳn lên. Nó tấm tắc hưởng trước nỗi khoái trá được chén phần đậu của nó và cả của tôi. Tôi đem theo một cái hũ sành to và nặng, đựng đầy nước. Thằng cha khổng lồ vừa cầm đĩa của tôi lên và bắt đầu đồ đậu vào mồm thì tôi đứng lên, lấy hết sức bình sinh đập hũ nước vào đầu nó. Thằng cha rống một tiếng như bò rồi gục xuống. Ngay lập tức, những người diên, tay vẫn cầm đĩa thức ăn của mình. xông vào đánh nhau loạn xạ. Cảnh ồn ào như vỡ chợ bắt đầu. Cuộc loạn đả tập thể này lại có thêm những tiếng la hét của tất cả lũ người điên trong bệnh viện hòa theo.
Bốn viên y tá lực lưỡng đã bế thốc tôi lên không nương nhẹ chút nào và đưa ngày tôi về phòng, tôi kêu váng lên là: “Ivanhoe đã ăn cắp cái bóp trong đó có giấy căn cước của tôi”. Lần này thì đạt yêu cầu! Bác sĩ quyết định xếp tôi vào loại không phải chịu trách nhiệm về bất kỳ hành động nào của mình. Tất cả các cai tù đều nhất trí nhận định chứng bệnh của tôi là điên thuộc loại hiền, nhưng cũng có những lúc rất nguy hiểm. Đầu Ivanhoe được băng bó tuyệt đẹp. Hình như tôi đã làm da đầu nó rách dài đến tám phân. Cũng may mà nó không ra đi dạo cùng giờ với tôi.
Tôi đã nói chuyện được với Salvidia. Anh đã làm được chìa khóa giả mở gian phòng để thùng ton-nô. Anh đang kiếm cho đủ dây thép để chẳng các thùng ấy lại với nhau. Tôi nói với anh ta là tôi sợ dây thép dễ bị đứt do các thùng ton-nô ra đến biển sẽ co kéo nhau, có lẽ nên dùng thừng chão, dẻo hơn. Anh sẽ cố kiếm thứ đó, cả dây thừng và dây thép. Anh còn phải đánh ba cái chìa khóa nữa: một cái mở phòng tôi, một cái mỏ cửa hành lang dẫn đến phòng tôi và một cái mở cửa chính nhà thương điên. Các phiên gác không nhiều lắm. Mỗi phiên gác dài bốn giờ, chỉ có một lính canh. Từ chín giờ tối đến một giờ sáng rồi từ một giờ đến năm giờ. Hai cai tù đến phiên trực của mình chỉ ngủ và không đi tuần lần nào. Họ ỷ vào người tù y tá cùng gác với họ. Vậy là ổn, chỉ cần bình tĩnh chờ. Nhiều nhất là một tháng.
Viên sếp gác đã cho tôi một điếu xì gà loại tồi y đang hút dở khi tôi ra sân. Tuy thuốc tồi, tôi cũng thấy ngon tuyệt. Tôi nhìn lũ người trần truồng, hát hỏng, khóc lóc vung chân vung tay loạn xạ, nói một mình. Họ còn ướt sũng nước vì vừa tắm trước khi ra sân, thân thể họ còn mang những vết bầm do bị đánh đập hoặc tự họ gây ra, cùng vết dây chẳng của áo trấn lực thắt quá chặt. Đúng là thảm cảnh cuối cùng trên con đường đến nơi ruỗng nát. Có bao nhiêu người điên này được các bác sĩ tâm thần ở Pháp buộc phải chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình?
Titin - đấy là tên người ta thường gọi anh ta - cùng đi một chuyến với tôi năm 1933. Anh đã giết một người ở Marseille, rồi gọi xe ngựa, cho nạn nhân lên xe, bảo xe chở tới bệnh viện, và đến nơi anh đã nói: “Hình như anh ta bị bệnh, các ông săn sóc giùm cho” Anh bị bắt ngay. Các bồi thẩm nhất định không chịu coi anh ta là thuộc loại không phải chịu trách nhiệm, dù chút ít, về hành động của mình. Mà đúng là anh có điên mới làm như vậy. Người bình thường dù ngớ ngẩn đến đâu cũng chẳng ai làm như vậy. Giờ đây, Titin đang ngồi cạnh tôi. Anh ta bị kiết lỵ kinh niên. Anh ta giống như một cái xác chết biết đi. Anh nhìn tôi với đôi mắt xám chì, không hồn. Anh nói với tôi: “Anh bạn đồng hương ơi, có những con khỉ con ở trong bụng tôi. Có những con ác lắm, chúng cắn ruột của tôi và khi tôi đi ra máu là lúc chúng đang cáu giận đấy. Những con khác thuộc giống khỉ xù toàn lông cả là lông, có những bàn tay êm dịu như tơ. Chúng nhẹ nhàng xoa vuốt tôi và ngăn không cho lũ ác kia cắn tôi: khi lũ khỉ con hiền lành này chịu khó bảo vệ tôi, tôi không đi ra máu”.
- Cậu có nhớ Marseille không, Titin.
- Tất nhiên là nhớ chứ. Nhớ kỹ nữa là khác. Quảng Trường Chứng khoán với những thằng cha chuyên chơi chứng khoán và những băng trấn lột...
- Cậu có nhớ được tên vài thằng không? Thằng Thần hám lợi? Le Gravat? Clément chẳng hạn?
- Không, tôi không nhớ tên thằng nào hết, chỉ nhớ thằng cha đánh xe ngựa chở thằng bạn bị bệnh của tôi và tôi đến nhà thương. Tôi còn nhớ nó đã nói tôi là nguyên nhân làm bạn tôi bị bệnh. Có thế thôi.
Tội nghiệp cho Titin, tôi cho anh ta mẩu xì gà và tôi đứng lên, lòng xót thương vô hạn. Con người khốn khổ này rồi sẽ chết như một con chó. Đúng là sống chung với những người điên rất nguy hiểm, nhưng biết làm sao được? Tôi cho đấy là cách độc nhất để tổ chức vượt ngục mà không lo bị trừng phạt.
Salvidia đã gần hoàn thành các công việc chuẩn bị. Anh ta đã có được hai cái chìa khóa, chỉ thiếu chìa khóa phòng tôi. Anh đã xoay được một cuộn dây thừng rất tốt, thêm vào đó, anh còn tháo võng để bện một cuộn dây có năm sợi. Về mặt này, mọi việc đều tốt. Tôi muốn mau mau chuyển sang hành động vì vừa đóng kịch vừa chịu đựng cảnh này thật gay go. Để được tại phòng này trong khu nhà thương. thính thoảng tôi phải lên một cơn điên.
Tôi đã lên một cơn giống như thật đến mức các y tá tống tôi vào bồn tắm nước nóng già và chích cho tôi hai mũi bromure. Cái bồn tắm này phủ một tấm vải bạt rất dày để giữ cho tôi không ra được. Chỉ có một lỗ hổng để tôi thò đầu ra. Tôi ở trong bồn tắm loại làm cho người điên này được hai giờ thì Ivanhoe bước vào phòng. Tôi hết hồn khi thấy cách hắn nhìn tôi. Tôi sợ nó bóp cổ tôi, đến chết khiếp. Tôi bị bó tay dưới tấm vải, tôi không thể nào tự vệ được.
Nó tiến lại gần tôi, đôi mắt thao láo của nó chăm chú dòm tôi, có vẻ như cố nghĩ xem nó đã từng trông thấy ở đâu cái đầu từ dưới lớp vải này nhô lên. Hơi thở của nó và một mùi thối khẳn phả vào mặt tôi. Tôi muốn kêu cứu nhưng tôi sợ tiếng kêu của tôi làm cho nó càng thêm hung dữ. Tôi nhắm mắt lại chờ đợi, tôi tin chắc là hai bàn tay hộ pháp của nó sắp chít lấy cổ tôi. Tôi không dễ quên được những giây phút hãi hùng ấy. Sau, nó quay đi, đảo một vòng quanh gian phòng, rồi tới chỗ những vòng vô lăng vặn với nước. Nó đóng với nước lạnh và mở hết mức với nước nóng. Tôi kêu thét lên, vì tôi đang bị luộc chín thật sự. Hơi nước tỏa kín phòng, tôi bị ngợp thở vì hơi nước, tôi cố vùng vẫy cuống cuồng để thoát ra khỏi tấm vải chết tiệt này nhưng vô ích. Sau rồi cũng có người đến cứu tôi. Bác cai tù thấy hơi nước lọt từ các cửa sổ ra. Khi tôi ra khỏi được cái nồi hầm này, tôi bị bỏng nặng và đau như một linh hồn dưới hỏa ngục, nhất là ở đùi và bộ phận sinh dục, ở đấy da đã bị lột ra. Tôi được bôi acid pieric và được vào nằm trong phòng nhỏ của bệnh xá. Vết bỏng của tôi nặng đến mức họ phải gọi bác sĩ đến khám. Tôi được chích vài mũi thuốc morphin để chịu đựng được trong hai mươi bốn giờ đầu. Khi bác sĩ hỏi tôi việc gì đã xảy ra tôi nói là trong bồn nước có một ngọn núi lửa bắt đầu phun. Chẳng ai hiểu đầu đuôi ra sao. Và viên y tá gác đổ lỗi cho người chuẩn bị nước tắm đã điều chỉnh lộn hai cái với nước.
Salvidia, sau khi bôi acid picric cho tôi đã đi ra. Anh đã sẵn sàng và nói với tôi, may mà tôi được ở bệnh xá vì nếu cuộc vượt ngục thất bại, tôi có thể trở về khu vực này mà không sợ có ai trông thấy. Anh phải cấp tốc làm một chiếc chìa khóa giả của phòng này. Anh đã lấy dấu chià khóa bằng một mẩu xà phòng. Ngày mai sẽ có chìa. Chỉ cần tôi cho biết ngày nào tôi đỡ đau, đủ sức để lợi dụng phiên gác đầu tiên của người coi tù không đi tuần.
Chúng tôi quyết định là đêm nay sẽ trốn đi trong phiên gác từ một giờ đến năm giờ sáng. Salvidia không phải trực. Để tranh thủ thời gian, anh sẽ dốc hết thùng ton-nô dấm vào hồi mười một giờ đêm. Thùng dầu sẽ được để nguyên vì biển động, có thể dầu phủ lên nước biển sẽ làm dịu bớt sóng khi chúng tôi xuống nước. Tôi mặc một cái quần làm bằng bao bột mì, dài tới đầu gối và một cái áo va-rơi bằng len, một con dao tốt dắt vào thắt lưng. Tôi còn đeo một cái túi nhỏ không thấm nước ở cổ, trong đựng ít thuốc lá và một cái máy lửa. Salvidia thì chuẩn bị sẵn một túi dết không thấm nước đựng bột sắn trộn với dầu ăn và đường, chừng ba ki-lô, theo lời anh nói. Đã khuya rồi. Tôi ngồi trên giường, đợi anh đến. Tim tôi đập thình thình. Chỉ trong chốc lát, cuộc vượt ngục sẽ bắt đầu. Cầu Trời và vận may đến với tôi để cuối cùng tôi thành công, vĩnh viễn thoát được ra khỏi con đường thối rữa này. Điều lạ lùng là tôi chỉ có một ý nghĩ thoáng qua về quá khứ. Tôi nghĩ về bố tôi và về gia đình tôi. Không có một hình ảnh nào về phiên tòa đại hình, về các bồi thẩm hay về viên biện lý.
Khi cửa được mở ra, tôi bất chợt thấy cảnh Matthieu bị lũ cá mập rước đi thẳng đứng.
Lên đường nào, Papi.
Tôi đi theo anh. Anh vội khóa cửa và giấu chìa khóa ở góc hành lang: “Mau lên, làm thật mau đi”. Chúng tôi đến nhà kho, cửa đã mở. Vần cái thùng tôn-nô rỗng ra dễ như chơi. Anh lấy dây thừng cuốn quanh người, tôi thì cuốn dây thép. Tôi vớ cái túi dết bột, và trong đêm tối đen như mực, tôi bắt đầu lăn cái thùng tôn- nô của tôi ra phía biển. Anh lăn thùng dầu theo sau. May là anh rất khỏe nên đã dễ dàng kìm được cái thùng khi nó lăn xuống đường dốc thẳng đứng này.
- Từ từ thôi, cứ từ từ, cẩn thận đừng để nó lăn quá nhanh. Tôi chờ anh, để phòng trường hợp anh thả thùng ton-nô của anh ra sẽ bị thùng của tôi chặn lại. Tôi đi giật lùi, tôi đi trước, thùng ton-nô của tôi lăn theo sau. Chúng tôi xuống đến cuối con đường nhỏ không khó khăn lắm. Có một lối hẹp để ra biển, nhưng sau đó là khu có đá khó vượt qua được.
Dốc hết dầu ra, để thùng đầy, không sao đưa qua được quãng có đá đâu. Gió thổi mạnh và sóng đập ào ào vào bờ đá.Thùng đã được trút hết dầu, xong xuôi “Nứt cho chặt. Chờ đây, đậy miếng sắt tây này lên đấy”. Các lỗ đã được bịt kín. “Đóng cho chặt các đầu đinh”. Tiếng sóng gió ầm ầm, không thể nào nghe thấy tiếng đóng đinh. Khó mà khiêng nổi hai cái thùng ton-nô đã được cột chặt vào nhau này. Mỗi thùng chứa được hai trăm hai mươi lăm lít. Thật cồng kềnh, khuân vác rất vướng. Địa điểm anh bạn tôi chọn cũng không dễ dàng xoay trở. “Đẩy đi nào, trời đất ơi! Nâng lên một chút. Cẩn thận đợt sóng này đấy”. Cả hai đứa chúng tôi và cả đôi thùng ton-nô bị nhấc bổng lên và bị ném mạnh vào đá. “Cẩn thận, không chừng bị bể tanmất, chưa kể là ta còn bị gãy chân gãy tay nữa!.
- Cứ bình tĩnh, Salvidia! Cậu đi trước ra phía biển hay lại đằng sau đây thì hơn. Đó, ở chỗ ấy được rồi. Khi tôi kêu, cậu kéo mạnh nhé. Tôi cũng đẩy và chắc chắn ta sẽ ra khỏi được quãng đá này thôi. Muốn thế, phải giữ cho vững và đứng cho chắc tại chỗ, dù có bị sóng ập đến”...
Tôi cứ gào lên ra lệnh cho anh, giữa tiếng sóng gió ào ào này, tôi chắc anh nghe được: một con sóng lớn đổ ập xuống cái khối cứng nhắc gồm đôi thùng ton-nô, anh và tôi. Lúc ấy tôi điên tiết, lấy hết sức đẩy mạnh chiếc bè. Anh ta chắc cũng kéo tới vì bỗng nhiên tôi thấy nhẹ nhõm và bập bềnh trên sóng. Anh ta leo lên thùng ton-nô trước tôi và đúng lúc tói định trèo lên thì một đợt sóng thật mạnh đẩy từ dưới lên, quăng chúng tôi như một cọng lá lên một tảng đá nhô ra xa hơn cả. Con sóng xô mạnh đến nỗi hai cái thùng bị bửa toang ra mỗi nơi một mảnh. Khi sóng rút, tôi thấy mình bị kéo ra xa, cách tảng đá đến hai mươi mét. Tôi bơi và bị một con sóng khác đẩy thẳng vào bờ đặt ngồi giữa hai tảng đá. Tôi đã kịp bám giữ để khỏi bị cuốn ra khơi. Khắp người bị bầm giập, tôi đã vùng thoát được nhưng khi đến chỗ cạn, tôi mới nhận ra là tôi bị trôi xa cách chỗ chúng tôi xuống nước đến một trăm mét. Không gìn giữ gì cả, tôi la to: “Salvidia Roméo! Anh ở đâu đấy?”. Không có tiếng đáp lại. Mệt rã rời, tôi nằm trên đường đi, cởi quần dài, áo va-rơi và lại trần truồng chẳng mang gì ngoài đôi bít tất ngắn ở chân. Trời đất thiên địa, anh bạn tôi ở đâu rồi? Tôi lại kêu váng lên: “Cậu ở đâu đấy?”. Chỉ có tiếng gió, biển và sóng đáp lại. Tôi ngồi đấy, không biết bao nhiêu lâu, thẫn thờ, bị suy sụp hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần. Rồi tôi khóc vì bực tức và quẳng đi cái túi nhỏ đeo ở cổ đựng thuốc lá và máy lửa - biểu hiện mối quan tâm ruột thịt của anh bạn đối với tôi, vì anh không hút thuốc.
Đứng trước gió, trước những đợt sóng quái đản đang quét tất cả mọi thứ, tôi giơ nắm tay lên và nguyền rủa Trời: “Đồ xỏ lá, đồ chó đẻ, đồ pê-đê, mi không thấy hổ thẹn vì cứ bám riết lấy ta mà hành hạ như thế này ư? Chúa lòng lành gì mi? Mi chỉ là đồ đáng ghê tởm, đúng thế đấy, mi là kẻ xa-đích, kẻ đáng nguyền rủa! Mi là đồ thoái hóa! Ta sẽ không bao giờ gọi tên mi nữa! Mi không xứng đáng chút nào!”. Gió đã dịu dần và cảnh êm ả đã làm tôi tỉnh táo trở về với thực tại.
Tôi sẽ trở lên nhà thương điên và nếu có thể, lại lê về bệnh xá. Chỉ cần chút ít may mắn, tôi có thể làm được việc ấy
Tôi leo dốc và chỉ nghĩ một điều: trở về nằm vào giường mình. Không để ai trông thấy, không để ai biết. Tôi đã tới hành lang bệnh xá mà không gặp trở ngại. Tôi phải nhảy qua tường bệnh viện vì tôi không biết Savidia giấu chìa khóa cổng chính ở đâu.
Tôi chẳng phải tìm lâu cũng thấy chìa khóa cửa bệnh xá. Tôi vào phòng và khóa trái hai lần cửa phòng tôi lại Tôi ra cửa sổ, ném chìa khóa đi thật xa. Nó rơi phía bên ngoài tường. Và tôi đã vào giường nằm. Vật duy nhất có thể tố cáo việc tôi làm, là đôi bít tất còn ướt Tôi dậy đi vào nhà cầu để vắt cho kiệt nước. Tôi kéo chăn lên tận mặt và dần dần ấm người được đôi chút. Gió và nước biển đã làm tôi tê cóng. Không biết bạn tôi có bị chết đuối thật không? Có thể anh ấy bị sóng cuốn đì xa hơn tôi, đến tận cuối đảo và đến đấy mới bíu được lên bờ. Tôi có trở lên sớm quá không? Đáng lẽ tôi phải chờ thêm chút nữa. Tôi tự trách mình quá vội khi cho là bạn tôi đã bị thiệt mạng.
Trong ngăn kéo bàn ngủ đầu giường tôi, có hai viên thuốc ngủ. Tôi nuốt cả hai viên mà không uống nước. Nước miếng của tôi cũng đủ làm nó trôi vào họng. Tôi đang ngủ thì bị lay dậy và thấy anh y tá đứng trước mặt. Gian phòng đầy ánh nắng và cứa sổ đã được mở. Ba người bệnh đang đứng ngoài nhìn vào.
- Thế nào Papillon? Cậu ngủ như chết vậy? Mười giờ sáng rồi. Cậu không uống cà phê à? Nguội lạnh cả.
- Uống đi.
Tuy còn ngái ngủ, tôi cũng nhận thấy là đối với tôi mọi việc vẫn bình thường.
- Sao anh lại đánh thức tôi dậy?
- Vì những vết bỏng của cậu đã lành rồi mà đang cần giường. Cậu sẽ trở về phòng của cậu.
- Thôi được.
Tôi đi theo y. Đi ngang qua sân, y để tôi ở lại đấy. Tôi tranh thủ hong đôi bít tất ra nắng cho mau khô. Cuộc vượt ngục đã tan vỡ được ba ngày rồi. Tôi không nghe thấy xì xào bàn tán về chuyện này. Tôi đi từ phòng ra sân rồi lại từ ngoài sân về phòng. Không thấy Salvidia xuất hiện, vậy là anh ta đã chết, tội nghiệp cho anh, chắc anh ta bị đập vào đá mà chết. Tôi cũng gặp may mới sống được, và tôi thoát hẳn là vì tôi ở phía sau thay vì ở đằng trước. Làm sao biết được? Tôi phải rời khỏi nhà thương điên này thôi. Làm cho họ tin là tôi đã khỏi hay ít ra cũng đáng trở về trại giam, có lẽ còn khó hơn là vào đây: Bây giờ tôi phải thuyết phục để bác sĩ thấy là tôi đã khỏi bệnh.
- Thưa ông Rouviot (ông ta là y tá trưởng), đêm qua tôi bị lạnh. Tôi xin hứa sẽ không làm bẩn quần áo của tôi, sao ông không cấp quần dài và áo sơ mi cho tôi?
Viên cai sửng sốt. Ông ta ngạc nhiên nhìn tôi rồi nói:
- Papillon, anh ngồi xuống đây. Nói cho tôi nghe, có chuyện gì vậy?
- Tôi lấy làm lạ là tại sao tôi lại ở đây, hả sếp. Đây là nhà thương điên, như vậy là tôi sống với người điên à? Có phải, chẳng may tôi bị mất trí không? Tại sao tôi lại ở đây? Sếp vui lòng nói cho tôi nghe đi.
- Anh bạn Papillon, vừa qua anh bị bệnh, tôi thấy anh đã khá hơn. Anh muốn làm việc không?
- Có ạ
- Anh muốn làm gì?
- Làm bất cứ việc gì.
Thế là tôi được mặc quần áo, tôi được giao việc quét dọn các phòng. Buổi chiều, cửa phòng tôi được để mở cho đến chín giờ tối và chỉ khi người gác đêm nhận phiên gác, tôi mới bị nhốt ở trong.
Một người tù - y tá, người Auvergne, chiều qua lần đầu nói chuyện với tôi. Chỉ có hai chúng tôi trong phòng gác. Cai tù chưa tới. Tôi không biết anh này nhưng anh ta nói là anh biết tôi.
- Bây giờ thì chẳng cần phải vờ vịt làm gì cho mệt, bạn ạ.
- Cậu nói gì vậy?
Cậu tưởng tôi không biết cậu giả vờ sao? Tôi làm y tá ở nhà thương điên đã bảy năm nay, và ngay từ tuần đầu tôi đã biết thừa là cậu chỉ giả vờ điên..
- Thế rồi sao nữa?
- Sau đó tôi rất tiếc vì cậu đã thất bại trong chuyến vượt ngục với Salvidia. Cậu ấy đã bỏ mạng rồi. Tôi đau khổ thật sự vì đây là một người bạn tốt, tuy cậu ấy không nói cho tôi biết, nhưng tôi cũng không để bụng giận cậu ấy. Còn cậu có cần gì, cứ cho tôi biết, tôi sẽ lấy làm sung sướng nếu được giúp cậu.
Anh có cặp mắt thẳng thắn làm tôi không nghi ngờ lòng thành thật của anh. Vì nếu tôi không nghe ai nói tốt về anh, tôi cũng không thấy ai nói xấu về anh: như vậy hẳn anh phải là người khá.
Tội nghiệp cho Salvidia! Khi biết chuyện anh ta trốn đi, mọi người đều sửng sốt. Họ tìm thấy những mảnh thùng ton-nô bị sóng đưa vào bờ. Ai cũng cho là anh đã bị cá mập ăn rồi. Bác sĩ làm toáng lên vì chỗ dầu ô-liu bị đổ đi. Ông nói trong hoàn cảnh chiến tranh không dễ gì có được.
- Anh khuyên tôi nên làm gì?
- Tôi sẽ xin cho cậu việc đi lãnh thực phẩm hàng ngày ở bệnh viện cho nhà thương này. Cậu sẽ được đi dạo một vòng. Cậu phải bắt đầu giữ gìn hạnh kiểm cho tốt. Nói mười câu thì tám câu cho có lý. Vì cũng không nên khỏi bệnh quá mau. cảm ơn, tên cậu là gì?
- Dupont.
- Cảm ơn cậu. Tôi sẽ không quên những lời khuyên của cậu.
Tôi vượt ngục hụt đã được một tháng. Sáu ngày sau, người ta tìm thấy xác anh bạn tôi nổi lên mặt nước. Do một sự tình cờ không sao hiểu được, cá mập không ăn anh. Nhưng Dupont kê với tôi rằng các loại cá khác đã ăn bộ lòng của anh, và cả một khúc chân nữa. Sọ của anh cũng bị thủng. Vì thịt đã rữa nên tử thi không bị mổ để xét nghiệm. Tôi hỏi Dupont xem anh ta có thể gửi giùm tôi một bức thư bằng đường bưu điện được không. Muốn vậy phải trao thư cho Galgani để lúc niêm phong túi đựng thư, cậu ta có thể dúi vào trong.
Tôi đã viết cho mẹ của Ro meo Salvidia ở ý bức thư sau đây:
“Thưa bà, con trai bà đã chết, chân không bị xiềng. Anh ấy đã chết ở biển, một cách can đảm, xa bọn cai ngục và xa nơi giam cầm. Anh ấy đã chết tự do trong khi đấu tranh dũng cảm để dành lại tự do cho mình. Chúng tôi đã hứa với nhau sẽ viết thư cho gia đình của bạn mình nếu có người nào gặp nạn. Nay tôi làm tròn cái nhiệm vụ đau đớn ấy và xin kính cẩn hôn tay bà với lòng yêu kính của một người con.
Bạn của con bà
Papillon”
Làm xong nhiệm vụ đó, tôi quyết định không nghĩ tới cơn ác mộng ấy nữa. Đời là thế, còn phải ra khỏi nhà thương điên, tìm mọi cách để về bằng được đảo Quỷ và thử vượt ngục một chuyến nữa. Viên cai tù đã giao cho tôi việc làm vườn nhà y. Tôi trở lại bình thường đã hai tháng nay, và tôi được mến thích đến nỗi thằng cha đó không muốn buông tôi ra nữa. Cậu người Auvergne kể cho tôi nghe, lần khám bệnh vừa qua bác sĩ muốn cho tôi xuất viện về trại để “thử nghiệm”. Viên cai tù đã phản đối, nói rằng chưa bao giờ vườn của hắn lại dược chăm sóc cẩn thận đến như vậy.
Cho nên sáng nay, tôi đã nhổ tất cả các cây dâu tây và vất vào sọt rác. Rồi tôi trồng một cây thập tự nhỏ vào chỗ ấy.Cứ mỗi gốc dâu lại có một cây thập tự Không cần phải kể, cũng biết là sự việc này đã rùm beng lên như thế nào. - Thằng cha cai tù béo phệ này tức điên lên tưởng chết được. Hắn sùi cả bọt mép và nghẹn ngào nói không ra tiếng nữa. Sau cùng ngồi trên chiếc xe cút kít, hắn đã khóc nức nở, hai hàng nước mắt thật tuôn lã chã. Tôi đã chơi hơi quá nhưng biết làm sao được?
Bác sĩ không coi việc này là quá nghiêm trọng. Ông nhấn mạnh, bệnh nhân này phải được đưa trả về trại giam, cho thích nghi lại với môi trường sống bình thường để “thử nghiệm”. Khi còn lại một mình ở trong vườn, ông mới nảy ra cái ý nghĩ kỳ quặc này.
- Papillon ơi, anh nói cho tôi biết tại sao anh lại nhổ dâu tây để trồng các cây thập tự vào đấy? Tôi cũng không giải thích nổi tại sao tôi làm như vậy bác sĩ ạ, và tôi đã xin lỗi ông giám thị. Ông ấy cưng mấy cây dâu quá làm tôi cũng khổ tâm lắm. Tôi sẽ cầu nguyện để xin Trời cho ông ấy những cây dâu khác.
Tôi đã trở về trại giam, và gặp lại các bạn. Chỗ của Carbonieri vẫn để trống. Tôi mắc võng ở bên cạnh, làm như thể Matthieu vẫn còn nằm ở đấy. Bác sĩ bắt dính vào áo ngoài của tôi giòng chữ: “Đang điều trị đặc biệt. Không một ai, trừ bác sĩ, được ra lệnh cho tôi”. Ông bảo tôi nhặt lá rụng trước bệnh viện từ tám giờ đến mười giờ sáng. Tôi ngồi ghế bành uống cà phê và hút thuốc với bác sĩ ngay trước nhà ông. Vợ ông cũng ngồi với chúng tôi, ông cùng vợ ông cố gợi chuyện tôi về quá khứ của tôi.
- Sau rồi làm sao, Papillon? Sau khi rời những người Anh-điêng mò ngọc trai, việc gì đã đến với anh? Trưa nào tôi cũng ngồi với hai con người đáng khâm phục ấy. Vợ bác sĩ nói: “Anh lại đây hàng ngày với tôi nhé, Papillon. Trước hết vì tôi muốn gặp anh, thứ đến là tôi rất thích nghe kể những chuyện đã xảy ra với anh”.
Ngày nào tôi cũng đến vài giờ với bác sĩ và vợ ông, thỉnh thoảng chỉ có một mình bà vợ. Bắt tôi kể lại quãng đời đã qua của tôi, cả hai tin chắc rằng việc ấy sẽ làm tôi vĩnh viễn lấy lại được thăng bằng. Tôi quyết định xin bác sĩ chuyển tôi đi đảo Quỷ.
Rồi việc ấy cũng xong, ngày mai, tôi sẽ đi. Ông bác sĩ và vợ ông biết vì sao tôi đòi đến đảo Quỷ. Cả hai quá tốt với tôi nên tôi không muốn lừa dối họ: “Bác sĩ ơi, ở nhà tù khổ sai này, tôi không sao chịu nổi, bác sĩ cho tôi chuyến đi đảo Quỷ để tôi vượt ngục hay là chết, sao cũng được, miễn là chấm dứt tình trạng này đi cho rồi”.
- Tôi hiểu anh, Papillon ạ, cái chế độ đàn áp này cũng làm tôi chán ngấy, cái Ban Quản trị ở đây quá thối nát. Thôi vĩnh biệt và chúc anh gặp may.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
X. Đảo Quỷ
Chiếc ghe của Deiflus
Đảo Quỷ là hòn đảo nhỏ nhất trong quần đảo Salut.
Cũng là hòn đảo nằm cao nhất về hướng Bắc, bị sóng gió vùi dập phũ phàng nhất. Qua một khoảng hẹp bằng phẳng chạy dài dọc bờ biển là phải leo lên một cái dốc đưa tới một bãi bằng, trên đó đặt trạm gác của bọn giám thị và một phòng giam độc nhất cho hơn mười tù nhân. ở đảo Quỷ, chính thức mà nói, không có tù khổ sai về hình sự mà chỉ có những bị án giam hoặc lưu đày vì những lý do chính trị.
Họ sống mỗi người ở riêng một căn nhà nhỏ mái tôn. Cứ đến thứ hai, họ được phát thức ăn sống cho cả tuần, mỗi người một ổ bánh mì. Họ có khoảng ba mươi người. Người đảm đương nhiệm vụ y tá trên đảo là bác sĩ Léger, đã đầu độc cả gia đình, ở Lyon hay vùng phụ cận gì đó. Các tù chính trị không liên hệ với tù khổ sai, và thỉnh thoảng họ lại viết thư về Cayenne phản đối tù nhân này nọ ở đảo. Thế là tù nhân đó bị đưa về đảo Royale.
Một đường dây cáp nối đảo Royale với đảo Quỷ, vì nhiều khi biển động, tàu ở Royale không ra đây cập vào bến xi-măng được.
Chánh cai tù ở đây (có tất cả ba người gác) tên là Santori. Đó là một người to lớn, quen thói ở bẩn, râu thường để đến tám ngày không chịu cạo.
- Papillon, tôi hy vọng anh xử sự cho đúng đắn ở đảo Quỷ này. Anh đừng kiến chuyện với tôi, tôi sẽ để anh yên. Anh về trại đi, tôi sẽ gặp anh tại đấy.
Tôi thấy ở phòng giam có sáu tù nhân khổ sai: hai người Tàu, hai người da đen, một người dân Bordeaux và một người vùng Lille. Một người Tàu biết rõ tôi, vì đã bị giam chung với tôi ở Saint Laurent về tội giết người. Đấy là một người dân Đông dương, còn sống sót sau vụ nổi loạn ở Côn đảo.
Anh ta vốn là tay cướp biển chuyên nghiệp, thường tấn công các ghe mành và đôi khi giết cả thủy thủ lẫn gia đình chủ ghe. Anh ta là kẻ cực kỳ nguy hiểm, nhưng lại có một cách sống chung với tập thể được ai nấy tin cậy và mến thích. Anh dùng tiếng Pháp bồi chào tôi:
- Papillon, khỏe chứ?
- Còn anh ra sao, Chang?
- Khỏe. ở đây dễ chịu lắm. Anh ăn với tôi. Anh ngủ đây, cạnh tôi. Tôi, nấu ăn ngày hai lần. Anh, bắt cá. Đây, cá nhiều lắm.
Santori đi tới:
- à, anh đã thu xếp chỗ ở xong rồi hả? Ngày mai anh và Chang cho heo ăn. Chang mang dừa tới, còn anh, anh lấy rìu bửa dừa ra làm đôi. Phải dành riêng những trái dừa non cho heo con vì chúng không có răng. Bốn giờ chiều, các anh vẫn làm việc ấy. Ngoài hai giờ làm việc, sáng một giờ, chiều một giờ, anh được tự do muốn làm gì trên đảo thì làm. Ai đi câu được phải đưa một ký cá hay tôm hùm góp vào bếp của tôi. Vậy cho mọi người vui vẻ. Thế có được không?
- Thưa ông Santori, được lắm.
- Tôi biết anh là dân chuyên vượt ngục, nhưng ở đây thì vô phương nên tôi không phải lo. Ban đêm các anh bị nhốt nhưng tôi biết có người vẫn cứ ra được.
Cẩn thận đối với các tù chính trị đấy. Người nào trong bọn họ cũng có dao phát rừng. Anh mà đến gần chỗ họ ở, họ tưởng anh đến ăn cắp gà hay trứng, anh có thể chết hay bị thương, vì họ trông thấy anh được, còn anh, anh không thấy được họ.
Sau khi cho hai trăm con heo ăn, mỗi ngày tôi đi với Chang khắp đảo. Anh biết tường tận tất cả các xó xỉnh trên đảo. Một ông già, có bộ râu bạc dài, gặp chúng tôi trên con đường đi quanh đảo, ven bờ biển. Đó là một nhà báo ở Tân Đảo đã viết tốt cho bọn Đức, chống lại nước Pháp, trong chiến tranh 1914. Tôi còn gặp thằng đểu đã làm cho Edith Cavell - cô nữ y tá người Anh hay Bỉ đã cứu các phi công Anh năm 1917 - bị xử bắn. Nhân vật kinh tởm này, to béo mập mạp, tay cầm một cái gậy, quật một con cá lịch dài tới một thước rưỡi và to bằng bắp đùi tôi.
Cả ông bác sĩ đảm đương nhiệm vụ y tá cũng ở trong một túp nhà nhỏ chỉ danh cho các tù chính trị. Ông bác sĩ Léger này là một con người cao lớn dơ dáy và lực lưỡng. Chỉ có mặt ông là còn sạch, tóc ông đã hoa râm, để rất dài rủ xuống cổ và thái dương. Bàn tay ông đỏ mọng từng mảng vì những vết thương chắc là do víu vào các mỏm đá ở biển, mãi vẫn chưa được lành hẳn.
- Anh cần gì, cứ đến hỏi tôi, tôi sẽ cho. Có bệnh hãy đến. Tôi không ưa ai đến thăm tôi và càng không ưa ai đến nói chuyện với tôi. Tôi bán trứng và cả gà con, gà trống và gà mái. Nếu anh mổ trộm được một con heo nhỏ, mang cho tôi một đùi sau, tôi sẽ trả anh một con gà và sáu quả trứng. Anh đã đến đây rồi thì cầm lấy cái lọ một trăm hai mươi viên thuốc ký ninh này. Chắc anh đến đây để vượt ngục, vậy thì nếu phúc tổ cho anh đi được, anh sẽ cần đến nó để sống ở rừng đấy
Sáng và chiều, tôi câu được hằng hà sa số cá phèn ở dưới các mỏm đá. Ngày nào tôi cũng gửi cho bếp của cai tù ba đến bốn ký. Santori tươi hẳn lên. Chưa bao giờ lão ta nhận được nhiều loại cá khác nhau lẫn tôm hùm như thế. Có những lúc, nước xuống, tôi lặn mò được đến ba trăm con tôm hùm.
Ngày hôm qua, bác sĩ Germain Guibert đến đảo Quỷ. Biển lặng, ông đã đi cùng vợ và thiếu tá chỉ huy trại Royale. Người đàn bà đáng phục này là người phụ nữ đầu tiên đặt chân lên đảo Quỷ. Theo lời thiếu tá, cũng chưa có thường dân nào đặt chân lên đảo này. Tôi đã được nói chuyện với bà một giờ đồng hồ. Bà đi với tôi đến chiếc ghế dài mà Dreyfus* xưa kia vẫn thường ngồi nhìn ra biển cả, nhìn về phía nước Pháp đã hắt hủi ông.
(*Dreyfus Alfred, sĩ quan Pháp gốc Do Thái, Năm 1890 bị đưa ra tòa án binh vì tội “gián điệp”, rồi bị đày ra quần đảo Salut. Đến năm 1906 mới được thanh minh và phục hồi danh dự. Vụ án này đã làm chấn động dư luận toàn nước Pháp hồi ấy và gây nên những cuộc tranh luận và xung đột dữ dội giữa những người có tư tưởng cấp tiến bênh vực Dreyfus và những người có xu hướng bài Do Thái. Nhà văn Emile Loa đã viết một bài báo nổi tiếng bài “Tôi tố cáo” bênh vực Dreyfus bằng những lý lẽ đanh thép và một vãn phong nảy lửa đầy sức thuyết phục - ND).
Bà xoa tảng đá và nói: Giá tảng đá này có thể nói cho chúng ta biết những ý nghĩ của Dreyfus nhỉ... Papillon này, chắc chắn đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau. Vì anh có nói với tôi rằng anh sắp thử vượt ngục một chuyến nữa. Tôi cầu Chúa cho anh được thành công. Tôi yêu cầu, trước khi anh đi, anh ngồi một phút trên tảng đá tôi vừa xoa tay vào, và cũng xin anh xoa tay vào đấy để vĩnh biệt.
- Thiếu tá cho phép tôi được gửi bằng dây cáp, một ít tôm hùm và cá cho bác sĩ, mỗi khi tôi muốn, Santori cũng đồng ý.
- Vĩnh biệt bác sĩ, vĩnh biệt bà.
Trước khi tàu rời khỏi bến, tôi chào cả hai người một cách rất tự nhiên. Bà Guibert mở to mắt nhìn tôi, vẻ như muốn nói: “Hãy nhớ mãi đến chúng tôi vì chúng tôi cũng không bao giờ quên anh”.
Chiếc ghế của Dreyfus ở tận mỏm phía Bắc của đảo cao hơn mặt biển đến trên bốn mươi mét..
Hôm nay tôi không đi câu. Trong bể cá thiên thiên, tôi còn hơn một trăm ký cá phèn và trong một cái thùng ton-nô bằng sắt, được neo bằng xích, còn hơn năm trăm con tôm hùm. Tôi có thể nghỉ câu. Tôi đã có dư để gửi cho bác sĩ và để dành cho Santori, cho anh người Tàu và cho tôi. Lúc đó là năm 1941. Tôi ở tù đã mười một năm.
Tôi đã ba mươi lăm tuổi. Tôi đã sống những năm tươi đẹp nhất trong đời tôi trong phòng giam, hoặc ở xà-lim. Tôi chỉ sống tự do hoàn toàn được bảy tháng với bộ lạc Anh-điêng của tôi. Những đứa con mà tôi đã có với hai người vợ Anh-điêng bây giờ đã tám tuổi. Thật khủng khiếp! Thời gian trôi qua nhanh đến vậy? Nhưng nhìn về phía sau, tôi vẫn lặng ngắm những giờ những phút chịu đựng kéo dài của khoảng thời gian đó, khoảng thời gian đã được khắc sâu trên con đường đau khổ. Ba mươi lăm năm rồi! Montmartre, quảng trường Trắng, quảng trường Pigalle, khoảng sân khiêu vũ ở Triều Hoa viên, đại lộ Clichy, đâu cả rồi? Đâu rồi em Nenette với bộ mặt y như Đức mẹ, thật sự là bức tranh chạm nổi, có đôi mắt đen mênh mông tràn đầy tuyệt vọng nhìn tôi đăm đăm, đã kêu tôi giữa phiên tòa: “Anh đừng lo, em sẽ đến tận đấy theo anh”?. Đâu rồi, luật sư Raymond Hubert với lời an ủi: “Chúng ta sẽ được trắng án”? Đâu rồi, mười hai cái bị thịt trong ban bồi thẩm? Đâu rồi bọn cớm ấy? Ngài biện lý? Ba tôi và các em gái tôi, đã lấy chồng trong cảnh chiếm đóng, giờ đây đang làm gì?
Bao nhiêu chuyến vượt ngục! Thử tính xem bao nhiêu chuyến rồi.
Chuyến đầu tiên, khi tôi đánh gục bọn cai và tù ở bệnh viện trốn đi. Chuyến thứ hai ở Colombia, từ Rio Hacha đi: chuyến đi đẹp nhất. Chuyến đó tôi thành công mỹ mãn. Tại sao tôi lại bỏ bộ lạc của tôi nhỉ. Một cảm xúc yêu đương mãnh liệt làm toàn thân tôi rung động. Tôi rùng mình, mường tượng như trong thân thể tôi còn giữ lại những cảm giác mà tôi đã được thể nghiệm những khi làm tình với hai chị em cô gái Anh-điêng. Rồi chuyến thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu ở Baranquilla. Những chuyến vượt ngục này chỉ toàn chuyện rủi ro. Rồi mưu toan trốn tập thể trong buổi lễ mi-sa, thất bại một cách thảm hại! Cái chuyến thuốc nổ hư và chuyện cái quần cậu Clousiot bị vướng vào mái tôn. Rồi cái liều thuốc ngủ tác động quá chậm! Chuyến thứ bảy ở đảo Royale, bị thằng xỏ lá Bébert Celier tố cáo. Không có nó, chắc chuyến ấy có thể thành công. Giá nó câm mẹ cái mồm nó đi, chắc tôi và anh bạn Carbonieri khốn khổ của tôi đã được tự do. Chuyến thứ tám, chuyến cuối cùng, ở nhà thương điên. Sai lầm, một sai lầm lớn của tôi, là đã để cho anh người ý chọn điểm hạ thủy. Nếu xuống phía dưới chừng hai trăm mét nữa, chỗ gần lò sát sinh, chắc thả bè dễ hơn nhiều.
Chiếc ghế dài này, nơi Dreyfus vô tội bị án tù, mà vẫn can đảm sống được, nhất định phải giúp cho tôi được việc gì. Không bao giờ được chịu thua! Phải thử làm một chuyến vượt ngục nữa. Phải, tảng đá nhẵn, trơn, nhô lên trên vực thẳm chỉ có đá bị sóng dập liên tục này phải trở thành một sự nâng đỡ về tinh thần và một tấm gương đối với tôi. Dreyfus không bao giờ chịu để tinh thần bị suy sụp, ông luôn luôn đấu tranh đến cùng để được khôi phục danh dự. Quả Dreyfus có một ưu thế đã làm được Emile Zola bênh vực với bài: “Tôi tố cáo” nổi tiếng. Tuy vậy nếu ông không phải là con người đã được tôi luyện thì trước bấy nhiêu nỗi bất công chắc chắn ông đã từ chiếc ghế này gieo mình xuống vực. Ông đã chịu đựng được.
Tôi không thể kém Dreyfus, và tôi phải từ bỏ ý nghĩ vượt ngục với phương châm: thắng hay là chết. Tôi phải bỏ hẳn chữ chết, vì chỉ được nghĩ rằng tôi phải thắng và phải được tự do. Trong khi ngồi trên chiếc ghế của Dreyfus, tâm hồn tôi lang bang nghĩ đến quá khứ, mơ tưởng đến tương lai tươi đẹp. Mắt tôi thường bị lóa vì ánh nắng chói chang, vì ánh phản quang màu bạch kim của những ngọn sóng.
Cứ nhìn biển mãi mà không thực sự nhìn thấy nó, tôi dần dà biết được tất cả những thay đổi thất thường có thể tưởng tượng được của những lớp sóng cuộn theo chiều gió. Đều đều, không mệt mỏi, không thay đổi, biển cả cứ tấn công vào các mỏm đá nhô ra khỏi đảo xa nhất. Nó sục sạo, mài mòn, đập vỡ những tảng đá nọ, như muốn nói với đảo Quỷ: “Mi cút đi, mi phải biến mất đi, ta muốn xô vào Đất liền mà mi cứ làm ta vướng víu, mi chặn đường đi của ta. Vì vậy, hàng ngày, không phút nào ngơi, ta phải tước đi từng chút ít một của mi”. Khi có giông bão, biển thả sức vui vẻ hoành hành. Nó không chỉ lao tới, và khi rút ra, cào hết tất cả những gì nó đã đập phá được, mà hơn thế nữa, có còn chui rúc, len lỏi đưa nước vào tất cả các ngõ ngách để dần dà, từng chút một, xói mòn ngầm những tảng đá khổng lồ đang có vẻ như quát vào biển: “Cấm đi qua đây, cấm qua chỗ này”.
Và tôi đã khám phá ra một điều quan trọng. Ngay dưới chỗ ghế của Dreyfus, sóng xô thẳng vào những tảng đá sống trâu này, tấn vào, tan ra và rút đi vôi một sức mạnh hung hãn. Hàng tấn nước không tung tóe ra được vì bị kẹt giữa hai tảng đá hình móng ngựa rộng chừng năm, sáu mét. Sau đó là vách đá ngựa rộng chừng năm, sáu mét. Sau đó là vách đá dựng đứng, cho nên nước theo sóng vào chỉ có một đường thoát là quay ngược lại, rút ra khơi.
Điều này rất quan trọng vì nếu khi sóng bị tóe ra và lùa vào vực thẳm, tôi từ trên mỏm đá ôm một bao trái dừa lao thẳng xuống đấy, thì chắc chắn, không nghi ngờ gì cả, là nước rút sẽ cuốn tôi ra theo.
Tôi biết chỗ có thể kiếm ra vài cái bao tải, ở chuồng heo muốn có bao nhiêu để đựng dừa cũng có.
Việc đầu tiên là phải làm thử đã. Vào những ngày trăng tròn, lúc nước thủy triều lên cao nhất, thì sóng cũng mạnh nhất. Tôi sẽ chờ một đêm như thế. Một bao tải nhét đầy trái dừa còn cả vỏ xơ, đã khâu kỹ lại, được dấu trong một cái hang mà muốn vào đấy phải lặn xuống nước. Tôi tìm ra nó lúc lặn mò tôm hùm. Tôm hùm bám vào trần hang, không khí chỉ lọt được vào hang khi nước xuống. Trong một bao tải khác được chằng cùng với bao đựng trái dừa, tôi bỏ một tảng đá nặng chừng bao mươi lăm đến bốn mươi ki lô. Vì tôi tính tôi sẽ vượt ngục với hai bao tải chứ không phải một, mà tôi thì cân nặng bảy chục ký, cho nên tỷ lệ như vậy là tương đương.
Thí nghiệm này kích thích tôi rất dữ. Không ai đến phía này của đảo bao giờ. Cũng không ai giờ rằng có người lại chọn nơi bị sóng dập mạnh nhất, nghĩa là nơi nguy hiểm nhất, để vượt ngục.
Nhưng đây lại là địa điểm duy nhất mà, nếu tôi rời được bờ, tôi sẽ được sóng đưa ra khơi và không thể nào lại đâm đầu vào đảo Royale được. Chỉ ở đây chứ không phải ở đâu khác, tôi sẽ ra đi. Những bao tải đựng dừa và hòn đá không dễ mang vác Tôi không sao kéo nó lên mỏm đá được. Đá trơn và lúc nào cũng ướt. Tôi đã bàn với Chang, và anh ta đã đến giúp tôi. Anh mang cả bộ đồ nghề câu cá, dây câu ngầm, để lỡ bất ngờ gặp ai, chúng tôi có thể nói là chúng tôi đi đặt lới bẫy cá mập.
- Bắt đầu đi, Chang. Một chút nữa là xong.
Trăng rằm chiếu sáng vằng vặc như ban ngày. Tiếng sóng ầm ầm làm tôi choáng váng. Chang hỏi tôi: “Anh đã sẵn sàng chưa Papillon? Cho nó theo lớp sóng này đi. Cột sóng cao năm thước, thẳng đứng ập xuống bờ đá. Chân sóng xô vào phía dưới chúng tôi mạnh đến nỗi ngọn sóng vượt qua cả mỏm đá, làm chúng tôi bị ướt hết. Nhưng nó cũng không ngăn cản chúng tôi ném các bao tải đúng lúc hình thành xoáy nước trước khi sóng rút ra. Hai cái bao tải bị cuốn đi như một cọng rơm.
Tốt rồi, Chang, thế là xong.
Chờ xem bao tải có trở về không.
Năm phút sau, tôi rụng rời cả người khi trông thấy bao tải của tôi ở trên đỉnh một lớp sóng ngầm cao ngất, đến sáu bảy mét bị đưa trở vào bờ. Sóng nâng túi dừa vào tảng đá như không có nghĩa lý gì. Nó đưa những thứ đó lên trước ngọn sóng, khoảng trước bọt nước một chút, với một sức mạnh phi thường, sóng đã trả nó về chỗ nó bắt đầu bị cuốn đi, đập vào đá vỡ tan thành, bao tải rách bươm ra, mấy quả dừa bắn tung ra khắp nơi, còn tảng đá thì lăn xuống đáy vực.
Chang và tôi đều ướt thấu xương, bị đẩy ngã, may mà ngã về phía đất liền. Cả người chúng tôi bị xây xát và ê ẩm. Chúng tôi không buồn nhìn ra phía biển mà vội rời cho thật nhanh cái nơi đáng nguyền rủa này.
- Không tốt đâu, Papillon. Cái ý vượt ngục ở đảo Quỷ không tốt đâu. ở Royale hơn. Anh đi từ phía Nam hơn ở đây.
Phải, nhưng ở đảo Royale, việc vượt ngục chỉ hai giờ sau là nhiều nhất, sẽ bị lộ. Các bao tải đựng dừa chỉ đi được nhờ sức sóng đẩy, tôi sẽ bị ba chiếc tàu ở đảo quây bắt được liền. Còn ở đây, thứ nhất là không có tàu thứ hai, chắc chắn tôi vượt ngục, sau người ta tưởng tôi đi câu bị chết đuối. ở đảo Quỷ, không có điện thoại. Nếu tôi đi lúc trời xấu, không tàu nào có thể đến được đây. Vì vậy tôi phải từ ở đây đi. Nhưng ra đi bằng cách nào?
Giữa trưa, trời nắng chang chang. Một thứ nắng nhiệt đới làm cho đầu óc muốn sôi lên. Một thứ nắng thiêu cháy mọi thứ cây cỏ đã nảy mầm được nhưng chưa lớn đến mức đủ sức đương đầu với nắng. Một thứ ánh nắng mà chỉ trong vài giờ cũng đã làm cho các vùng nước biển không sâu quá phải bay hơi chỉ còn lại một lớp muối trắng. Một thứ ánh nắng làm cho làn không khí chao đảo như nhảy múa. Đúng, ánh nắng chuyển động thật sự trước mắt tôi, và ánh nắng phản chiếu trên mặt biển làm tôi rát bỏng cả mắt. Tuy vậy, lúc ngồi lại trên chiếc ghế của Dreyfus, tất cả những điều đó không ngăn tôi tiếp tục quan sát mặt biển. Lúc bấy giờ tôi mới thấy tôi quá ư là ngốc. Con sóng ngầm, cao gấp hai lần tất cả các con sóng khác, con sóng đã ném các bao tải của tôi vào đá, làm nó tan vụn hoàn toàn, con sóng này chỉ thỉnh thoảng mới có. Tôi tính kỹ thì thấy cứ sáu đợt sóng bình thường mới có một đợt sóng ngầm dữ dội như vậy. Từ giữa trưa đến lúc mặt trời lặn, tôi quan sát xem thử có phải đều đặn như thế không, có những thay đổi gì không, nghĩa là xem thử có gì không đều trong chu kỳ và hình dáng con sóng khổng lồ này không.
Không, không một lần nào con sóng ngầm đến trước hay đến sau. Cứ sáu đợt sóng cao chừng sáu mét kéo vào, thì cách bờ hơn ba trăm mét, con sóng ngầm lại hình thành. Nó đến thẳng đứng như chữ I. Càng tới gần bờ, nó càng tăng khối lượng và chiều cao. Không có bọt sóng ở trên ngọn, khác hẳn sáu con sóng kia. Rất ít bọt. Tiếng sóng cũng đặc biệt, giống như tiếng sấm rền đang tắt dần từ xa. Khi sóng xô vào bờ đá, ập vào khoảng giữa hai tảng đá nọ, rồi đập vào vách, khối lượng nước của nó lớn hơn của các con sóng khác, nó bị tắc lại, quay lộn nhiều lần trong hốc đá và mất mươi mười lăm giây những cuộn nước xoáy mới tìm được lối thoát và rút ra, cuốn theo những hòn đá to cứ lăn đi lăn lại, ầm ầm như tiếng hàng trăm chiếc xe chở đá được đổ xuống vực một cách thô bạo.
Tôi bỏ độ một chục quả dừa vào một cái bao tải tôi tống một tảng đá nặng độ hai mươi ki-lô vào đấy và con sóng ngầm vừa xô vào đá, tôi ném bao tải xuống. Mắt tôi không trông theo được bao tải vì có quá nhiều bọt nước trắng trong vực xoáy, nhưng tôi cũng thoáng thấy nó trong một giây, khi nước như bị hút mạnh, băng băng kéo ra ngoài khơi. Bao tải không bị đẩy trở lại. Sáu con sóng kia không đủ sức ném nó vào bờ và khi con sóng thứ bảy hình thành, cách xa chừng ba trăm mét, cái bao tải hẳn đã vượt ra ngoài cái vùng con sóng ngầm bắt đầu hình thành, vì tôi không còn nhìn thấy bao tải ấy đâu nữa.
Lòng chứa chan vui mừng và hy vọng, tôi đi về trại. Thế là tôi đã tìm ra một cách hạ thủy thật hoàn hảo. Không được phiêu lưu trong việc này. Thế nào tôi cũng cần phải thử một lần cho nghiêm chỉnh hơn, với những số liệu tương ứng một cách chính xác với bản thân tôi: hai bao trái dừa buộc chặt vào nhau, và ở trên là bảy mươi ki-lô được phân đều cho hai hay ba tảng đá. Tôi kể cho Chang. Và anh bạn Tàu của tôi ở Côn Đảo đã giỏng tai ra nghe.
- Tốt lắm, Papillon ạ. Tôi cho thế là anh đã tìm được cách rồi. Tôi sẽ giúp anh làm thử thật sự. Chờ nước thủy triều lên cao tám mét: sắp đến điểm phân mùa rồi.
Được Chang giúp đỡ, lợi dụng điểm phân mùa, có con sóng cao hơn tám mét, tôi ném xuống con sóng ngầm nọ hai bao trái dừa kèm theo ba tảng đá nặng chừng tám mươi ki-lô.
- Tên con bé mà anh bơi ra cứu ở Saint Joseph là gì?
- Lisette.
Vậy ta cũng đặt tên con sóng có ngày sẽ cuốn anh đi theo là Lisette. Bằng lòng không? Đồng ý.
Lisette ập đến ầm ầm như một đoàn xe lửa tốc hành tới ga. Nó hình thành từ ngoài xa hơn hai trăm năm mươi mét, và sừng sững như vách đá, nó tiến vào mỗi lúc một lớn dần. Quả là một cảnh tượng uy nghi. Nó đập vào vách làm Chang và tôi bị hất hẳn sang bên tảng đá, và các bao tải đã tự nó rơi xuống vực Vì biết ngay trong một phần mười giây rằng chúng tôi không thể đứng lại trên mỏm đá được, chúng tôi đã lùi về sau: điều đó tuy không tránh cho chúng tôi khỏi bị một khối nước ập đến tát ướt cả người, nhưng cũng làm cho chúng tôi khỏi bị ngã xuống vực. Chúng tôi làm cuộc thí nghiệm này lúc mười giờ sáng. Chúng tôi không sợ gì vì ba tên cai tù đều ở đầu kia đảo lo việc tổng kiểm kê. Mấy cái bao tải đã trôi không ra khơi, chúng tôi trông rất rõ, nó đã trôi rất xa bờ. Nó có trôi ra quá chỗ hình thành của con sóng không? Chúng tôi không có gì làm chuẩn để biết được các bao tải ở xa hơn hay gần hơn chỗ ấy. Sáu con sóng tiếp theo con Lisette đều không đuổi kịp được đà trôi của nó. Một lần nữa Lisette lại hình thành và bắt đầu xô vào bờ. Các bao tải cũng không bị nó cuốn vào. Thế là chúng đã thoát được khỏi khu vực ảnh hưởng của con sóng.
Trở vội lên ngồi vào ghế của Dreyfus để cố tìm ra các bao tải một lần nữa, chúng tôi có được nỗi vui mừng được bốn lần nhìn thấy nó bập bềnh trên các ngọn sóng, không hướng về phía đảo Quỷ mà đi về hướng Tây. Không còn phải bàn cãi gì nữa, cuộc thí nghiệm đã cho thấy kết quả tốt. Tôi sẽ lên đường dấn thân vào cuộc phiêu lưu vĩ đại trên lưng Lisette.
“Nhìn kìa, nó đến đấy”. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, rồi đến lượt Lisette tiến vào. ở mỏm đá, chỗ đặt ghế của Dreyfus xưa nay, biển vẫn khắc nghiệt, nhưng hôm nay nó đặc biệt hung dữ. Lisette tiến vào với tiếng ầm ầm riêng biệt của nó. Tôi thấy nó lù lù hơn ngày thường, và hôm nay, nhất là ở chân sóng, khối lượng nước được di chuyển còn nhiều hơn nữa. Khối nước khổng lồ này sẽ tấn công hai tảng đá mau lẹ hơn, thắng góc hơn. Vì khi con sóng vỡ, đổ xô vào khoảng cách giữa hai tảng đá khổng lồ, tiếng động còn inh tai nhức óc hơn bao giờ hết, nếu trên đời có thể có một tiếng động quái gở như vậy.
- Anh nói là phải lao xuống chỗ này phải không? Đúng đấy, anh chọn chỗ này thật là tuyệt. Tôi thì tôi không chơi đâu. Tôi muốn vượt ngục thật, nhưng tôi không muốn tự tử.
Sylvain rất xúc động khi tôi giới thiệu Lisette với anh ta. Anh mới đến đảo Quỷ được ba ngày và tất nhiên tôi rủ anh cùng đi với tôi. Mỗi người đi một bè. Do đó nếu anh nhận lời, tôi sẽ có bạn khi đến Đất liền để tiến hành cuộc đào tẩu tiếp theo. ở rừng mà chỉ có một mình chẳng thú vị chút nào đâu.
- Đừng có sợ trước khi làm. Tôi công nhận là lần đầu tiên, ai cũng phải chùn bước. Nhưng đây lại là con sóng duy nhất có thể kéo cậu ra thật xa, các con sóng tiếp theo không có đủ sức kéo cậu trở lại bờ đá.
- Bình tĩnh nào, nhìn kỹ lại, chúng tôi đã thử rồi - Chang nói - Chắc chắn, cậu đã đi rồi là sẽ không bao giờ trở lại đảo Quỷ, cũng không vào đảo Royale đâu
Mất một tuần, tôi mới thuyết phục được Sylvain. Một người rắn chắc, cao một mét tám mươi, cân đối, với một thân hình lực sĩ điền kinh.
- Được. Tôi công nhận chúng ta sẽ được đưa ra đủ độ xa. Sau đó, cậu tính cứ để sóng đẩy đi, mất bao nhiêu ngày thì đến được Đất liền?
- Thật tình, tôi cũng không biết đâu, Sylvain ạ. Có thể bị giạt nhiều hay ít, tùy thời gian. ảnh hưởng của gió không có mấy, vì chúng ta ở sát mặt nước. Nhưng nếu trời xấu, sóng sẽ lớn và đẩy chúng ta mau hơn vào phía rừng. Khoảng bảy tám, nhiều nhất là mười con nước, chúng ta sẽ bị đẩy vào bờ. Do đó, xê xích ít nhiều thì mát chừng bốn tám đến sáu mươi giờ.
- Cậu tính thế nào vậy?
- Từ các đảo thẳng đến bờ, không xa hơn bốn mươi cây số. Vì bị trôi giạt nên đường đi làm thành cạnh huyền một tam giác vuông. Cậu nhìn hướng sóng đi. ít nhiều, cũng phải đi một quãng từ một trăm đến một trăm hai mươi ki-lô-mét là tối đa. Chúng ta càng đến gần bờ, sóng càng đẩy chúng ta thẳng hướng vào đấy. Thoạt tính, cậu không cho là một vật trôi giạt ở bờ với khoảng cách như thế, lại không được đẩy đi với tốc độ năm ki-lô-mét một giờ.
Anh ta nhìn tôi và chăm chú nghe rất kỹ những lời giải thích của tôi. Chàng trai cao lớn này rất thông minh.
- Đúng. Tôi công nhận là những điều cậu nói chẳng ngu ngốc chút nào, và nếu không có những con nước xuống làm mất thì giờ của ta, vì chúng lại đẩy ta ra ngoài khơi, chắc chắn chỉ trong vòng ba mươi giờ, ta có thể đến đất liền. Do có những con nước xuống, tôi cho là cậu nói có lý: muốn đến đất liền phải mất từ bốn mươi tám đến sáu mươi tiếng.
- Cậu tin chắc rồi thì cậu đi với tôi chứ?
- Có thể. Giả dụ, ta đến chỗ đất liền là rừng thì ta làm gì?
- Ta phải đến vùng gần khu vực Kourou. ở đây có một làng dân chài khá lớn, có những người đi tìm balata và tìm vàng. Phải đến gần một cách thật thận trọng vì ở đấy cũng có một lâm trường của tù khổ sai. Chắc chắn cũng có những điểm để từ đó đi sâu vào trong rừng đến Cayenne và đến một trại của người Tàu được gọi là Inini. Phải bắt một tù nhân hay một thổ dân da đen buộc họ phải dẫn mình đến Inini. Nếu người ấy tử tế, ta có thể cho năm trăm đồng rồi bảo anh ta chuồn đi cho khuất mắt. Nếu cũng là một người tù, thì ta bắt hắn phải cùng đi trốn với ta. Inini là trại giam đặc biệt cho người Đông dương, thế thì ta đến đấy để làm gì?
- ở đấy Chang có người anh ruột.
- Đúng, anh ấy là anh tôi. Anh ấy sẽ vượt ngục với các anh, anh ấy kiếm ra được ca-nô và thức ăn. Cách anh sẽ gặp Quých-Quých, các anh sẽ có đủ thứ để đi đường. Không một người Tàu nào chịu làm chỉ điểm cả cho nên anh gặp bất cứ người An Nam * (*Tác giả cũng như nhiều người Pháp hồi đó, không biết phân biệt người “Tàu với người “An Nam”) nào ở trong rừng, anh cứ bảo người đó tin cho Quých-Quých biết.
- Tại sao người ta lại gọi anh ta là Quých-Quých? - Sylvain hỏi.
- Tôi không biết, do bọn Pháp đặt tên cho anh như vậy - Đoạn anh nói thêm: “Các anh phải cẩn thận, khi đến đất liền rồi, các anh sẽ thấy bùn. Đừng bao giờ đi trên bùn, đi không tốt, nó hút các anh xuống đấy. Chờ cho nước đưa các anh vào tận rừng để có thể bám được dây leo và cành cây. Nếu không thì nguy lắm.
- à đúng đấy, Sylvain à. Không bao giờ được đi trên bùn, ngay cả khi ở rất gần, rất gần bờ. Phải chờ lúc túm được cành cây hay sợi dây leo nào đã.
- Được Papillon. Tôi đã quyết định rồi. Hai cái bè được chế tạo cùng một kiểu, không khác nhau mấy, vì chúng ta cũng nặng cân gần như nhau, chắc chắn chúng ta sẽ không bị tách rời nhau quá xa. Nhưng không sao lường trước được việc gì cả. Nếu lạc nhau ta sẽ tìm nhau ra sao? ở đây, ta không nhìn được tới Kourou. Cậu có để ý, khi cậu còn ở Royale là ở phía bên phải Kourou, khoảng chừng hai mươi ki-lô-mét, có những tảng đá trắng, thấy rất rõ khi mặt trời chiếu vào đấy phải không?
- Đúng.
- Cả vùng bờ biển này, chỉ chỗ ấy là có đá. Bên phải, bên trái, đến vô cùng tận, chỉ là bùn. Đá trắng là do cứt chim là ở đấy. Có đến hàng ngàn con, và vì không có người nào đến đấy bao giờ, chỗ đó sẽ là nơi trú chân để ta lấy lại sức trước khi đi sâu vào rừng. Ta sẽ ăn trứng và ăn chỗ dừa ta đem theo. Không được đốt lửa. Ai đến trước sẽ đợi người tới sau.
- Đợi bao lâu?
- Năm ngày. Không thể nào sau năm ngày, người kia lại không tới được.
Hai chiếc bè đã được làm xong. Các bao tải được lồng vào nhau, hai cái làm một, cho bền hơn. Tôi yêu cầu Sylvain dành cho tôi mười ngày để tập cưỡi bao tải, càng nhiều giờ càng hay. Anh ta cũng phải làm như vậy. Mỗi lần thấy các bao tải sắp bị lật ngửa ra, phải cố gắng làm sao ngồi vững ở trên. Nhưng chú ý không được ngủ quên vì sợ bị nhào xuống nước mà không bấu víu kịp. Chang khâu cho tôi một cái túi nhỏ không thấm nước để đeo vào cổ, trong đựng thuốc lá và máy lửa. Chúng tôi mỗi đứa nạo mười quả dừa để mang theo.
Cùi dừa giúp chúng tôi chịu đói và còn làm đỡ khát nữa. Hình như Santori có một thứ bong bóng bằng da đựng được rượu. Lão ta không dùng đến nó bao giờ. Khi nào có dịp lọt vào nhà lão, Chang sẽ tìm cách xoáy cái đó
Chúng tôi định khởi sự vào ngày chủ nhật, lúc mười giờ tối. Trăng rằm, sóng thủy triều ắt phải cao đến tám mét. Lisette hẳn sẽ ở vào thời điểm mạnh nhất. Sáng chủ nhật, một mình Chang sẽ cho heo ăn. Tôi sẽ ngủ suốt ngày thứ bảy và cả chủ nhật. Khởi hành lúc mười giờ đêm. Thủy triều bắt đầu xuống đã được hai giờ.
Hai cái bao tải của tôi không thể nào tách rời ra được Chúng được kết chắc lại bằng những sợi gai bện vào với nhau, bằng dây đồng, và khâu liền với nhau bằng gai buồm. Chúng tôi đã kiếm những cái bao có miệng rộng để lồng bao nọ vào bao kia sao cho vừa không thể tuột ra ngoài được.
Sylvain không ngừng tập thể dục, còn tôi, tôi đứng hàng giờ để những lớp sóng lăn tăn đập vào đùi tôi như xoa bóp vậy. Sóng cứ đập liên hồi vào đùi tôi và việc tôi phải lên gân chống lại sóng làm cho đùi và bắp chân tôi cứng như sắt.
ở một cái giếng bị bỏ hoang, có một sợi dây xích dài gần ba mét. Tôi quấn vào nó những sợi thừng nối các bao tải của tôi. Tôi có một cái ốc bù-loong có thể chốt qua các móc xích. Trong trường hợp tôi không chống đỡ nổi, tôi sẽ dùng sợi xích sắt để buộc mình vào cái bao tải. Làm như vậy, tôi có thể ngủ mà không sợ rơi xuống nước và để trôi mất cái bè. Nếu bao tải lật, nước sẽ làm tôi tỉnh dậy và tôi sẽ lật nó lại như cũ. Papillon này, chỉ còn ba ngày nữa thôi. - Chúng tôi ngồi trên ghế của Dreyfus, nhìn Lisette.
- Phải, chỉ còn ba ngày nữa thôi, Sylvain ạ. Tớ tin tưởng là sẽ thành công. Còn cậu thì salà
- Chắc ăn lắm, Papillon à. Đêm thứ ba hay sáng thứ tư, bọn ta sẽ ở trong rừng rồi. Lúc đó, tha hồ mà chén cho đẫy!
Chang nạo cho mỗi đứa chúng tôi mười trái dừa. Ngoài dao, chúng tôi còn mang hai cái rựa đẵn cây ăn cắp được ở kho dụng cụ.
Trại Inini ở phía Đông Kourou. Buổi sáng đi, ngược lại phía mặt trời chiếu tới, chắc chắn là sẽ đúng hướng.
- Sáng thứ hai, Santori sẽ điên lên mất. - Chang nói. - Tôi sẽ không nói là cậu và Papi đã chuồn trước ba giờ chiều ngày thứ ba, khi tên gác đã ngủ trưa dậy.
- Hay là cậu vừa chạy về vừa kêu là chúng tớ đang câu cá thì bị sóng lớn cuốn đi?
Không được, lôi thôi lắm. Tôi chỉ nói: “Sếp ạ, Papillon và Stephen hôm nay không thấy đi làm, tôi phải cho heo ăn một mình” - chỉ thế thôi, không hơn không kém.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Vượt ngục từ đảo Quỷ
Chủ nhật, bảy giờ tối. Tôi vừa thức giấc. Tôi cố ngủ mãi từ sáng thứ bảy. Đến chín giờ trăng mới lên. Cho nên lúc này còn tối như mực. Trời rất ít sao. Những đám mây đen nặng trĩu mưa bay nhanh qua đầu chúng tôi Chúng tôi vừa ra khỏi lán. Vì chúng tôi vẫn thường đi câu lén ban đêm, nhiều khi lại còn dạo chơi buổi tối nữa, cho nên ai nấy đều thấy đó là chuyện bình thường. Một thằng nhóc đi vào lán bên cạnh thằng bố của nó, một thằng A-rập to béo. Chắc hẳn chúng nó vừa làm tình với nhau trong một cái xó nào đấy. Nhìn hai đứa nhấc tấm ván bước vào lán, tôi nghĩ bụng: đối với thằng A-rập này, mỗi ngày được hôn hít thằng kia vài ba lần quả là tuyệt đỉnh của niềm hoan lạc. Được tha hồ thỏa mãn tình dục - điều đó đã biến cảnh tù đày thành cõi thiên đường của hắn. Còn thằng pê-đê kia cũng vậy. Tuổi nó khoảng hăm ba hăm lăm. Thân hình nó chẳng còn dáng dấp lực sĩ thiếu niên Hy Lạp bao nhiêu nữa. Nó đã bỏ công tránh ra nắng để giữ một nước da trắng như sữa, nhưng đến nay sắc đẹp của nó đã bắt đầu phôi pha rồi.
Nhưng ở trại khổ sai nó có được nhiều bồ hơn ở ngoài. Ngoài thằng bồ một là thằng A-rập ra, nó còn kiếm được khách trả hăm lăm quan một lần chơi, hệt như một con điếm ở phố Rochechouart khu Montmartre. Ngoài cái khoái cảm mà khách chơi đem lại cho nó, nó còn thu được món tiền đủ cho nó và “chồng” nó sống phong lưu. Cả lũ chúng nó cố tình ngập ngụa trong dâm ô, và kể từ ngày chúng đặt chân lên mảnh đất tù tội, đầu óc chúng chỉ biết có một lý tưởng là thỏa mãn được tình dục.
Viên biện lý đã làm rùm beng lên để khép tội chúng, đẩy chúng vào con đường thối rữa. Nhưng trong cảnh thối rữa đó, chúng lại tìm thấy hạnh phúc. Sau khi tấm ván đã được đóng lại sau đôi mông tròn của thằng pê-đê, chỉ còn lại ba đứa chúng tôi: Chang, Sylvain và tôi.
- Đi thôi. Chúng tôi nhanh chóng tiến về phía Bắc đảo
Chúng tôi đi vào hang lấy hai chiếc bè ra. Cả ba chúng tôi bị ướt như chuột ngay tức thì. Gió ào ào thổi, tiếng rít của nó là tiếng rít đặc biệt của gió lộng, của biển khơi giận dữ. Sylvain và Chang giúp tôi đưa bè lên đỉnh mỏm đá. Phút cuối cùng, tôi quyết định buộc chặt cổ tay trái của tôi vào sợi thừng buộc bao tải. Bỗng nhiên tôi sợ bị tách ra khỏi bao tải và bị cuốn ra xa nó. Chang cũng giúp Sylvain lên được tảng đá trước mặt tôi. Trăng đã lên cao, nên trông sáng như ban ngày. Tôi quấn một cái khăn mặt lên đầu. Chúng tôi phải đợi sáu con sóng. Hơn nửa giờ.
Chang đã đến gần tôi. Anh ôm cổ tôi. Anh nằm trên tảng đá và tựa vào một hốc đá thật chắc, anh nắm chân tôi để giúp tôi chịu được cú dập của Lisette.
- Chỉ còn con sóng này nữa là đến nó đấy, - Sylvain hét to.
Anh đứng trước bè của anh, đưa cả thân mình chống đỡ khối nước ập xuống anh. Tôi cũng ở trong tư thế như vậy, còn được tay không giữ thật chắc, nhưng anh quá căng thẳng, móng tay anh bấm ngập vào bắp vế tôi.
Con sóng Lisette đưa chúng tôi đi đã tới. Nó thẳng đứng như một cái tháp chuông nhà thờ. Với tiếng gầm váng óc quen thuộc, nó đập mạnh vào hai tảng đá và luồn mạnh về phía vách đá.
Tôi lao xuống trước bạn tôi một tích tắc. Sylvain cũng lao xuống gọn gàng không kém, và cả hai cái bè của chúng tôi cũng được Lisette hút ra khơi nhanh đến chóng mặt. Chưa đến năm phút sau, chúng tôi đã ở cách xa bờ hơn ba trăm mét. Sylvain chưa leo lên bè của anh. Hai phút sau, tôi đã ngồi trên bè của tôi. Chang chạy vội lên chiếc ghế của Dreyfus đứng dơ một chiếc khăn tay trắng để chào từ biệt. Chúng qua khỏi được điểm nguy hiểm, chỗ sóng tập trung lại để xô thẳng vào Đảo Quỷ. Những cơn sóng đẩy chúng tôi ra khơi dài hơn, gần như không có bọt, êm đến nỗi chúng tôi hòa với chúng làm một, tôi mà không bị xóc, không sợ bè bị lật.
Chúng tôi từ từ ra khơi một cách êm ái, lên xuống theo những lớp sóng cao thấp, vì thủy triều đang lấp xuống. Trên đỉnh cao một ngọn sóng, quay hẳn mặt lại tôi còn được trông thấy một lần nữa tấm khăn trắng của Chang. Sylvain cách tôi không xa, chừng năm mươi mét về phía trước. Anh dơ tay lên vẫy nhiều lần, tỏ ý vui mừng vì thắng lợi.
Đêm cũng dễ chịu, và chúng tôi cảm thấy sức hút của biển rất mạnh. Nước thủy triều vừa nãy cuốn chúng tôi ra khơi bây giờ lại đẩy chúng tôi về phía đất liền. Mặt trời đang mọc ở chân trời, như vậy là đã sáu giờ. Chúng tôi đang ở thấp dưới mặt nước nên không trông thấy bờ. Nhưng tôi cũng nhận ra là chúng tôi ở rất xa các đảo vì, tuy mặt trời chiếu sáng các mỏm cao của đảo, chúng tôi chỉ thấy một khối lù lù, có thế thôi. Không thấy rõ nét các đảo, tôi cho là chúng ở cách đấy ít ra đến ba mươi ki-lô-mét. Tôi mỉm cười với thành công, với thắng lợi. Hay tôi thử ngồi lên chiếc bè xem sao nhỉ? Gió thổi vào lưng tôi, có thể đẩy tôi đi.
Và tôi đã ngồi lên. Tôi gỡ sợi xích ra và cuốn một vòng quanh thắt lưng. Chiếc ốc bù-loong đã bôi mỡ làm trơn, dễ vặn chặt ốc ê-cu. Tôi hong tay trước gió cho chóng khô. Tôi tìm cách châm một điếu thuốc. Được rồi. Tôi hít những hơi đầu, thật dài, thật sâu và thở khói ra, từ từ. Tôi không còn sợ gì nữa. Và không cần phải mô tả những cơn đau quặn trong bụng tôi từ trước và trong thời gian bắt đầu hành động. Không, tôi không sợ gì cả, đến nỗi hút xong điếu thuốc, tôi quyết định ăn vài miếng cùi dừa. Tôi ngón một nắm lớn và lại hút một điếu thuốc nữa. Sylvain vẫn còn xa tôi. Thỉnh thoảng khi cả hai cùng ở trên đỉnh một ngọn sóng, chúng tôi có thể thoáng trông thấy nhau. Nắng gắt chiếu thẳng vào đầu làm cái sọ của tôi như sôi lên. Tôi ngâm khăn mặt xuống nước rồi quấn lên đầu. Tôi cởi áo va-rơi len ra. Tuy có gió nhưng tôi cũng thấy chết ngột trong chiếc áo này.
Trời đất ơi! bè của tôi vừa bị lật và tôi suýt chết đuối. Tôi uống phải hai hớp nước biển. Tuy cố hết sức tôi cũng không lật nổi cái bao tải và leo lên trên được. Sau cùng tôi xoay nghiêng cái bao tải và tôi bơi đứng ở bên cạnh. Tôi đã thở được dễ dàng hơn. Tôi cố tháo hẳn sợi xích ra khỏi thắt lưng, nhưng mấy ngón tay của tôi không vặn nổi ốc ê-cu. Tôi phát cáu, có lẽ vì ngón tay tôi bị co quắp lại không còn đủ sức để vặn ốc nữa. Hú vía! Sau cùng, rồi cũng xong! Tôi vừa trải qua một giai đoạn ngặt nghèo. Tôi thật sự hoảng hồn tương không thể gỡ ra khỏi sợi xích được.
Tôi không buồn lật bè lại nữa. Mệt lả, tôi tự thấy không còn đủ sức làm việc ấy. Tôi leo lên bè. Thì ngồi trên đáy bây giờ đã lật lên thành phía trên, cũng có sao đâu! Tôi sẽ không trói mình vào bè với sợi xích hay với bất cứ cái gì nữa. Bây giờ tôi đã thấy rõ tôi buộc cổ tay tôi vào bè lúc bắt đầu khởi hành là ngu ngốc đến nhường nào. Việc ấy phải là một kinh nghiệm đối với tôi.
Nắng chiếu gay gắt làm cháy da tay và đùi tôi.
Mặt tôi nóng bừng bừng. Dấp nước vào còn tệ hại hơn, tôi nghĩ vậy, vì nước bốc hơi ngay tức khắc và tôi lại càng bị bỏng nặng hơn.
Gió đã dịu đi rất nhiều, và vì bây giờ sóng không cao nữa nên đi dễ chịu hơn nhưng chậm hơn. Cho nên gió to và biển động thế mà còn hơn là đẹp trời. Tôi bị chuột rút ở chân phải, đau đến nỗi tôi kêu toáng lên làm như thể có người nào ở quanh đấy có thể nghe thấy. Tôi lấy ngón tay làm dấu chữ thập lên chỗ đau, vì tôi nhớ bà tôi bảo làm như vậy sẽ qua được cơn đau. Cách chữa bệnh lang vườn này thất bại thảm hại. Mặt trời đã ngả về Tây. Bây giờ chừng bốn giờ chiều, từ lúc bắt đầu đi, đây là cơn thủy triều thứ tư. Lần nước lên này như đẩy tôi vào bờ mạnh hơn.
Lúc này tôi trông thấy Sylvain thường xuyên và anh ta cũng trông thấy rõ tôi. Anh rất ít khi bị khuất vì sóng không xuống thấp lắm. Anh đã cởi áo sơ-mi và ở trần. Anh ta ra hiệu cho tôi. Anh ở trước tôi ba trăm mét về phía ngoài khơi. Hình như anh đang dùng tay chèo, vì xung quanh anh tôi thấy nước hơi sủi bọt. Có lẽ anh muốn hãm bè của anh cho đi chậm lại để tôi đến gần anh được. Tôi nằm dài trên bao tải và xúc tay xuống nước để chèo. Nếu anh ta hãm bè, còn tôi thì dấn lên, có lẽ khoảng cách giữa hai chúng tôi sẽ thu hẹp lại chăng?
Tôi đã chọn đúng bạn đường cho chuyến vượt ngục này, anh đã trăm phần trăm xứng đáng.
Tôi thôi không chèo bằng tay nữa. Tôi thấy mỏi. Tôi cần phải giữ sức. Tôi lại ăn và cố lật bè lại. Bọc thức ăn ở phía dưới, chai nước ngọt cũng vậy. Tôi đói và khát. Môi tôi đã nét nẻ và bỏng rộp lên: Cách tốt nhất để lật các bao tải là đeo lấy nó, đối diện với sóng rồi lấy chân đạp lúc nó lên đến đỉnh sóng.
Sau năm lần làm thử, tôi đã lật được bè lại. Tôi mệt lả vì đã cố gắng quá sức, và khó khăn lắm tôi mới leo nổi lên bè.
Mặt trời đã xuống sát chân trời, chẳng bao lâu nó sẽ lặn. Vậy là gần sáu giờ rồi. Cầu cho đêm đừng bị xáo động quá, vì tôi hiểu rằng ngâm mình lâu dưới nước sẽ làm tôi mất sức. Sau khi ăn hai tảng cùi dừa, tôi tu một ngụm to nước đựng trong quả bầu của Santori. Thỏa thuê rồi, tôi hong tay trước gió cho tay khô, rồi lấy thuốc lá ra hút, rất khoan khoái. Trước khi trời sập tối, Sylvain vẫy khăn tay, tôi cũng vẫy lại, để chúc nhau ngủ ngon. Anh ta vẫn ở xa tôi như cũ. Tôi ngồi trên bè, hai chân duỗi dài. Tôi vừa vắt áo va rơi len của tôi cho kiệt nước, và mặc áo vào. áo dù ướt cũng giữ được ấm, mà mặt trời vừa lặn là tôi cảm thấy lạnhngay tức khắc. Gió đã trở mạnh. Chỉ còn những đám mây ở phía Tây còn được ánh sáng hồng ở chân trời chiếu sáng. Còn thì mọi vật đều chìm trong bóng tối đang mỗi lúc một xẩm đen hơn. ở phía đông, nơi gió thổi về, trời không có mây. Vậy là lúc này không sợ trời đổ mưa.
Tôi chẳng nghĩ đến gì ngoài việc ngồi cho chắc, đừng để bị đẫm nước một cách vô ích, và tôi tự hỏi, không biết khi đã mệt, nên buộc mình vào các bao tải hay là làm như vậy dễ nguy hiểm, do kinh nghiệm vừa qua của tôi. Rồi tôi nhận thấy tôi lúng túng là do sợi xích ngắn quá, một đầu để thừa vô ích, nó quấn vào dây thừng và dây thép của bao tải. Thu hồi đoạn đó cũng dễ. Tôi sẽ cử động thoải mái hơn. Tôi sửa lại sợi xích, và lại cuốn nó vào thắt lưng. Như vậy tôi thấy yên tâm hơn vì tôi rất sợ ngủ quên và để mất các bao tải.
Đúng, gió đã nổi lên cùng với sóng. Trò trượt lên trượt xuống với sóng biển tiếp diễn, mỗi lúc khoảng cách giữa điểm cao nhất và điểm thấp nhất lại một tăng lên.
Đêm đã xuống hẳn. Bầu trời chi chít hàng triệu ngôi sao, và chòm sao Chữ thập phương Nam sáng hơn tất cả các sao khác.
Tôi không trông thấy anh bạn của tôi. Đêm đầu tiên này rất quan trọng vì nếu vận may xui khiến cho gió thổi mạnh và đều suốt đêm, đến sáng mai, tôi đã đi được một đoạn đường khá dài. Càng về khuya, gió thổi càng mạnh. Trăng từ dưới biển từ từ mọc lên, một màu đỏ nâu, và khi lên cao rỏi, nó lộ hắn ra, to tướng, tròn vành vạnh, và tôi thấy rất rõ những đốm đen làm cho nó giống mặt người. Vậy là đã hơn mười giờ đêm. Trời mỗi lúc một sáng hơn. Trăng càng lên cao, ánh trăng càng sáng tỏ.
Đỉnh sóng nhuộm một màu bàng bạc và ánh phản xạ kỳ lạ của nó làm tôi chói mắt. Không thể không nhìn ánh phản chiếu bàng bạc này được nhưng quả thật nó làm cho mắt ta đã bị nắng và nước mặn kích thích lại càng khó chịu và nhức nhối thêm.
Dù tôi tự cho như vậy là quá nhiều, tôi vẫn không cưỡng lại được và tôi đã hút liền ba điếu thuốc.
Không có gì bất bình thường đối với chiếc bè trên biển sâu, nó cứ lên xuống đều đều không có vấn đề gì phải lo lắng. Tôi không thể duỗi mãi chân trên các bao tải vì tư thế ngồi đã mau chóng làm chân tôi bị chuột rút rất đau.
Dĩ nhiên, tôi luôn luôn bị ướt từ hông trở xuống. Ngực tôi gần như khô ráo, gió đã làm khô áo va rơi của tôi và sau đó không có đợt sóng nào làm tôi bị ướt quá khoảng thắt lưng. Mắt tôi mỗi lúc một nhức hơn. Tôi nhắm mắt lại. Thỉnh thoảng tôi lại thiếp đi “Không được ngủ”. Nói thì dễ, nhưng tôi không sao chống lại cơn buồn ngủ được. Mẹ kiếp? Tôi phải chống lại cái trạng thái đờ đẫn này. Và cứ mỗi lần trở lại với thực tại, tôi lại thấy đau nhói trong óc. Tôi lấy máy lửa ra. Thỉnh thoảng tôi lại để ngọn lửa sát cánh tay phải hay sát cổ cho bỏng da.
Một nỗi lo âu khủng khiếp tràn vào lòng tôi, tôi lấy hết nghị lực xua đuổi nó đi. Tôi sẽ ngủ thiếp đi chăng? Nhỡ ngã xuống nước, cái lạnh có làm tôi tỉnh dậy không? Tôi buộc người vào sợi xích là đúng. Tôi không thể để mất hai bao tải này, chúng là cuộc sống của tôi. Nếu bị lăn xuống nước mà tôi không tỉnh dậy thì quả là tai hại.
Vài phút qua, tôi lại bị ướt đẫm cả người. Một cơn sóng quái ác, chắc hẳn không chịu đi theo con đường đều đặn của các lớp sóng khác, đã dội vào tôi từ bên phải.
Con sóng đó không phải chỉ dội cho tôi ướt mà còn làm cho tôi quay ngang ra thành thử hai lớp sóng khác đi đúng hướng lại dội một mẻ nữa ướt từ đầu đến chân.
Đêm thứ hai đã khuya lắm rồi. Không biết mấy giờ? Theo vị trí mặt trăng bắt đầu ngả về tây, chắc phải hai ba giờ sáng. Chúng tôi ngâm mình trong nước đã năm lần thủy triều lên xuống, cả thảy ba mươi giờ đồng hồ. Bị ướt thấu xương cũng có lợi cho tôi: cái lạnh làm tôi tỉnh hẳn. Tôi run bần bật, nhưng tôi lại mở được mắt mà không phải cố gắng lắm. Chân tôi bị tê cứng, và tôi quyết định thu chân vào sát dưới mông. Tôi dùng hai tay kéo từng chân một, cuối cùng tôi cũng ngồi lên được chân mình. Các ngón chân của tôi đã bị lạnh cóng, chúng có nóng lên được dưới thân tôi không?. Tôi ngồi xếp bằng tròn, giữ tư thế ấy thật lâu.
Thay đổi cách ngồi cũng làm tôi dễ chịu. Tôi cố tìm Sylvain vì trăng chiếu mặt biển rất rõ. Chỉ có điều nó đã xuống thấp, lại chiếu thắng vào mặt làm tôi khó nhận ra mọi vật. Tôi chẳng trông thấy gì. Sylvain không có gì để buộc người vào các bao tải, không biết anh còn ở trên đó không?
Tôi dõi tìm anh một cách tuyệt vọng. Vô ích. Gió thổi mạnh, nhưng thổi đều đều, không giật từng cơn, và điều ấy rất quan trọng. Tôi quen với nhịp độ của gió và cả người tôi hòa vào làm một với các bao tải của tôi. Cứ rõi mắt nhìn quanh mãi, dần dần tôi chỉ còn một ý nghĩ cố định trong đầu: trông thấy được bạn tôi. Tôi hong ngón tay cho gió thổi khô rồi tôi cho vào mồm thổi hết sức mạnh. Tôi lắng nghe. Không có tiếng đáp lại Sylvain có biết huýt sáo bằng ngón tay không? Tôi cũng không rõ nữa. Đáng lẽ tôi phải hỏi anh ta điều đó trước khi đi, cũng có thể làm hai cái còi tu huýt một cách dễ dàng! Tôi tự trách mình đã không nghĩ đến điều đó. Rồi tôi để hai tay trước mồm làm loa cất tiếng hú rõ to: “Hú-ù! Hú-ù!”. Chỉ có tiếng gió và tiếng sóng đáp lại
Không chờ thêm nữa, tôi đứng thẳng lên các bao tải, tay trái đỡ sợi xích, tôi giữ thăng bằng trong khi năm con sóng đưa tôi lên tận đỉnh cao. Khi lên đến tột đỉnh, tôi đứng thẳng, còn khi sóng đang hạ hay đang lên thì tôi ngồi xổm. Bên phải, bên trái, phía trước đều chẳng thấy gì. Sylvain có ở phía sau không? Tôi không dám đứng lên nhìn về phía sau. Tôi chỉ nhận ra một điều không nghi ngờ gì được là ở phía trái tôi có một đường dài đen sẫm dưới ánh sáng trăng. Chắc chắn đây là rừng.
Ban ngày hẳn là tôi sẽ trông thấy cây cối, điều đó sẽ làm tôi thấy dễ chịu. “Papi, ban ngày, mi sẽ trông thấy rừng. Lạy Chúa hãy làm cho tôi trông thấy cả bạn tôi nữa”.
Sau khi xoa bóp các ngón chân, tôi duỗi dài hai cẳng chân ra. Rồi tôi quyết định hong tay cho khô và hút thuốc. Tôi đã hút hai điếu. Không biết lúc này là mấy giờ? Trăng đã xuống thấp. Tôi không nhớ được đêm qua, nó lặn được bao lâu thì mặt trời mọc. Tôi nhắm mắt cố nhớ lại những hình ảnh của đêm đầu tiên. Nhưng vô ích. à, tôi đã nhớ ra rồi, Tôi chợt thấy rõ mặt trời mọc ở phía đông và cùng lúc đó, còn thấy được một mảnh trăng trên đường chân trời về phía tây. Như vậy là chắc độ năm giờ. Chùm sao chữ Thập phương Nam đã lặn từ lâu, Đại hùng tinh và Tiểu hùng tinh cũng vậy. Chỉ còn sao Bắc cực sáng hơn các vì sao khác. Từ lúc chùm sao Chừ Thập lặn, sao Bắc cực là chúa tể ở trên trời.
Gió như bốc lên. Có thể nói nó thổi mạnh hơn lúc ban đêm. Vì sóng cũng mạnh và sâu hơn, và trên các ngọn sóng, những đám bọt trắng nhiều hơn lúc đầu hôm. Tôi ở trên biển đã được ba mươi giờ. Cho đến bây giờ, phải thừa nhận là mọi việc tốt nhiều hơn xấu, và ngày hôm nay mới là ngày gay go nhất.
Hôm qua, tôi đã bị phơi nắng chang chang ở ngoài trời từ sáu giờ sáng đến sáu giờ chiều, và da bị nướng đi nướng lại nhiều lần. Hôm nay, mặt trời lại rọi vào tôi nữa, thật không phải chuyện đùa. Môi tôi đã nứt nẻ, thế mà giờ này vẫn còn là đêm, trời vẫn còn mát. Hai môi tôi nhức nhối không kém gì hai con mắt tôi. Cả cánh tay và bàn tay cũng thế. Nếu có thể, tôi sẽ không để hở tay cho nắng chiếu vào nữa. Một chỗ khác cũng làm tôi đau nhức là giữa hai bến bẹn và hậu môn. ở đấy không phải do ánh nắng trời mà do da ngấm nước biển, lại bị cọ xát với các bao tải.
Nhưng dù bị bỏng, anh bạn ơi, anh cũng là đang vượt ngục, và ở chỗ này còn hơn là chịu đựng đủ điều tệ hại ở trai khổ sai. Viễn cảnh tới được đất liền mà vẫn sống có đến chín mươi phần trăm, và thế là đã hay lắm rồi, chứ còn gì nữa? Dù cho tôi tới nơi, da có bị lột hết và nửa thân người có trơ cả thịt, cũng không phải là trả giá quá đắt cho một chuyến đi như thế này, với một kết quả như thế này. Anh bạn thấy không, chẳng thấy bóng một con cá mập nào: chúng đi nghỉ phép ở đâu cả rồi không biết? Anh bạn đúng là gặp vận đỏ, không thể chối cãi được. Lần này rồi anh sẽ thấy là lần thành công thật sự. Trong tất cả các chuyên vượt ngục được tính giờ quá chính xác, được chuẩn bị quá kỹ càng, thì rốt cục, chuyến vượt ngục thành công lại là chuyến đi ngớ ngẩn nhất. Chỉ có hai bao tải đựng trái dừa, rồi phó mặc cho sóng và gió muốn đẩy đi đâu thì đẩy. Nó lại đẩy vào Đất Liền mới hay chứ. Chẳng cần phải tốt nghiệp ở trường võ bị Saint-Cyr ra mới biết được rằng tất cả các vật trôi giạt trên biển đều bị đẩy vào bờ. Nếu siốt ngày hôm nay gió và sóng cứ mạnh đều như đêm qua, chắc chắn chiều nay chúng tôi sẽ đến đất liền.
Con quái vật vùng nhiệt đới đa hiện lên sau lưng tôi. Hôm nay, nó có vẻ kiên quyết muốn thiêu cháy tất cả, vì trông nó rừng rực những lứa. Nó đuổi ánh trăng đi trong nháy mắt. Chưa ra khỏi chỗ nằm, nó đã chễm chệ chiếm ngôi bá chủ, làm vua cả vùng nhiệt đới mà không ai dám ho he. Mới thoáng một chút, gió đã gần như ấm hẳn lại. Chỉ một giờ nữa là sẽ nóng. Một cảm giác khoan khoái đầu tiên xâm chiếm lấy tôi. Những ánh nắng sớm vừa chạm vào da thịt tôi là tôi thấy dễ chịu hẳn, từ đầu đến thắt lưng. Tôi bỏ chiếc khăn mặt che đầu, để ánh mặt trời chiếu vào má tôi như sưởi lửa. Con quái vật đó, trước khi nung tôi lên, muốn tôi phải cảm thấy nó là sự sống trước khi là cái chết.
Máu tôi chảy đều trong các huyết mạch, và ngay cả hai bộ bắp đùi ướt nhễ nhại của tôi cũng cảm biết được dòng máu đầy sinh khí bên trong.
Tôi thấy rất rõ cánh rừng rậm, dĩ nhiên là chỉ thấy được các ngọn cây. Tôi có cảm giác nó không còn xa. Tôi chờ cho mặt trời lên cao hơn chút nữa để đứng trên các bao tải xem có thấy Sylvain đâu không.
Chưa đến một giờ sau, mặt trời đã lên cao. Trời ơi đúng là nó rồi. Tôi không mở hẳn được mắt trái. Tôi lấy tay vốc nước xoa vào mắt. Cay quá. Tôi cởi áo va-rơi ra. Tôi sẽ ở trần chốc lát trước khi ánh nắng chiếu gay gắt quá.
Một lớp sóng cao hơn hẳn các lớp khác từ dưới sâu nâng bổng tôi lên. Sóng nhồi một nửa giây trước khi hạ xuống thấp, và tôi thoáng thấy anh bạn tôi. Anh ngồi trên bè của anh, mình trần. Anh không trông thấy tôi. Anh ở hơi chếch về phía trước, bên trái tôi, cách tôi chưa tới hai trăm mét. Gió vẫn thổi mạnh, cho nên tôi quyết định tiến lại gần anh, vì anh ở phía trước tôi cùng trên một đường thắng, tôi xỏ tay vào áo va-rơi và giơ lên cao, mồm tôi cắn vạt áo phía dưới. Cái thứ buồm này chắc đẩy tôi đi nhanh hơn anh. Tôi căng buồm như vậy độ nửa giờ. Nhưng chiếc áo va-rơi làm tôi nhức răng, và sức lực bỏ ra để chống lại với gió làm tôi chóng mặt. Thế mà khi bỏ “buồm” xuống tôi vẫn còn cảm giác đã đi được nhanh hơn là để cho sóng đẩy.
Hoan hô? tôi vừa thấy được “anh bạn lớn” của tôi. Cách tôi chưa đầy một trăm mét. Nhưng anh ta làm gì thế kia? Anh không có vẻ quan tâm xem tôi đang ở đâu. Khi một đợt sóng đưa bổng tôi lên khá cao, tôi trông thấy anh một, hai, ba lần. Tôi để ý thấy rõ ràng anh đưa tay phải lên mắt, đúng là anh đang quan sát mặt biển. Nhìn về phía sau đi, đồ ngốc! Chắc anh có nhìn, đúng là thế, nhưng anh không thấy gì cả.
Tôi đứng lên và huýt sáo. Khi sóng nhồi tôi lên cao, tôi thấy Sylvain ở trước tôi. Anh giơ áo va-rơi lên trời. Chúng tôi chào nhau đến hai mươi lần trước khi ngồi xuống. Cứ mỗi lần sóng nhồi lên là chúng tôi lại chào nhau, được cái may là anh ta cũng được sóng đưa lên cùng một lúc với tôi. Hai đợt sóng sau cùng, anh ta chỉ tay về phía cánh rừng già, mà bây giờ chúng tôi đã trông rõ các chi tiết. Rừng chỉ còn cách chúng tôi chưa đến mười ki-lô-mét. Tôi vừa mất thăng bằng ngã ngồi xuống mảng. Được trông thấy bạn và rừng gần như vậy, một niềm vui lớn lao tràn ngập lòng tôi. Tôi cảm động khóc òa lên như một dứa con nít. Nước mắt đã rửa sạch đôi mắt đầy ghèn của tôi, và qua những giọt nước mắt ấy, tôi thấy hàng ngàn những tinh thể đủ màu, tôi nghĩ vớ vẩn trông chúng giống như những tấm kính màu ở các cửa sổ nhà thờ. Hôm nay, Chúa lại đến với mi rồi, Papi ơi. Trước những hiện tượng quái gở của thiên nhiên, trước gió, biển rộng mênh mông, sông sâu thăm thẳm, rừng xanh oai nghiêm, con người cám thấy mình vô cùng nhỏ bé so với mọi vật xung quanh, và có lẽ không cần tìm ở đâu, người ta cũng gặp và sờ tay được tới Thượng đế. Cũng như đêm đêm tôi đã từng sờ mó thấy được Thượng đế đế trong số hàng ngàn giờ tại các phòng giam khủng khiếp mà tôi đã bị nhốt vào, không có lấy một tia sáng, giờ đây tôi cũng nhìn thấy Thượng đế trong ánh nắng thiêu đốt những gì không đủ mạnh để chống lại nó, tôi đã sờ được vào Thượng đế, tôi cảm biết được Thượng đế ở quanh tôi, ở trong tôi. Chúa còn thủ thỉ nói bên tai tôi: “Con đang đau khổ và con sẽ còn phải đau khổ nữa, nhưng giờ đây ta quyết định sẽ đến cùng con. Con sẽ được tự do và sẽ là người thắng cuộc, ta hứa với con như vậy”. Không được dạy dỗ gì về tôn giáo, không biết ất giáp gì về giáo lý Cơ đốc, dốt nát đến nỗi không biết cha đức Chúa Jesus là ai, mẹ Chúa có đúng là đức thánh bà đồng trinh Maria không, cha của ngài là thợ mộc hay người chăn lạc đà, dù dốt hoặc cán mai như vậy nhưng nếu thật sự tìm đến Chúa, thì người ta vẫn có thể nhận ra Người trong gió, trong biển, trong ánh mặt trời, trong chốn rừng sâu, trong các vì sao trong những con cá mà người đã tạo ra hằng hà sa số để nuôi sống con người.
Mặt trời đã nhanh chóng lên cao, gần mười giờ sáng. Người tôi từ thắt lưng trở lên đến đầu đã khô ráo, tôi thấm nước vào khăn mặt và cuốn lên đầu. Tôi lấy áo va-rơi để che thêm vì da ở vai, lưng và cánh tay bị bắt nắng làm tôi thấy rát bỏng. Cả đùi tôi, tuy vẫn ngâm dưới nước, cũng đỏ ối lên như con tôm luộc. Vì đã gần đất liền, sức hút mạnh hơn gấp bội, nên sóng xô thẳng đứng vào bờ. Tôi nhận rõ các chi tiết của cánh rừng và tôi cảm thấy rằng chỉ trong buổi sáng nay, chỉ độ năm sáu giờ nữa chúng tôi sẽ vào sát bờ. Qua lần vượt ngục đầu tiên, tôi đã biết ước lượng khoảng cách. Khi nhìn rõ từng chi tiết được vật gì, thì chỉ còn cách xa vật đó chưa tới năm ki-lô-mét, thế mà ở đây tôi phân biệt được cả các thân cây lớn nhỏ khác nhau. Và trên đỉnh một con sóng cao hơn hết tôi nhận ra rất rõ một thân cây lớn nằm ngang, cành cây sà xuống cả mặt biển.
Kìa, lại có cá heo và chim! Cầu cho cá heo nô rỡn đẩy bè của tôi vào bờ. Tôi được nghe kể rằng cá heo có thói quen đẩy những mảnh thuyền vỡ và những người trôi giạt trên biển vào bờ, chúng còn thúc mõm vào người ta làm cho người ta chết đuối, mặc dầu chúng chỉ có một ý định tốt đẹp là giúp đỡ người bị nạn. Nhưng không, lũ cá đó, có đến ba bốn con lượn đi lượn lại đến ngửi xem đấy là cái gì rồi bỏ đi mà không đụng đến mảng của tôi. Thế là hết!
Đúng ngọ, mặt trời thẳng đứng trên đầu tôi. Cái thằng cha ấy muốn đun tôi làm nón xúp thịt nhừ chắc? Mắt tôi bị mưng mủ, trào nước mắt sống dàn dụa, mũi và môi tôi đã tróc hết da. Các lớp sóng đã ngắn dần và hung hãn xô vào bờ, tiếng đổ ầm ầm vang lên ỡ dội.
Tôi liên tục trông thấy Sylvain. Sóng không trũng xuống thấp, nên anh ta không lúc nào bị che lấp đi. Thỉnh thoảng anh quay lại và đưa tay lên cao. Anh vẫn ở trần, khăn mặt cuốn trên đầu.
Không phải những đợt sóng mà là những cuộn sóng đẩy chúng tôi vào bờ. Có một doi đất bị sóng xô vào ầm ầm nghe phát sợ, nhưng sau khi vượt qua doi đất tràn trề bọt sóng, chúng lao về phía cánh rừng.
Chúng tôi chỉ cách bờ chừng một ki-lô-mét nữa và tôi sẽ thấy rõ những con chim sắc trắng và hồng, có những cái mào trông rất quý phái, vừa đi vừa mổ xuống bùn. Có đến hàng ngàn con. Không con nào bay cao quá được hai mét. Chúng bay từng chặng ngắn là để khỏi bị bọt nước bắn phải. Nước biển đầy bọt, một màu vàng như bùn, nhớp nhúa. Chúng tôi đã vào gần bờ, và tôi nhận thấy rõ cả những đường vạch bẩn do nước để lại trên các thân cây khi thủy triều lên tới mức cao nhất.
Tiếng sóng không át nổi tiếng hàng ngàn con chim cao cẳng đủ màu sắc này kêu the thé. Păng? Păng, còn cách bờ hai ba mét nữa thôi. Plou! Thế là đã đến nơi rồi, tôi đã ở trên bùn, người khô ráo. Nước không đủ sâu để tôi có thể đứng được. Căn cứ vào vị trí mặt trời, bây giờ là hai giờ chiều. Tôi đã lênh đênh trên biển được bốn mươi giờ. Bắt đầu từ ngày hôm kia, vào lúc mười giờ đêm, sau khi nước rút được hai giờ. Vậy, đây là con nước thuỷ triều thứ bày, và tôi đến vào lúc khô ráo là phải, lúc này nước đang xuống. Nước bắt đầu lên vào lúc ba giờ. Đêm nay tôi sẽ vào tới rừng. Phải giữ sợi xích để không bị văng ra khỏi các bao tải, vì nguy hiểm nhất là lúc sóng trào qua người tôi nhưng lại không cuốn tôi đi theo vì tôi đã nằm sát bùn. ít ra phải ba giờ nước dâng tôi mới nổi lên được.
Sylvain ở bên phải tôi, về phía trước chừng hơn một trăm mét. Anh trông về phía tôi và ra hiệu cho tôi. Tôi có cảm giác anh muốn nói lên điều gì nhưng cổ họng anh hình như không phát ra được tiếng nào, vì nếu có thì tôi đã nghe thấy rồi. Sóng cũng không cuộn vào nữa vì chúng tôi ở trên bãi bùn, chỉ có tiếng chim kêu đến tai chúng tôi. Chỗ tôi ở cách rừng chừng năm trăm mét mà Sylvain lại ở phía trước tôi chừng một trăm hay một trăm năm mươi mét. Nhưng cái thằng đại ngốc, nó đang làm gì thế kia? Nó đã đứng lên và rời khỏi cái mảng của nó. Nó điên hay sao vậy? Không thể đi trên bùn được, vì đi mỗi bước sẽ lại bị lún sâu hơn một chút, có thể không trở về mảng được. Tôi muốn huýt lên nhưng không huýt được. Bình đựng nước của tôi còn một ít nước, tôi đã uống hết rồi. Tôi cố kêu to để ngăn Sylvain lại, nhưng không thốt lên được một tiếng nào. Bọt khí từ dưới bùn sủi lên, đấy chỉ là một lớp móng, dưới nữa là bùn loãng và kẻ nào bị sa lầy xuống đây chắc chắn là không thể nào ngoi lên được nữa.
Sylvain quay về phía tôi, nhìn tôi và ra hiệu gì tôi không hiểu. Tôi cũng quơ tay làm hiệu, tôi muốn nói với anh ta “Đừng ra khỏi bè, cậu không thể tới được rừng đâu. Vì anh ta đứng phía bên kia cái bao tải đựng trái dừa nên tôi không biết anh đứng cách nó xa hay gần. Thoạt tiên, tôi nghĩ anh đứng rất gần bè, và nếu có bị sa lầy, anh cũng bám được vào đấy. Rồi tôi chợt nhận thấy cái khoảng cách ấy hơi xa, và Sylvain đang lún xuống bùn, không rút chân lên được để trở về bè. Tôi nghe được một tiếng kêu, tôi vội nằm sấp xuống bao tải của tôi và xúc tay xuống bùn, lấy hết sức trườn lên phía trước. Các bao tải trượt đi dưới thân tôi, và tôi trườn lên được hơn hai mươi mét. Lúc bấy giờ tôi đứng dậy, nhìn hơi xiên về phía trái, không bị các bao tải của Sylvain che khuất, tôi thấy bạn tôi đã bị lún xuống bùn đến ngang bụng. Anh ta ở cách bè của anh tới hơn mười mét. Do khiếp sợ, tôi mới kêu lên được: “Sylvain, Sylvain, đừng nhúc nhích nữa, nằm dài xuống bùn đi, cố rút chân lên”. Gió đưa tiếng nói của tôi đi, và anh đã nghe được. Anh gật đầu ra hiệu là đã hiểu ý tôi. Tôi lại nằm sấp và cào vào bùn để cái bao tải của tôi trườn lên trước. Cơn giận dữ điên cuồng làm tôi có một sức mạnh phi thường, và tôi đã mau chóng tiến đến gần anh được ba mươi mét nữa. Chắc phải mất hơn một giờ, nhưng tôi đã đến rất gần Sylvain, có lẽ chỉ còn năm sáu trăm mét nữa. Tôi không nhìn rõ anh. Bàn tay, cánh tay và mặt tôi lấm lem đầy bùn, tôi ngồi lên cố chùi con mắt trái bị chất bùn lẫn muối mặn lọt vào, làm tôi không trông thấy gì cá, trong khi con mắt phải cũng bắt đầu là nước mắt làm tôi càng khó chịu thêm. Sau cùng tôi cũng nhìn thấy anh, anh đứng thẳng, chỉ có thân trên nhô ra khỏi bùn. Cuộn sóng đầu tiên vừa ào qua, nó tràn qua người tôi mà không nhấc tôi lên, và còn lao đi một quãng nữa, bọt sóng lấp cả lớp bùn. Nó tràn tới chỗ Sylvain. Thân người anh vẫn nhô trên bãi bùn. Tôi nghĩ thật nhanh: “Các cuộn sóng càng tới nhiều, bùn càng loãng. Mình phải tới chỗ cậu ta bằng bất kỳ giá nào!”. Một nghị lực như của loài dã thú sắp bị mất đàn con tràn vào tôi, và giống như một người mẹ đang cố giằng giật đứa con ra khỏi một tai họa sắp giáng lên đầu nó, tôi lấy hết sức bình sinh vục hai tay vào bùn để trườn tới chỗ Sylvain. Anh nhìn tôi không nói một lời, không cử động, mắt anh mở to trông vào tôi, trong khi tôi cũng nhìn anh chằm chằm. Tôi nhìn anh không chớp mắt, và tôi cũng chẳng quan tâm để ý xem tôi vục tay vào chỗ nào. Tôi lết đi được một chút nữa nhưng do hai đợt sóng vừa tràn qua người tôi, bùn lại loãng hơn và tôi tiến lên chậm hơn so với giờ trước nhiều. Một đợt sóng lớn lại ào qua làm tôi sặc nước và gần như bị nhấc bổng lên. Tôi ngồi dậy để trông cho rõ. Bùn đã lên đến nách Sylvain, tôi còn cách chỗ anh độ bốn mươi mét. Anh nhìn tôi hết sức chăm chú. Tôi thấy là anh biết mình đã bị sa lầy ở đấy và sắp chết một cách thảm hại, cách nơi đất hứa ba trăm mét.
Tôi lại nằm xuống, cố bám vào lớp bùn bây giờ đã gần loãng như nước. Mắt tôi và mắt anh như xoáy sâu vào nhau. Anh ra hiệu bảo tôi thôi, đừng ráng nữa. Tôi vẫn cứ cố, và tôi chỉ còn cách anh chưa tới ba mươi mét thì một con sóng lớn tràn qua người tôi làm tôi suýt bị tách ra khỏi các bao tải, và nhấc bổng cái bao tải lên đẩy nó về phía trước được năm sáu mét. Khi con sóng đã qua đi tôi lại nhìn: Sylvain đã biến hẳn. Lớp bùn phủ dưới một váng nước mỏng nổi bọt đã phẳng lì. Không thấy cả bàn tay của anh bạn tội nghiệp của tôi đưa lên chào vĩnh biệt tôi. Phản ứng của tôi lúc bấy giờ là cái phản ứng khủng khiếp, ghê tởm của một con thú, bản năng tự bảo tồn đã át tất cả các tình cảm khác. Mi vẫn sống. Chỉ còn một mình mi, và khi đến được rừng, không có bạn, không dễ dàng hoàn thành chuyến vượt ngục đâu. Một đợt sóng bổ vào lưng tôi vì lúc này tôi đã ngồi dậy - nhắc nhở tôi trở về với thực tại. Nó đẩy tôi sấp mặt xuống mạnh đến nỗi tôi nghẹt thở mất vài phút.
Cái mảng trượt lên phía trước thêm vài mét, và bây giờ, nhìn lớp sóng tàn dần dưới gốc cây, tôi mới khóc Sylvain. “Giá cậu đừng động đậy có phải đã đến nơi rồi không, chỉ còn cách đám cây chưa đến ba trăm mét? Tại sao vậy! Hãy nói cho tôi biết tại sao cậu lại làm cái việc ngu ngốc ấy? Tại sao cậu lại tưởng lớp bùn khô dủ chắc để cậu có thể đi bộ đến tận bờ? Tại ánh nắng chăng? Tại cậu chói mắt? Tôi làm sao biết được? Cậu không thể chống lại được cảnh địa ngục ấy sao? Hãy nói lên cho tôi biết tại sao một con người như cậu lại không thể chịu khó dạn nắng thêm vài giờ nữa?”.
Những đợt sóng nối tiếp nhau liên tục, ầm ầm như tiếng sấm. Chúng ào tới, lớp sau tiếp lớn trước mỗi lúc một mau hơn, lớn hơn. Mỗi lần chúng xô đến, là tôi lại bị nước tràn qua người và mỗi lần như thế, tôi lại trôi thêm được vài mét, người vẫn áp sát vào bùn. Khoảng năm giờ chiều, bỗng nhiên những lớp sóng lăn tăn ấy biến thành sóng lớn, tôi bị nhấc bổng lên và nổi lềnh bềnh. Những lớp sóng ngầm hầu như không réo lên thành tiếng. Tiếng sấm của những đợt sóng đã ngừng. Bao tải của Sylvain đã được nước biển đẩy đến tận khu rừng.
Tôi đến nơi khá nhẹ nhàng, cách xa khu rừng nguyên thủy chưa đến hai mươi mét. Khi sóng rút ra tôi lại mắc cạn trên bùn, tôi quyết định không rời khỏi bao tải của tôi chừng nào tôi chưa nắm được một cành cây hay một sợi dây leo trong tay. Còn gần hai mươi mét nữa thôi. Phải gần một giờ, mới có được đợt sóng đủ mạnh để nhấc tôi lên và đẩy tôi vào rừng. Con sóng ầm ầm đến thẳng dưới gốc cây. Tôi vặn ốc bù loong sợi xích ra khỏi người. Tôi không vất nó đi, tôi còn cần đến nó.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Trong rừng
Trước khi mặt trời lặn, tôi vội vã tiến sâu vào rừng, vừa bơi, vừa đi vì ở đây vẫn còn lớp bùn cứ muốn hút lấy người ta. Nước vào rất sâu trong rừng, và đêm đã xuống, mà người tôi vẫn chưa khô. Một mùi thối úng sộc vào mũi tôi và thán khí bốc lên làm tôi bị cay mắt. Chân tôi ngập đầy cỏ và lá cây. Tôi vẫn đẩy cái bao tải của tôi. Mỗi lần tiến một bước, tôi lại lấy bàn chân dò khoảng đất ở dưới nước, chỉ khi nào không thấy đất lún, tôi mới bước lên.
Tôi qua đêm đầu tiên trên một cây to. Rất nhiều con thú đi phía dưới tôi. Cả người tôi nóng hừng hực và như bị chín khắp nơi. Sau khi kéo bao tải lên thân cây và buộc chắc hai đầu vào cây, tôi lấy áo va-rơi ra mặc. Trong bao tải là nguồn sống, vì chỉ bổ dừa là tôi có cái ăn để lấy sức chịu đựng. Tôi buộc con dao phát vào cổ tay phải của tôi. Tôi nằm dài trên cây, người mệt lả, giữa hai cành cây tạo thành cái hốc, và tôi ngủ thiếp đi không kịp nghĩ đến bất cứ việc gì. Không, có lẽ tôi còn lẩm bẩm hai ba lần: “Tội nghiệp cho Sylvain” trước khi ngủ như chết.
Tiếng chim đã đánh thức tôi dậy. Nắng chiếu xiên ngang rất sâu vào rừng: Vậy thì bây giờ phải là bảy tám giờ sáng. Xung quanh tôi toàn là nước; vậy là nước thủy triều đang lên. Có thể là đợt nước lên lần thứ mười đang chấm dứt.
Tôi rời đảo Quỷ đã được sáu mươi giờ. Tôi không nhận ra chỗ tôi có ở xa biển không. Dù sao tôi cũng phải chờ cho nước rút để ra bờ biển hong cho khô người và tắm nắng. Tôi không còn nước ngọt. Tôi ăn nốt ba miếng cùi dừa còn lại rất ngon lành, tôi lấy dừa xoa lên các chỗ đau. Cùi dừa có chất dầu, làm dịu các vết bỏng của tôi. Rồi tôi hút hai điếu thuốc. Tôi lại nghĩ đến Sylvain lần này còn xót xa hơn. Trước hết, đáng lẽ tôi không nên rủ bạn cùng vượt ngục thì hơn? Vì tôi vẫn có tham vọng tự mình xoay xở lấy. Nếu vậy, sẽ không có gì thay đổi, chỉ có điều là một nỗi buồn mênh mông làm tim tôi thắt lại và tôi nhắm nghiền hai mắt, tưởng chừng làm như thế tôi sẽ không còn trông thấy cảnh bạn tôi sa lầy nữa. Đối với anh, thế là hết.
Tôi đã nhét chắc bao tải vào chạc cây, bắt đầu lấy trái dừa ra. Tôi lột vỏ được hai trái bằng lấy hết sức đập mạnh dừa vào thân cây giữa hai chân tôi. Phải đập ở khoảng đầu trái dừa mới bửa nó ra được. Dùng dao phạt càng tốt. Tôi ăn cả một trái dừa tươi và uống chút nước dừa ngọt lịm. Nước rút rất nhanh, và chỉ lát sau tôi đã có thể dễ dàng đi trên bùn để ra bãi biển.
ánh nắng thật rạng rỡ, và hôm nay biển đẹp không lấy gì so sánh nổi. Tôi nhìn mãi về nơi mà tôi cho là Sylvain đã chìm xuống. Quần áo tôi đã khô, người tôi sau khi được kỳ cọ ở một hố nước mặn cũng đã khô. Hút xong một điếu thuốc, tôi nhìn lần cuối nơi đã chôn vùi bạn tôi, rồi đi vào rừng, bước không khó khăn lắm. Bao tải trên vai, tôi từ từ đi sâu vào lùm cây. Sau hai giờ, tôi thấy một khoảng đất mà nước không bao giờ tới. Dưới gốc cây, không có một vết tích gì chứng tỏ nước thủy triều tràn vào tận đây. Tôi sẽ cắm lại đây để nghỉ hẳn hai mươi bốn giờ. Tôi bổ dần các trái dừa, nạo cùi và cho tất cả vào xắc đề khi muốn là ăn được ngay. Tôi có thể châm lửa, nhưng tôi nghĩ làm như vậy là không thận trọng.
Phần còn lại của ngày và đêm hôm đó đã trôi qua vô sự Tiếng chim ồn ào đã đánh thức tôi dậy. Tôi nạo nốt cùi dừa rồi đi về hướng đông, vai mang xắc.
Khoảng ba giờ chiều, tôi thấy một con đường mòn. Đây là một con đường nhỏ của những người đi kiếm balata (một thứ nhựa cây thiên nhiên) hoặc đi khai thác gỗ, hoặc đi tiếp tế cho những người đi tìm vàng. Con đường hẹp nhưng quang đãng, không có những cành cây chắn ngang, nghĩa là thường có người đi lại. Thỉnh thoảng lại có vết chân lừa hay la không đóng móng. Những chỗ bùn đã khô, tôi để ý thấy có vết chân người, ngón cái hằn rất rõ nét trong đất sét. Tôi đi cho đến khi trời tối, miệng nhai cùi dừa vừa để nuôi dưỡng cơ thể vừa để khỏi khát. Thinh thoảng tôi nhai thật kỹ chất bã có dầu lẫn nước miếng và lấy chất bã đó xoa lên mũi, môi và má. Mắt tôi đầy mủ, hai mí cứ dán vào nhau. Mỗi lần có dịp là tôi rửa bằng nước ngọt. Trong bao tải của tôi, cùng các trái dừa, còn có cả một cái hộp, kín nước không thấm được, ở trong có một miếng xà phòng Marseille, một con dao cạo hiệu Gillette mười hai lưỡi dao lam và một cái chổi cạo râu, tôi đã thu hồi được cái hộp đó nguyên vẹn.
Tôi bước đi, tay cầm con dao phạt nhưng không có chướng ngại. Tôi để ý thấy ven đường có những cành cây mang những vết chặt còn mới. Trên con đường mòn này, có người đi lại, tôi phải thận trọng hơn. Rừng ở đây không giống như rừng mà tôi được biết trong chuyến vượt ngục đầu tiên ở Saint-Laurent-du- Maroni. Rừng này có hai tầng cây và không rậm rạp như ở Maroni. Tầng cây thứ nhất cao độ năm, sáu mét, và cao hơn nữa là tầng trên cùng, cao đến hai mươi mét. Chỉ phía bên phải con đường mòn là còn sáng. Bên trái tối âm u như thể ban đêm.
Tôi đi nhanh, thỉnh thoảng lại qua một khoảng trống do người làm cháy rừng hoặc sét đánh gây ra. Tôi nhận thấy có những tia nắng. Độ nghiêng của ánh nắng chứng tỏ là mặt trời sắp lặn. Tôi quay lưng lại phía mặt trời và đi về hướng đông, nghĩa là phía làng của người da đen ở Kourou hay trại giam tù cũng mang tên ấy.
Đêm đến đột ngột. Tôi không thể đi đêm được, bèn vào rừng để tìm chỗ ngủ.
Cách lối mòn hơn ba mươi mét. dưới một đùm lá phẳng như là chuối, tôi dùng dao phạt chặt những tàu lá ấy để trải chỗ nằm. Chỗ tôi nằm rất khô ráo. Cũng may mà trời không mưa. Tôi hút hai điếu thuốc.
Chiều nay tôi không mệt lắm. Cùi dừa giữ sức cho tôi và tôi không thấy đói. Tôi chỉ khát đến khô cổ, toi cố làm cho nước bọt là ra nhưng cũng khó khăn. Giai đoạn hai của chuyến vượt ngục đã bắt đầu, đây là đêm thứ ba tôi ở trên đất liền mà không gặp phải sự kiện gì khó chịu đến với tôi.
Chà! Nếu có Sylvain bên cạnh tôi! Nhưng anh không còn nữa, biết làm sao bây giờ? Trên đời này mi không bao giờ cần có người khuyên bảo hay nâng đỡ mi cơ mà? Mi là chỉ huy hay là lính trơn? Dừng có nghĩ vớ vản Papillon, nếu không phải vì nỗi buồn thường tình vì mất bạn, dù một mình ở trong rừng, mi cũng vẫn mạnh không kém ai. Bọn ở đảo Royale, Saint-Joseph và đảo Quỷ đã xa rồi, mi chia tay với chúng đã được sáu ngày. Bọn ở Kourou chắc đã được báo tin rồi. Trước hết bọn gác Lâm trường, rồi đến bọn da đen ở lán đều biết. Chắc phải có một đồn cảnh binh ở đó. Liệu đi về hướng làng có gì nguy hiểm không? Tôi không biết gì về vùng lân cận làng này. Trại giam nằm dính giữa làng và sông. Tôi chỉ biết có thế và Kourou.
ở Royale, tôi đã tính bắt người đầu tiên tôi gặp phải dẫn tôi đến gần trại Inini, nơi của các phạm nhân người tàu, và là nơi ở của Quých-Quých, anh của Chang. Tại sao tôi lại thay đổi kế hoạch nhỉ? Nếu ở đảo Quỷ, bọn chúng cho là chúng tôi bị chết đuối thì không có chuyện rùm beng. Nếu chúng xác nhận là có cuộc vượt ngục thì ở Kourou lại nguy hiểm. Vì đây là lâm trường nên chắc phải lắm dân A-rập và sẽ có rất nhiều kẻ đi săn người. Papi, cẩn thận kẻo bị chúng tóm được đấy. Không được phạm sai lầm. Đừng đề bị kẹp chả đấy. Mi phải trông thấy người ta trước, bất kể người đó là ai, trước khi người ta trông thấy mi. Kết luận là không được phép đi trên đường mòn mà phải đi trong rừng, song song với con đường nọ. Hôm nay, mi đã phạm sai lầm khá lớn là cứ nhông nhông đi trên con đường ấy, mà chỉ có một vũ khí duy hất là con dao phạt. Như thế không phải là vô ý thức mà là điên rồ. Vậy là ngày mai tôi phải đi trong rừng.
Tiếng thú và tiếng chim hót chào mừng ngày mới đã đánh thức tôi dậy rất sớm, tôi bừng tỉnh cùng một lúc với rừng cây. Một ngày mới cũng đắt đầu đối với tôi. Tôi bỏ một nắm cùi dừa vào miệng và nhai thật kỹ. Tôi lấy bã ra để xoa lên mặt, rồi xuất phát. Dưới lùm cây sát bên đường, tôi đi hơi khó, vì tuy dây leo và cành cây không nhiều và rậm lắm, cũng phải gạt sang một bên mới tiến lên được. Dù sao tôi không di trên đường là phải vì tôi chợt nghe có tiếng huýt sáo. Con đường có một đoạn thẳng dài năm mươi mét. Tôi không trông thấy người huýt sáo. á! y đến đây rồi. Đó là một người da đen Tombouctou. Y vác một bọc trên vai và tay phải y cầm một khẩu súng trường. Mình y mặc áo sơ mi ka ki, quần cụt, đùi để trần và chân đi đất. Y cúi đầu xuống đất, lưng trĩu dưới sức nặng của bọc đồ to kềnh càng.
Tôi nấp sau một cây to ngay bên cạnh đường, tay cầm con dao, chờ y đến ngang chỗ tôi. Y vừa bước tới cây đó thì tôi lao vào y. Tay phải tôi chộp lấy tay cầm súng của y và tôi vặn tréo tay y làm y phải buông súng “Đừng giết tôi! Vì Chúa, xin hãy thương tôi!” Y vẫn đứng thẳng, mũi dao của tôi kề sát cổ y. Tôi cùi xuống nhặt cây súng lên, đấy là một khẩu súng cổ lỗ sĩ một nòng, chắc đã tọng thuốc nổ và chì đầy ắp.
Tôi lên cò và lùi lại hai mét, ra lệnh:
- Hạ cái dao xuống, để dưới đất. Mày mà chạy là tao bắn chết ngay!
Thằng da đen khiếp đảm, làm theo lời tôi. Rồi hắn nhìn tôi. Ông vượt ngục phải không?
- Phải.
- Ông muốn gì? Tôi có gì, ông lấy hết đi. Nhưng xin ông đừng giết tôi. Tôi có năm con. Ông làm phúc cho tôi được sống.
- Im mồm! Tên mày là gì?
- Jean.
- Mày đi đâu?
- Tôi mang thức ăn và thuốc men cho hai anh tôi đang chặt củi trong rừng.
- Mày từ đâu đến?
- Từ Kourou.
- Mày có phải ở làng này không?
- Tôi đẻ ở đây.
- Mày có biết trại Inini không?
- Có tôi thỉnh thoảng vẫn buôn bán với người Tàu ở trại giam.
- Mày có thấy cái này không?
- Cái gì đấy?
- Một tờ giấy bạc năm trăm francs. Mày hãy chọn đi: hoặc tao bảo gì mày làm thế, thì tao sẽ cho mày năm trăm francs và trả súng cho mày, còn nếu mày từ chối hay tìm cách đánh lừa tao, tao sẽ giết mày. Hãy chọn đi.
- Tôi phải làm gì nào? Ông cứ bảo đi, tôi sẽ làm hết, dù không được gì.
- Mày hãy dẫn tao cho an toàn đến gần trại Inini. Sau khi tao gặp được một người Tàu, mày có thể đi. Bằng lòng không?
- Tôi đồng ý.
- Đừng có đánh lừa tao, không thì chết đấy.
- Không đâu, tôi thề sẽ giúp ông một cách trung thực.
Gã đa đen có mang một thùng sữa hộp. Y lấy ra sáu hộp đưa cho tôi cùng một mẩu bánh mì và một miếng mỡ lá đã hun khói.
- Đem bao tải của mày dấu vào rừng đi mày sẽ trở lại lấy sau. Tao lấy dao đánh dấu để mày nhớ chỗ nhé.
Tôi uống một hộp sữa. Y còn cho tôi một cái quần dài và một cái áo thợ màu xanh. Tôi mặc cả hai vào người tay vẫn không rời khẩu súng.
- Đi trước đi. Jean. Chú ý, cẩn thận đừng để ai trông thấy chúng ta vì nếu ta bị ai bắt gặp, đấy là lỗi tại mày và lúc ấy tao phải cho mày chết.
Jean biết cách đi trong rừng hay hơn tôi, vì y tránh cành cây và dây leo rất khéo nên tôi khó nhọc mới theo kịp y.
- Ông phải biết rằng ở Kourou, người ta được báo tin là có hai tên ở đảo đã vượt ngục. Vì vậy tôi thành thật nói với ông, nếu chúng ta đi gần trại giam Kourou thì nguy hiểm lắm.
- Mày có vẻ tốt và thật thà. Tao hy vọng không lầm. Mày hãy cho tao biết đến Inini bằng cách nào là tốt nhất? Mày phải nghĩ rằng tao được an toàn thì mày được sống vì nếu tao bị bọn cai tù hay bọn đi săn người bắt gặp là tao buộc lòng phải giết mày đấy.
- Tôi phải gọi ông là gì?
- Tao là Papillon.
- Được rồi, thưa ông Papillon. Phải đi hẳn vào rừng và tránh xa đường mòn. Tôi bảo đảm sẽ đưa ông đến Kourou bằng cách băng qua rừng. Tao tin vào mày đấy. Đi đường nào mày thấy chắc chắn nhất.
Đi trong rừng chậm hơn, nhưng từ khi rời con đường mòn, tôi cảm thấy gã da đen bớt căng thẳng. Y không ra nhiều mồ hôi nữa, nét mặt y cũng không co rúm lại, y như yên tâm hơn.
- Jean này, tao thấy hình như bây giờ mày bớt sợ rồi phải không?
- Đúng thế, ông Papillon ạ. Đi gần đường mòn nguy hiểm cho ông lắm, nghĩa là nguy hiểm cả cho tôi. Chúng tôi đi nhanh. Gã da đen này thông minh, không bao giờ y đi cách tôi xa quá ba bốn mét.
- Dừng lại đã, để tao cuốn điếu thuốc.
- Có bao Gauloises đây.
- Cảm ơn Jean, mày tốt lắm.
- Đúng là tôi rất tốt. Tôi theo đạo, và khi thấy các giám thị da trắng đối xử với các tù nhân ra sao tôi cũng khổ tâm lắm.
- Mày được thấy nhiều cảnh ấy lắm à? ở đâu? ở lâm trường Kourou. Thấy họ chết dần chết mòn vì phải chặt củi, vì sốt rét và kiết lỵ, thật là thương tâm. Các ông ở đảo khá hơn. Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy một tù nhân được khỏe mạnh như ông đấy.
- Đúng, ở đảo khá hơn.
Chúng tôi ngồi một lát trên một cành cây to, tôi đưa cho y một hộp sữa. Y từ chối, y thích nhai cùi dừa hơn.
- Vợ mày còn trẻ không?
- Còn trẻ, mới ba mươi tuổi. Tôi bốn mươi. Chúng tôi được năm con, ba gái, hai trai.
- Mày kiếm đủ ăn không?
- Tôi làm gỗ hồng tâm, cũng kiếm được; vợ tôi giặt và ủi đồ cho các giám thị. Cũng đỡ được chút đỉnh. Chúng nó cũng có giầy đi.
Tội nghiệp cho anh chàng da đen đã nghĩ rằng khi các con y có giày đi là mọi việc đều tốt đẹp. Y to gần bằng tôi, bộ mặt da đen của y trông cũng dễ có cảm tình. Trái lại, mắt y dễ lộ rõ ràng y có những tình cảm tốt đẹp. Đó là một con người lành mạnh, một người cha tốt, một người chồng tốt, một tín đồ của đạo cơ đốc.
- Còn ông thế nào, ông Papillon?
- Tôi đang tìm cách sống lại. Tôi bị chôn sống đã mười năm nay, tôi đã mấy lần vượt ngục để có ngày được tự do như anh, để được sống bên cạnh vợ con và tôi sẽ không làm hại cho ai, ngay cả trong ý nghĩ. Anh đã nói ra rồi đấy, chốn lao tù này thối nát lắm, và người biết tự trọng phải tìm cách trốn khỏi vũng bùn ấy.
- Tôi sẽ hết lòng giúp ông thành công. Ta lên đường thôi.
Với giác quan định hướng rất tài tình, không do dự chút nào trên đường đi Jean dẫn thẳng tôi về phía khu trại của người Tàu.
Trời tối được hai giờ thì chúng tôi đến nơi. Từ xa đã nghe thấy tiếng đập, không thấy có ánh đèn. Jean giải thích cho tôi hiểu là muốn đến thật gần trại, phải tránh một hay hai tiền đồn nữa.
Chúng tôi quyết định dừng lại để qua đêm. Tôi mệt nhoài, tưởng chết được chỉ sợ ngủ quên mất. Nếu tôi nhận định làm anh chàng da đen này thì sao? Nếu y đóng kịch chờ tôi ngủ, rồi cướp lại khẩu súng và giết tôi chết thì sao? Giết được tôi y có hai cái lợi: trừ bỏ được tôi là một nguy cơ đối với y, và còn được thưởng vì đã giết được một tên tù vượt ngục. Phải, y rất thông minh. Y không nói gì, cũng không chờ đợi lâu la mà nằm ngủ say. Tôi vẫn giữ sợi xích và cái bù-loong. Tôi định trói y lại, rồi tôi lại nghĩ, y có thể tháo ốc bù-loong ra cũng như tôi vậy, và nếu y làm cấn thận, nếu tôi ngu quá say, tôi sẽ không biết gì. Trước hết tôi cố thức. Tôi có nguyên cả một bao thuốc Gauloises. Tôi biết cách làm để không ngủ gục. Tôi không thể phó thác mình cho một người dù sao cũng thuộc loại lương thiện và do đó phải xếp tôi vào loại gian phi.
Đêm đen nghịt, y nằm cách tôi hai mét, tôi chỉ nhận ra được đôi gan bàn chân trắng của y. Ban đêm, rừng có những tiếng động riêng biệt của nó, tiếng hú liên tục của loài khỉ có bướu to, tiếng hú khàn khàn và rất mạnh, vang xa đến hàng cây số. Tiếng đó rất quan trọng, vì nó đều đều thì có nghĩa là bầy của chúng có thể yên tâm ăn hay ngủ. Nếu nó biểu hiện nỗi lo sợ hay mối nguy cơ, như vậy, là quanh đấy có thú dữ hay người.
Toàn thân căng thẳng, tôi không phải cố gắng lắm cũng giữ để mình không ngủ thiếp đi, nhờ vài lần dí thuốc lá đang cháy vào da và nhất là nhờ đàn muỗi chừng muốn hút hết máu của tôi. Nếu tôi dùng nước bọt trộn với ni-cô-tin xoa lên vai, tôi cũng có thể tránh không bị chúng đốt. Nhưng nếu xoa thứ nhựa ni-cô-tin này mà tránh được muỗi đốt thì tôi lại ngủ mất. Chỉ cầu sao cho đàn muỗi này không mang vi trùng sốt rết hay bệnh sốt vàng.
Thế là tôi thoát ra được con đường thối rữa có lẽ mới chỉ tạm thời. Khi tôi bước vào đấy là năm 1931, tôi mới hai mươi lăm tuổi. Bây giờ là năm 1941, đã mười năm qua. Vào năm 1932, Pradel, lão biện lý không tim với một bản buộc tội tàn nhân và vô nhân đạo đã ném tôi vào cái giếng khơi là nơi ao tù này.
Nó là cái hố đầy thứ nước lầy nhầy sẽ làm tôi phải tan rữa dần dần và hiến thành hư không. Cuối cùng, tôi cũng thực hiện thành công được phần đầu của cuộc vượt ngục. Tôi đã từ đấy giếng ngoi lên và đang ở trên bờ giếng. Tôi phải tập trung hết nghị lực và trí thông minh của mình để giành phần thắng ở hiệp hai.
Đêm trôi đi từ từ nhưng cũng đã qua, và tôi cũng không ngủ. Tay không rời khẩu súng, tôi tỉnh táo được là do bị muỗi đốt, và không một lần nào đánh rơi súng. Tôi hài lòng về mình vì đã không vì mệt mỏi mà bất cẩn để có thể bị mất tự do, tinh thần của tôi đã mạnh hơn vật chất. Tôi vui mừng khi nghe tiếng chim hót báo hiệu ngày sắp rạng. Mấy con chim dậy sớm hơn những con khác ấy là khúc dạo đầu báo hiệu ngày tới liền sau đó.
Gã da đen vươn vai ngồi dậy và xoa chân.
- Chào ông, ông có ngủ được không?
- Tôi không ngủ.
- Ông ngốc quá, vì tôi đã bảo đảm là ông không phải lo gì về tôi. Tôi đã quyết định giúp ông để ông đạt được dự tính của ông mà
- Cám ơn anh, Jean. ánh nắng sắp chiếu đến đây chưa?
- Độ một giờ nữa. Chỉ có thú vật mới thấy được nó trước khi trời sáng, trước cả người.
- Độ một giờ nữa là sáng rõ ông Papillon ạ. Ông đưa tôi mượn con dao của ông.
Tôi đưa ngay dao cho y không do dự, y đi vài ba bước chặt một cành cây có nước, đưa cho tôi một đoạn dài và giữ lại khúc kia.
- Ông uống nước trong cành cây đi, rồi lấy nước ấy mà rửa mặt.
Với cái bình đựng nước kỳ lạ ấy, tôi uống và rửa mặt. Trời đã sáng rõ. Jean trả lại tôi con dao. Tôi châm một điếu thuốc và Jean cũng hút. Chúng tôi lại lên đường. Sau mấy lần lội bì bõm trong những vũng bùn rộng rất khó vượt qua, gần giữa trưa, chúng tôi đã đến vùng lân cận trại giam Inini mà không gặp chuyện gì, dù lành hay dữ.
Chúng tôi đến gần một con đường lớn dẫn tới trại. Một con đường sắt hẹp chạy dọc bên khoảng đất rộng đã được phát quang. Jean cho tôi biết con đường sắt này chỉ có những chuyên xe goòng do người Tàu đẩy đi qua. Những chuyến xe goòng đó lăn bánh ầm ầm, nghe được từ xa. Chúng tôi đã thấy một toa xe goòng đi ngang, trên đặt một chiếc ghế băng, có hai tên lính ngồi. Đằng sau là hai người Tàu cầm hai cây gỗ dài dùng để hãm xe. Bánh xe lăn làm tóe ra những tia lửa. Jean nói cho tôi rõ là gậy có một đầu bịt sắt, để đẩy goòng đi hay hãm lại.
Con đường sắt rất đông người đi lại. Những người Tàu, người thì vác những cuộn dây rừng, người thì vác heo rừng, người thì lại vác hàng bó lá dừa. Tất cả đều như đi về hướng trại giam. Jean nói với tôi là có nhiều lý do để đi vào rừng: đi săn, đi kiếm mây làm bàn ghế, kiếm lá dừa để đan những tấm phên che cho vườn rau khỏi bị nắng, rồi đi bắt bướm, bắt muỗi, bắt rắn v v
Có một số người Tàu được phép vào rừng mỗi lần vài giờ sau khi đã làm xong công việc chính quyền. Họ đều phải về trước năm giờ chiều.
- Jean ơi, đây, năm năm francs và cây súng (trước đó tôi đã đổ hết thuốc súng ra). Tôi đã có con dao và cây dao phạt rồi. Anh đi đi. Cảm ơn anh. Cầu Chúa ban thưởng cho anh khá hơn tôi, vì anh đã giúp đỡ một người đau khổ đang tìm cách sống lại. Anh trung thực lắm, cảm ơn anh lần nữa. Tôi mong rằng khi anh kể lại chuyện này cho cái con anh, anh sẽ nói với chúng: Người tù khổ sai này có vẻ là người tử tế, bố không hối hận vì đã giúp người ấy.
- Ông Papillon ơi, đã muộn rồi, tôi không đi được xa trước khi trời tối. Ông cứ giữ lấy khẩu súng, tôi sẽ ở lại với ông cho đến sáng mai. Nếu ông muốn, tự tôi sẽ kêu người Tàu nào ông ưng để đi báo tin cho Quých-Quých. Người ấy sẽ không sợ mấy nếu gặp một người tù da trắng vượt ngục. Ông cứ để tôi ra đường lớn. Nếu có ai xuất hiện, dù là lính họ cũng không cho việc tôi có mặt ở đây là bất thường. Tôi nói là tôi đến đây để xem có gỗ hồng tâm cho xí nghiệp gỗ “Synphorien” ở Cayenne không, ông cứ tin tôi đi. Nếu thế thì anh cầm lấy chúng, vì đi rừng mà không mang súng cũng kỳ.
- Phải rồi.
Jean đứng ngay giữa đường. Khi thấy người Tàu nào ưng ý, tôi sẽ khẽ huýt sáo.
- Chào Me-xừ - một người tàu già bé nhỏ, vai vác một thân cây chuối, chắc là một cây cái dừa, ăn rất ngon, chào bằng thổ ngừ. Ông già bé nhỏ này lại chào Jean trước. Tôi ưng ý nên đã huýt sáo * (*ở đoạn này nhân vật nói tiếng Tây bồi - ND.).
- Chào bác. Dừng lại một chút tôi có chuyện muốn nói.
- Me-xừ muốn gì? - ông già đứng lại.
Họ nói với nhau gần năm phút. Tôi không nghe được chuyện họ nói với nhau. Lại hai người Tàu khác đi qua, họ khiêng một con nai cái to buộc vào một cây đòn dài, thân treo ngược, đầu thõng xuống đất. Họ đi qua mà không chào anh da đen nhưng nói vài câu với đồng hương bằng tiếng Tàu, ông già đáp lại vài ba câu. Jean dẫn ông già vào rừng, đến chỗ tôi. Đến gần tôi, ông đưa tay ra.
- Anh vượt ngục hả?
- Phải.
- Từ đâu đi?
- Đảo Quỷ
Tốt! - ông ta cười và mở to cặp mắt xếch nhìn tôi - Tốt lắm, anh tên gì?
- Papillon
- Tôi không biết.
- Tôi bạn của Chang. Chang Vô Kiện, anh em với Quých-Quých.
- A, tốt lắm - Rồi ông lại bắt tay tôi lần nữa - Anh muốn gì?
Báo cho Quých biết là tôi chờ anh ấy ở đây.
Không thể được.
Tại sao?
- Quých-Quých ăn cắp sáu cục vịt của xếp trại.
Xếp trại muốn giết Quých-Quých, Quých-Quých trốn rồi.
- Trốn được bao lâu?
- Hai tháng.
- Đi đường biển?
- Tôi không biết, tôi bây giờ về trại nói chuyện với người Tàu khác cũng là bạn thân của Quých-Quých. Anh đừng đi, cứ ở đây. Đêm nay, tôi đến.
- Mấy giờ?
- Tôi không biết nhưng tôi còn đem thức ăn, thuốc lá lại đây cho anh nữa, anh đừng đốt lửa nhé. Tôi sẽ thổi sáo bìa “Ma-đơ-lông”. Khi anh nghe thấy bài đó, anh hãy ra đường lớn, hiểu không? Biết!
Rồi ông quay đi.
- Anh thấy thế nào, Jean?
- Chưa mất gì đâu, vì nếu ông muốn, chúng ta có thể quay về Kourou, tôi sẽ kiếm cho ông một chiếc thuyền độc mộc, thức ăn và buồm để đi ra biển.
- Jean ơi, tôi đi rất xa, không thể đi một mình được. Cảm ơn đề nghị của anh. Cùng lắm, tôi mới nhận. Ban nãy người Tàu có cho chúng tôi một súc bắp cải dừa lớn, chúng tôi ăn ngay. Nó mát ngon có hương vị hạt phỉ rất đậm. Jean thức để canh, tôi đã tin anh ta. Tôi xoa bã thuốc lá vào mặt và hai bàn tay vì muỗi đã bắt đầu đốt. Jean đã đánh thức tôi dậy.
- Papillon, có tiếng huýt sáo bài “Ma-đờ-lông”.
- Mấy giờ rồi?
- Chưa khuya, có lẽ chín giờ.
Chúng tôi đi ra đường. Trời tối đen. Người huýt sáo đã tới gần, tôi đáp lại, ông ta đến gần hơn, chúng tôi đứng gần sát nhau mà tôi chẳng trông thấy gì. Cứ huýt mãi, chúng tôi đã gặp được nhau. Họ có ba người. Từng người một đến gần nắm lấy tay tôi. Chẳng bao lâu nữa trăng sẽ lên.
- Chúng ta ngồi xuống bên đường này đi, một người trong bọn họ nói tiếng Pháp rất thạo. - Ngồi trong bóng tối, không sợ ai nhìn thấy đâu. Jean đã ra ngồi với chúng tôi.
- Ăn trước đi, xong rồi sẽ nói, - người có vẻ học thức trong bọn họ nói. Jean và tôi ăn một tô xúp rau rất nóng. Chúng tôi thấy ấm người và quyết định đề lại một phần thức ăn để ăn sau. Chúng tôi uống trà đường có vị bạc hà ngon tuyệt.
- Anh là bạn thân của Cha.ng à?
- Phải, anh ấy báo tôi đến kiếm Quých-Quých để cùng vượt ngục với nhau. Tôi đã có lần vượt ngục di rất xa, đến tận Colombia. Tôi đi biển giỏi lắm, vì vậy Chang muốn tôi đưa anh của anh ấy đi. Anh ấy tin tôi.
- Tốt lắm. Chang xăm những gì trên người?
- ở ngực, một con rồng, bàn tay trái, ba dấu chấm. Anh nói ba cái dấu đó chỉ rõ anh ấy là một trong các thủ lĩnh cầm đầu cuộc nổi loạn ở Côn Đảo. Người bạn thân nhất của anh ấy cũng là một người chủ huy cuộc nổi loạn, anh này tên là Văn Huê, anh này bị cụt một tay.
- Tôi đây, - người trí thức nói. - Chắc chắn anh là bạn của Chang rồi, do đó cũng là bạn của chúng tôi. Quých-Quých chưa đi biển được vì không biết lái tàu. Sau nữa, vì anh ấy có một mình, anh ấy ở trong rừng cách đây chừng mười kilômét. Anh ấy làm than củi, các bạn giúp anh bán than rồi đưa tiền cho anh ấy. Khi dành dụm đủ tiền, anh ấy sẽ mua một cái ghe và kiếm người để cùng vượt ngục. Anh đang ở chỗ không có gì nguy hiểm cả. Không ai có thể đến được cái vũng cù lao mà anh ấy đang ở, vì xung quanh toàn là bùn loãng. Người nào không biết đường mà đi liều thế nào cũng bị sa xuống bùn. Hừng đông là tôi đến tìm anh để dẫn anh tới chỗ Quých-Quých. Bây giờ anh đi với chúng tôi. Chúng tôi đi bên ven đường, vì trăng đã lên và trời đủ sáng để có thể trông xa tới năm mươi mét về phía trước. Đến một cái cầu gỗ, anh nói với tôi:
- Anh xuống dưới cầu mà ngủ. Sớm mai, tôi sẽ đến tìm anh.
Chúng tôi bắt tay nhau và họ ra về. Họ đi công khai, trường hợp có bị ai trông thấy, họ nói là họ vào thăm các bẫy đặt trong rừng lúc ban ngày, Jean nói với tôi
- Papillon, anh đừng ngủ ở đây, tôi sẽ gọi anh.
- Phải rồi. - Tôi đi vào rừng và sau khi hút vài điếu thuốc, tôi ngủ ngay, sung sướng vì được ăn đẫy món xúp ngon.
Trước khi trời sáng, Văn Huê đã đến chỗ hẹn. Để đỡ mất thì giờ, chúng tôi đi trên đường cho đến lúc trời sáng bạch. Chúng tôi rảo bước hơn bốn mươi phút. Trời đột ngột bừng sáng và từ xa đã nghe được tiếng xe goòng lăn trên đường sắt. Chúng tôi vào rừng để đi.
Từ biệt Jean nhé, cảm ơn anh, chúc anh may mắn. Cầu Chúa ban phước lành cho anh và cả gia đình anh. Tôi cố ép anh nhận năm trăm francs. Anh chỉ cho tôi cách nếu không thành công với Quých-Quých thì trở về làng anh ta như thế nào, đi vòng ra sao để lại đến được con đường mòn mà tôi đã gặp anh. Anh phải đi qua đấy, mỗi tuần hai lần. Tôi nắm tay anh da đen cao thượng, và anh nhảy lên mặt đường.
“Đi thôi” - Văn Huê vừa đi vào rừng vừa nói. - Anh tìm ra hướng đi ngay. không chần chừ, và chúng tôi đi khá nhanh vì rừng không rậm lắm. Anh tránh dùng dao chặt cành cây hay các dây leo làm vướng lối đi Anh chỉ gạt chúng sang bên.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Quých-Quých
Chưa đến ba giờ sau, chúng tôi đã đến trước một cái ao đầy bùn. Trên mặt lớp bùn là những cây hoa sen và những tàu lá xanh và to. Chúng tôi đi theo mép bùn.
- Cẩn thận đừng có trượt chân đấy, nếu bị ngã xuống là không mong lên được đâu, - Văn Huê vừa thấy tôi đi loạng choạng đã cảnh cáo tôi.
- Anh cứ đi đi, tôi theo anh, và tôi sẽ cẩn thận hơn.
Trước mặt tôi là một hòn đảo nhỏ, cách xa chừng một trăm năm mươi mét. Từ giữa cái đảo tí hon ấy, khói hốc lên. Chắc đấy là chỗ đốt than. Tôi nhận thấy có một con cá sấu nằm trong bùn, chỉ có cặp mắt ló ra. Không biết con cá sấu này ăn gì để sống trong đống bùn này.
Sau khi đi bộ hơn một kilômét dọc bờ ao có bùn này. Văn Huê dừng lại và cất tiếng hát một bài hát Tàu. Một bóng người hiện ra bên kia đảo. Đó là một người nhỏ nhắn, chỉ vận một cái quần cụt. Hai người nói chuyện với nhau rất lâu, tôi bắt đầu thấy sốt ruột thì vừa may họ cũng ngừng nói.
- Đi lối này - Văn Huê bảo tôi.
Tôi đi theo anh, chúng tôi lại lộn ra.
- Mọi việc tốt cả. Đây là bạn Quých-Quých, Quých-Quých đi săn cũng sắp về rồi, ta phải đợi ở đây.
Chúng tôi ngồi xuống. Chưa đầy một giờ sau, Quých-Quých về. Đó là một người nhỏ và gầy, da vàng, răng nhuộm gần như đen bóng, có cặp mắt thông minh và thẳng thắn.
- Anh là bạn của Chang em tôi?
- Phải.
- Tốt lắm. Anh về được rồi đấy, Văn Huê ạ.
- Cảm ơn anh, - Văn Huê nói.
- Anh cầm con gà gô này về đi.
- Tôi không lấy đâu, cảm ơn anh. - Anh bắt tay tôi rồi quay đi.
Quých-Quých kéo tôi đi theo con heo cứ chạy trước anh. Anh theo sát nó từng bước.
- Anh hãy chú ý đấy Papillon. Xảy chân, bước lỡ một bước là anh bị sa lầy ngay. Trường hợp bị nạn, không ai có thể cứu được vì không phải một mà cả hai cũng tiêu luôn. Đường đi lại thay đổi luôn vì bùn cứ xê dịch hoài, nhưng con heo vẫn tìm được lối đi. Có một lần, tôi phải chờ hai ngày mới đi qua được.
Quả vậy, con heo đánh hơi và nhanh chóng vượt qua quãng bùn. Anh người Tàu nói với nó bằng tiếng mẹ đẻ. Tôi di theo ngỡ ngàng vì thấy con vật nhô bé này nghe lời anh như một con chó. Con heo đã đi qua được bên kia mà không lần nào lún sâu quá vài phân. Anh bạn mới của tôi cũng mau chân theo nó và nói: Anh bước theo bước chân tôi nhé. Phải đi rất nhanh vì những vết chân heo bị lấp rất chóng. Chúng tôi qua ao bùn không khó lắm. Không lúc nào bùn ngập quá bắp chân tôi, mà có ngập đến bắp chân thì cũng chí ở đoạn cuối thôi.
Con heo đi hai khúc quành dài, làm chúng tôi buộc lòng phải đi trên lớp đất chắc ấy một quãng dài hơn hai trăm mét. Mồ hôi tôi chảy dòng dòng khắp người. Nói là tôi sợ thật chưa đủ. Phải nói là kinh hoàng mới đúng.
Đi quãng đường đầu tiên, tôi tự hỏi không biết số mạng tôi có phải chết như Sylvain không. Tôi như lại trông thấy anh bạn khốn khổ ấy trong giai đoạn cuối cùng, và tuy rất tỉnh táo tôi nhận rõ người anh nhưng mặt lại hao hao giống tôi. Cảm giác của tôi khi tôi đi qua đoạn đường đó thật là ghê sợ. Tôi không dễ quên ngay.
- Đưa tay cho tôi - Và Quých-Quých, anh chàng bé nhỏ chỉ có xương và da, đã giúp tôi leo lên bờ.
- Anh bạn ơi, bọn đi săn người không tới đây lùng chúng ta đâu nhỉ.
- ồ anh yên tâm về chuyện này.
Chúng tôi đi sâu vào đáo: Một mùi thán khí xộc vào họng tôi. Tôi ho. Đấy là mùi khói của hai cái lò đốt than đang bốc cháy ở đây tôi không còn sợ muỗi. Một cái lán nhỏ, lợp lá, vách cũng bằng lá kết lại với nhau, đứng trước gió, chung quanh mù mịt khói. Có một cửa vào, và đứng trước cứa là cái ông già người Đông-dương bé nhỏ mà tôi đã trông thấy trước khi gặp Quých-Quých.
- Chào me-xừ.
- Nói tiếng Pháp với anh ấy, đừng dùng tiếng địa phương, anh ta là bạn của em tôi đấy.
Ông già người Tàu, bé quắt một mẩu, nhìn tôi từ đầu đến chân. Hài lòng về cuộc quan sát của mình, ông chìa tay ra cho tôi, miệng mỉm cười móm mém. Vào đi ngồi xuống đây.
Cái bếp duy nhất này trông rất sạch sẽ. Trên bếp là một cái nồi to không biết đun nấu gì. Chỉ có một cái giường bằng cành cây đan với nhau, cao cách mặt đất ít nhất là một mét.
- Ông giúp tôi làm thế nào cho anh ấy có chỗ ngủ đêm nay đi.
- Được rồi,.
Chưa đầy nữa giờ sau, chỗ nằm của tôi đã xong. Hai người Tàu dọn thức ăn ra và chúng tôi ăn một món xúp tuyệt ngon, rồi cơm trắng với thịt nấu hành. Ông bạn Quých-Quých là người đi bán than củi. Ông ta không ở lại đảo, vì vậy tối đến, chỉ còn lại Quých-Quých và tôi.
- Phải, tôi đã lấy trộm cả bầy vịt của trại trưởng, vì vậy tôi phải vượt ngục.
Chúng tôi ngồi đối diện với nhau ngọn lửa nhỏ chốc chốc lại bốc lên soi sáng mặt chúng tôi. Mặt Quých-Quých không vàng hắn. Do phơi nắng, màu vàng tự nhiên đã chuyến thành màu đồng đỏ. Mắt anh xếch, đen nhánh, khi anh nói với ai là mắt anh nhìn thẳng vào mắt người ấy. Anh hút những điếu xì- gà dài mà anh dùng lá thuốc đen cuốn lấy. Tôi vẫn cuốn thuốc lá bằng tấm giấy bản mà anh cắt cho tôi.
- Tôi phải trốn vì trại trưởng, chủ đàn vịt, muốn giết chết tôi, chuyện ấy cách đây đã ba tháng. Khổ một cái là tôi thua bạc, không chỉ mất hết tiền bán vịt mà mất cả tiền bán than của hai lò than này.
- Anh chơi ở đâu?
- Chơi trong rừng. Đêm nào cũng đánh với mấy anh Tàu ở trại Inini và mấy anh tù mãn hạn từ bên Thác sang.
- Anh đã quyết định vượt biển chưa?
- Tôi chỉ mong có thế. Khi tôi bán được than củi, tôi tính mua một chiếc ghe, tìm một người biết lái chịu đi với tôi. Nhưng trong ba tuần nữa, ta bán than rồi là có thể mua một chiếc ghe và đi đường biển, vì anh biết lái mà.
- Tôi có tiền đây, anh Quých-Quých ạ, không cần phải chờ bán được than mới mua thuyền.
- Thế thì hay. Có một chiến thuyền tốt lắm, một ngàn năm trăm francs, của một người da đen làm nghề bổ củi bán.
- Anh đã coi chưa?
- Rồi.
- Nhưng tôi cũng muốn xem.
- Mai, tôi sẽ đi gặp Sô-cô-la, tôi vẫn gọi hắn như vậy Papillon ạ, anh kể cho tôi nghe chuyện vượt ngục của anh đi. Tôi tưởng không thể nào vượt ngục từ đảo Quỷ đi được. Sao Chang không đi cùng anh?
Tôi kể với anh chuyện vượt ngục, con sóng Lisette, cái chết của Silvain.
- Tôi hiểu tại sao Chang không muốn đi với anh. Thật là quá mạo hiểm. Số anh đỏ lắm đấy, cho nên anh mới sống sót mà tới đây được. Tôi mừng cho anh lắm.
Quých-Quých và tôi trò chuyện với nhau đã ba giờ.
Chúng tôi ngủ sớm vì anh muốn đi tìm Sô-cô-la ngay lúc hừng đông. Sau khi đặt vào bếp một cành cây to để nó cháy suốt đêm, chúng tôi ngủ. Khói làm tôi ho và tắc cả mũi, nhưng có điều lợi là không có lấy một con muỗi.
Nằm trên giường, đắp chăn ấm, tôi nhắm nghiền mắt. Tôi không sao ngủ được. Tôi bị căng thẳng quá. Đúng là chuyến vượt ngục diễn ra thật tốt đẹp. Nếu tàu tốt chỉ tám ngày nưa là tôi sẽ ra khơi. Quých-Quých nhỏ và gầy, nhưng anh có sức mạnh phi thường, và sức chịu đựng của anh có thể vượt qua được mọi thứ thách. Chắc chắn là anh trung thực và đàng hoàng đối với bạn, nhưng có thể anh cũng rất tàn nhẫn với kẻ thù. Khó mà nhận xét được điều gì trên mặt một người á đông, nó chẳng bộc lộ chút gì hết. Tuy vậy, mắt anh đã nói thay anh.
Tôi ngủ thiếp đi và mơ thấy biển khơi tràn đầy ánh nắng, tàu của tôi tưng bừng vượt sóng trên đường đi tới tự do.
Anh uổng cà-phê hay trà?
- Thế anh uống gì?
- Tôi uống trà.
- Vậy cho tôi trà.
Trời vừa ló sáng, lửa vẫn cháy từ đêm qua, nước reo trong xoong. Một con gà vui mừng cất tiếng gáy. Chung quanh chúng tôi không có tiếng chim kêu, chắc chắn khói đã làm chúng bạt đi mất. Con heo đen nằm trên giường với Quých-Quých. Con heo chắc làm biếng lắm, vì đến giờ nó vẫn còn ngủ. Những miếng bánh tráng làm bằng bột gạo đang được nướng trên than hồng. Sau khi pha trà đường, anh bạn tôi cắt bánh làm đôi, phết mỡ rồi đưa cho tôi. Chúng tôi ăn một bữa thịnh soạn. Tôi ăn ba chiếc bánh tráng đã được nướng kỹ.
- Tôi đi đây, anh theo tôi ra nhé. Nếu có ai kêu hay huýt sáo, đừng trả lời. Anh không phải lo, không ai đến đây được. Nhưng nếu anh ra chỗ mép bùn, anh có thể bị chết đấy.
Con heo đã dậy theo tiếng gọi của chủ. Nó ăn, uống rồi ra ngoài, chủ nó đi theo nó. Nó đến thẳng nơi có bùn. Nó đi xuống cách đoạn đường chúng tôi tới đây hôm qua hơi xa hơn một chút. Đi được vài chục mét, nó quay lại: nó không ưng lối này. Sau khi dò thứ ba lần, nó mới vượt qua chỗ bùn. Quých-Quých theo ngay nó, không e ngại, và đã tới được chỗ đất rắn. Mãi tận chiều, Quých-Quých mới về. Tôi ăn một mình món súp anh đã đặt trên đống lửa. Sau khi nhặt được tám quả trứng trong chuồng gà, tôi lấy mỡ làm một đĩa ba quả trứng ốp-lết. Gió đã đổi chiều và khói ở hai lò bên lán đã bay về hướng khác. Buổi chiều trời mưa, tôi nằm trên giường gỗ của tôi, tôi không bị thán khí làm cho khó chịu.
Buổi sớm, tôi dạo một vòng quanh đảo. Khoảng giữa đảo có một khu đất trống khá rộng, cây đổ và củi bổ tại đó chứng tỏ là Quých-Quých lấy gỗ ở đấy để đốt thành than. Tôi còn thấy một cái hố có đất sét trắng, chắc anh moi lên để phết vào gỗ làm cho nó cháy không thành ngọn. Lũ gà kiếm ăn ở khu đất trống. Một con chuột kếch xù chạy vụt dưới chân tôi, và cách đấy vài thước, tôi thấy một con rắn dài gần hai mét đã chết.
Chắc hẳn con chuột đã cắn chết con rắn.
Suốt ngày hôm ấy, ở một mình trên đảo, tôi khám phá hết cái nọ đến cái kia. Ví dụ, tôi gặp một gia đình những con ăn kiến. Một mẹ và ba con. Một tổ kiến to đang sôi sục quanh chỗ chúng. Hơn một tá khỉ rất nhỏ nhảy từ cành nọ sang cành kia trên khoảng đất trống.
- Tôi không gặp Sô-cô-la, cũng không thấy chiếc thuyền. Chắc anh về làng ở vùng Thác mua thực phẩm. Anh ăn đủ chưa?
- Rồi.
- Anh còn muốn ăn nữa không?
- Không.
Tôi mang về cho anh hai gói thuốc đen, loại sợi to của lính: vì chỉ có thứ này.
- Cảm ơn anh, thứ này được rồi. Khi Sôcôla đi vắng, thường anh ta ở lại làng mấy ngày?
- Hai ba ngày, nhưng mai tôi lại đi, ngày nào tôi cũng đi, vì tôi không biết anh ta đi lúc nào.
Hôm sau trời mưa tầm tã. Nhưng Quých-Quých vẫn trần truồng đội mưa ra đi. Anh bọc quần áo trong một tấm vải sơn cắp dưới nách. Tôi không tiễn chân anh. “Anh đừng đi làm gì cho ướt”. Anh nói với tôi thế. Mưa đã tạnh. Nhìn mặt trời, tôi biết là đã mười một giờ. Lò than thứ hai bị nước mưa làm sập. Tôi tới gần để ước lượng tai họa này. Mưa xối xà cũng không làm tắt hết củi. Vẫn còn khói từ trong cái đống dị hình đó bốc lên. Bỗng tôi dụi mắt rồi nhìn lần nữa vì những thứ tôi trông thấy thật bất ngờ: trong lò than có năm chiếc giày. Trông rõ ngay là mỗi chiếc giày đều đặt thắng đứng trên gót, đều được sỏ vào một cái chân còn nguyên từ bàn chân lên đến bắp. Như vậy là có ba người bị thiêu trong lò. Không cần phải mô tả phản ứng đầu tiên của tôi: khám phá ra chuyện này tôi thấy lành lạnh ờ sống lưng. Tôi cúi xuống lấy chân bới chút tàn than cháy dở, thì thấy bàn chân thứ sáu.
Quých-Quých cũng ghê thật, anh đã biến những người anh giết hàng loạt thành tro bụi. Tôi bị xúc động đến nỗi phải rời khỏi lò than ngay ra tận khu bãi trống đế có chút ánh nắng. Tôi cần phải được sưởi nóng. Đúng, trong không khí ngột ngạt này, tôi bỗng thấy lạnh và cần phải có một chút mặt trời nhiệt đới. Đọc đến đây, chắc độc giả cho là chuyện vô lý: đáng lẽ sau khi khám phá ra việc này, tôi phải toát mồ hôi mới phải. Thế mà không, tôi thấy lạnh cóng người, về tinh thần và thể chất. Rất lâu, đến một tiếng đồng hồ sau, mồ hôi mới bắt đầu chảy trên trán tôi vì càng nghĩ, tôi càng thấy rằng, tôi đã nói với anh ta là tôi có rất nhiều tiền dấu ở trong plan thế mà đến bây giờ tôi vẫn còn sống thì thật là một điều kỳ diệu. Phải chăng anh ta để dành tôi cho một cái lò đốt than thứ ba?
Tôi nhớ là Chang em của anh đã nói với tôi là anh bị kết án về tội ăn cướp và giết người trên một chiếc thuyền buồm. Khi họ tấn công một chiếc tàu để cướp của, họ giết cả gia đình, tất nhiên là vin vào những lý do chính trị. Vậy thì đây là những người đã quen giết người hàng loạt. Thế mà tôi lại bị cầm giữ ở đây. Tôi ở trong một hoàn cảnh thật gay go. Thứ điểm lại tình hình xem sao. Nếu tôi giết Quých-Quých trên đảo này rồi cho xác anh vào lò than, không ai hay biết được. Nhưng con heo lại không chịu nghe tôi con heo được rèn luyện này cũng không hiểu tiếng Pháp. Vậy là không có cách nào ra khỏi đảo. Nếu tôi ép buộc được anh Tàu này nghe theo tôi, thì sau khi bắt anh đưa tôi ra khỏi đảo, tôi sẽ giết anh trên đất liền. Nếu tôi ném anh xuống bùn, anh sẽ biến mất, nhưng chắc anh phải có lý do gì đế thiêu những người này mà không ném xác họ xuống bùn, làm thế dễ hơn nhiều. Bọn cai tù, tôi đếch sợ, nhưng nếu các bạn Tàu của anh khám phá ra là tôi đã giết anh, họ sẽ thành kẻ đi săn người. Họ lại thông thạo địa thế ở đây. Như vậy, bị họ đuổi theo chẳng phải là chuyện hay hớm gì.
Quých-Quých chỉ có khẩu súng trường một nòng, nạp đạn từ phía đầu nòng. Anh không chịu rời nó, kể cá lúc nấu ăn, lúc ngủ và ngay cả khi đi ngoài anh cũng mang súng theo. Tôi có con dao lúc nào cũng mở sẵn nhưng tôi còn phải ngủ. Thế mà anh lại là người tôi chọn để cùng vượt ngục đấy, thật oái oăm. Cả ngày hôm ấy tôi không ăn. Và khi tôi nghe tiếng anh hát, tôi cũng chưa quyết định làm gì. Quých-Quých đã trở về. Nấp sau các cành cây tôi thấy anh đi tới. Anh mang một cái bọc đặt thăng bằng trên đầu và khi anh đến bên tôi, tôi mới ló ra. Anh tươi cười đưa tôi gói đồ bọc trong cái bao bột mì, leo lên rồi đi vội vào nhà. Tôi đi theo anh.
- Tin mừng, Papillon ạ, Sô-cô- la đã về rồi, thuyền vẫn còn. Anh ta nói là tàu có thể chở được hơn năm trăm kí-lô mà vẫn nổi. Thứ anh đang cần là những bao bột mì để ghép lại thành buồm chính và một buồm mui. Đây là bọc hàng đầu tiên. Nhưng thứ còn lại mai ta sẽ lấy về nốt, vì anh sẽ đi xem thuyền với tôi.
Quých-Quých vừa đi vừa nói, không quay mặt lại.
Chúng tôi nối gót nhau đi. Trước tiên là con heo, rồi đến anh ta, còn tôi đi sau cùng. Tôi khoáng nghĩ rất nhanh là anh không có vẻ gì có ý định cho tôi vào lò than, vì ngày mai anh sẽ đưa tôi đi xem thuyền, và anh đã bắt đầu tiêu pha để chuẩn bị cho cuộc vượt ngục: anh còn mua cả những bao bột mì.
- Một cái lò bị sập đổ kìa. Chắc tại trời mưa.
- Mưa nhiều quá nên cũng chẳng có gì là lạ.
Anh cũng không ra thăm lò, cứ đi thẳng về lán. Tôi không biết nói gì, cũng không biết nên làm gì. Coi như không trông thấy gì cũng không xong. chẳng lẽ suốt ngày tôi lại không mò đến gần lò ở cách lán có hai mươi lăm mét, nghĩ cũng kỳ.
- Anh để tắt lửa đấy à?
- Phải, tôi chẳng đề ý đến nữa.
- Anh đã ăn chưa?
- Chưa, tôi không đói.
- Anh bệnh à?
- Không.
- Thế tại sao anh không ăn súp đi?
- Quých-Quých, anh ngồi xuống dây, tôi có chuyện muốn nói với anh.
- Để tôi châm lửa đã.
- Đừng. Tôi muốn nói chuyện với anh ngay, trong lúc trời còn sáng.
- Có điều gì vậy?
- Có điều ]à lò sập đã để lộ ba cái xác người bị anh thiêu trong đó. Anh bày giải thích cho tôi nghe việc này.
- à! Thảo nào tôi thấy mặt anh là lạ.
Không lộ vẻ xúc động chút nào, anh nhìn thẳng tôi nói:
- Sau khi nhìn thấy như vậy, anh không yên tâm phải không? Tôi hiểu, chuyện dĩ nhiên thôi. Cũng may cho tôi là anh chưa đâm vào lưng tôi. Anh Pappillon, ba thằng cha ấy là ba thằng đi săn người. Và tuần qua, mười hôm thì đúng hơn, tôi bán một mớ củi cho Sô-cô-la. Ông người Tàu mà anh đã thấy, giúp tôi đưa các bao than ra khỏi đảo. Chuyện này rắc rối lắm: chúng tôi dùng thừng dài hơn hai trăm mét kéo những bao than cho trượt trên bùn. Đại khái là như vậy. Từ đây đến một con lạch nhỏ, thuyền của Sô-cô-la đậu ở đấy. Chúng tôi đã để lại rất nhiều dấu vết, mấy cái bao rách đã để rơi vài cục than. Thế là bắt đầu xuất hiện kẻ săn người đầu tiên. Nghe thú kêu, tôi biết là trong rừng có người. Tôi thấy được thằng cha nọ, nó lại không trông thấy tôi. Tôi lén đi qua phía bên kia đáo, vòng sau lưng nó đánh bất ngờ, chẳng có gì khó. Nó bị giết chết mà không hề biết ai giết mình. Tôi để ý nhận thấy các xác chết nắm xuống bùn sau vài ngày lại nổi lên, cho nên tôi mang nó về đây, cho vào lò.
- Còn hai người kia là thế nào?
Chuyện xáy ra ba ngày trước khi anh đến đây. Đêm ấy tối đen như mực và hoàn toàn im ắng, điều này ít khi thấy ở rừng lắm. Hai thằng này ở bờ ao từ chập tối. Một đứa hễ bị khói bay tới là lên cơn ho. Do có những tiếng ho mà tôi biết là có chúng ở đấy. Trước khi trời sáng, tôi đánh liều đi qua phía trước mặt, chỗ bùn mà tôi đã nhớ là có tiếng ho. Muốn cho nhanh, như tôi đã nói với anh, tôi đã cắt cổ tên săn người đầu tiên. Nó không kêu được một tiếng. Còn thằng sau nó, có một khẩu súng săn, nó chỉ lo nhìn về phía trên đảo xem có chuyện gì xảy ra, nên đã để tôi trông thấy. Tôi cho nó một phát súng, và thấy nó chưa chết hẳn, tôi lại bồi thêm cho nó một nhát dao vào tim. Đấy là ba thằng mà anh đã trông thấy trong lò than đấy Papillon ạ Một thằng A-rập và hai thằng Pháp. Vác chúng lên vai mà đi qua đống bùn không phải dễ. Chúng nặng lắm, cho nên tôi phải đi làm hai chuyến. Rồi tôi cũng cho nó vào lò được.
- Chuyện xảy ra đúng như vậy chứ?
- Đúng thế, Papillon, tôi thề với anh ấy.
- Tại sao anh không cho chúng xuống bùn?
- Tôi đã nói rồi, bùn đẩy xác chết lên. Thỉnh thoảng có con nai bị rớt xuống đấy, chỉ một tuần sau, nó lại nổi lên. Hôi thối lắm, mãi đến khi kền kền đến ăn mới hết mùi. Phải lâu lắm, tiếng kền kền kêu và bay lượn làm cho người ta tò mò tìm đến. Papillon ơi, tôi thề với anh là đi với tôi anh không phải sợ gì. Đây để anh yên tâm, anh cầm lấy khẩu súng này, nếu anh muốn. Tôi muốn nhận khẩu súng đến chết, nhưng tôi đã nén được và tôi cố hết sức nói thật tự nhiên:
- Tôi không cầm đâu anh Quých-Quých, tôi đến đây vì tôi cảm thấy được bảo đảm, như đến với một người bạn. Ngày mai anh phải thiêu tiếp mấy tên săn người ấy cho hết dấu vết đi. Dù tôi không có mặt ở đây tôi cũng không muốn bị buộc tội là đã giết ba người.
- Được, mai tôi sẽ thiêu nữa. Nhưng anh yên trí. không ai đặt chân được lên đảo này. Không thể có ai dám qua đây nếu không muốn bị sa lầy. Thế với một chiếc xuồng bằng cao su có qua được không?
- Tôi không nghĩ đến việc đó.
Nếu ai dẫn bọn hiến binh đến đây, và chúng muốn vào vào, anh cứ tin là với một cái bè, chúng có thể vào được. Vì vậy nên phải đi càng sớm càng tốt.
- Đồng ý. Ngày mai, sẽ nhóm lò lại, nó cũng chưa tắt hẳn, chỉ cần làm hai ống thông hơi nữa.
- Thôi chào anh Quých-Quých.
- Chúc anh ngủ ngon, Papillon. Tôi nhắc lại là anh cứ ngủ cho kỹ, anh có thể tin tôi.
Nằm kéo chăn lên tận cằm, tôi thấy ấm áp khoan khoái Tôi châm thuốc hút. Mười phút sau, Quých-Quých đã ngáy, con heo nằm cạnh anh cũng thở phì phò. Lửa không bốc lên nhưng than ở thân cây còn hồng và khi có cơn gió lùa vào lán, nó tạo ta một cảm giác thanh bình, êm ả. Tôi tận hưởng tiện nghi này và tôi đã ngủ với những ý nghĩ sau đây trong đầu? Ngày mai, tôi sẽ thức dậy và giữa Quých-Quých với tôi mọi việc đều êm đẹp; nếu không chú ba tàu này quá là một nghệ sĩ đã che dấu những ý định của mình và kể chuyện tào lao còn giỏi hơn ca Sacha Guitry* (*Sacha Guitry: diễn viên kịch nói và điện ảnh rất nổi tiếng của Pháp còn là tác giả của nhiều kịch bản sân khấu và phim (1885 –1957) - ND) và nếu thế tôi sẽ không thấy ánh mặt trời, vì tôi đã biết quá nhiều về anh, anh sẽ ngại.
Chuyên viên giết người hàng loạt đánh thức tôi dậy, tay cầm một ca cà-phê, và như không có chuyện gì xảy ra, anh chào tôi với một nụ cười vô cùng cởi mở. Ngày đã rạng.
- Này, anh uống cà phê, ăn bánh tráng đi, đã cho mỡ rồi đấy.
Ăn uống xong, tôi ra ngoài, rửa ráy ở một thùng ton-nô lúc nào cũng đầy nước.
- Anh giúp tôi nhé, Papillon?
- ừ! - tôi nói mà không hỏi xem anh ta cần giúp việc gì
Chúng tôi kéo chân mấy cái xác chết đã bị thiêu dở dang. Tôi để ý thấy mà không nói ra, là cả ba cái xác đều bị mổ bụng, anh chàng tàu dễ thương này chắc đã tìm xem họ có dấu tiền trong ruột không. Có đúng họ là những kẻ săn người không. Biết đâu lại chỉ là những người săn bướm và săn thú? Anh ta giết họ để tự vệ hay để lấy của? Thôi, không nghĩ thêm về chuyện này nữa! Mấy cái xác chết đã được đưa vào trong hố lò có củi và đất sét đắp lên trên. Hai ống thông hơi đã được mở ra và lò đã bốc cháy với hai nhiệm vụ: làm ra than củi và thiêu cho ba cái xác thành tro.
- Đi nào, Papillon.
Con heo con tìm ra lối đi trong nháy mắt. Chúng tôi nối đuôi nhau đi qua quãng bùn. Lúc sắp dấn bước đưa chân, tôi lo đến chết khiếp. Chuyện Sylvain bị sa lầy rồi chết đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc đến nỗi tôi không thề nào đi trên bùn một cách thanh thản được. Cuối cùng, toát mồ hôi hột, tôi cũng phải lao theo Quých-Quých. Chân tôi đặt từng bước lên vết chân anh, không có cách gì khác: anh qua được thì tôi cũng phải qua được chứ.
Sau hai giờ đi bộ, chúng tôi đi đến được nơi Sô-cô-la lấy gỗ. Trên đường đi chúng tôi không gặp ai và cũng không phải lẩn trốn lần nào.
- Chào me-xừ.
- Chào ông Quých-Quých.
- Anh có khỏe không?
- Khỏe lắm.
- Anh cho bạn tôi xem thuyền.
Cái thuyền rất khỏe, đó là một loại sà lúp chở hàng, nặng nề nhưng bền chắc. Tôi lấy dao sỉa vào mọi chỗ, dao không bao giờ ngập sâu quá nửa phân. Sàn tàu cũng còn nguyên. Tàu này được đóng bằng một thứ gỗ đã được chọn kỹ lưỡng.
- Anh bân bao nhiêu?
- Hai ngàn năm trăm francs.
- Tôi trả anh hai ngàn.
Ngã giá thế là xong.
Tàu này không có ky. Tôi trả thêm cho anh năm trăm francs nữa, anh phải làm thêm cho tôi một cái ky, một bánh lái và một cột buồm. Cái ky và bánh lái phải bằng gỗ tốt, cột buồm, cao ba mét, bằng gỗ nhẹ và dẻo. Bao giờ xong?
- Tám ngày nữa. Đây là hai tờ giấy bạc một ngàn và một tờ năm trăm. Tôi xé đôi, đưa anh một nửa, nửa kia sẽ đưa anh khi tôi nhận tàu. Anh giữ một nữa nhé. Bằng lòng không?
- Đồng ý. - Tôi cần một ít thuốc tím, một ton-nô nước ngọt, ít thuốc lá và diêm, thức ăn đủ cho bốn người trong một tháng: bột mì dầu, cà-phê và đường, những thứ này tôi trả tiền riêng. Anh giao tất cả trên sông ở Kourou nhé.
- Me xừ ơi, tôi không thể theo ông ra đến cửa sông được
- Tôi có bảo anh theo đâu. Tôi bảo là anh giao tàu cho tôi trên sông chứ không phải ở cái vũng này.
- Các túi bột mì, một cuộn dây thừng, kim khâu và chỉ buồm đấy.
Quých-Quých và tôi lại quay về nơi ẩn náu. Chúng tôi về trước khi trời tối, không gặp chuyện phiền phức gì. Trên đường về, con heo mệt nên anh vác nó lên vai. Hôm nay, tôi đang khâu buồm một mình, bỗng nghe có tiếng kêu. Tôi nấp vào rừng gần quãng có bùn và trông sang bờ bên kia. Quých-Quých tranh cãi khoa chân múa tay với người trí thức Tàu. Tôi đoán là anh ta muốn sang đảo mà Quých-Quých không cho sang. Tay người nào cũng cầm một con dao phạt. Người cụt tay có vẻ nóng hơn. Mong sao anh ta đừng giết Quých-Quých. Tôi quyết đỉnh lộ diện. Tôi huýt sáo. Hai người quay về phía tôi.
- Có việc gì thế, anh Quých-Quých?.
- Tôi muốn nói chuyện với anh, anh Papillon ạ! - Người kia nói. - Anh Quých-Quých không cho tôi sang bên ấy.
Sau mười phút tranh cãi bằng tiếng của họ, cả hai đã theo con heo sang bên này đảo. Ngồi trong lán, khỉ mỗi người tay đã cầm một ca nước trà, tôi chờ nghe họ nói.
- Chuyện như thế này - Quých-Quých nói. - Anh ta muốn vượt ngục bằng được với chúng ta. Tôi nói cho anh ấy hiểu là tôi không có quyền gì trong chuyện này, anh là người trả tiền và chỉ huy tất cả. Anh ấy không tin tôi.
- Anh Papillon ơi, - anh kia nói, - Quých-Quých phải để cho tôi cùng di mới được.
- Tại sao?
- Hai năm trước, chính anh ấy đã chặt cụt tay tôi trong khi đánh bạc. Anh ấy bắt tôi thề là sẽ không giết anh ấy. Tôi đã thề, nhận lời với điều kiện là anh ta phải nuôi tôi suốt đời. ít ra cũng phải nuôi tôi khi tôi đòi hỏi. Nếu anh bỏ đi suốt đời, tôi sẽ không còn nhìn thấy anh ấy cho nên một là anh ấy để anh đi một mình, hai là anh ấy phải để tôi đi theo.
- Lại còn chuyện thế nữa, cả đời bây giờ tôi mới gặp chuyện này là một dấy, được, tôi bằng lòng để anh đi theo. Tàu cũng tốt và rộng, có thể đi thêm nữa nếu ta muốn. Anh Quých-Quých bằng lòng, thì tôi để anh đi theo.
- Cảm ơn anh, - anh cụt tay nói.
- Anh thấy thế nào, anh Quých-Quých?
- Đồng ý, nếu anh muốn.
- Có một điều quan trọng. Anh có thể ra khỏi trại mà không bị coi là mất tích và bị truy nã về tội vượt ngục, và anh có thể có mặt ở ngoài sông trước khi trời tối không?
- Không có gì nhiều đâu. Tôi có thể ra khỏi trại từ ba giờ và chưa tới hai giờ sau, tôi đã đến bờ sông rồi.
- Anh Quých-Quých ơi, ban đêm anh có thể tìm chỗ để chúng ta cho bạn anh lên tàu mà không mất thì giờ không?
- Có chứ, chắc chắn là có.
- Một tuần nữa, anh đến đây để biết ngày khởi hành nhé.
Anh cụt tay sau khi bắt tay tôi, vui vẻ quay đi. Tôi trông thấy cả hai người chia tay nhau ở bờ bên kia. Trước khi từ giã, họ đã bắt tay nhau. Mọi việc êm đẹp cả.
Khi Quých-Quých trở về lán tôi nói luôn:
Anh ta giao kéo với đối thủ của anh lạ nhỉ, nhận nuôi anh ta suốt đời, chuyện lạ thường lắm đấy. Tại sao anh lại chặt tay anh ta?
- Chơi bạc rồi đánh nhau:
- Thà anh giết chết anh ta còn hơn.
- Không được, vì anh ấy là người bạn rất tốt. Khi ra tòa án binh, anh ta đã tận tình bênh vực tôi; nói là chính anh ta đánh tôi trước, còn tôi chỉ tự vệ thôi. Tôi đã tự nguyện cam kết, tôi phải giữ đúng lời hứa. Chỉ có một điều tôi không dám cho anh biết vì anh chi tiền cho cả chuyến vượt ngục.
- Thôi xong rồi, anh Quých-Quých ơi, chúng ta không cần nói đến chuyện này nữa. Nhờ trời, khi nào được tự do anh muốn làm gì tùy anh.
Tôi sẽ giữ lời hứa. Nếu có ngày anh được tự do, anh tính sẽ làm gì? Mở tiệm ăn. Tôi là bếp giỏi, còn anh ấy chuyên về “hủ tiếu”.
Việc này làm tôi vui hẳn. Câu chuyện buồn cười làm tôi cứ chọc Quých-Quých hoài.
Sô-cô-la đã giữ lời hứa: năm ngày sau, tất cả đã sẵn sàng. Chúng tôi đi xem tàu vào một ngày mưa tầm tã. Không có gì có thể chê trách cả. Cột buồm, bánh lái và ky đều hoàn hảo. ở một khúc quanh trên sông, chiếc tàu cùng thùng ton-nô nước và thức ăn đã đợi chúng tôi. Chỉ còn báo tin cho anh cụt thôi: Sô-cô-la nhận đi đến trại để gọi anh kia, và sẽ đưa thẳng anh kia đến nơi giấu tàu để chúng tôi khỏi phải tới bờ sông đón anh.
Cửa sông Kourou có hai cây đèn pha để xác định vị trí. Trời mưa tàu có thể vượt qua được chỗ đó nếu di ở giữa sông và dĩ nhiên là không kéo buồm lên. Sô-cô-la đã cho chúng tôi một hộp sơn đen và một cây bút vẽ. Chúng tôi sẽ sơn lên buồm một chữ K lớn và số 21, K.21 là số đăng ký một tàu đánh cá thỉnh thoảng có đi đánh cá đêm. Trường hợp ra đến biển, chúng tôi kéo buồm lên mà bị phát hiện, người ta sẽ tưởng đấy là chiếc tàu đánh cá kia.
Chúng tôi quyết định tối mai, hồi mười chín giờ, một giờ sau khi trời sập tối, sẽ khởi hành. Quých-Quých tin chắc sẽ tìm được đường đi và bảo đảm đưa tôi đến thẳng nơi giấu tàu. Chúng tôi rời đảo hồi năm giờ để tranh thủ đi một tiếng trong lúc trời còn sáng. Tôi trở về lán rất vui vẻ. Quých-Quých vai vác con heo nói chuyện huyên thiên với tôi mà không quay lại, vì tôi đi sau lưng anh ta.
- Cuối cùng, tôi cũng ra khỏi trại giam. Nhờ có anh và chú Chang của tôi mà tôi được tự do. Sẽ có ngày, khi người Pháp cút khỏi Đông Dương, tôi được trở về nước.
Tóm lại, anh tin tôi, và thấy tôi ưng cái tàu, anh vui khư khướu Tôi ngủ đêm cuối cùng ở đảo, tôi hy vọng cũng là đêm cuối cùng trên đất Guyane. Nếu tôi ra tới sông và tới biển, chắc chắn là tự do rồi. Nguy cơ lớn nhất là bị đắm tàu, vì từ khi có chiến tranh, không có nước nào trả tù vượt ngục. Về điểm này, chiến tranh đã có lợi cho chúng tôi. Nếu chúng tôi thất bại, chúng tôi sẽ bị tử hình, đúng là thế, nhưng còn phải bắt được chúng tôi đã. Tôi nghĩ đến Sylvain. Đáng lẽ anh phải ở đây, ngay cạnh tôi, cùng với tôi, nếu anh không phạm phải điều khinh xuất kia. Tôi đã thảo bức điện trong khi ngủ: “Gửi ông tổng biện lý Pradel - Cuối cùng tôi đã dứt khoát thắng được con đường của sự thối rữa mà ông ném tôi vào. Tôi đã mất chín năm”.
Mặt trời đã lên cao khi Quých-Quých đánh thức tôi dậy. Lại uống trà, ăn bánh trắng. Chung quanh đầy những hộp là hộp, tôi còn thấy hai cái lồng bằng mây.
- Lồng để làm gì vậy?
- Tôi nhốt gà để ăn dọc đường.
- Anh có điên không anh Quých-Quých? Ai lại đem gà đi theo. Trong một hành trình như thế này?
- Tôi muốn đem đi.
Anh có bệnh không đấy? Nếu nước xuống, tận sáng chúng ta mới ra khỏi cửa sông, lỡ lúc ấy, gà sống gà mái gáy ầm lên trên sông, anh thấy có nguy hiểm không?
- Tôi không vất gà lại đâu.
- Anh luộc gà đi rồi bỏ vào mỡ hay dầu. Thế mới để được lâu và chúng ta sẽ ăn trong ba ngày đầu. Cuối cùng Quých-Quých cũng phải chịu, anh đi bắt gà, những tiếng kêu của bốn con gà đầu tiên anh tóm được đã làm những con khác bỏ chạy hết, anh không bắt thêm được con nào, chúng trốn cả vào rừng. Đấy cũng là điều bí mật của loài vật, không biết tại sao cũng cảm thấy trước mối nguy cơ. Theo sau con heo, chúng tôi vượt qua đống bùn, vai vác nặng như lừa. Anh van nài tôi để anh mang con heo đi theo.
- Trời đất ơi? Liệu nó có kêu không?
- Tôi bảo đảm với anh là không. Tôi bắt nó im là nó phải im. Chúng tôi hai ba lần bị một con hổ cứ lượn quanh rình chúng tôi. Lúc đó nó cũng không kêu, mà nó sợ chết khiếp, lông cứ dựng đứng lên.
Tin vào thiện ý của Quých-Quých, tôi bằng lòng để anh đem còn heo thân yêu của anh theo, chúng tôi đến chỗ dấu tàu thì trời đã tối mịt. Sô-cô-la và anh cụt đã có mặt ở đấy rồi. Có hai cây đèn pin để tôi kiểm tra tất cả mọi vật dụng. Không thiếu thứ gì: vòng lồng dây buồm, buồm mũi đã được có mặt ở đấy rồi. Có hai cây đèn pin để tôi kiểm tra tất cả mọi vật dụng. Không thiếu thứ gì: vòng lồng dây buồm, buồm mũi đã được buộc sẵn sàng, có thể kéo lên ngay được. Quých-Quých kéo thử hai ba lần như tôi đã chỉ cho anh làm. Anh hiểu ngay công việc tôi nhờ anh. Tôi trả tiền anh da đen đã tỏ ra rất đứng đắn. Anh thật thà mang cả keo dán và nửa mảnh giấy bạc để nhờ tôi dán lại giúp. Anh không lúc nào sợ tôi lấy mất những tờ giấy bạc nọ. Ai không có những ý nghĩ xấu về người khác, bản chất họ thường là tất và thắng thắn. Sô-cô-la là một người trung thực và lương thiện. Sau khi đã thấy tù khổ sai bị đối xử ra sao, anh không hề hối hận là đã giúp ba người tù thoát khỏi cái địa ngục kia.
- Từ biệt Sô-cô-la nhé. Chúc anh cùng gia đình gặp nhiều may mắn.
- Cảm ơn ông nhiều.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
XI. Từ giã nơi ngục tù
Chuyến vượt ngục của “dân tầu”
Tôi xuống tàu sau cùng và nhờ Sô-cô-la đẩy, chiếc tàu tiến về phía sông. Không có giầm, chỉ có hai mái chèo tốt, một do Quých chèo phía trước, một tôi chèo phía sau. Chưa tới hai giờ sau, chúng tôi ra đến sông.
Mưa đã hơn một giờ. Tôi lấy một bao bột mì để che mưa. Quých-Quých và anh cụt cũng làm như vậy, nước sông chảy siết và xoáy nhiều. Nhờ nước rút, ba giờ sau, chúng tôi đã đi ngang hai cây đèn pha. Tôi biết là đã gần ra đến biển vì hai cây đèn pha này ở mỏm ngoài cửa sông. Chúng tôi kéo buồm chính và buồm mũi, chúng tôi đã đi qua Kourou mà không gặp trở ngại gì Gió thổi phía bên trái mạnh đến nỗi tôi buộc phải buông buồm cho gió trượt đi. Tàu chúng tôi lao mạnh ra biển như một mũi tên, chúng tôi lọt qua cửa lạch và rời khỏi bờ rất nhanh. Trước mặt chúng tôi, cây đèn pha của đảo Royale đã chỉ đường cho chúng tôi. Mười ba ngày trước tôi còn ở phía sau cây đèn ấy, ở Đảo Quỷ. Chuyến ra khơi vào lúc ban đêm, việc mau chóng rời khỏi Đất liền không được hai bạn Tàu của tôi ăn mừng nổ trời. Những tay con trời này không quen lối bộc lộ tình cảm như chúng ta.
Ra đến biển rồi, Quých-Quých chỉ bình thản nói:
- Chúng ta đã đi ra được, rất tốt.
Anh cụt nói thêm:
- Phải, chúng ta đã ra đến biển mà không gặp một khó khăn nào.
- Tôi khát quá, anh Quých-Quých, cho tôi xin một ít rượu.
Sau khi đưa tôi uống, cả hai cũng uống một chầu rượu rhum. Tôi đi không có la bàn, nhưng trong chuyến vượt ngục đầu tiên, tôi đã học cách định hướng căn cứ vào mặt trời, trăng, sao và gió. Và tôi không ngần ngại lao ra biển khơi, cột buồm hướng về sao Hôm. Tàu rất tốt nó vượt sóng một cách dịu dàng và hầu như không bị tròng trành. Gió thổi rất dừ, buổi sớm chúng tôi đã ở rất xa bờ và các đảo Salut. Nếu không phải là làm liều, tôi đã hướng cho tàu chạy xích gần đảo Quỷ để từ ngoài khơi, vừa thoải mái ngắm vừa vượt qua nó.
Ròng rã sáu ngày, biển luôn có sóng lừng nhưng không mưa và không có giông bão. Gió rất mạnh đã đẩy chúng tôi đi rất nhanh về hướng tây. Quých-Quých và Vân Huê là những bạn đường tuyệt vời. Cả hai không lúc nào phàn nàn về trời xấu, về nắng, về đêm lạnh. Chỉ có điều là không anh nào muốn cầm lái và coi tàu lấy vài giờ để tôi được ngủ. Hàng ngày họ nấu bếp đến ba bốn lần. Có bao nhiêu gà chúng tôi đã ăn hết trơn. Hôm qua, tôi nói đùa với Quých-Quých.
- Bây giờ chúng ta ăn con heo chứ?
Anh ta đau khổ thực sự.
- Con vật này là bạn tôi và trước khi ăn thịt nó phải giết tôi đã.
Các bạn tôi cũng săn sóc đến tôi. Họ không hút thuốc để tôi muốn hút bao nhiêu thì hút. Lúc nào cũng có trà nóng. Họ làm tất cả mà không cần phải bảo. Chúng tôi ra đi đã được bảy ngày. Tôi không chịu đựng nổi nữa. Nắng gay gắt đến nỗi cả hai anh bạn Tàu của tôi cũng bị luộc chín như tôm. Tôi phải ngủ. Tôi buộc lái lại và chỉ căng một chút buồm. Tàu cứ đi theo hướng gió thổi. Tôi ngủ say như chết gần ba giờ. Tôi giật mình tỉnh dậy do bị xô mạnh. Khi rửa mặt tôi ngạc nhiên và vui vẻ thấy là trong lúc tôi ngủ anh bạn Quých đã cạo râu cho tôi mà tôi không biết. Mặt tôi cũng được anh bôi dầu.
Từ chiều qua tôi lái qua hướng Tây Nam vì tôi cảm thấy đi quá xa về hướng Bắc. Tàu nặng nên có cái lợi là nó không dễ bị trệch hướng. Do đó, tôi thấy nó đi quá về hướng Bắe thật ra có lẽ là không đúng. Kìa, có chiếc khinh khí cầu! Đây là lần đầu tiên trên đời, tôi được trông thấy nó. Nó không có vẻ đang bay về phía chúng tôi, và nó ở quá xa, khó ước lượng được kích thước của nó.
ánh nắng phản chiếu trên lớp nhôm làm nó ánh lên màu bạch kim và chói đến nỗi mắt không nhìn thẳng vào đấy được. Nó bỗng đổi hướng, hình như bay về phía chúng tôi. Quả vậy, nó to dần rất mau, và chỉ hai mươi phút sau, nó đã ở trên dầu chúng tôi. Quých và anh cụt vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc khinh khí cầu, cứ nói huyên thuyên với nhau bằng tiếng Tàu.
- Các anh nói bằng tiếng Pháp để tôi nghe mấy chứ.
- Khí cầu của Anh - Quých nói.
- Không, đấy không phải là khí cầu tròn mà là một chiếc dirigeable: loại khí cầu này có thể điều khiển như máy bay.
Chiếc khí cầu rất to, bây giờ chúng tôi đã thấy được rát rõ vì nó hạ thấp và lượn trên đầu chúng tôi thành những vòng nhỏ. Có những lá cờ nhỏ được đưa ra phát tín hiệu. Chúng tôi không hiểu gì nên không trả lời. Khí cầu vẫn ra hiệu và đến gần chúng tôi hơn, chúng tôi thấy được cả người trong khoang tàu. Rồi nó bay về phía đất liền. Một giờ sau một chiếc phi cơ bay tới và lượn nhiều lần trên đầu chúng tôi. Bỗng nhiên biển nổi sóng dữ hơn, gió cũng mạnh hơn. Chân trời bóng phía đều quang và không thể có mưa.
Trông kia, anh cụt nói.
- ở đâu?
- Đằng kia, hướng này, có thể là đất liền ở phía ấy. Điểm đen kia, là một chiếc tàu.
- Sao anh biết?
- Tôi đoán vậy, tôi còn cho đấy là một tàu khu trục.
- Vì sao?
- Vì nó không có khói.
Đúng vậy, một giờ sau chúng tôi thấy rõ một chiếc tàu chiến màu xám, có vẻ đến thẳng tàu chúng tôi. Nó lớn dần: chắc nó phải đi nhanh ghê gớm, mũi tàu hướng về chúng tôi, tôi sợ nó đi sát chúng tôi quá, sẽ rất nguy hiểm vì biển động và vệt sóng của nó ngược với sóng biển có thể làm tàu chúng tôi bị đắm.
Đó là một tàu phóng ngư lôi loại nhỏ, khi nó lượn quanh nửa vòng phơi cả về ngang thân tàu chúng tôi đọc được tên tàu là Tarpon. Chiếc tàu nặng, treo cờ Anh phấp phới ở mũi tàu, đã lượn vòng và từ phía sau chầm chậm đến gần chúng tôi. Nó thận trọng đi sóng đôi, cùng tốc độ với tàu chúng tôi. Một phần lớn thủy thủ đoàn ở trên boong mặc quần áo màu xanh của Hải quân Anh. Từ đài chỉ huy, một sĩ quan mặc đồ trắng nói qua chiếc loa.
- Stop You - Stop.
- Quých, hạ buồm xuống ngay.
Hai phút sau buồm chính, buồm foc và buồm mũi đã được hạ xuống. Không có buồm, tàu gần như dừng hẳn lại, chỉ có sóng xô tàu quay ngang. Tôi thấy không thể để lâu như vậy, vì sẽ nguy hiểm lắm. Một chiếc tàu mà không có xung lượng riêng của mình do động cơ hay do gió, không thể giữ được đúng hướng. Đưa hai tay lên miệng làm loa, tôi kêu to:
- Các ông có người nói được tiếng Pháp không hả thuyền trưởng
Một sĩ quan khác cầm lấy chiếc loa trên tay viên sĩ quan trước.
- Có tôi nói được tiếng Pháp.
- Các ông muốn gì?
- Lên tàu của các anh.
- Không được, nguy hiểm lắm, tôi không muốn các ông đâm hỏng tàu của tôi.
- Chúng tôi là tàu chiến đi kiểm tra biển, các anh phải tuân lệnh.
- Tôi không cần biết, vì chúng tôi không đi đánh nhau.
- Các anh không phải là những người sống sót của cái tàu bị bắn chìm?
- Không chúng tôi là những tù vượt ngục từ một trại giam tù khổ sai của Pháp.
Trại giam tù khổ sai là cái gì, trại khổ sai nghĩa là gì?
- Nhà tù, tù nhân, tiếng Anh là Convict Hard labour.
- à, tôi hiểu rồi. ở Cayenne hả?
- Phải, ở Cayenne.
- Các anh đi đâu?
- Sang Honduras thuộc Anh.
Không được, các anh phải theo hướng Tây Nam và đi về thành phố George. Đây là lệnh, các anh phải theo.
- Được? Tôi bảo Quých kéo buồm lên và chúng tôi đi về hướng mà chiếc tàu phóng ngư lôi đã chỉ cho chúng tôi
Chúng tôi nghe có tiếng động cơ ở phía sau. Đấy là một chiếc xuồng máy được tách khỏi tàu chiến. Nó đuổi kịp chúng tôi ngay. Một thủy thủ, súng đeo chéo qua vai, đứng ở mũi xuồng. Nó đến từ phía bên phải và đi sát kề bên chúng tôi mà không dừng lại, cũng không bắt chúng tôi dừng lại. Người thủy thủ nhảy phóc sang tàu chúng tôi. Chiếc xuồng tiếp tục đi trở về với chiếc tàu chiến.
- Good afternoon! - người thủy thủ nói.
Anh ta đi về phía tôi, ngồi xuống cạnh tôi rồi đặt tay lên cần lái và hướng tàu về phía Nam, chếch nhiều hơn so với hướng tôi đi. Tôi để cho anh ta lái, và quan sát cách làm của anh. Anh lái rất giỏi, không có gì phải nghi ngờ. Tuy thế, tôi vẫn ngồi tại chỗ của tôi. Biết thế nào được.
- Thuốc lá?
Anh lấy ra ba bao thuốc lá Anh và đưa cho chúng tôi mỗi người một bao.
- Trời ơi! - Quých nói, họ vừa đưa thuốc lá cho anh này đúng lúc anh xuống xuồng, vì chắc anh ta không phải lúc nào cũng mang ba bao thuốc lá trong người.
Tôi cười về lời nhận xét của Quých, rồi tôi lại chú ý đến người thủy thủ Anh: anh ta biết lái tàu giỏi hơn tôi. Tôi có đủ thì giờ để suy nghĩ. Lần này, việc vượt ngục đã thành công hoàn toàn, tôi đã là một người tự do, thật sự tự do. Cổ tôi nóng ran, tôi cảm thấy nước mắt trào ra. Thật vậy, tôi đã dứt khoát được tự do vì từ khi có chiến tranh, không nước nào trả tù vượt ngục về nơi cũ.
Trước khi chiến tranh chấm dứt, tôi có đủ thì giờ để được đánh giá tốt và bất cứ nước nào mà tôi định cư cũng sẽ hiểu rõ tôi. Điều bất lợi duy nhất là, do chiến tranh, có lẽ tôi không được lựa chọn nước tôi muốn ở lại. Cũng không sao, ở bất cứ nơi nào tôi sống, tôi cũng sẽ mau chóng làm sao để được dân và các nhà cầm quyền ở đấy quý mến và tin cậy, cách sống của tôi sẽ không ai chê trách vào đâu được. Hơn thế, cách sống ấy phải là gương mẫu nữa.
Cảm giác an toàn là cuối cùng tôi đã chiến thắng được con đường thối rữa làm tôi không còn nghĩ đến việc gì khác Papillon, thế là cuối cùng, mày đã được cuộc Sau chín năm, mày đã toàn thắng. Cảm ơn Chúa lòng lành, có thể người đã làm như vậy trừ trước, nhưng con đường người vạch ra rất bí ẩn, con không oán trách người vì nhờ người giúp đỡ, con vẫn còn trẻ, còn lành mạnh và tự do.
Chính lúc đang nghĩ tới con đường mà tôi đã vượt qua trong chín năm bị tù đày khổ sai cộng với hai năm tù ở Pháp tổng cộng là mười một năm là lúc tôi đã trông theo tay người thủy thủ đang chỉ và nói với tôi:
- Đất liền kia kìa.
Hồi mười sáu giờ, sau khi đi ngang một ngọn đèn biển đã tắt, chúng tôi vào một con sông lớn. Sông Demerara. Chiếc xuồng lại xuất hiện, người lính thủy tảa tay lái cho tôi và ra phía trước. Anh ta bắt một cuộn thừng to được ném tới và buộc vào ghế băng phía trước. Chính tay anh đã hạ buồm và chèo xuồng nhẹ nhàng kéo chúng tôi khoảng hai mươi kilômét ngược giòng con sông nước vàng vàng này, theo sau độ hai trăm mét là chiếc tàu phóng ngư lôi. Sau một khúc quanh, một thành phố lớn hiện ra, người lính thủy Anh reo to: “Đến thành phố George rồi”.
Đúng là chúng tôi đã đến thủ đô của nước Guyane thuộc Anh, do chiếc xuồng kéo. Có rất nhiều tàu chở hàng, thuyền máy và tàu chiến. Có nhiều đại bác đặt trong các tàu chiến cũng như trên đất liền.
Chiến tranh là như thế. Chiến tranh nổ ra đã hai năm rồi mà tôi không hay biết gì. Thành phố George, thủ đô của Guyane thuộc Anh, cảng quan trọng trên sông Demerara, ở trong tình trạng có chiến tranh một trăm phần trăm. Cái cảnh một thành phố được vũ trang làm tôi thấy buồn cười. Chúng tôi vừa ghé sát một cầu tàu quân sự thì chiếc tàu phóng ngư lôi đi theo chúng tôi cũng từ từ ghé tới và cặp bến. Quých với con heo, Huê với cái bọc nhỏ trong tay và tôi tay không, chúng tôi lên bến. Không có một người dân nào trên cầu tàu dành cho Hải quân này. Chỉ có lính thủy và quân nhân. Một viên sĩ quan đi tới. Tôi nhận ra ông ta. Ông là người nói tiếng Pháp với tôi từ trên tàu phóng ngư lôi ông ta tử tế chìa tay cho tôi và nói với tôi:
- Anh có khỏe không?
- Thưa thuyền trưởng khỏe
- Tốt. Dù sao anh cũng phải qua y tế để chích ngừa vài mũi. Cả hai bạn của anh nữa.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
XII. Georgetown
Buổi chiều, sau khi được chích nhiều thứ thuốc vắc- xin khác nhau, chúng tôi được chuyển sang đồn cảnh sát của thành phố, một thứ trụ sở lớn có hàng trăm cảnh binh tấp nập ra vào không ngớt. Giám đốc cảnh sát của thành phố George, người cầm quyền tối cao, chịu trách nhiệm về sự an toàn của hải cảng quan trọng này, tiếp ngay chúng tôi tại phòng làm việc của ông. Quanh ông là các sĩ quan Anh mặc đồ ka-ki, quần cộc, bít tất trắng, trông chừng chạc không chê vào đâu được. Ông đại tá ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống trước mặt ông. Bằng tiếng Pháp chính cống, ông hỏi chúng tôi:
- Lúc người ta bắt gặp các anh trên biển, các anh từ đâu tới?
- Từ trại tù khổ sai ở Guyane thuộc Pháp.
- Các anh cho tôi biết những điểm chính xác mà từ đó các anh vượt ngục đi.
Tôi ở đảo Quỷ. Các anh này ở một trại giam ở đất liền, một nửa là tù chính trị, tại Inini, gần Kourou trên đất Guyane thuộc Pháp.
- Anh bị kết án thế nào?
- Tù chung thân. Lý do: giết người.
- Còn bác người Tàu?
- Cũng giết người.
- án ra sao?
- Chung thân.
Nghề nghiệp?
- Thợ điện.
- Còn các anh kia?
- Nấu bếp.
- Các anh theo Degaulle hay Pétain?
- Chúng tôi không biết gì. Chúng tôi chỉ là những tù nhân muốn tìm cách sống lương thiện trong tự do.
- Chúng tôi sẽ để các anh ở một xà-lim dược mở cửa suốt ngày đêm. Chúng tôi sẽ trả tự do cho các anh sau khi xét lời các anh đã khai. Nếu các anh nói thật, các anh không phải sợ. Các anh phải hiểu là chúng tôi đang có chiến tranh, nên chúng tôi buộc lòng phải thận trọng hơn thời bình nhiều.
Tám ngày sau, chúng tôi đã mau chóng được trả tự do. Chúng tôi lợi dụng tám ngày ở lại Đồn cảnh sát ấy để trang bị quần áo tươm tất. Chín giờ sáng mai anh Tàu và tôi đã ăn mặc chỉnh tề ra đường với giấy văn cước có dán ảnh.
Các nhà trong cái thành phố 250.000 dân này hầu hết là bằng gỗ, kiến trúc kiểu Anh: tầng trệt bằng xi- măng, phần còn lại bằng gỗ. Đường xá và đại lộ chật ních những người thuộc đủ các chúng tộc: da trắng, da đen, ấn Độ, có các phu phen, thủy thủ Anh, Mỹ, hoặc người phương Bắc. Chúng tôi hơi say sưa thấy mình được ở giữa đám đông sặc sỡ này. Một niềm vui mãnh liệt tràn ngập lòng chúng tôi, mạnh mẽ đến nỗi nó lộ rõ trên mặt chúng tôi, kể cả hai anh người Tàu, làm nhiều khách bộ hành nhìn chúng tôi và mỉm cười vui vẻ.
- Chúng tôi đi đâu bây giờ? - Quých hỏi. Tôi biết sơ sơ địa chỉ vài người. Một cảnh sát da đen đã cho tôi địa chỉ của hai người Pháp ở đường Penitence Rivers.
Hỏi thăm kỹ thì đấy là một khu đặc biệt chỉ có người ấn Độ cư ngụ. Tôi đến gặp một cảnh sát viên ăn mặc đồ trắng, trông chừng chạc, tôi đưa địa chỉ cho anh ta coi. Trước khi trả lời, anh hỏi giấy tờ của chúng tôi Tôi hãnh điện lấy ra đưa cho anh. “Rất tốt, cám ơn”, và anh ta sốt sắng đưa chúng tôi đến một chiếc tàu điện và nói gì với người lái. Chúng tôi đi ra ngoài thành phố và hai mươi phút sau, người lái tàu bảo chúng tôi xuống. Chắc là đến nơi rồi. Chúng tôi hỏi đường. “Anh là người Pháp hả?” Một thanh niên ra hiệu cho chúng tôi đi theo anh ta. Anh ta đưa chúng tôi đến thẳng một căn nhà thấp. Tôi vừa tới nơi thì thấy có ba người đi ra, điệu bộ niềm nở:
- Sao lại thế này, Papi, anh ở đây à?
- Vô lý, người già nhất, tóc bạc trắng nói. - Vào đi! Đây là nhà tôi. Hai người Tàu này đi với anh đấy?
- Phải.
- Vào đi, mời các anh vào cả.
Người tù già này tên là Guitto Auguste, còn gọi là Le Guittou, dân Marseille chính cống. Chín năm trước, năm 1933, anh lên tàu La Martinière cùng một chuyến với tôi. Sau một chuyến vượt ngục thất bại, anh được tha tội chính và đã bỏ trốn đi, cách đây ba năm, theo như lời anh nói. Hai người kia, một là Louis Nhỏ, người ở Ardes, một người dân Toulouse tên là Julot. Cả hai cùng trốn đi sau khi mãn hạn tù, đáng lẽ họ phải ở lại Guyane thuộc Pháp một thời gian tương đương với thời gian họ bị giam, mười năm và mười lăm năm (gọi là thời gian quản thúc).
Căn nhà có bốn gian: hai phòng, một căn bếp, kiêm phòng ăn và một xưởng nhỏ. Họ đóng giày bằng balata, một thứ cao-su thiên nhiên kiếm ở trong rừng, cứ bỏ vào nước nóng là có thể nhào nặn thành đồ dùng rất dễ dàng. Nhược điểm của nó là đề lâu ngoài nắng thì bị chảy, vì đó là thứ cao su chưa được lưu hóa. Người ta khắc phục khuyết điểm đó bằng cách cho những lớp vải xen kẽ với các lớp balata.
Chúng tôi được tiếp đón nồng hậu, với tấm lòng cao thượng của một người đã từng đau khổ, Guittou đã thu xếp cho ba chúng tôi một văn phòng và để chúng tôi ở nhà anh không hề do dự chút nào. Chỉ có một vấn đề là con heo của Quých-Quých, nhưng Quých bảo đảm là nó không làm dơ nhà và chắc chắn là nó biết ra ngoài một mình để đi đái.
Guittou nói: “Được, rồi sẽ tính sau, bây giờ anh em cho nó ở với anh”.
Tạm thời chứng tôi lấy ba tấm chăn cũ của lính trải ra đất làm giường nằm.
Sáu người chúng tôi ngồi trước cửa, hút vài điếu thuốc, tôi kể cho Guittou nghe những chuyện gian truân của tôi trong chín năm qua. Hai người bạn của anh và anh hết sức chăm chú lắng nghe và như cùng sống lại những biến cố đó và họ cũng qua những kinh nghiệm thực tế của bản thân để cảm thông được. Có hai người biết Sylvain, đã than vãn về cái chết của anh ta. Trước mặt chúng tôi, rất nhiều người thuộc đủ các chủng loại đi qua đi lại. Thỉnh thoảng có người vào mua một đôi dép hay một cây chổi, vì Guittou và các bạn anh còn làm cả chổi để kiếm sống. Qua họ tôi biết là trong số tù khổ sai và đi đày có chừng ba chục người vượt ngục đã đến ở thành phố George. Ban đêm, họ gặp nhau tại một quán rượu ở trung tâm thành phố để uống rượu rhum hay bia. Julot nói với tôi là tất cả đều làm việc để sinh sống và đa số có thái dộ tốt.
Trong khi chúng tôi ngồi hóng mát ở cửa có một người Tàu đi qua, Quých liền gọi anh ta lại. Rồi không nói gì với tôi, anh và anh cụt đi theo người nọ. Chắc họ không đi xa vì con heo cũng theo sau. Hai giờ sau, ba gác nhỏ. Anh vênh vang như Artaban, ghìm con lừa dừng lại và nói với nó bằng tiếng Tàu. Con lừa có vẻ hiểu được thứ tiếng này. Trong xe, có ba cái giường sắt, ba tấm nệm, gối và ba chiếc va-li. Anh đưa cho tôi một chiếc va li đầy trong có áo sơ-mi, quần đùi, áo lót cùng hai đôi giày, v.v.:..
- Anh kiếm ra những thứ này ở đâu vậy, Quých?
Các bạn đồng hương của tôi cho tôi đấy. Ngày mai chúng ta đến thăm họ nhé?
- Đồng ý. Chúng tôi tưởng Quých lại dắt con lừa và chiếc ba gác đi, nhưng không. Anh tháo lừa ra, buộc nó ở trong sân.
- Họ tặng tôi cả con lừa và chiếc xe này. Họ nói, với những thứ ấy, tôi có thể kiếm sống dễ dàng. Sáng mai, một người cùng quê với tôi sẽ đến đây chỉ cho tôi.
Dân tàu, làm gì cũng mau thật.
Guittou bằng lòng cho chiếc xe và con lừa được ở tạm trong sân. Ngày tự do đầu tiên của chúng tôi trôi qua tốt đẹp. Buổi tối,sáu chúng tôi ngồi quanh bàn làm việc, ăn ngon lành món xúp rau, do Julot nấu, và một đĩa mì ống.
- Lần lượt, mỗi người thay phiên nhau dọn nhà và rửa bát chén- Guittou nói:
Bữa ăn chung này tượng trưng cho một tập thể nhỏ đầy nhiệt tình. Cảm giác biết mình được giúp đỡ trong bước đầu của cuộc đời tự do làm chúng tôi vững lòng. Quých, anh cụt và tôi thấy sung sướng thật sự và hoàn toàn. Chúng tôi có một mái nhà, một cái giường, những người bạn hào phóng, tuy nghèo nhưng cũng có tinh thần cao thượng đã giúp đỡ chúng tôi. Còn cần đòi hỏi gì hơn nữa?
- Đêm nay, cậu có muốn làm gì không. Papillon?
- Guittou hỏi tôi. - Cậu muốn đến quán rượu ở trung tâm, nơi các tay tù vượt ngục đều tới không?
- Tôi thích ở nhà đêm nay hơn. Anh muốn đi thì cứ đi Mặc tôi.
- Được tôi sẽ đi vì tôi cần gặp một người.
Tôi sẽ ở lại với Quých và anh cụt.
Louis nhỏ và Guittou ăn mặc chỉnh tề, thắt và vạt và đi về phía trung tâm. Chỉ có Julot ở lại để làm nốt vài đôi giày cho xong. Các bạn tôi và tôi đi một vòng quanh các đường phố lân cận cho biết. Tất cả dân ở đây đều là người ấn Độ. Rất ít người da đen, hầu như không có dân da trắng, rải rác có vài tiệm ăn Tàu.
Penitence Rivers, tên khu phố này, là một góc nước ấn Độ hay xứ Nam Dương. Các thiếu phụ và thiếu nữ đều rất đẹp, và các ông cụ đều mặc áo dài trắng. Nhiều người đi chân đất. Khu phố nghèo nhưng mọi người đều ăn mặc sạch sẽ. Đường phố thiếu đèn, những quán ăn, uống, đều đông nghẹt người, đâu đâu cũng nghe thấy âm nhạc ấn Độ.
Một người da đen bồ hóng mặc đồ trắng, thắt và vạt chặn tôi lại:
- Ông là người Pháp phải không, thưa ông?
- Phải.
- Được gặp người đồng hương, tôi mừng lắm. Mời ông muốn một ly với tôi.
- Cũng được, nhưng tôi còn hai người bạn.
- Không sao, họ có nói được tiếng Pháp không?
- Được
Cả bốn chúng tôi vào ngồi một bàn kê bên lề đường, trước một quán rượu. Anh chàng Martinique này nói một thứ tiếng Pháp còn chọn lọc hơn chúng tôi. Anh bảo chúng tôi phải đề phòng bọn da đen Anh, vì theo anh, họ đều nói dối. “Chúng nó không như người Pháp chúng ta đâu, chúng ta chỉ nói một lời, bọn chúng không như vậy”.
Tôi cười thầm vì thấy anh chàng đa đen Tombouctou này tự xưng là người Pháp chúng ta, song tôi lại thực sự lúng túng. Đúng me xừ này là một người Pháp, chính cống hơn tôi, tôi nghĩ vậy, vì anh ta nhận quốc tịch mình một cách đầy nhiệt tình và tin tưởng. Anh ta có thể chết vì nước Pháp, còn tôi thì không. Do đó anh ta Pháp hơn tôi. Cho nên tôi cũng phụ họa theo anh.
- Được gặp đồng hương và nói tiếng mẹ đẻ tôi rất thích vì tôi nói tiếng Anh tồi lắm.
- Còn tôi, tôi nói được, tôi nói tiếng Anh thạo và đúng văn phạm nữa. Anh cần gì, tôi sẵn sàng giúp anh. Anh ở thành phố George này đã lâu chưa?
Mới được tám ngày, không hơn.
- Anh ở đâu đến?
- ở Guyane thuộc Pháp.
Không thể thế được, anh là dân vượt ngục hay là người coi tù chạy theo De Gaulle?
- Tôi vượt ngục
- Còn các bạn anh?
- Cũng vậy.
- Henri ơi, tôi không muốn biết quá khứ của anh, bây giờ là lúc phải giúp đỡ nước Pháp để chuộc tội. Tôi theo De Gaulle và tôi đang chờ tàu để sang Anh đây.
Ngày mai anh lại tìm tôi ở Câu lạc bộ Martiner nhé. Địa chỉ đây. Tôi rất sung sướng nếu anh cùng tham gia với chúng tôi. Anh tên là gì?
- Homère.
- Me-xừ Homère ơi, tôi không thể quyết định ngay được. Tôi phải tìm hiểu tình hình gia đình tôi và suy xét kỹ trước khi quyết định một việc quan trọng như vậy ông Homère ơi, nước Pháp đã làm tôi đau khổ và đối xử với tôi vô nhân đạo lắm.
Anh chàng Martinique đã cố thuyết phục tôi với tất cả nhiệt tình sôi nổi vô hạn độ của trái tim anh. Nghe những lý lẽ của con người này đi bảo vệ nước Pháp đã bị tàn phá của chúng tơi, thật vô cùng cảm động.
Chúng tôi về nhà rất muộn và khi đi nằm, tôi nghĩ lại rất cả những gì người dân Pháp lớn đó đã nó với tôi tôi phải suy nghĩ đứng đắn về đề nghị của anh ta. Nói cho cùng thì bọn cảnh sát, bọn quan tòa, chính quyền nhà tù đâu phải là nước Pháp. Tôi cảm thấy mình vẫn còn rất yêu nước Pháp. Thế mà lại có bọn Đức trên đất Pháp. Trời ơi, những người thân của tôi đau khổ biết bao nhiêu, và đối với tất cả những người dân Pháp, thật là nhục nhã biết chừng nào.
Khi tôi tỉnh dậy, con lừa, chiếc xe ba gác, con heo, Quých và anh cụt đã biến đâu mất.
- Cậu ngủ ngon chứ? - Guittou và các bạn anh hỏi.
- Ngủ say lắm, cảm ơn.
- Cậu muốn uống cà phê sữa hay trà? Cà phê với bánh mì phết bơ.
- Cảm ơn!
Tôi vừa ăn vừa xem họ làm việc.
Julot chuẩn bị balata dần dần theo nhu cầu cần thiết, anh ta bỏ thêm những tảng balata rắn chắn vào nước nóng và nhào lẫn với cái khối đã mềm.
Louls nhỏ chuẩn bị sẵn những mảnh vải, còn Guittou hoàn tất chiếc giày..
- Các anh làm được nhiều không?
- Không. Bọn mình làm đủ kiếm hai mươi đô-la một ngày. Trả tiền nhà và ăn năm đô-la. Còn lại cho mỗi đứa năm đô-la làm tiền túi, may mặc và tiền hớt tóc
- Các cậu bán hết à?
- Không, thỉnh thoảng, một đứa trong bọn mình phải đi bán giày và chổi ở các đường phố: Đi bán dạo như vậy, dưới nắng, gay lắm.
Nếu cần, tớ cũng muốn cùng làm với các cậu ở đây tớ không thích là kẻ ăn bám. Tớ cũng phải góp phần vào bữa ăn chứ.
- Tốt thôi, Papi.
Suốt ngày, tôi đi dạo ở khu phố người ấn của thành phố George. Tôi trông thấy một bảng quảng cáo chiếu bóng và thấy thèm xem một phim màu, có tiếng nói, lần đầu tiên trong đời. Chiều nay tôi sẽ bảo Guittou dẫn tôi đi coi. Tôi đi trên đường Penitence Rivers suốt cả ngày. Thái độ lịch thiệp của những người dân ở đó làm tôi mến họ vô cùng. Họ có hai đức tính: họ rất sạch và rất lễ độ. Cái ngày thơ thẩn một mình tại đường phố ở khu này của thành phố George đối với tôi còn lớn lao hơn nhiều so với ngày tôi đến Trinidad chín năm trước.
ở Trinidad, giữa những cảm giác kỳ diệu do được đi lẫn trong đám đông, tôi luôn luôn tự nhủ: một ngày nào, trong hai tuần lễ nữa là nhiều nhất, tôi lại phải ra đi trên biển. Nước nào sẽ vui lòng nhận tôi? Có quốc gia nào cho tôi cư trú không? Tương lai sẽ ra sao? ở đây khác hẳn. Tôi được hoàn toàn tự do, và nếu tôi muốn, tôi có thể sang Anh, tham gia các lực lượng tự do nước Pháp. Tôi phải làm gì? Nếu tôi quyết định đi theo De Gaulle, người ta có thể nói là tôi chẳng biết đi đâu nên phải đâm đầu vào đấy? Giữa những người lành mạnh, biết đâu họ sẽ chỉ coi tôi như một tên tù khổ sai chẳng ẩn náu được vào đâu, nên phải đến với họ? Người ta đồn là nước Pháp bị chia ra làm hãi, một bên theo Pétain và bên kia theo De Gaullê. Sao một thống chế pháp lại không biết đâu là danh dự và quyền lợi của nước Pháp nhỉ? Nếu tôi tham gia các lực lượng tự do sau này, tôi có phải bắn vào những người Pháp không? ở đây thật là khó, rất khó tạo cho mình một chỗ đứng tạm chấp nhận được. Guittou, Julot và Louis nhỏ không phải là những thằng đần, mà họ vẫn làm việc để kiếm năm đô-la một ngày. Trước hết, tôi phải tập sống tự do đã. Từ năm 1931 - bây giờ là 1942 - tôi là tù nhân. Tôi không thể giải quyết được những ẩn số trong ngày tự do đầu tiên. Tôi không còn biết có những vấn đề gì được đặt ra cho một người muốn tạo cho mình một chỗ đứng trong cuộc sống. Tôi chưa bao giờ làm việc bằng tay của mình. Tôi chỉ là một anh thợ điện quèn. Tôi chỉ tự hứa với mình một điều duy nhất: sống sao cho sạch sẽ, ít ra cũng sạch sẽ nhất trong khuôn khổ đạo đức của riêng mình.
Tôi về đến nhà thì đã mười bốn giờ.
- Thế nào Papi, lần đầu tiên hít không khí tự do khoái chứ? Cậu đi chơi vui hả?
Hay lắm, Guittou ơi, tôi cứ quanh di quẩn lại mãi trên các đường phố ở vùng ngoại ô lớn này.
- Anh có gặp bọn Tàu không?
Không.
Họ ở ngoài sân. Các bạn anh rất tháo vát. Họ đã kiếm bốn mươi đô-la và họ nhất định bắt tôi phải nhận hai mươi đô. Tất nhiên, tôi không chịu. Anh ra mà xem.
Quých đang thái một cây bắp cải cho con heo của anh ăn. Anh cụt đang kỳ cọ con lừa. Nó cứ đứng yên, có vẻ thích cho lắm.
- Thế nào Papillon?
- Tốt, còn các anh ra sao?
- Chúng tôi thích lắm, chúng tôi đã kiếm được bốn mươi đô-la.
- Các anh làm gì?
- Chúng tôi đi từ ba giờ sáng về vùng quê với một người đồng hương để anh ta chỉ dẫn cho. Anh ta mang theo hai trăm đô-la. Với số tiền ấy, chúng tôi mua cà chua, rau sà-lách, cà tím, nghĩa là các loại lau tươi và xanh. Vài con gà, trứng và sữa dê. Chúng tôi mang ra chợ ở gần bến tàu và thoạt tiên chúng tôi bán cho người ở đây bán lẻ ít một, sau bán cho thủy thủ Mỹ. Họ bầng lòng về giá cả và họ bảo tôi là ngày mai, tôi không phải vào chợ nữa, tôi cứ đợi ở cổng trước bến. Họ sẽ mua tất cả cho. Tiền đây. Anh là người chỉ huy, anh cầm lấy tiền.
- Quých, anh biết là tôi cũng có tiền, tôikhông cần đến món tiền này.
- Anh cứ giữ lấy. Nếu không, chúng tôi không làm việc nữa.
- Các anh hãy nghe tôi. Người Pháp có năm đô-la là sống được rồi. Chúng ta mỗi người cũng lấy năm đô-la để riêng cho mình, năm đô-la góp tiền ăn. Còn lại ta cất đi để trả nợ cho đồng hương các anh số hai trăm đô-la mà họ cho anh mượn.
- Đồng ý.
- Ngày mai, tôi muốn đi với các anh.
Không, anh cứ ngủ. Nếu anh muốn, bảy giờ sáng anh tìm chúng tôi trước cổng bến tàu.
- Được
Mọi người đều vui vẻ. Trước tiên, chúng tôi thấy đã kiếm sống được, không còn là gánh nặng cho các bạn. Sau Guittou và hai anh kia, họ tuy tốt thật, nhưng họ cũng phải lo không biết bao nhiêu lâu nữa chúng tôi mới có thể tự đi kiếm sống được.
Để ăn mừng việc làm phi thường này của bạn anh, Papillon ơi, chúng ta phải uống hai lít rượu. Julot đi một lát thì về, mang theo rượu mía trắng và đồ nhắm: Một giờ sau, chúng tôi uống rượu như ở Marsille. Rượu vào lời ra, và những tiếng cười vui đời vang lên ròn rã hơn thường lệ. Những người ân hàng xóm nghe nói ở bên nhà người Pháp có tiệc cũng sang chơi tự nhiên, có ba người đàn ông và hai cô gái. Họ mang những xiên thịt gà và thịt dê được tẩm rất nhiều tiêu ớt. Hai cô gái đẹp lạ thường, cả hai mặc toàn trắng, đi chân đất, cổ chân trắng đeo vòng bạc. Guittou nói với tôi:
- Cẩn thận, con gái trinh nguyên cả đấy. Anh đừng vì thấy họ để ngực trần dưới tấm voan mỏng trong mà ăn nói sàm sỡ với họ. Đối với họ thế là tự nhiên. Tôi thì không sao, tôi già rồi. Hồi mới tới đây, Julot và Louis nhỏ đã thử bờm sơm chút đỉnh, cả hai đã lãnh đủ. Các cô này không chịu sang đây từ lâu rồi. Hai cô gái ấn Độ này đẹp tuyệt trần. Vết xăm giữa trán làm cho cả hai có một vẻ gì kỳ ảo. Hai cô nói chuyện tử tế với tôi, và với vốn liếng tiếng Anh ít ỏi của mình, tôi cũng hiểu rằng hai cô hoan nghênh việc tôi đến thành phố George này.
Đêm nay, Guittou và tôi đã đi vào trung tâm thành phố. Đến đấy tưởng như đi vào một nền văn minh khác, hoàn toàn xa lạ với nơi chúng tôi sống. Thành phố đông nghẹt người. Da trắng, da đen, người ấn Độ, Trung Hoa, quân nhân và lính thuỷ mặc quân phục cùng một số thủy thủ các thương thuyền. Rất nhiều quán rượu, tiệm ăn, tiệm giải khát và hộp đêm với ánh đèn gay gắt làm đường phố sáng như ban ngày.
Sau buổi xem phim (lần đầu tiên trên đời tôi được biết phim màu, loại có cả tiếng nói nữa), còn đang ngây ngất với cái mùi đời mới được hường đó, tôi đi theo Guittou vào một quán rượu rất lớn. Hơn hai mươi người pháp chiếm một góc phòng. Họ uống “Cu ba tự do” (rượu cồn pha Coca cola).
Tất cả những người này đều là tù vượt ngục, dân anh chị cả. Có người đã mãn hạn, được thả rồi nhưng còn bị “quản thúc” tại chỗ. Đói khổ không có việc làm; lại bị dân chính quốc và cả dân địa phương Guyan khinh rẻ, họ đã tìm đến một xứ sở mà họ cho là sẽ sống khá hơn. Nhưng ở đây họ vẫn rất cực, họ kể lại vậy.
- Tôi vào rừng chặt củi cho John Fernandaz lấy hai đô la rưỡi một ngày - Tháng nào tôi cũng về thành phố George chơi tám ngày. Tôi tuyệt vọng rồi.
- Còn anh?
- Tôi sưu tầm bướm. Tôi vào rừng săn bướm và khi có được một lô kha khá những con bướm các loại, tôi xếp chúng vào một cái hộp kính tồi đem bán cả bộ sưu tập
Có người đi bốc dỡ hàng ở bến cảng. Ai cũng làm việc không chỉ vừa đủ ăn. “Cực đấy nhưng được tự do, họ nói thế. Tự do quý lắm”.
Tối nay, có một người tù biệt xứ tên là Faussarđ đến thăm chúng tôi. Anh mời tất cả cùng uống. Anh làm trên một chiếc tàu Canađa chở bốc-xít (bị trúng ngư lôi ở cửa sông Demerara). Anh sống sót và được trợ cấp đắm tàu. Thủy thủ đoàn chết gần hết. Anh may mắn lên được xuồng cấp cứu. Anh kể lại rằng chiếc tàu ngầm Đức đã nổi lên mặt nước và nói chuyện với những người còn sống sót sau khi tàu đắm. Chúng hỏi có bao nhiêu tâu còn đậu ở bến chờ được xếp bốc-xít và sắp rời cảng. Tất cả đều trả lời là không biết, thằng cha hỏi họ liền cười và nói: “Hôm qua, tôi còn xem chiếu bóng ở rạp nây rạp nọ trong thành phố George. Các anh coi đây tôi còn giữ được nửa tám vé vào cửa đây này”: Rồi chỉ vào áo vét ngoài, hắn lại nói: “Bộ quần áo này cũng mua ở thành phố George đấy”. Có những người hoài nghi kêu là chuyện bịa nhưng Faussard nhất định bảo là đúng như vậy thật. Chiếc tàu ngầm còn báo trước cho những người đắm tàu biết là tàu nào sẽ đến vớt họ. Về sau đúng chiếc tàu ấy đã đến đón họ thật. Ai cũng nói chuyện mình.Tôi và Guittou ngồi cạnh một ông già dân Pa ri, ở Khu Chợ. Ông ta nói tên ông là Louis Nhỏ ở đường Lombards.
- Anh bạn Papillon ơi, tôi nghĩ ra một mẹo để chẳng làm gì mà vẫn sống được. Hễ trên báo ở mục “hy sinh vì vua” hay “vì nữ hoàng” (tôi cũng chẳng rõ nữa), có tên một người Pháp, là tôi tìm đến một cửa hàng bán mộ chí bằng đá, thuê chụp một tấm hình có tôi đứng bên một tấm bia có sơn tên tàu, ngày tàu đắm và tên người Pháp nọ. Sau đó tôi đến các biệt tự sang trọng của người Anh, tôi nói là họ phải góp tiền xây mộ cho người Pháp kia đã hy sinh cho nước Anh để lưu lại làm kỷ niệm tại nghĩa trang. Cho đến tuần vừa qua, có một thằng ngốc người Bretagne được đăng là chết trong một vụ đắm tàu vì trúng ngư lôi, lại sống nhăn răn ra mà trở về. Thằng cha ấy đi thăm mấy bà, đúng là những người tôi đã quyên năm đô-la để xây mộ cho hắn. Thằng cha đi đâu cũng réo lên là nó còn sống sờ sờ ra đấy, còn tôi thì chẳng làm tấm bia nào cả. Phải kiếm cách khác để sống thôi, vì với tuổi tôi tôi không làm gì nổi rồi.
Rượu vào ai cũng lớn tiếng kể đủ các chuyện bất ngờ nhất, tưởng ở đây chỉ có chúng tôi biết tiếng Pháp. Một người kể :
- Tôi làm búp bê và tay ghi-đông xe đạp bằng balata. Chẳng may mấy con bé để quên búp bê ở ngoài vườn dưới nắng, thế là búp bê chảy ra, hay rúm ró lại. Anh tưởng tượng khi tôi quên khuấy là mình đã bán ở đường phố nào, thì chuyện rùm beng đến đâu không. Đã một tháng nay, ban ngày tôi không dám đi đâu đến nửa cái thành phố George này. Xe đạp cũng vậy, thằng nào đi xe ngoài nắng, khi lấy xe là tay bị dính chặt vào tay lái làm bằng balata mua của tôi.
Một người khác kể:
- Còn tôi, tôi làm roi ngựa, có gắn đầu đàn bà da đen, cũng bằng balata. Với thủy thủ Anh, tôi nói tôi đã thoát chết ở trận Mers-el-Kebir*(*Mers-el-Kebir là một thành phố cảng của Algérie còn là thuộc địa Pháp hồi đại chiến thế giới lần thứ hai. Lúc Pétan đầu hàng Đức, có một hạm đội Pháp bỏ neo ở quân cảng Mers-el-Kebir đã không chấp nhận cả hai đề nghị của hạm cuội Anh ở Địạ Trung Hải: hoặc chiến đấu chống phát xít Đức, hoặc phải để hải quân Anh tước khí giới để khỏi rơi vào tay bọn Đức. Các tàu Pháp không chịu, hải quân Anh đã nổ súng ngày 3.7.1940 đánh chìm các tàu Pháp ở đó làm chết 1297 thủy thủ Pháp - ND) nên họ phải mua cho tôi vì nếu tôi sống sót được, điều ấy không phải là lỗi của họ. Mười người thi có đến tám người đã mua.
Tôi khoái những kẻ đầu trộm đuôi cướp hiện đại, nhưng đồng thời cũng thấy rằng kiếm được miếng ăn quả là gian nan.
Có người mở máy thu thanh ở quầy rượu: De Gaulle đang đọc lời kêu gọi. Tất cả đều nghe tiếng nói của Pháp đang từ London hiệu triệu người Pháp sống tại các thuộc địa và đất hải ngoại. Lời kêu gọi của De Gaulle thống thiết làm mọi người im phăng phắc lắng nghe.
Bỗng, một tay anh chị đã quá chén đứng phắt dậy nói:
- Mẹ kiếp. Nói nghe được lắm, các bạn ơi. Thế là tự nhiên, tớ học được tiếng Anh, tớ hiểu hết tất cả những gì cái lão Churchill đó nói.
Mọi người cười phá lên, chẳng ai thiết vạch ra cho tay ấy biết hắn lầm cả.
Đúng là trước tiên tôi phải tìm cách kiếm sống, và qua những người khác, tôi thấy việc đó không dễ chút nào. Tôi không lo mấy. Từ năm 1930 đến 1940, tôi đã hoàn toàn không còn trách nhiệm với mình và cũng không phải cho lấy lòng ai. Một con người bị giam cầm lâu như vậy, không phải lo việc ăn uống, lo chỗ ở, lo chuyện may mặc, một con người đã bị kẻ khác điều khiển, xoay tới xoay lui, không được tự ý làm bất cứ việc gì phải tuân theo như máy đủ các mệnh lệnh linh tinh nhất mà không được suy nghĩ gì. Con người như vậy chỉ trong vài tuần bỗng rơi tõm vào một thành phố lớn, rồi phải tập lại cách đi trên hè phố mà không xô đẩy ai, qua đường mà không bị xe cán, thấy người khác hầu hạ việc ăn uống của mình, nghe theo lệnh của mình, con người ấy phải tập lại cách sống. Chẳng hạn, người ấy có những phản ứng bất ngờ. Giữa những dân anh chị này, người thì được phóng thích, kẻ bị đi đày đã vượt ngục, nói tiếng Pháp thỉnh thoảng lại pha vài tiếng Anh hay tiếng Bây Ban Nha, tôi dỏng tai nghe chuyện họ kể. Bỗng nhiên, trong cái quán rượu Anh này tôi muốn đi tiểu. Vậy mà, thật không sao tưởng tượng nổi, chỉ thoáng qua thôi, tôi định tìm giám thị để xin phép đi. Chỉ thoáng qua rất nhanh, nhưng nhận ra điều đó, tôi thấy nực cười, Papillon ơi, bây giờ mi không phải xin phép ai khi muốn đi tiểu hay làm bất cứ việc gì.
ở rạp chiếu bóng cũng vậy, khi cô nhân viên tìm chỗ cho chúng tôi ngồi, tôi thoáng có ý muốn nói với cô ta: “Xin cô cứ để mặc tôi, tôi chỉ là một tên tù không đáng phải bận tâm đâu”, đi ngoài đường, từ rạp chiếu bống đến quán rượu, tôi cứ ngoái nhìn phía sau: Guittou vốn biết thói quen đó đã bảo tôi
- Sao cao cậu cứ quay nhìn lại phía sau luôn thế? Cậu xem lính có đi theo cậu không chứ gì? ở đây không có lính đi theo cậu đâu, Papi. Cậu đã để chúng ở lại trại giam rồi.
Theo lối nói hình tượng của dân tù, thì phải trút bỏ bộ cánh của dân tù đi. Còn hơn thế nữa, vì quần áo tù khổ sai chỉ mới là một vật tượng trưng. Không phải chỉ lột bộ cánh là xong, phải rứt ra khỏi tâm hồn và trí óc cái dấu tù được khắc bằng lửa ô nhục.
Một đội tuần tra Anh toàn lính da đen, ăn mặc chừng chạc vào quán rượu. Họ đi từng bàn, hỏi thẻ căn cước. Đến góc chúng tôi ngồi, đội trưởng nhìn kỹ mặt mọi người. Có một khuôn mặt người đó chưa biết, đấy là tôi.
- Xin ông cho xem căn cước.
Tôi đưa giấy cho anh ta. Anh liếc nhìn qua rồi đưa trả tôi ngay, và nói:
- Xin lỗi, tôi chưa được biết ông, thành phố George rất vui mừng được đón tiếp ông.
Rồi anh đi ra.
Khi anh ta đã ra hẳn, Paul Savoie nói:
- Bọn cảnh sát ở đây hay tuyệt, những người nước ngoài được họ tin cậy là tù vượt ngục trăm phần trăm. Làm sao chứng minh cho nhà cầm quyền Anh biết được cậu là tù vượt ngục, thế là cậu được tự do ngay tức khắc đấy.
Mãi khuya mới trở về nhà. Mới bảy giờ sáng, tôi đã có mặt ở cổng cảng. Nửa giờ sau Quých và anh cụt đã chở đến một xe ba gác đầy rau tươi vừa hái lúc sáng sớm, lại có cả trứng và vài con gà. Chỉ có hai người thôi. Tôi hỏi người đồng hương đã chỉ dẫn họ cách làm ăn đâu rồi. Quých đáp:
- Hôm qua, anh ta đã chỉ cho tôi, thế là đủ. Bây giờ chẳng cần ai dạy bảo nữa.
- Anh đi kiếm những thứ này ở xa lắm hả?
- Phải đi mắt hơn hai tiếng rưỡi. Bọn tôi đi từ ba giờ sáng, bây giờ mới tới đây.
Quých kiếm ngay được trà nóng và bánh tráng, anh như người đã ở đây hai mươi năm rồi. Chúng tôi ngồi bên lề đường, cạnh xe ba gác, ăn uống và chờ khách tới mua.
- Bọn Mỹ hôm qua đã mua, liệu hôm nay có đến không?
- Tôi hy vọng họ sẽ tới, nếu họ không tới, ta bán cho người khác.
- Còn giá cả thì sao? Anh tính thế nào?
- Tôi không nói với họ: Cái này giá bây nhiêu. Tôi hỏi họ: anh trả bao nhiêu?
- Nhưng anh có biết tiếng Anh đâu?
- Đúng, nhưng tôi biết dùng tay chỉ trỏ, dễ lắm. Anh nói được tiếng Anh đủ để mua bán, anh làm trước đi, - Quých nói với tôi.
- Được nhưng tôi muốn xem anh làm một mình đã.
Không bao lâu, một chiếc xe jeep lớn được gọi là com-măng-ca tới. Một lái xe, một hạ sĩ quan và hai lính thủy ở trên xe đi xuống, viên hạ sĩ leo lên xe ba gác, xem tất cả các thứ hàng hóa, rau xà lách, cà tím, v.v. sau khi kiểm tra kỹ các món kia, y nắn mấy con gà.
- Tất cả bao nhiêtu?
Thế là hai bên bắt đấu mà cả:
Tên lính thấy nói giọng mũi. Tôi chẳng hiểu y nói gì. Quých búng búng nói nửa tiếng Tàu nữa tiếng Tây..
Thấy hai bên không ai hiểu được ai, tôi kéo Quých ra một bên.
- Anh mua tất cả hết bao nhiêu?
Anh ta móc túi thấy còn mười bảy đô la
- Một trăm tám mươi ba đô-la, - Quých nói với tôi
- Họ trả bao nhiêu?
- Hình như là hai trăm mười đô-la, tôi thấy chưa đủ
Tôi tiến vê phía viên hạ sĩ, y hỏi tôi có nói được tiếng Anh không. Tôi nói là được chút ít.
- Ông nói chấm chậm nhé, - tôi nói với y.
- Được.
- Các ông trả báo nhiều? Hai trăm mười đô la không được đâu. Phải hai trăm bốn mươi.
Y không chịu.
Y giả bộ bỏ đi, quay lại, rồi lại bỏ đi rồi ngồi lên xe jeep, nhưng tôi cảm thấy y đang đóng kịch. Đứng lúc y xuống xe lần nữa thì hai cô bạn ấn hàng xóm với tôi, vẫn che nửa mặt, đi tới. Chắc các cô đã quan sát cảnh buôn bán của chúng tôi, vì các cô làm như không biết chúng tôi. Một cô leo lên xe ba gác, xem xét số hàng rồi hỏi chúng tôi.
- Tất cả bao nhiêu?
- Tất cả hai trăm bốn mươi đô la, tôi đáp.
Cô ta nói: “Được rồi”.
Nhưng tên lính Mỹ đã lấy hai trăm bốn mươi đô-la ra đưa cho Quých và nói với các cô gái ấn rằng y đã mua những thứ đó rồi. Các cô bạn láng giềng của tôi cũng không chịu đi mà đứng xem bọn Mỹ bốc hàng trên xe ba gác chất lên com-măng ca. Phút cuối cùng, một tên lính thủy vớ luôn cả con heo, tưởng nó cũng thuộc mớ hàng đã được thỏa thuận bán. Tất nhiên, Quých không chịu để họ bắt heo đi. Thế là bắt đầu một cuộc cãi cọ trong đó chúng tôi không làm sao giải thích nổi cho họ hiểu rằng con heo không ở trong lô hàng đem bán.
Tôi cố làm cho các cô gái ấn hiểu như vậy, nhưng khó quá Chính các cô cũng không hiểu gì. Bọn lính thủy Mỹ thì không chịu rời heo ra, Quých không chịu trả lại tiền, có lẽ xảy ra đánh lộn mất. Anh cụt đã rút một thanh gỗ xe ba gác ra, thì một xe jeep quân sự đi ngang. Viên hạ sĩ thổi còi. Bọn Quân cảnh đến gần. Tôi bảo Quých hãy trả lại tiền nhưng anh nhất định không chịu. Bọn lính thủy đã giữ con heo cũng nhất định không trả heo. Quých đứng chắn trước xe díp, không để cho xe đi. Một nhóm khá đông những người hiếu kỳ vây quanh cái cảnh huyên náo này. Bọn quân cảnh Mỹ bênh bọn lính thủy, vả lại, họ cũng chẳng hiểu chúng tôi nói gì. Họ tưởng là chúng tôi định đánh lừa các thủy thủ.
Tôi chưa biết xoay xở ra sao thì sực nhớ có ghi số điện thoại Câu lạc bộ Thủy thủ cùng tên anh chàng người Martinique. Tôi đưa cho viên sĩ quan quân cảnh và nói: “Gọi phiên dịch”. Y đưa tôi đến một cái máy điện thoại. Tôi gọi mà may làm sao, tóm được anh bạn theo phái De Gaulle của tôi. Tôi nhờ anh giải thích cho viên sĩ quan quân cảnh hiểu rằng đấy là con heo đã được thuần hóa, nó như con chó của Quých, rằng chúng tôi đã quên không nói trước với các thủy thủ là nó không thuộc vào lô hàng đem bán. Sau tôi đưa ống nghe cho viên sĩ quan quân cảnh. Chỉ ba phút sau là y hiểu cả. Tự tay y cầm con heo đưa trả Quých, làm anh ta sung sướng quá, ôm nó vào lòng và vội đưa nó lên xe ba gác ngay. Sự việc đã chấm dứt vui vẻ, và tốp lính Mỹ cười như nắc nẻ. Ai đi đường người nấy, và thế là xong.
Buổi tối ở nhà, chúng tôi cảm ơn các cô bạn ấn Độ. Mấy cô cũng cười rất dữ về chuyện này.
Chúng tôi ở Georgetown đã được ba tháng. Hôm nay, chúng tôi về ở phần nhà của các bạn ấn Độ nhượng cho chúng tôi. Hai phòng sáng sủa rộng rãi, một phòng ăn, một bếp nấu ăn nhỏ đun than và một cái sân rộng mênh mông, trong góc có mái tôn để gia súc trú. Chiếc xe ba gác và con lừa cũng có chỗ chu đáo. Tôi được ngủ một mình một giường to có nệm ấm. Hai anh bạn Tàu ở phòng bên, mỗi người một giường riêng. Chúng tôi còn một cái bàn và sáu ghế tựa cùng bốn ghế đẩu. Trong bếp có đủ dụng cụ nấu nướng. Sau khi cám ơn Guittou và các bạn về nhà chúng tôi, như lời Quých nói. Trước cửa sổ phòng ăn nhìn ra đường chễm chệ chiếc ghế phô-tơi quà tặng của các cô bạn ấn.Trên bàn ăn, trong bình thủy tinh, có cắm hoa tươi do Quých mang về.
Cảm giác có căn nhà riêng đầu tiên của mình, xoàng xĩnh nhưng sạch sẽ căn nhà sáng sủa tinh tươm, kết quả đầu tiên của ba thằng cùng kiến ăn chung, làm tôi tin tưởng vào bán thân và vào tương lai.
Mai là chủ nhật, không có chợ, vậy là chúng tôi được tự do cả ngày. Ba chúng tôi quyết định nấu một bữa mời Guittou và các bạn anh, mời cả các cô bạn ấn Độ với mấy người anh, em của họ. Khách danh dự là bác ba Tàu đã giúp Quých và anh cụt, đã tặng hai người chiếc xe ba gác với con lừa, lại còn cho chúng tôi mượn hai trăm đô-la để khởi đầu chuyện buôn bán của chúng tôi. Bác ta sẽ thấy trên đĩa đặt trước mặt bác, một cái phong bì trong có hai trăm đô la, và một tấm giấy của cả ba chúng tôi cảm ơn bác, viết bằng chữ Hán.
Sau con heo mà anh yêu dấu, Quých dành tất cả tình bạn của anh cho tôi. Anh luôn luôn chăm chút tôi từng ly từng tí. Trong ba người chúng tôi, tôi là người ăn mặc tươm tất nhất, và đi đâu anh cũng thường mang về cho tôi một cái áo sơ mi, một chiếc cà vạt hay một cái quần dài. Anh mua những thứ dó bằng tiền riêng của anh. Mỗi ngày cả ba chúng tôi kiếm được từ hai mươi lăm đến ba mươi đô la cũng chẳng là bao, nhưng chúng tôi hài lòng vì thấy đã mau chóng tự kiếm sống được. Không phải lúc nào tôi cũng đi mua hàng với hai anh, tuy tôi đi thì mua được rẻ hơn. Bây giờ tôi chuyên bán hàng, nhiều lính thủy Mỹ và Anh được cử lên bờ để mua hàng cho tàu của mình, đã quen biết tôi. Chúng tôi nói chuyện giá cả với nhau rất tử tế, không nóng nẩy. Có một gã cao lớn phụ trách bếp ăn của sĩ quan Mỹ, một thằng Mỹ gốc ý, chỉ nói với tôi bằng tiếng ý. Nó sung sướng ra mặt khi thấy tôi trả lời bằng tiếng mẹ đẻ của nó và chỉ mặc cả cho vui. Cuối cùng, nó mua với giá tôi đòi từ khi bắt đầu gặp nhau.
Chừng tám giờ rưỡi đến chín giờ sáng, chúng tôi đã về nhà. Cả ba chúng tôi ăn một bữa nhẹ rồi anh cụt và Quých đi nằm, còn tôi sang tìm Guttou, hay các cô láng giềng sang chơi bên tôi. Việc nhà chẳng có mấy, chỉ quét nhà, giặt đồ, làm giường, dọn dẹp nhà cho sạch sẽ, hai chị em hàng ngày làm việc đó cho chúng tôi rất chu đáo mà chẳng lấy bao nhiêu, có hai đô la mỗi ngày. Tôi đã biết đầy dủ thế nào là tự đo, không còn phải kinh hoàng lo nghĩ đến tương lai nữa.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Gia đình Ấn độ của tôi
Phương tiện đi lại được dùng nhiều nhất trong thành phố này là xe đạp. Tôi cũng mua một chiếc để đi đây đi đó cho thuận tiện. Vì thành phố và vùng lân cận ở nơi đất bằng phẳng, nên có thể đi những đoạn đường dài mà không cần mất nhiều sức. Xe đạp có hai cái đèo hàng rất khỏe, một ở đằng trước, một ở đằng sau. Cho nên, cũng như nhiều người địa phương, tôi có thể chở hai người một cách dễ dàng.
ít nhất hai lần một tuần, chúng tôi thường dạo chơi một hai tiếng đồng hồ với các cô bạn ấn Độ. Các cô sướng mê tơi và tôi bắt đầu nhận thấy một trong hai cô, cô trẻ, đang yêu tôi.
Tôi chưa gặp ông bố cô bao giờ, hôm qua ông đã sang tôi. Ông ở không xa nhà tôi mấy, nhưng ông không bao giờ đến thăm chúng tôi, và tôi chỉ biết các anh em trai của cô. Ông ta là một cụ già cao lớn có bộ râu rất dài, trắng như cước. Tóc ông cụ cũng bạc trắng để lộ một vầng trán thông minh và cao quý. Ông chỉ nói tiếng ấn, con gái ông dịch lại. Ông mời tôi đến nhà ông, ông bảo con gái ông, mà tôi gọi là nàng công chúa nhỏ, nói với tôi rằng đi xe đạp không xa lắm. Tôi hứa sẽ đến thăm ông một ngày gần đây.
Sau khi ăn vài chiếc bánh ga tô và uống trà, ông ra về, nhưng tôi đã kịp nhận xét là ông để ý đến từng chi tiết nhỏ trong nhà. Nàng công chúa nhỏ sung sướng thấy ông bố hài lòng về cuộc viếng thăm nàng và về chúng tôi.-
Tôi ba mươi sáu tuổi, và sức khỏe tôi rất tốt, tôi cảm thấy mình còn trẻ, và cũng được cái may là tất cả mọi người đều coi tôi là còn trẻ, tất cả các bạn tôi đều nói là trông tôi chưa tới ba mươi.
Thế mà cô này mới mười chín, cô lại có cái vẻ đẹp thanh thản của nòi giống cô cùng cách suy nghĩ cực đoan tin vào số mệnh. Đối với tôi, được cô gái lộng lẫy này yêu là món quà quý báu của trời cho.
Khi chúng tôi đi chơi cả ba, bao giờ cô cũng leo lên giá đèo hàng phía trước, cô biết rất rõ là cô cứ ngồi rất thẳng người trên xe, tôi cố dấn lên bàn đạp, hơi cúi đầu về trước là mặt tôi kề sát mặt cô. Nếu cô ngã đầu về phía sau, tôi sẽ được hưởng trọn vẹn quang cảnh đôi vú xinh đẹp để trần dưới tấm voan mỏng mà nếu vén lên chắc còn đẹp gấp bội. Đôi mắt đen của cô rực cháy mỗi lần xảy ra những sự va chạm nhỏ này và đôi môi đỏ thăm trên nền da màu lá trà, hé mở vẻ thèm khát muốn được hôn. Hàm răng trắng bóng rất đẹp tô điểm thêm cho cái miệng tuyệt vời..
Tối nay, chỉ có hai đứa chúng tôi đi xem chiếu bóng, hình như cô chị nhức đầu, một cơn nhức đầu mà tôi cho là giả tạo, cốt để hai đứa tôi được đi riêng với nhau. Cô ta mặc áo ngoài bằng mousseline trắng, dài đến tận gót chân trần, mỗi khi bước lại để lộ ba chiếc vòng bạc. Cô đi dép có quai vàng lồng vào ngón chân cái làm chân cô duyên dáng thêm. ở lỗ mũi phải, cô gắn một hạt kim cương màu vàng rất nhỏ. Tấm voan mousseline che đầu ngắn và nhẹ nhàng rủ xuống quá bờ vai một chút, một dải ru băng vàng giữ tấm voan đính trên đầu. Từ giữa trán, trên dải băng đó, rủ xuống ba sợi chỉ gắn những viên đá đủ màu. Kiểu trang điểm làm nổi bật cái chấm xanh thẫm trên trán những khi cô lúc lắc cái đầu. Cả gia đình ấn lẫn gia đình tôi, trong đó có cả Quých và anh cụt, đều mặt mày tươi tỉnh nhìn hai chúng tôi đi ra, sung sướng thấy gương mặt chúng tôi tràn trề hạnh phúc. Hình như ai nấy đều biết chắc chúng tôi xem chiếu bóng về là đã đính hôn với nhau rồi. Nàng ngồi yên vị trên nệm ghế đèo hàng rồi, tôi mới cho xe lăn bánh về phía trung tâm thành phố.
Trong khi tôi thả chiếc xe chạy một quãng dài, trên con đường rộng dưới ánh đèn lờ mờ, cô gái đẹp lộng lẫy này đã đặt lên môi tôi một cái hôn nhẹ nhàng. Cử chỉ chủ động này bất ngờ đến nỗi tôi suýt ngã xe.
Ngồi tít phía sau trong phòng chiếu bóng, tay nắm tay, tôi nói với nàng bằng mấy ngón tay và nàng cũng đáp lời tôi bằng ngôn ngữ của ngón tay. Cuộc tâm tình đầu tiên của chúng tôi trong khi xem phim - mà chúng tôi cũng chẳng biết là phim gì nữa - là một cuộc nói chuyện thầm lặng. Mấy ngón tay móng dài được chải chuốt và tô son hát lên một khúc tình ca say đấm, nói cho tôi rò mối tình đằm thắm của nàng còn minh xác hơn cả ngôn ngữ. Nàng ngả đầu vào vai tôi để tôi có thể hôn khuôn mặt thanh khiết của nàng.
Mối tình e ấp, qua nhiều thời gian mới nảy nở, nhanh chóng biến thành một niềm say đắm trọn vẹn. Trước khi nàng thuộc về tôi, tôi đã nói cho nàng biết là tôi không thể cưới nàng được, vì tôi đã có vợ ở Pháp. Điều đó cũng chẳng làm nàng phiền lòng mấy. Một đêm, nàng đã ở lại với tôi. Nàng nói với tôi rằng nàng muốn tôi về sống với nàng tại nhà bố nàng, như vậy tiện cho các anh em trai của nàng, và cho vài gia đình nhà người ấn láng giềng. Tôi nhận lời và dọn về nhà bố nàng. Ông cụ vẫn sống một mình, có một cô cháu họ xa hầu hạ ông và dọn dẹp nhà cửa. Nơi này cách nhà Quých không xa bao nhiêu, chỉ chừng năm trăm mét. Cho nên hai bạn tôi tối nào cũng sang chơi với chúng tôi hơn một giờ. Họ cũng thường sang chơi với chúng tôi.
Chúng tôi vẫn tiếp tục buôn bán rau cỏ ở bến tàu. Tôi ra đi từ sáu giờ rưỡi và gần như lúc nào nàng cũng đeo theo tôi. Một bình thủy lớn đựng trà, một bình mứt và một ổ bánh mì nướng, tất cả ở trong một túi xách to đã đợi sẵn Quých và anh cụt để chúng tôi cùng uống trà với nhau. Nàng tự tay làm các thức ăn sáng và tuân thủ tuyệt đối nghi thức: bốn người phải cùng ăn bữa đầu tiên trong ngày. Trong túi xách của nàng, có đủ mọi thứ cần thiết: một tấm chiếu nhỏ viền đăng ten, mà nàng trịnh trọng đặt xuống vỉa hè sau khi đã dùng chổi quét sạch chỗ đó, bốn bộ tách nhỏ có cả đĩa. Ngồi ở lề đường, chúng tôi ăn điểm tâm, rất nghiêm túc. Ngồi lề đường mà uống trà như ở nhà kể cũng buồn cười, nhưng cả nàng và Quých đều coi thế là tự nhiên. Họ chẳng cần để ý đến những người đi qua và thấy làm như vậy là bình thường. Tôi không muốn cản nàng. Nàng thích hầu hạ chúng tôi luôn tay phết mứt lên bánh tôi mà không ưng là nàng rất buồn.
Thứ bảy vừa qua, có một việc xảy ra đã cho tôi biết được một điều bí mật. Chúng tôi ăn ở với nhau đã được hai tháng, và nàng thỉnh thoảng lại cho tôi một ít vàng. Cũng chỉ là những mảnh tư trang gãy, vỡ, một nửa cái nhẫn vàng, một chiếc bông tai, một đoạn dây chuyền, một phần tư hay một nửa chiếc huân chương hoặc một đồng tiền. Tuy nàng bảo tôi cứ bán đi, nhưng tôi không cần đến, cứ cho tất cả vào một cái hộp. Tôi có gần bốn trăm gam vàng. Khi tôi hỏi nàng vàng ở đâu ra, thì nàng kéo tay tôi, hôn tôi rồi cười nhưng không chịu nói gì.
Hôm thứ bảy ấy, vào lúc mười giờ sáng, nàng bảo tôi lấy xe chở bố đi, tôi cũng không biết đi đâu. Nàng nói :
- Ba em sẽ chỉ đường cho anh. Em phải ở nhà để ủi đồ.
Tôi tò mò nghĩ là ông già chắc đi thăm ai ở xa, và vui vẻ nhận lời.
Ông lão ngồi lên giá đèo hàng phía trước và không nói gì, vì ông ta chỉ nói được tiếng ấn. Tôi đi theo hướng ông ta chỉ. Đường xa, tôi đạp đã gần một giờ. Chúng tôi đến một khu phố giàu có bên bờ biển. Nhà toàn là biệt thự đẹp. Ông “bố vợ” vừa ra hiệu, tôi dừng lại ngay và tôi để ý quan sát. Ông lão lấy trong túi áo ngoài ra một viên đá tròn và trắng rồi quỳ trên bậc thềm thứ nhất của nhà đầu tiên. Ông lão vừa lăn hòn đá trên bậc thềm vừa hát. Vài phút trôi qua. Một phụ nữ mặc quần áo ấn từ trong biệt thự đi ra, lại gần ông già và lẳng lặng đưa cho ông một vật gì đấy. Ông cứ đi từ nhà nọ sang nhà kia, diễn lại cảnh ấy cho đến mười sáu giờ. Cứ thế kéo dài mà tôi vẫn không hiểu gì. Đến biệt thự cuối cùng một người đàn ông vận toàn đồ trắng ra gặp ông. Người này bảo ông đứng dậy, quàng lấy tay ông rồi dẫn ông vào nhà. Ông cụ ở đó hơn mười lăm phút rồi mới ra, vẫn có ông kia đi kèm. Trước khi chia tay nhau, ông này còn hôn trán ông già, đúng hơn là hôn mái tóc bạc của ông.
Chúng tôi đi về, tôi cố sức đạp để về cho mau vì đã hơn bốn rưỡi chiều.
Cũng may, chúng tôi về đến nhà trước khi trời tối. Indara cô gái ấn xinh đẹp của tôi, dẫn bố vào trước rồi nhảy lên ôm cổ tôi hôn hít và kéo tôi vào với gương sen để tôi tắm. Quần áo sạch sẽ chờ sẵn, sau khi tắm rửa, cạo mặt, thay quần áo, tôi mới ngồi vào bàn ăn. Nàng tự tay dọn cho tôi ăn như thường lệ. Tôi muốn hỏi nàng nhưng nàng cứ xăng xở đi lại làm ra vẻ bận rộn để lẩn tránh, kéo dài thật lâu lúc phải trả lời các câu hỏi của tôi. Tôi nóng lòng muốn biết sự việc. Nhưng tôi cũng biết là không bao giờ nên ép người ân hay người Tàu nói. Cần phải tôn trọng một thời gian nhất định. Lúc đó tự họ sẽ nói vì họ đoán biết rằng anh đang chờ nghe một điều tâm sự của họ: nếu anh xứng đáng, thì họ sẽ nói. Đối với Indara cũng đúng như vậy. Sau khi cùng ngủ chung với nhau, nàng mới áp cái má còn nóng hổi vào hõm vai tôi và nói mà không nhìn tôi:
- Mình đi, mình có biết rằng khi ba di kiếm vàng, ba không làm gì xấu không, trái lại kia đấy. Ba gọi các thần linh đến phù hộ căn nhà mà ba đã lăn hòn đá. Đó là một phong tục rất cổ xưa của nước Nam Dương chúng em.
Nàng công chúa của tôi kể cho tôi nghe như vậy. Nhưng một hôm một cô bạn của nàng nói chuyện với tôi ở chợ. Buổi sớm ấy, cả nàng lẫn các chú Tàu chưa ai tới. Và câu chuyện cô gái xinh đẹp Nam Dương nói cho tôi nghe lại khác:
- Sao anh lại phải đi làm, một khi anh đã sống với con gái ông phù thủy? Chị ấy bắt anh dậy sớm, cả khi trời mưa, mà không thấy xấu hổ à? Với số vàng mà ba chị ấy kiếm ra, anh chẳng cần làm gì cũng sống được. Chị ấy không yêu anh, đáng lẽ chị không nên để anh dậy sớm như thế mới phải.
- Thế bố cô ấy làm gì? Cô nói cho tôi biết đi, vì tôi chẳng hiểu gì cả.
- Ông bố chị ấy là phù thủy Nam Dương. Ông có thể gọi thần làm cho anh hay gia đình anh chết nếu ông muốn. Chỉ một cách thoát khỏi bùa phép mà ông yểm cho anh bằng hòn đá ma là đưa cho ông kha khá vàng, ông sẽ lăn hòn đá ngược với chiều ông đã lăn để gọi thần chết đến. Bấy giờ, ông sẽ gỡ hết các bùa yểm ngược lại còn làm anh và những người trong nhà được khỏe mạnh, sống lâu.
- Indara để cho tôi không phải như vậy.
Tôi tự nhủ sẽ đối chiếu xem trong hai người, người nào nói đúng. Vài ngày sau, tôi đứng cùng với ông “bố vợ” có bộ râu bạc dài bên bờ một con suối chảy ngang qua đường Penitence Rivers rồi đổ vào sông Demerara. Nét mặt các ngư dân ấn làm tôi hiểu rõ hết. Mỗi người biếu ông một con cá rồi vội vã tránh cho xa bờ. Tôi đã hiểu. Chẳng cần phải hỏi ai nữa.
Ông bố vợ phù thủy chẳng dính dáng gì đến tôi. Ông chỉ nói tiếng ấn Độ với tôi và cho tôi hiểu. Tôi không bao giờ biết ông định nói gì. Thế cũng có mặt hay. Cứ coi như là đã đồng ý với nhau. Dù sao ông cũng kiếm được một việc cho tôi làm, tôi xăm trán tất cả các cô bé gái từ mười ba đến mười lăm tuổi. Thỉnh thoảng, ông lại vạch ngực các cô bé gái đó ra cho tôi xăm lá hay hoa màu lá xanh ve, hồng, lơ để đầu nhũ hoa nhô lên như nhụy một bông hoa. Vì xăm rất đau, cho nên chỉ có những cô gái can đảm mới bảo tôi xăm đầu nhũ hoa bằng màu hoàng yến. Có một vài cô (số này ít lắm) lại xăm đầu vú màu vàng.
Trước cửa nhà, ông già treo một tấm biển quảng cáo bằng chữ ấn, viết những gì đại loại là: “Nghệ sĩ - xăm người – giá phải chăng - công việc bảo đảm”. Làm việc này được trả hậu, và tôi hai có hai cái khoái: ngắm bộ ngực đẹp của gái Nam Dương và kiếm ra tiền. Quých biết ở gần bến tàu có một quán ăn đang muốn bán anh hãnh diện báo tin đó cho tôi và đề nghị chúng tôi cùng mua. Giá phải chăng, có tám trăm đô-la. Bán vàng của ông phù thủy cộng với tiền tiết kiệm được của chúng tôi, đủ mua được cái quán ăn đó. Tôi đã đến xem. Nó ở một con đường nhỏ nhưng rất gần bến lúc nào cũng lúc nhúc những người là người. Một gian phòng vuông vức khá to, lát gạch đen trắng, mỗi bên để được tám bàn, ở giữa có thể kê một cái bàn tròn to bày những món ăn khai vị và trái cây. Căn bếp rộng rãi khang trang. Có hai lò đun và hai lò nấu rất to.
Re: Pappilon-Người tù khổ sai
Quán ăn và Buớm
Chúng tôi đã thu xếp xong việc này, Indara bán hết chỗ vàng chúng tôi có được. Ông bố già ngạc nhiên thấy tôi không đụng đến những mẩu vàng vụn mà ông cho con gái để hai chúng tôi cùng dùng. Ông nói:
- Tôi cho anh chị để anh chị xài. Của hai anh chị đấy, anh chị sử dụng thế nào tùy ý, không phải hỏi tôi, anh chị cứ việc làm.
Kể ra ông “bố vợ phù thủy” của tôi cũng không đến nỗi nào. Cô nàng của tôi là loại đặc biệt rồi, vừa là nhân tình, vừa là vợ, vừa là bạn. Không có chuyện cãi cọ vì tôi nói gì nàng cũng “vâng”. Nàng chỉ hơi khó chịu chút xíu khi tôi xăm vú cho các bạn đồng hương của nàng.
Thế là tôi đã trở thành chủ tiệm ăn “Thắng Lợi”, nằm trên đường Water Street đúng ngay giữa bến cảng Georgetown. Quých nấu bếp, anh thích vậy đó, đó là nghề của anh. Anh cụt đi chợ và nấu “mì hoành thánh” một thứ mì Tàu. Món đó làm như sau: lấy tinh bột mì, trộn với lòng trắng trứng rồi nhào cho nhuyễn. Đống bột được nhào khô rất lâu, rất kỹ, nhào bột rất nặng, đến nỗi anh cụt phải nhảy lên trên đống bột, đùi tựa vào một cây gậy nhẵn bóng gắn chặt ở giữa bàn. Một đùi gác lên trên cái gậy, cánh tay độc nhất nắm chắc lấy cái gậy đó, anh nhảy một chân quanh bàn để nhào bột. Làm như vậy có được một thứ bột hồ nhẹ rất ngon. Sau cùng, cho thêm chút bơ vào, vị của nó tuyệt vời.
Quán này, chủ trước bị vỡ nợ, đã nhanh chóng nổi tiếng. Indara có một cô gái ấn trẻ và rất xinh tên là Daya phụ giúp, đã phục vụ đông đảo khách hàng cứ xô đến tiệm chúng tôi để nếm món ăn Tàu. Tất cả dân tù vượt ngục đều tìm đến. Ai có tiền thì trả, ai không có thì mời ăn không. Quých nói “Cho người đói ăn sẽ gặp vận may”.
Chỉ có một điều phiền phức: hai cô phục vụ (trong đó có Indara) lại quá hấp dẫn. Cả hai đều phô bày đôi vú trần dưới làn áo voan mỏng. áo của hai cô lại xẻ bên hông từ đùi đến gót chân. Những khi cử động, hai cô để lộ hết chiều dài của đôi chân, lên đến tận đùi.
Lính thủy Mỹ, Anh, Thụy Điển, Canada và Na Uy có ngày đến ăn hai lần để được ngắm cảnh ấy. Các bạn tôi gọi tiệm ăn của tôi là tiệm ăn của những kẻ nhòm gái. Tôi là đại diện chủ. Đối với tất cả mọi người tôi là “ông chủ”. Không có quầy thu tiền, người chạy bàn đưa tiền cho tôi, nhận tiền xong tôi bỏ túi, khi cần tôi lấy tiền lẻ ra thối lại.
Tiệm ăn mở cửa từ tám giờ tối đến năm sáu giờ sáng hôm sau. Không cần phải kể ai cũng biết rằng vào khoảng ba giờ đêm, tất cả bọn đĩ điếm trong khu đã kiếm khá tiền trong đêm đầu kéo kép hay khách của chúng đến tiệm chúng tôi ăn món gà cà-ry hay rau xà lách với mầm đậu. Khách có uống bia nữa, nhất là bia Anh, rượu rhum mía của địa phương rất ngon, soda hay cô-ca cô-la. Vì quán là điểm hẹn của dân Pháp vượt ngục, tôi đã trở thành người giúp nơi ẩn náu, là cố vấn, là người phân xử, là bạn tâm sự của tất cả dân tù đày ở đây
Nhưng tình trạng đó cũng làm tôi nhiều lần gặp chuyện rắc rối. Một người chuyên sưu tập bướm đã cắt nghĩa cho tôi nghe cách săn bướm trong rừng. Trước hết anh ta cắt hình một con bướm trong một miếng bìa cứng rồi dán vào đấy đôi cánh một con bướm thuộc cái giống mà anh định săn. Tấm bìa được gắn vào đầu một cây gậy dài một mét. Khi săn bướm tay anh cầm gậy và cử động làm sao cho bướm giả có vẻ như đang bay lượn. Anh phải săn ở những khoảng trống, có ánh nắng trong rừng. Anh phải biết giờ nở trứng của từng loại bướm. Có những loài chỉ sống được bốn mươi tám giờ. Và mỗi khi ánh nắng chiếu vào chỗ quang đãng, những con bướm mới nở lao vào vùng ánh sáng đó, để tìm bướm cái cho thật nhanh. Khi chúng thấy con bướm mồi, từ rất xa, chúng ập đến. Nếu con bướm mồi là bướm đực, thì bướm đực sẽ lao đến để đánh. Thế là anh cứ việc dùng cái vợt nhỏ cầm ở tay trái để bắt bướm.
Cái lưới vợt có một chỗ thắt có làm người săn bướm có thể cứ tiếp tục bắt thêm bướm mà không sợ những con đã lọt lưới bay đi mất.
Nếu con mồi làm bằng cánh của bướm cái, thì cái con đực cũng tìm đến để ấp con cái và kết quả vẫn là một.
Bướm đẹp nhất là loại bướm hay bay đêm nhưng vì chúng thường va phải các vật chướng ngại cho nên rất khó bắt được con nào còn đôi cánh nguyên vẹn. Hầu hết cánh của loại bướm này đều bị sứt nham nhở. Đối với loại bướm đêm, phải lên tận gần ngọn một cây cao, rồi giăng một tấm vải trắng to lồng trong khung, đằng sau để một cây đèn đất thật sáng. Những con bướm đêm to, sải cánh, dài từ mười lăm đến hai mươi centimét, bay dính vào tấm vải trắng. Thế là chỉ cần đè lên ngực nó thật nhanh cho nó chết ngạt. Phải làm sao nó không dấy dụa, nếu không cánh của nó sẽ bị hư hại và kém giá trị.
Tôi có một cái tủ kính nhỏ trong đó có những bộ sưu tập bướm, ruồi, rắn nhỏ và dơi hút máu. Hàng tôi có không đủ bán cho khách cho nên giá rất cao. Một người Mỹ chỉ cho tôi thấy một con bướm phía sau cánh màu xanh biếc có ánh thép, phía trên thì màu lơ nhạt. Người đó bằng lòng trả tôi năm trăm đô-la nếu tôi có được một con bướm thuộc loại này mà lại là lưỡng tính. Tôi kể lại với người săn bướm, anh ta nói có một lần, anh đã có trong tay một con này, rất đẹp, được người ta trả năm mươi đô-la, sau nhờ một người sưu tập đứng đắn khác anh ta mới biết là một mẫu bướm như vậy trị giá đến hai ngàn đô-la.
- Thằng Mẽo ấy muốn xỏ anh đấy, anh Papillon ạ. Nó coi anh là đồ ngốc. Cứ cho là món hàng hiếm đó chỉ đáng giá một ngàn năm trăm đô-la, thì có cũng lợi dụng được sự ngớ ngẩn của anh mà lãi to.
- Cậu nói đúng, đấy là một thằng xỏ lá. Hay ta chơi lại nó một vố!
- Làm thế nào?
- Chẳng hạn như gắn vào thân một con bướm cái đôi cánh một con bướm đực hoặc ngược lại. Cái khó là làm sao gắn mà không ai nhìn ra được.
Sau nhiều lần làm thử thất bại, chúng tôi đã gắn được rất khéo, hai cánh một con đực vào thân một con cái đẹp tuyệt trần, chúng tôi đút những đầu cánh nhọn vào một đường rạch nhỏ xíu rồi gắn lại bằng nhựa balata. Nó dính rất chặt, có thể cầm đôi cánh dán nhựa mà nhấc cả con bướm lên. Dù có tinh mấy cũng không sao nhận ra được: Chúng tôi lồng kính con bướm này cùng nhiều bướm khác trong một bộ sưu tập thông thường giá hai mươi đô la, làm như tôi không quan tâm đến nó. Chúng tôi tính không trật chút nào. Chàng Mỹ vừa để ý thấy đã trơ tráo cầm hai mươi đô la trong tay để mua bộ sưu tập đó của tôi. Tôi trả lời y là tôi đã nhận bán rồi, một người Thụy Điển đã mua cả hộp, và món này là của người ấy.
Trong hai ngày, gã người Mỹ cầm cái hộp lên tay đến mười lần. Sau không chịu nổi, y nói với tôi:
- Tôi mua con bướm ở giữa hai mươi đô la, còn anh giữ lại tất cả.
- Con bướm ấy có gì khác thường vậy? - Và tôi chăm chú xem xét rất kỹ. Rồi tôi reo lên - Nhưng mà này, đây là bướm lưỡng tính mà.
- Ông nói gì vậy? ừ, đúng thật, trước tôi chưa dám chắc, người Mỹ nói. Trông qua kính, không rõ lắm. Ông cho phép nhé? Y xem xét kỹ cơn bướm, rất tỉ mỉ, rồi nói: “Ông bán bao nhiêu?”
- Có lần chẳng phải ông đã nói với tôi rằng thứ mẫu hiếm này đáng giá năm trăm đô la sao?
- Tôi đã nhắc đi nhắc lại với nhiều người săn bướm rằng tôi không muốn lợi dụng sự không hiểu biết của người đã bắt được con bướm này.
- Nếu vậy thì giá là năm trăm đô hay là thôi.
- Tôi mua, ông cứ giữ nó cho tôi. Đây, tôi mang theo có sáu mươi đô la, tôi đặt trước coi như việc mua bán thế là xong. Ông cho tôi một tấm giấy biên nhận, mai tôi sẽ đem nốt tiền lại, ông nhớ lấy con bướm này ra khỏi hộp nhé.
- Được rồi, tôi sẽ để riêng nó ra chỗ khác. Biên nhận của ông đây.
Đúng giờ mở cửa tiệm, chàng trai giòng giống Lincoln* (*Lincoln Abraham là tên tổng thống thứ 16 của Mỹ) đã có mặt. Y lại xem xét con bướm lần này với một cái kính lúp, tôi sợ hết hồn khi y xem mặt sau con bướm. Thỏa mãn rồi, y trả tiền, đặt con bướm vào một cái hộp y mang theo, đòi tôi làm cho y một giấy biên nhận khác rồi ra đi.
Hai tháng sau tôi bị cảnh sát bắt. Đến Sở cảnh sát cảnh sát trưởng giải thích bằng tiếng Pháp cho tôi hay là tôi bị bắt vì có một người Mỹ tố cáo tôi đã lường gạt ông ta.
- Về chuyện một con bướm mà ông gắn cánh, - cảnh sát trưởng nói. - Do việc làm gian trá đó nên ông mới bán được năm trăm đô-la.
Hai giờ sau, Quých và Indara đã đến sở với một luật sư nói tiếng Pháp rất thạo. Tôi nói với luật sư là tôi không biết gì về bướm cả, tôi không phải là người chuyên săn bướm, cũng không sưu tập bướm. Tôi bán những hộp sưu tập bướm là bán giúp những người săn bướm vốn là khách hàng của cái tiệm ăn của tôi, rồi chính người Mỹ kia đòi mua và đặt giá trước là năm trăm đô-la, chứ không phải tôi nài bán cho ông ta, và nếu đấy đích thực là một con bướm thuộc loại như ông ta nói thì chính ông ta mới là người đi lừa, vì ông đã có được một vật trị giá hai ngàn đô-la.
Hai ngày sau, tôi ra trước tòa. Luật sư của tôi kiêm cả việc phiên dịch cho tôi. Tôi nhắc lại luận cứ của tôi.
Một điều lợi cho luật sư của tôi là ông có một cuốn Catalogue có kê giá bướm các loại. Một con bướm như thế được định giá trong sách là trên một ngàn năm trăm đô-la. Gã người Mỹ kia phải chịu tiền phí tổn của phiên tòa. Thêm vào đó y phải trả tiền thù lao cho luật sư của tôi cộng hai trăm đô-la nữa.
Dân anh chị và dân ấn tập trung lại để ăn mừng tôi được thả về, bằng một chầu rượu cất lấy. Toàn bộ gia đình Indara đều đến tòa án xem xử. Mọi người đều tự hào vì trong gia đình - sau khi tôi được xử trắng án - có một siêu nhân. Bởi họ không bị bịp, họ biết thừa là chính tôi đã gắn cánh con bướm.
Cuối cùng chúng tôi phải bán tiệm ăn đi, việc ấy tất nhiên sẽ phải tới. Indara và Daya quá đẹp, và cái kiểu thoát y đó, lúc nào cũng chỉ bắt đầu hé ra rồi không đi xa hơn, lại càng làm cho các thủy thủ đầy máu nóng phát điên lên, còn hơn cả khi được thấy một cảnh trần truồng thật sự. Các cô nhận thấy là càng để nửa kín nữa hở gần mũi các thủy thủ bao nhiêu, thì càng được tiền puốc-boa nhiều bấy nhiêu, cứ nhoài người trên bàn ăn là các cô không bao giờ tính đúng được tổng số tiền, hay thối đủ được tiền lẻ. Sau thời gian trưng bày bộ ngực làm chàng lính thủy mê mẩn hoa cả mắt, các cô mới đứng thẳng lên hỏi: “Còn tiền puốc-boa nữa?”: “à, chết suýt quên”, tội nghiệp cho mấy anh chàng ấy. Họ rất hào phóng, những gã dại gái ấy, lửa tình được nhen lên nhưng không bao giờ được thỏa mãn, không còn biết trời đất gì nữa.
Một hôm xảy ra một việc mà tôi đã lường từ trước. Một thằng cha cao to tóc hung, mặt đầy tàn nhang nhìn bộ đùi hở hang chưa thỏa, vừa thoáng thấy bóng chiếc quần lót hắn đã đưa tay ra và những ngón tay thô bạo của hắn kẹp chặt cô bé Nam Dương của tôi như trong cái ê-tô. Tay đang cầm một bình nước bằng thủy tinh, cô bé phang cả bình vào đầu nó. Bị đánh như vậy nó giật mạnh cái quần lót rồi gục xuống, tôi vội chạy đến để nâng nó dậy trong khi các bạn nó lại tưởng tôi đến đánh nó, nên chưa kịp làm gì, tôi đã bị một quả đấm trời giáng đúng giữa mắt. Không biết thằng cha lính thủy kiêm bốc-xơ ấy thật sự bênh bạn hay chỉ muốn chơi một vố thật đã đời cho chồng người đẹp ấn phải chịu trách nhiệm này! Có trời biết được! Dù sao tôi cũng nhận được một cú đấm thẳng vào mắt. Quá tin vào thắng lợi, nó đã đứng thủ thế trước mặt tôi và quá:
“Đánh nào, đánh đi, mày”. Tôi đá phốc vào hạ bộ nó, tiếp theo là một cái húc nhãn hiệu Papillon, nó đã nằm thẳng cẳng.
Trận đánh nhau trở thành một cuộc loạn đả. Anh cụt từ trong bếp xông ra cứu tôi, anh cầm cái gậy làm mì hoành thánh vụt tứ tung. Quých cầm một cái phuốc- sét dài có hai chạc đâm lia lịa vào đám đông. Một tên lưu manh dân Paris chuyên dự các buổi khiêu vũ theo nhạc trường Lappe đã về hưu dùng một ghế tựa làm vũ khí. Indara có lẽ bị bó tay vì mất xi-líp nên chẳng tham gia vào cuộc chiến.
Kết cục là năm gã người Mỹ bị thương nặng ở đầu, hai gã khách bị những vết đâm có hai lỗ do phuốc-sét của Quých gây ra ở nhiều chỗ trên thân thể, máu đổ tùm lum. Một viên cảnh sát da đen người Brazzaville chặn ở cửa không cho ai ra. Thật là may, vì vừa lúc ấy một chiếc xe jeep của Quân cảnh tới. Chân đi ghệt trắng dùi cui giơ cao, họ định dùng võ lực ào vào tiệm ăn, và trông thấy các thủy thủ của họ máu me bê bết như vậy chắc chắn là họ sẽ trả thù. Nhưng người cảnh sát da đen đã đẩy toán quân cảnh lui, tay cầm gậy chắn cửa và nói : “Đã có cảnh sát Hoàng Gia đây”.
Và khi cảnh sát Anh tới, chúng tôi mới phải lên xe chở tội phạm để về sở cảnh sát, chỉ một mình tôi mắt bị đánh sưng húp híp, còn không ai trong bọn tôi bị thương, nên không ai tin được là chúng tôi đánh nhau để tự vệ một cách chính đáng.
Sáu ngày sau, trong phiên xử quan tòa chấp nhận luận điểm của chúng tôi, và cho chúng tôi được tự do trừ Quých bị ba tháng tù vì đánh người có thương tích. Cũng khó bào chữa nổi vô số những vết thương hai lỗ mà Quých đã ban phát rất rộng rãi cho các đối thủ của anh ta.
Sau đó, trong nửa tháng trời có đến sáu vụ ẩu đả, chúng tôi cảm thấy không thể nào kéo dài được nữa. Bọn lính thuỷ nhất định không chịu coi chuyện này như đã kết thúc, những khách mới lại cứ tiếp tục đến, làm sao phân biệt được ai là bạn của kẻ thù của chúng tôi, ai không phải?
Vậy là chúng tôi đã bán tiệm ăn, với giá rẻ hơn lúc mua. Quả tình tai tiếng đến như vừa rồi thì khách mua cũng chẳng được bao nhiêu.
- Anh cụt ơi, ta làm gì bây giờ?
- Trong khi chờ Quých được thả, ta cứ nghỉ ngơi đã. Cũng không thể lấy lại chiếc xe ba gác với con lừa được vì ta đã bán các thứ đó cùng các mối mua hàng rồi. Tốt nhất là không làm gì, cứ nghỉ, sau sẽ hay.
Quých đã được về. Anh kể lại rằng họ đối xử với anh cũng tử tế. Có một điều phiền là anh ta phải ở cạnh hai tù nhân bị án tử hình. Và người Anh lại có cái thói dở là: họ báo cho tôi nhân biết bốn mươi lăm ngày trước khi thi hành án là họ sẽ bị treo cổ ngày nào, giờ nào và Nữ Hoàng đã bác đơn xin ân xá của họ. Thế là cứ mỗi sáng, Quých kể hai người tử từ cứ réo lên với nhau: “Lại qua đi một ngày nữa rồi, Johnny ơi, chỉ còn từng này ngày nữa thôi”. Và người tứ tù kia không ngớt chửi tòng phạm của y suốt cả buổi sáng. Ngoài chuyện đó ra, Quých được yên ổn và được trọng nể