Trai Trứng Cá, Gái Má Hồng (Nói về mụn trứng cá)

Mụn trứng cá rất phổ biến. Ở Mỹ, có khoảng 17 triệu người đi khám bác sĩ để chữa trứng cá , là chứng bệnh
thông thường nhất trong số các bệnh ngoài da chữa ơ các û phòng mạch. Kể từ tuổi 12 tới 25, thì có tới 85 phần
trăm bị trứng cá , nhiều nhất là tuổi 16 tới 17 ở con gái, và 17 tới 18 ở con trai. Người lớn cũng có trứng cá, tuy ít
hơn: ở tuổi trên dưới 40, thì 1000 người có độ 25 người có trứng cá. Trẻ sơ sanh cũng có trứng cá , bé trai
nhiều hơn be gái tới 5 lần, có lẽ là do ảnh hưởng của chất nội tiết nam tính nơi bé trai, và thường thì chừng năm
bảy tháng một năm là hết.
Trứng cá là gì - Tuổi dậy thì hay bị mụn trứng cá vì nhiều yếu tố kết hợp với nhau: là chất nội tiết
(hormone),, da nhờn và vi trùng nẩy nở ở ngoài và bên trong da.
Khởi đầu trứng cá - Mỗi sợi lông mọc từ một cái gốc ở trong da, như củ hành lá vươn từ đất lên. Cái lỗ
nhỏ chứa gốc sợi lông là lỗ chân lông. Ở ngay bên vách lỗ chân lông có một cái bầu nhỏ, tiết ra chất nhờn. Chất
nhờn này bình thường thoát ra ngoài lỗ chân lông làm cho da khỏi bị khô. Nhưng cái gì thái quá cũng không hay.
Ở tuổi dậy thì, chất nhờn ra quá nhiều, bị khô đọng lại trong lỗ chân lông cộng với vi trùng ngoài da và lớp da
khô tróc đi, làm thành một cái nút đóng nghẹt lỗ chân lông lại. Cái nút đó là cái mà ta gọi là trứng cá. Hột trứng
cá có khi trắng, có khi đốm đen, tùy theo cái nút nghẹt nhiều hay ít. Cho tới giai đoạn này, thì các cô các cậu mới
chỉ thấy lác đác trên mặt hay là trên vai, trên ngực một vài cái đốm trứng cá nho nhỏ, chưa thành mụn đỏ, nghĩa
là chưa thấy phiền gì nhiều.
Ta cũng nghe nói người mồ hôi dầu hay bị trứng cá hơn người mồ hôi muối. Sự thực không phải vậy. Mồ hôi chỉ
là nước có chất muối và ít hóa chất khác, nhưng không có dầu. Tuyến sinh chất nhờn nằm ở trong lỗ chân lông,
còn tuyến sinh mồ hôi thì ở riêng biệt , mồ hôi chẩy thẳng ra ngoài da. Tuy vậy câu trên cũng có phần đúng, vì
người có tuyến sinh chất nhờn hoạt động mạnh thì chất nhờn ra nhiều sẽ hòa với mồ hôi làm ta có cảm tưởng là
mồ hôi dầu.
Từ khi lỗ chân lông bị nghẹt - Khi lỗ chân lông bị nghẹt rồi, thì vi trùng được nuôi dưỡng bằng chất
béo sẽ sinh sôi nẩy nở, nhất là con vi trùng có tên là P. acnes là một vi trùng kỵ khí (tức là vi trùng chỉ mọc chỗ
không có dưỡng khí), vì bị nghẹt thì không thông thương với khí trời, vi trùng được dịp mọc mạnh. Vi trùng nẩy
nở làm da ngứa ngáy và sưng lên thành mụn trứng cá thực sự, mụn nhỏ đo đỏ có khi có đọng tí mủ. Đây còn là
trứng cá loại nhẹ, vì mủ tuy có nhưng ở phớt trên lớp da ngoài. Trứng cá nặng là trứng cá nổi cục, khi mủ ăn sâu
vào trong thành mụn mủ bọc, bọc mủ này có khi vỡ ra bên trong da lan ra thành những bọc mủ lớn hơn. Nặng
nhất là khi nhiều bọc mủ ở dưới da ăn thông với nhau như ngõ ngách rất khó chữa.
Sẹo trứng cá - Trứng cá thường mọc ở mặt, cổ, vai lưng và ngực (toàn là những chỗ quan trọng cho các cô
khi mặc áo tắm!) Lý do là vì lỗ chân lông ở những chỗ này lớn hơn vá tuyến sinh chất nhờn trong lỗ chân lông
cũng lớn hơn các nơi khác. . Mụn trúng cá mọc ít ra hai ba tuần lễ mới hết. Sẹo có khi thành lo ã, có người bị
nhiều, lốm đốm như " rỗ huê". Có khi sẹo lồi , nhất là ở ngực. Được cái là sẹo lồi sẽ xẹp và mờ dần theo thời
gian. Trứng cá nhẹ thì ít để lại vết sẹo. Trứng cá nặng, khi bọc mủ vỡ ra ngoài và lành rồi thì thường sinh sẹo.
Chữa trị sớm cho đúng cách thì đỡ bị sẹo.
Các yếu tố góp phần sinh trứng cá - Vai trò của chất nội tiết (hormone) nam tính
Chất nội tiết nam tính làm cho các tuyến sinh chất nhờn ở lỗ chân lông sưng to lên và tiết nhiều chất nhờn hơn.
Vì vậy con trai đến tuổi dậy thì mới hay bị trứng cá. Như vậy thì tại sao con gái lại có trứng cá? Chất nội tiết nam
tính, không phải chỉ con trai mới có, là vì nó vừa do ngọc hành sinh ra, mà còn do hai bộ phận nằm úp ngay trên
hai quả thận (gọi là nang thượng thận) sinh ra nữa. Chất nội tiết nam tính của con gái là do nang thượng thận
sinh ra.
Ta thấy các em bé sơ sinh da nhờn hơn da người lớn. Đó là vì chất nhờn tiết nhiều trong một hai năm đầu, rồi
giảm dần, đến khi nang thượng thận trưởng thành khoảng bảy tám tuổi mới lại tăng dần lên, và tiếp tục tăng gia
tới tuổi dậy thì do ảnh hưởng các tuyến sinh dục.
Vai trò của vi trùng - Như trên ta đã thấy, vi trùng sinh sôi nẩy nở trong chất nhờn bị đóng nghẹt ở lỗ
chân lông. Trong khi nó "tiêu hóa" chất nhờn như vậy, thì nó cũng làm sưng lỗ chân lông đang bị nghẹt, đồng
thời bạch huyết cầu trong người được báo động, bèn kéo đến để diệt vi trùng đi. Nhưng khi bạch huyết cầu nuốt
trọn vi trùng thì lại thải ra những chất làm hư cái tuyến sinh chất nhờn nơi lỗ chân lông làm cho nó vỡ tung ra.
Yếu tố di truyền - Bị trứng cá nặng hay nhẹ, bị loại trứng cá nào, hoặc là quãng đời bị trứng cá kéo dài lâu
mau, có ảnh hưởng di truyền trong gia đình. Tuy nhiên như trên đã nói số người bị trứng cá quá phổ biến, cho
nên khó làm các cuộc nghiên cứu thống kê về di truyền cho chính xác .
Các yếu tố khác - Người ta nhận xét thấy trứng cá ở nữ giới nhiều khi quá ra khoảng năm bảy ngày trước
khi có kinh và cho rằng có thể do ảnh hưởng của chất nội tiết progesterone trong thời gian đó. Nhiều mỹ phẩm ,
kể cả các thứ kem chải hay xịt tóc, làm trứng cá mọc nhiều ở vùng chân tóc phía trên trán. Hơi nóng và độ ẩm
cũng góp phần tăng gia trứng cá. Ngoài ra còn có thể kể cả một vài thứ thuốc như isoniazid ( thuốc lao), dilantin
( thuốc động kinh) cùng một số hóa chất dùng trong kỹ nghệ.
Bs Vũ Quí Ðài, Cựu Giáo Sư Khoa Trưởng Y Khoa Ðại Học Sài Gòn

ĐAU GÓT CHÂN

Đau gót chân thường gặp ở người trung niên và lớn tuổi. Có nhiều nguyên nhân làm đau gót chân nhưng viêm
cân mạc là nguyên nhân thường gặp nhất
SƠ LƯỢC VỀ BÀN CHÂN - Cổ chân gồm có xương sên ăn khớp với hai xương cẳng chân. Xương gót
chân ở dưới xương sên, khớp với xương hộp ở phía trước. Các xương hộp lại tiếp theo bằng các xương bàn
chân và tiếp theo nữa là các xương ngón chân. Các dây chằng gắn các xương với nhau. Các bắp thịt nhỏ giúp
cử động các ngón chân. Các bắp thịt lớn ở đùi và cẳng chân co hoặc duỗi, điều khiển động tác đi. Có một lớp
màng lót dưới bàn chân, bắt đầu từ xương gót chân, tỏa ra phía trước đến đầu các xương bàn chân, lớp màng
này gọi là “cân mạc bàn chân”, ngoài cân mạc là mỡ và da.
Chân được chia ra làm 3 phần, chân sau là gót chân, chân trước là các ngón chân và đầu các xương bàn chân,
chân giữa hơi cong, giống như một cái vòm. Độ cong này thay đổi khiến cho bàn chân có thể phẳng hoặc cong
quá mức. Khi ta đi, gót chân chạm đất trước, sau đó sức nặng của cơ thể dồn về phía trước, đến chân giữa rồi
đến chân trước, ta tiến về phía trước. Cân mạc bàn chân co lại và dãn ra theo bước đi.
VIÊM CÂN MẠC BÀN CHÂN
Viêm cân mạc bàn chân thường gặp ở người đi, đứng, chạy nhiều và ở những người có tuổi.
1. Triệu chứng- Bệnh nhân thường đau ỏ gót chân buổi sáng khi mới bước xuống giường. Sau đó đau giảm
bớt dù bệnh nhân tiếp tục đi lại làm việc. Đau giảm khi nghỉ nhưng lại tái phát khi bệnh nhân bắt đầu đi lại sau
một thời gian nghỉ
Trong thăm khám, khi ấn vào chỗ cân mạc gắn vào xương gót chân sẽ phát thiện triệu chứng đau. Dấu hiệu này
đủ để làm chẩn đóan. Các xét nghiệm bổ túc nhiều khi không cần thiết. Cần chụp X Quang khi cần lọai bỏ hay
xác định trường hợp nứt xương hoặc viêm xương gót. Chụp X quang có thể thấy hóa vôi ở điểm cân mạc gắn
vào xương gót chân. Đây không phài là một dấu hiệu chuyên biệt vì bệnh nhân có thể đau mà không hóa vôi ở
đầu cân mạc, ngược lại bệnh nhân có thể có hóa vôi mà lại không đau.
2. Các yếu tố gây viêm cân mạc- Từ “viêm” có thể không chỉnh. Trong thực tế, cân mạc bị thóai hóa
vì bị sử dụng quá nhiều. Ta thấy viêm cân mạc thường xảy ra ở những người: mập,
có thai
tập luyện quá độ như chạy đường xa, vũ ballet…
đi đứng nhiều trên nền cứng,
có bàn chân phẳng hay bàn chân cong (quặp),
trung niên hay lớn tuổi,
tê thấp,
tiểu đường.
3. Điều trị gồm nhiều mức độ:
- nghỉ ngơi hay giảm bớt mức độ luyện tập,
- tránh đi chân không,
- cần dùng giày dép có đế mềm và có gót cao vừa phải,
- dùng tấm lót mềm để lót gót chân hay lòng bàn chân, cần nâng đỡ vòm chân,
- trải thảm ở chỗ ở chỗ đứng khi làm việc,
- đắp nước đá hoặc ngâm chân trong nước lạnh,
- tập luyện để dãn cân mạc: buổi sáng trước khi bước xuống giường, dùng tay kéo các ngón chân về phía cẳng
chân nhiều lần,
- có nhiều phương pháp tập luyện khác mà thầy thuốc hoặc người làm vật lý trị liệu có thể hướng dẫn tập để dãn
cân mạc, gân gót và bắp thịt sau cẳng chân. Một trong những cách tập là đứng đối diện với tường, để chân đau
ở sau chân lành, các ngón chân của chân đau hướng về gót chân của chân lành, nghiêng người về phía trước,
gập đầu gối chân lành để hạ người xuống trong khi vẫn giữ thẳng chân đau và bàn chân đau luôn luôn chạm đất.
- nẹp bàn chân và cẳng chân ban đêm để giữ bàn chân ở vị trí trung gian trong khi ngủ,
- dùng các thuốc chống đau như acetaminophen và chống viêm không steroid ,
- tiêm steroid vào điểm đau ở gan bàn chân,
- điều trị bằng siêu âm,
- giải phẫu.
CÁC TRƯỜNG HỢP ĐAU GÓT CHÂN KHÁC
1. - Viêm gân Achille
2. - Viêm xương gót chân
3. - Tê thấp
4. - Viêm cứng cột sống
5. - Hội chứng Reiter
6. - Hội chứng ống cổ chân
PHÒNG NGỪA
- Giữ cân nặng trung bình
- Tập luyện đúng mức
- Mang giày đế mềm
- Không mang giày thể thao cũ.
Bác sĩ Nguyễn văn Đích

Làm việc theo ca

Trong vài tháng vừa qua, bác Minh cảm thấy trong người mỏi mệt, ăn mất ngon, ban đêm khó ngủ, đôi khi ngâm
ngẩm đau bụng. Trước đây, bác ngủ dễ dàng. Bây giờ chỉ ngủ được vài ba giờ nhất là sau mỗi ca làm việc đêm.
Từ ba tháng nay, vì công việc tăng nên bác làm việcvới giờ giấc thay đổi tùy theo nhu cầu củ sở.
Đi bác sĩ khám không thấy có bệnh gì. Bác than phiền với ông giám thị và được đổi sang làm việc theo giờ
thường lệ ban ngày. Chỉ hơn tuần lễ sau, các dấu hiệu trên đều biến hết, bác làm việc hăng say như trước.
Trường hợp bác Minh là tiêu biểu cho hậu quả của sự xáo trộn trong giờ giấc làm việc. Cơ thể phải điều chỉnh
với những thay đổi sinh học gây ra do việc làm đêm ngày khác nhau.
Hiện nay, trong mọi quốc gia, vì nhu cầu mà việc làm chia theo ca càng ngày càng phổ thông. Làm việc theo ca
có thể là: làm ban ngày trong khoảng thời gian từ 7 giờ sáng tới 7 giờ tối; theo ca cố định như mỗi ngày làm từ 6
giờ sáng tời 2 giờ chiều; từ 2 giờ chiều tới 10 giờ đêm; giờ đêm từ 10 giờ tối tới 5 giờ sáng hôm sau.
Trong ngày, có thể là hôm nay làm ca sáng, ngày mai ca chiều; hoặc ca thay đổi bất thường, không định trước
tùy theo nhu cầu công việc và số lượng nhân viên.
Theo các nghiên cứu thì ảnh hưởng không tốt của ca ban đêm là đáng kể hơn các ca khác và sự thích ứng hầu
như là rất khó khăn. Số lượng ca làm đêm liên tục cũng quan hệ. Chẳng hạn nếu làm bốn đêm liền thì giấc ngủ
và nhịp sinh học trong người không thể ứng phó được. Một ca đêm 12 giờ sẽ gây ra mỏi mệt hơn là ca 8 giờ,
nhưng nhiều người lại thích làm 12 giờ liên tục, để được nghỉ bù một ngày ngõ hầu làm công việc khác.
Để tránh sự quá sức của công nhân, cơ quan Lao Động Thế Giới khuyến cáo nên giữ ca đêm ở mức 8 giờ mà
thôi. Một điểm nữa là, theo kinh nghiệm, quan sát, nếu làm việc theo ca khác nhau thì nên đi theo chiều kim đồng
hồ thì tốt hơn. Thí dụ chuyển từ ca sáng sang chiều rồi sang ca tối, chứ không nên đi ngược lại chiều kim đồng
hồ như là ca tối rồi chiều rồi sáng. Nói về nhip sinh học - Mọi sinh vật từ thảo mộc tới động vật đều có một đồng
hồ sinh học điều hòa nhịp ngủ thức trong 24 giờ đồng hồ. Đồng hồ này lại liên hệ chặt chẽ với ánh sáng và bóng
tối. Đồng hồ cũng điều hòa sự sản xuất kích thích tố, nhiệt độ cơ thể, nhịp tim đập, sự tiết ra dịch vị của bao tử,
và nhiều chức năng khác của cơ thể. Theo nhịp này thì nhiệt độ cơ thể cao nhất vào xế chiều, kích thích tố
cortisol của nang thượng thận cao nhất vào lúc sáng sớm, mà melatonin của tuyến tùng (pineal gland) lại cao
nhất vào ban đêm.
Với con người, giấc ngủ ngon nhất là từ nửa đêm tới sáu giờ sáng. Nên người làm việc ca đêm thường hay ngủ
gật mà ban ngày về nhà thì lại khó ngủ. Lý do là rất khó khăn cho cơ thể để sắp đặt lại nhịp sinh học đó.
Ảnh hưởng làm theo ca trên sức khỏe
1-Vấn đề giấc ngủ. - Có tới ba phần tư công nhân làm ca bị rối loạn về giấc ngủ nhất là làm ca ban đêm.
Khi làm việc từ 11 giờ tối tới 7 giờ sáng hôm sau thì công nhân hầu như đều phải đối phó với sự thay đổi về nhịp
ngủ- thức. Ban đêm người đó phải cố gắng lắm mới có đủ tỉnh táo để làm việc. Ban ngày khi về nhà thì lại khó
mà đi vào giấc ngủ. Do đó họ thường thiếu ngủ và giấc ngủ không được êm đẹp. Tình trạng thiếu ngủ kinh niên
này sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe tổng quát của công nhân, vì chính trong giấc ngủ mà con người phục hồi lại các
chức năng của não bộ cũng như các cơ quan khác. Mất ngủ ba giờ một đêm đã gây ra thay đổi về tính tình; mất
ngủ cả đêm làm giảm hiệu năng lao động. Nếu liên tục mất ngủ ba đêm thì khả năng làm việc mất hẳn, nhận
thức, suy nghĩ, quyết định đều rối loạn.
Theo báo cáo điều tra về những tại nạn lớn như vụ thoát rỉ ở lò nguyên tử Chernobyl xẩy ra lúc 1 giờ 35 sáng;
vụ cháy của phi thuyền Challenger vào sáng sớm, thì sự mệt mỏi, thiếu ngủ của nhân viên cũng có một phần
trách nhiệm.
Kết quả nhiều nghiên cứu cho hay sự thích ứng của nhịp sinh học với thời khóa biểu làm việc mới của người làm
theo ca đều rất khó khăn , đôi khi không thực hiện được dù là làm ca đêm thường trực.
2- Ảnh hưởng tới tính tình - Khi đã thiếu ngủ thì con người trở nên dễ kích thích, cáu kỉnh, mất kiên
nhẫn, hay lo âu, buồn phiền.
Nhiều quan sát cho hay liên hệ đồng sở dễ tan vỡ ở nhóm người làm việc theo ca bất thường vì họ quá xúc
động, quá mẫn cảm, luôn luôn chống đỡ tự vệ, có thái độ bướng bỉnh với người khác. Khi được yêu cầu làm một
việc thì họ làm khác đi và cãi rằng họ làm đúng và đổ lỗi cho quản lý là sai.. Họ cũng rất hay quên như là không
ghi danh khi tới làm và khi tan sở.
3- Ảnh hưởng tới tim mạch. - Nhiều nghiên cứu cho hay bệnh tim, nhất là động mạch vành, gia tăng ở
nam giới làm việc theo ca, so với người làm ca ngày.
Nhiều chuyên viên y tế khuyên tránh dùng đèn quá sáng, ngủ trước khi đi làm và làm giấc ngủ nhẹ giữa ca đêm.
Nghiên cứu của M Romon và cộng sự viên cho hay người làm việc theo ca có lượng triglyceride cao hơn người
làm ca ngày. Người làm ca đêm cũng hay bị nhồi máu cơ tim hơn người làm việc ban ngày.
4- Ảnh hưởng tới sự tiêu hóa. - Đây là những rối loạn thông thường nhất của người làm việc ca đêm.
Họ hay bị loét bao tử, viêm tá tràng, ăn không tiêu. Lý do có thể là dịch vị từ bao tử được tiết ra theo nhịp sinh lý
mà người làm ca ăn uống bất thường, không trùng hợp với các chức năng của hệ tiêu hóa.
Nhiều người than phiền táo bón sau mỗi ca làm đêm. Làm ca đêm đôi khi cũng không ăn uống đầy đủ chất dinh
dưỡng hoặc không có thực phẩm để ăn.
5- Tử vong. - PJ Taylor và SJ Pocock công bố một kết quả nghiên cứu sự liên hệ giữa làm việc theo ca và tử
vong, trên British Journal of Internal Medicine vào năm 1972, theo đó tử vong làm ca cao hơi hơn làm ban ngày .
6- Thai nghén - Một số nghiên cứu cho hay làm việc theo ca khác nhau có thể đưa tới sẩy thai và sanh con
thiếu tháng ở một số phụ nữ
7- Mất năng lực và ước muốn tình dục - Sau một ca làm đêm thì công nhân trở nên mệt mỏi, không
còn sinh lực để làm công việc thường lệ khác, ngay cả việc ái ân, giao hợp.
8- Nguy cơ ung thư vú. - Bác sĩ Johnni Hansen bên Đan Mạch đã duyệt xét hồ sơ của trên 7000 phụ nữ
làm việc ca đêm và ông ta thấy nguy cơ ung thư vú ở những người này lên cao hơn . Ông ta chưa biết lý do
nhưng phỏng đoán là họ tiếp xúc nhiều với ánh sáng nhân tạo trong đêm làm việc.
9- Sinh hoạt gia đình, xã hội. - Đây là lãnh vực bị ảnh hưởng rõ ràng nhất của người làm việc theo ca
đêm hoặc ca bất thường.
Họ không tham dự được các sinh hoạt thường lệ với thân nhân cũng như với cộng đồng vì có mâu thuẫn trong
thời khóa biểu làm việc. Họ cũng bị bạn bè sao lãng vì giờ giấc khác nhau. Họ trở nên cô đơn, lạc lõng, vì khi
mình đi làm thì người khác nghỉ, sinh hoạt và ngược lại khi mình nghỉ thì họ đi làm. Có những cặp vợ chồng sáng
sớm vợ đi làm thì chồng vừa dứt ca về nhà, chỉ kịp chào hỏi nhau một câu, rồi một người đi làm một người đi ngủ.
10- Làm ca đêm cũng hay gây ra tai nạn xe cộ vì mệt mỏi khi lái xe về cũng như gặp những anh
hùng xa lộ túy lý càn khôn.
Giải quyết khó khăn
Có nhiều cách để giảm thiểu hậu quả không tốt của làm việc theo ca nhất là ca đêm.
1-Về công việc. - Công việc quá đơn điệu, nhắc đi nhắc lại cũng như công việc quá sức của công nhân dễ làm
họ bị căng thẳng.
Trong ca làm, cần dành thì giờ để công nhân nghỉ ít phút xả hơi. Tránh giao quá nhiều trách nhiệm hoặc kiêm
nhiệm công việc của người vắng mặt cho người làm ca đêm.
Cung cấp nơi làm việc thích hợp với tiện nghi tối thiểu.
2-Về công nhân. - Khi chia ca, cần để ý tới tuổi tác, tình trạng sức khỏe của công nhân. Cũng cần coi họ có khó
khăn làm ca trong quá khứ, và khả năng ứng xử ra sao.
3-Về phía chủ nhân - Chủ nhân có bổn phận cung cấp cho nhân viên một công việc không có rủi ro và nơi làm
việc an toàn. Đặt đèn sáng sủa nơi làm việc để làm thức tỉnh các chức năng cơ thể. Có máy bán thực phẩm làm
sẵn, đủ dinh dưỡng cho công nhân khi cần ăn đêm.
Sắp đặt thời khóa biểu sao để công nhân có chút thì giờ nghỉ xả hơi trong ca cũng như giữa hai ca. Đừng
khuyến khích làm thêm giờ ở công nhân làm ca.
Cho nhân viên ngủ chợp mắt để họ tỉnh táo, làm việc có hiệu năng và sản xuất cao hơn.
4-Về những ca khác nhau. - Giảm thiểu ca đêm, tránh làm ca đêm thường xuyên.
Tránh thay đổi ca quá gần. Lý tưởng nhất là giữ mỗi ca khoảng hai ba ngày trước khi đổi sang ca khác.
Ðổi ca theo chiều thuận sáng, chiều và đêm.
Ca đêm không nên lâu quá 8 giờ và có thì giờ để chợp mắt; cho nhân viên hay trước thời khóa biểu để họ sửa
soạn.
Tránh làm thêm giờ nhất là trước hoặc sau ca đêm.
Tránh để một người làm đêm một mình. Nếu cần lắm thì thiết lập hệ thống đối thoại với người ở công việc khác
để tránh cảm thấy cô độc.
Sau mỗi ca dành đủ thì giờ để nghỉ dưỡng sức, ít nhất là 16 giờ; người trên 45 tuổi nên để làm ca ngày.
5-Về phương diện cá nhân.
Người làm theo ca cũng cần trù bị để ứng xử với việc làm theo ca.
a- Tìm hiểu về ca mình sẽ làm, về công việc với các rủi ro.
Trong khi làm việc, cố giữ tỉnh táo bằng cách đối thoại với người cùng làm, lâu lâu thư giãn nghỉ xả hơi vài phút,
việc khó khăn nên làm vào đầu ca. Thông thạo sử dụng máy móc cơ khí để tránh tai nạn vì buồn ngủ
b- Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, tránh món ăn nhiều chất béo, lâu tiêu, khiến hay bị buồn ngủ; tránh thực
phẩm có nhiều gia vị cay chua
Ăn hai bữa thường lệ và một bữa nhẹ như trái cây, sữa vào khoảng giữa ca đêm.
Giới hạn cà phê khi sắp hết ca đêm để về nhà có thể ngủ được. Không nên dùng cà phê như thứ kích thích tỉnh
ngủ.
c- Ngủ nghỉ theo thói quen thường lệ - Cần tối thiểu là 4 giờ ngủ ngon và nằm nghỉ để hồi phục sức khỏe; tập
thư giãn cơ thể giữa giờ làm việc và giờ ngủ. Tìm khoảng thời gian nào thích hợp để ngủ: có người thích ngủ
ngay sau khi tan việc, có người ngủ trước khi đi làm ca kế tiếp. Nhiều người cho là ngủ trong khoảng thời gian từ
2 giờ chiều tới 9 giờ tối, trước khi bắt đầu ca đêm là tốt hơn cả. Phòng ngủ cần yên tĩnh, mát mẻ, không ánh
sáng giống như ban đêm.
d- An toàn lái xe ra về sau khi dứt ca nhất là sau một đêm thức trắng làm việc.
Nếu cảm thấy rất buồn ngủ thì nên chợp mắt ít phút trước khi lái xe. Nếu có thể được thì đi chung xe với đồng
nghiệp hoặc dùng phương tiện chuyên trở công cộng.
Tan sở lúc nửa đêm là càng phải cẩn thận vì có thể gặp vài anh say rượu trên bánh lái.
e- Duy trì sinh hoạt gia đình và xã hội tới mức tối đa. Vì làm theo ca, nên nhiều khi ta không tham dự các sinh
hoạt hàng ngày với vợ con, lối xóm. Thảo luận với họ để có sự thông cảm và sắp đặt thì giờ sinh huật vào lúc
thuận tiện cho mọi người.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC Texas-Hoa Kỳ -

Câu Chuyện Thầy Lang, Hiếm Muộn-Vô Sinh

Đã có thời kỳ người ta quy trách nhiệm về sự vô sinh, không có con nối dõi tông đường của cặp vợ chồng là do
lỗi ở người vợ. “Cây khô không lộc, người độc không con”. Thế là bà vợ bèn bị cả nhà chồng giáng cấp, hắt hủi,
ruồng bỏ.
Hoặc có quan niệm không con là do số phận, ý muốn của Thượng Đế. Nên đã có việc đi lễ bái, xin con cầu tự.
Hoặc tin không có con là do tiền oan nghiệp chướng, ăn ở ác đức từ kiếp trước cũng như bị tà ma ám ảnh nên
phải mời thầy về trừ oan, giải độc.
Có người lại tin rằng cứ đi xin con nuôi rồi sẽ đẻ con. Hoặc không con là do vợ chồng xung khắc, kị tuổi nhau,
chồng phải có vợ bé nàng hầu thì mợ cả mới có con thừa tự.
Chả bù với nhiều cặp vợ chồng đẻ dễ như gà, phải kế hoạch hóa, ngừa thai, khoan đẻ.
Trong những năm gần đây, sự hiếm muộn đã được công chúng nhắc nhở tới nhiều hơn vì số người không thể có
con tăng cao. May mắn là khoa học tiến bộ ngày nay đã làm sáng tỏ vấn đề và đã có nhiều phương pháp giải
quyết hoàn cảnh hiếm muộn này.
Định nghĩa - Vô Sinh được định nghĩa như một bệnh của bộ máy sinh sản ở cả người nam lẫn nữ, sau khi họ
đã cố gắng trong đời sống tình dục được một năm mà vẫn không có con, hoặc người nữ không tiếp tục mang
thai được cho tới ngày nở nhụy khai hoa.
Hiếm muộn thường có 35% nguyên nhân do người nam, 35% từ người nữ, 20% trách nhiệm cả đôi bên và 10%
không có giải thích. Có thống kê lại nói 60% do nữ, 40% do nam.
Vô sinh tuyệt đối, không thuốc chữa, khi vì lý do nào đó mà ngọc hoàn và noãn sào phải cắt bỏ hoặc không phát
triển đầy đủ, không sản xuất mầm sinh sản. Vô sinh tương đối, thứ phát có thể chữa chạy, điều trị được.
Sự thụ thai
Để được thụ thai người nữ cũng như người nam cần một số điều kiện hoàn hảo về cấu trúc cũng như chức năng
tcủa cơ quan sinh dục. Xin cùng ôn lại sau đây.
Người nữ có hai noãn sào nằm kế cận dạ con, tiết ra kích thích tố và tạo ra trứng. Trứng chứa đựng gene di
truyền người mẹ và sẽ thành con khi được kết hợp với tinh trùng.
Lúc mới sanh, hài nhi có khoảng hai triệu trứng, 3/4 số này thoái hóa trước tuổi dậy thì. Rồi tới tuổi trưởng thành
chỉ còn ba, bốn trăm trứng mà mỗi tháng noãn sào thả ra một trứng. Nếu kinh kỳ là 28 ngày thì trứng rụng vào
khoảng ngày thứ 14. Sanh đôi anh em nếu tháng đó rụng hai trứng hoặc sanh đôi đồng nhất khi trứng thụ tinh
tách làm hai. Sau khi rụng, trứng men theo ống dẫn trứng hy vọng gặp tinh trùng khi nam nữ giao hợp. Thường
thường trứng được thụ tinh trong thời gian từ 4 đến 20 giờ sau khi rụng và tinh trùng kết hợp với trứng khoảng
48 giờ sau khi giao hợp. Trứng và tinh trùng hội ngộ ở phần đầu của ống dẫn trứng rồi cặp nhau di chuyển về
dạ con để xây tổ ấm.
Để có khả năng sinh đẻ, người nữ phải có 1) một số trứng đầy đủ, lượng kích thích tố cân bằng nuôi trứng
trưởng thành; 2) ống dẫn trứng thông suốt; 3) niêm mạc dạ con tốt lành cho việc nuôi trứng và 4) chất nhờn
thuận lợi ở cổ tử cung để đón đưa tinh trùng vào dạ con.
Về phía người nam, tinh trùng được sinh sản nơi ngọc hành. Tinh trùng là một trong những tế bào nhỏ nhất của
cơ thể nhưng lại mang tất cả giống tính của người cha cho đứa bé.
Để sản xuất tinh trùng tốt lành, ngọc hành phải nằm trong môi trường mà nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ trong cơ thể
ba hoặc bốn độ. Do đó ta thấy túi ngọc hành được đấng Tối Cao cho treo lơ lửng hóng mát ngoài trời chứ không
nằm trong bụng như noãn sào. Khi thời tiết quá lạnh, túi ngọc hành lăn tăn co lại, kéo ngọc hành gần với háng,
làm nhiệt độ tăng. Cũng như khi mặc quần lót quá chật, sự cọ xát nâng cao nhiệt độ trong ngọc hành, gây trở
ngại cho sự tạo tinh trùng.
Mỗi lần giao hợp, xuất tinh có chừng 400 triệu chú tinh trùng được thả ra. Tinh trùng được tinh dịch nuôi dưỡng.
Tinh dịch do nhiếp tuyến và túi tinh dịch tiết ra. Dung dịch này có nhiều chất bổ dưỡng, hóa chất kiềm để trung
hòa độ acit trong dạ con và âm hộ đồng thời kích thích sự co bóp của dạ con để đưa chàng tinh trùng tới gặp
nàng trứng nữ. Tinh khí cũng theo ống tiểu ra ngoài, nhưng may mắn là sự tiểu tiện và sự xuất tinh được điều
khiển bởi hai hệ thần kinh khác nhau, nên hai sự việc không xẩy ra cùng một lúc. Chứ không thì trở ngại, chan
hòa.
Để chiếm đoạt được trứng nữ, tinh trùng cần khỏe mạnh, bơi nhanh, có số lượng cao và di chuyển thơ thới,
không trở ngại trong cơ quan sinh dục người nữ.
Nguyên nhân hiếm muộn
Sau đây là một số nguyên nhân có thể đưa tới sự không có con:
1- Người Nữ. - Sự hiếm muộn có thể vì không rụng trứng, không thụ tinh được hay không nuôi dưỡng mang
thai cho tới ngày khai hoa, nở nhụy. Có nhiều lý do như:
a- Mắc các bệnh kinh niên: tiểu đường, cao huyết áp, hen suyễn, phong thấp khớp...
b- Mất thăng bằng kích thích tố khiến kinh kỳ trồi sụt bất thường.
c- Dưới ảnh hưởng của tác nhân xấu như khói thuốc lá, rượu, hóa chất.
đ- Các bệnh nhiễm lan truyền do giao hoan, bệnh của ống dẫn trứng, viêm niêm mạc dạ con cũng là những trở
ngại cho sự thụ tinh.
e- Khi liên tục bị sẩy thai hoặc phá thai, niêm dạ con yếu hoặc nhiễm độc cũng gây hiếm muộn.
g- Sau một thời gian uống thuốc ngừa thai, kinh nguyệt trở nên không đều, sự rụng trứng sẽ bị rối loạn khiến thụ
tinh khó khăn.
h- Tuổi càng cao thì sự mầu mỡ sanh đẻ cũng giảm. Cũng nên nhớ là ở người nữ, thời gian mầu mỡ sinh sản tốt
nhất vào tuổi 18, 19. Sau đó khả năng sinh con giảm dần với tuổi cao và ngưng khi tắt kinh.
Ngoài ra cũng phải nói tới ảnh hưởng tâm lý ở người nữ hiếm muộn. Trầm cảm làm kích thích tố lên xuống bất
thường sẽ ảnh hưởng tới kinh nguyệt, sinh đẻ. Lo âu, dụt dè, kiềm chế tình dục có thể khiến ống dẫn trứng co
bóp, cản trở di chuyển của trứng...
2- Người nam. - Nhiều nguyên nhân hiếm muộn ở nam giới có thể chữa hoặc ngừa được. Cho nên bệnh
nhân cần được khám nghiệm, định bệnh và điều trị càng sớm càng tốt.
Nguyên nhân có thể là:
a-Số lượng tinh trùng ít đi hay không di động nhanh, mạnh trong trường hợp 1) người nam ghiền rượu, thuốc lá,
cần sa ma túy, uống một số dược phẩm trị bệnh, dùng nhiều kích thích tố nam testosterone; 2) mắc các bệnh
phong tình như HIV, giang mai; 3) nhiễm độc hóa chất trong kỹ nghệ chăn nuôi, đồng áng, tất cả đều có thể đưa
tới hiếm hoi.
b-Như đã trình bầy ở trên, nhiệt độ cao nơi trứng dái làm giảm sự sinh sản và phẩm chất của tinh trùng. Xin quý
vị hay đi tắm hơi, ngâm mình lâu trong nước nóng hoặc mặc quần lót quá chật lưu ý cho. Trẻ em mang tã lót bí
hơi cũng có ảnh hưởng tương tự.
c-Ngoài ra, khi ngọc hành nằm lì trong bụng, nhiếp tuyến sưng, biến chứng viêm ngọc hành của bệnh quai bị,
sau khi giải phẫu ruột sa (hernia), chấn thương hoặc nở tĩnh mạch trong túi ngọc hành cũng đều dự phần trong
việc gây hiếm muộn ở người nam.
Một nghiên cứu ở Áo Quốc cho hay ngồi xe đạp liên tục, nhất là đua xe trên đất sình lầy, cũng dễ đưa tới tổn
thương ngọc hành và làm giảm số lượng tinh trùng. Một bác sĩ tiết niệu Hoa Kỳ, Irwin Goldstein, còn cho là đi xe
đạp khiến ông ta mất khả năng ái ân vì chứng loạn cương dương. Tài xế lái xe tải đường trường cũng có nguy
cơ giảm tinh trùng.
Khám bệnh - Khi một cặp nam nữ muốn có con, đã hơn một năm cố gắng thực hiện chu đáo hành động giao
hợp mà vẫn không có hiệu quả thì cần đi khám bác sĩ. Bác sĩ chuyên sản phụ khoa có thể giải quyết vấn đề ít
phức tạp, nhưng bác sĩ chuyên về Nội Tiết-Sinh Sản chắc có nhiều kinh nghiệm kiến thức hơn. Đây là các bác sĩ
chuyên về sản khoa lại còn học thêm hai ba năm về vấn đề sinh đẻ, hiếm muộn.
Thường thường bác sĩ sẽ thử máu coi lượng kích thích tố có thăng bằng không; phân tích số lượng, sức di động
tinh trùng; chụp quang tuyến coi ống dẫn trứng người nữ có bị tắc nghẹt; thử nghiệm coi nội mạc tử cung có
hoạt động bình thường để nuôi trứng thụ tinh; tìm kiếm qua y sử các nguyên nhân có thể gây hiếm muộn cũng
như khám sức khỏe tổng quát cơ thể.
Điều trị
Người nữ không rụng trứng sẽ được cho uống hoặc chích thuốc kích thích sự rụng trứng. Khi ống dẫn trứng
nghẹt có thể được giải phẫu, thông để trứng và tinh trùng dễ dàng di chuyển.
Khi người nam không xuất tinh hoặc hiếm tinh trùng, chuyên gia có thể hút một tinh trùng từ ngọc hành rồi chích
vào trứng nữ để gây sự kết hợp. Khi tinh trùng người chồng không dùng được thì có thể mua một chú tinh trùng
của người khác trong ngân hàng tinh trùng đông lạnh. Trứng nữ cũng được dự trữ để bán hoặc thân tặng.
Có nhiều phương pháp thụ thai nhân tạo, thuê nhờ dạ con người khác để nuôi trứng thụ tinh, thụ thai trong ống
thử nghiệm đã được áp dụng, tuy tốn kém nhưng rất hiệu quả.
Sau đây là các phương thức nhân tạo, khoa học để có một thai nhi:
1-Trường hợp vợ chồng là cha mẹ sinh học và mẹ mang thai con:
a-Tinh trùng Chồng + trứng Vợï thụ tinh sau khi hai người giao hợp;
b-Lấy Tinh trùng chồng đặt vào tử cung vợ để thụ tinh với trứng vợ;
c-Tinh trùng chồng thụ tinh với trứng vợ trong phòng thí nghiệm rồi đặt vào tử cung vợ
2-Trường hợp xin trứng và tinh trùng người khác và vợ vẫn mang thai
a-Tinh trùng người cho đặt vào tử cung vợ
b-Tinh trùng người cho thụ tinh với trứng vợ trong phòng thí nghiệm rồi chuyển vào dạ con vợ;
c-Trứng người cho kết hợp với tinh trùng chồng rồi chuyển vào dạ con vợ;
3-Người nữ mang thai hộ:
a-Tinh trùng chồng được đưa vào kết hợp với trứng ngườiï nữ cho và mang thai hộ(surrogate mother);
b-Trứng người cho kết hợp với tinh trùng chồng trong phòng thí nghiệm rồi đưa vào tử cung người nữ mang thai
hộ;
c-Tinh trùng chồng kết hợp với trứng vợ, trong phòng thí nghiệm rồi chuyển vào dạ con người nữ mang thai hộ;
đ-Tinh trùng chồng kết hợp với trứng người cho trong phòng thí nghiệm rồi chuyển vào dạ con ngưỡi nữ mang
thai hộ;
e-Tinh trùng người cho kết hợp với trứng vợ trong phòng thí nghiệm rồi chuyển vào dạ con người nữ mang thai
hộ;
g-Trứng người cho kết hợp với tinh trùng người cho rồi chuyển vào dạ con người nữ mang thai hộ.
Việc cho-bán trứng và tinh trùng cũng như mang nặng đẻ đau hộ đã tạo ra nhiều vấn đề pháp lý, đạo đức, tôn
giáo, xã hội rất phức tạp. Do đó các nhà làm luật, quý vị thầy cãi lại có nhiều việc để làm
Chẳng hạn nếu người chồng không có tinh trùng, cần xin tinh trùng của một người khác để thụ tinh với trứng của
vợ, thì liệu người chồng có là cha của đứa trẻ mà người vợ mang nặng đẻ đau? Hoặc người cho tinh trùng có
quyền hạn pháp lý nào đối với đứa trẻ?
Người vợ vì lý do nào đó không mang thai con mình được, phải nhờ người nữ khác mang hộ, thì ai sẽ là mẹ hợp
pháp của đứa bé, là người cung cấp trứng hoặc người mang nặng đẻ đau?
Ngoài ra, để có thụ thai, hành động giao hợp giữa người nam và nữ cũng cần được thực hiện theo sách lược
riêng của mỗi cặp.
Thời gian 24 giờ trước và sau hoặc trong ngày rụng trứng, người nữ không dùng các loại thuốc bôi nhờn có thể
làm cản trở tốc độ bơi chạy, làm suy yếu tinh trùng, trứng, hoặc làm niêm mạc dạ con không thích hợp để nuôi
ấp trứng;
Người nam tránh tắm nước nóng trước khi giao hợp. Xin nhớ là tinh trùng sau khi được tung ra chỉ duy trì khả
năng thụ tinh khoảng 3 ngày.
Khi mà mọi chữa chạy đều không có con thì nhiều cặp vợ chồng xin nhận con nuôi. Để mang lại một chút đầm
ấm, rộn rịp trong nhà líu lo tiếng nói tiếng cười của trẻ thơ. Với nhiều người, con đẻ hoặc con nuôi, đều là con
cả. Miễn là chúng được dưỡng dục chu đáo để thành người hữu dụng cho gia đình, xã hội.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC, Texas-USA - Câu Chuyện Thầy Lang,

TUỔI TÁC VÀ VIAGRA

Hỏi: Xin cho biết bao nhiêu tuổi thì dùng được Viagra hoặc các thuốc cùng loại. Trên 60 tuổi còn có thể dùng
thuốc này hay không? Giữa Viagra và các thuốc mới như ______, Levistra, thuốc nào mạnh hơn? Nếu dùng Viagra
không có hiệu quả, có nên dùng các loại thuốc mới này không? (Ông T., Vu, H, ông gia gân, Gừng Già)
Ðáp: Câu này đã có người hỏi và đã được trả lời hơn một năm về trước. Vì có nhiều người hỏi và có thể các
ông khó có thể tìm được báo cũ, nên xin được đăng lại câu các câu trả lời.
Viagra, Levitra, ______ (các loại thuốc chữa erectile dysfunction) là các thuốc “cấm trẻ em dưới 18 tuổi” (dù chúng
ta thường nói rằng “tình yêu” không phân biệt tuổi tác); vì thuốc này không được thử ở lứa tuổi còn quá nhỏ cho
các “chuyện người lớn”.
Còn người lớn tuổi thì như thế nào? Các nhà sản xuất của các loại thuốc này, thường xếp người tuổi cao
(elderly) vào nhóm cần phải thận trọng (precaution) khi dùng thuốc. Vì khi tuổi cao, các cơ quan thường đã hơi
“rệu”, sự chuyển hóa của gan, thận thường giảm sút so với lúc trẻ. Người cao tuổi cũng thường có nhiều bệnh
hơn lúc còn trẻ và có thể đang dùng một số thuốc có thể tương tác một cách nguy hiểm với Viagra và các thuốc
tương tự.
Một cách ngắn gọn, “sáu mươi năm cuộc đời” không phải là một chống chỉ định tuyệt đối cho nhóm thuốc này.
Tuy nhiên, quí ông hơi cao tuổi nếu còn muốn “thử xem thế nào”, cần phải gặp bác sĩ để được thăm khám, kiểm
tra các thuốc đang dùng một cách rất cẩn thận trước khi bác sĩ có thể kê toa.
Như vậy, nhân dịp năm mới sắp tới, xin quí ông đừng tặng nhau Viagra, Levitra hay ______ để... “xài thử cho biết”,
kẻo lại thành “hại bạn”. Bác sĩ là người duy nhất có thể giúp đỡ trong trường hợp này.
Viagra và các thuốc tương tự chỉ là một yếu tố đóng góp trong vấn đề tình dục ở người cao tuổi. Còn rất nhiều
yếu tố khác cần phải quan tâm trong vấn đề rất hay và quan trọng này. Chúng ta sẽ bàn đến trong một lần khác.
Nếu dùng Viagra không có hiệu quả thì có dùng các thuốc mới cùng loại không? Trước khi nói là Viagra không
có hiệu quả, phải kiểm tra lại xem mình đã dùng thuốc đúng cách chưa. Vì Viagra, tùy theo từng trường hợp khác
nhau, có hiệu quả từ khoảng 60% đến 80%
Dùng Viagra đúng cách là như thế nào?
Nên nhớ uống Viagra từ khoảng 30 phút tới một tiếng trước khi “lâm trận”. Không cần phải lo lắng không đủ thời
gian, vì Viagra có tác dụng kéo dài tới bốn tiếng đồng hồ.
Các thức ăn có nhiều chất béo làm thời gian hấp thu của thuốc chậm lại, do đó, nên tránh ăn dầu mỡ trước khi
dùng thuốc. Nếu đã ăn dầu mỡ, thì nên nhớ rằng thời gian bắt đầu tác dụng của thuốc có thể chậm lại.
Viagra là thuốc giúp làm cương dương vật khi có kích thích tình dục. Viagra không phải là thuốc kích thích. Do
đó, uống Viagra rồi ra ngắm trăng, làm thơ mà không có các kích thích tình dục thì Viagra sẽ không thể phát huy
tác dụng
Thường thì Viagra có tác dụng ngay trong lần dùng đầu tiên hoặc lần thứ hai. Tuy nhiên, có thể tới lần thứ ba,
thứ tư mới thấy công hiệu của Viagra.
Có nhiều nguyên nhân gây ra sự tình trạng (tạm gọi là) “bất lực”; trong đó sự căng thẳng (stress) là một trong
những nguyên nhân hàng đầu. Vì vậy, quá căng thẳng, lo lắng chờ đợi tác dụng của thuốc, cũng là một trong
những điều làm thuốc giảm hoặc không có tác dụng. Nếu thuốc không có tác dụng với liều thấp, có thể thảo luận
với bác sĩ để tăng liều từ từ xem thế nào.
Một số thuốc men có thể ảnh hưởng đến tác dụng của Viagra. Do đó, nên luôn luôn đến bác sĩ để được thăm
khám cẩn thận trước khi cho thuốc. Không nên tự mua thuốc không cần toa bác sĩ, như quảng cáo rất nhiều trên
internet, vì Viagra có thể gây ra nguy hiểm có khi chết người nếu dùng không đúng.
Sau khi đã thử dùng Viagra cho đúng cách (nghề... uống thuốc cũng lắm công phu, phải không ông) mà cũng
chưa thấy gì, thì bác sĩ có thể cho thử các thuốc mới như Levitra, ______ xem thế nào. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết,
cơ chế hoạt động của Levitra, ______ cũng giống như của Viagra. Có đến phân nửa đàn ông trong lứa tuổi 40 đến
70 có vấn đề giống như quí ông từ nhẹ tới nặng. Xin đừng quá lo âu. Nên nhớ rằng Viagra không phải là cách
duy nhất để trị bệnh... “lực bất tòng tâm”.
Một lần tới, ta sẽ phân tích chi tiết hơn lợi hại của các thuốc “ông uống bà khen hay” này.
Thân mến,
Bác Sĩ Của Bạn, Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng

HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY

Hội chứng ống cổ tay là một tập hợp các triệu chứng của một bệnh thần kinh ngoại biên thường gặp, nhất là ở
phụ nữ, do nhiều nguyên nhân khác nhau trong dó có nguyên nhân nghề nghiệp. Từ “ống cổ tay” dịch từ “carpal
tunnel” tương đối sát nghĩa, từ “cườm tay” dễ nghe hơn nhưng không được sát nghĩa.
SƠ LUỢC VỀ CƠ THỂ VÀ SINH LÝ BỆNH - Ống cổ tay là khoảng trống ở giữa xương cổ tay và các
dây chằng bao quanh các gân gấp của bàn tay. Thân kinh “Giữa” chui qua ống cổ tay cùng với các gân cơ.
Thần kinh Giữa là thần kinh hỗn hợp, vừa truyền cảm giác từ ngoại biên về trung ương vừa truyền mênh lệnh
vận động từ trung ường đến caác bắp thịt của ngón tay. Phạm vi của thần kinh Giữa là các ngón tay cái, trỏ,
giữa và nửa trong của ngón tay đeo nhẫn. Vì chui qua một ống hẹp giống như chui qua một đường hầm chật
chội nên thần kinh Giữa dễ bị chèn ép nếu các gân cơ bị sưng phù do đó gây ra các triệu chứng về cảm giác và
vận động của các bắp thịt liên hệ.
TRIỆU CHỨNG - Bệnh nhân cảm thấy đau ở cổ tay. Đau lan xuống ngón cái, trỏ, giữa và nửa trong của
ngón tay đeo nhẫn. Bệnh nhân cũng cảm thấy tê, giống như kiến bò hoặc kim châm. Cảm giác đau và tê cũng
lan lên cẳng tay. Bệnh nhân thường phải lắc bàn tay để bớt khó chịu Triệu chứng tăng thêm vào ban đêm, làm
bệnh nhân khó ngủ. Dần dần bệnh nhân có thể mất cảm giác ở các ngón này. Ngón tay cái có thể bị yếu rồi bắp
thịt bàn tay ở dưới ngón cái bị teo nhỏ.
Triệu chứng có thể xảy ra ở cả hai tay, nhưng thường nặng hơn ở bàn tay thuận.
NGUYÊN NHÂN - Nhiều nguyện nhân làm cho thần kinh giữa bị chèn ép như
1. mấu xương ở khớp cổ tay hoặc dị dạng do gẫy cổ tay,
2. tê thấp làm sưng khớp,
3. thai kỳ, cơ thể phụ nữ giữ nhiều nước khi có thai khiến họ lên cân,
4. tiểu đường, có thể gây thoái hóa dạng bột,
5. nhược giáp gây sưng phù,
6. các cử động liên tiếp của cổ tay. Đây là một bệnh nghề nghiệp, xảy ra do sử dụng máy có rung chuyển khi vận
hành như máy cưa, hoặc làm các nghề đòi hỏi phải cử động tay liên tục như đánh máy, gõ trên bàn phím của
máy vi tính, thu tiền, làm việc trong dây truyền thực phẩm…Cách cầm dụng cụ, tư thế của bàn tay, tư thế của cơ
thể có ảnh hưởng trong việc gây triệu chứng.
CHẨN ĐOÁN - Chẩn đoán dựa vào bệnh sử và lâm sàng. Gõ vào thần kinh giữa ở cườm tay hoặc giữ bàn
tay ở thế gập trong 1 phút có thể gây ra hoặc làm tăng triệu chứng. Có khi cần bổ tức bằng cách đo vận tốc
luồng thần kinh, đo điện cơ đồ, khảo sát thần kinh Giữa bằng siêu âm hoặc MRI (cộng hưởng từ).
Cần phân biệt với chứng đau và tê thần kinh do chèn ép từ trên cột sống cổ. Cần tìm các bệnh kết hợp gây hội
chứng ống cổ tay như tiểu đường, nhược giáp…
Tuy gây triệu chứng phiền toái nhưng thông thường hội chứng cổ tay không nguy hiểm. Một số trường hợp tự
khỏi sau một thời gian, những người bị hội chứng cổ tay do thai kỳ sẽ khỏi sau khi sinh, một số sẽ bớt hoặc khỏi
sau khi sửa đổi tư thế và cách làm việc hoặc sau khi điều trị bệnh căn bản, một số tiến triển làm yếu, liệt và teo
bắp thịt bàn tay cần giải phẫu. Sự tiến triển của hội chứng cũng tùy thuộc ở các yếu tố khác nữa như sự căng
thẳng ở chỗ làm và tinh thần của người bệnh. Ở một số người, hội chứng ống cổ tay làm họ trở nên chán nản
buồn bực, và trầm cảm.
ĐIỀU TRỊ - Cần dùng nhiều biện pháp:
1. nẹp cổ tay để giữ bàn tay ở vị trí trung gian, giảm các hoạt động gập và xoay cổ tay liên tiếp do dó giảm sưng
phù của các đầu gân cơ;
2. thuốc uống gồm thuốc giảm đau chống viêm không steroid, và thuốc steroid; thuốc steroid có hiệu quả hơn là
thuốc chống viêm không steroid;
3. tiêm steroid một cách thận trọng vào trong ống cổ tay có hiệu quả hơn thuốc uống;
4. điều trị bằng siêu âm có thể có hiêụ quả trong dài hạn;
5. giải phẫu, nhằm giảm áp lực trong ống cổ tay khi các phương pháp điều trị bảo tồn không đạt kết quả.
6. điều trị các bệnh tổng quát nếu có như tê thấp, nhược giáp, mập phì, tiểu đường…
PHÒNG NGỪA - Cần lưu ý đến tư thế khi làm việc:
1. giữ cho bàn tay trên cùng mặt phẳng với cẳng tay,
2. không nắm dụng cụ quá mạnh,
3. không gõ bàn phím quá mạnh,
4. đổi tay nếu có thể đuợc;
5. nghỉ mỗi 15-20 phút;
6. giữ tay ấm,
7. không gối đầu trên tay khi ngủ,
8. thư dãn.
Bs Nguyễn Văn Ðích

Bệnh Tự Kỷ

1) Bệnh Tự Kỷ Và Môi Trường Ô Nhiễm Thủy Ngân
Gs Claudia Miller thuộc Đại Học Y Khoa Texas, Antonio, vừa tường trình trong báo Health @ Place nghiên cứu
dịch tễ ô nhiễm thủy ngân liên hệ bệnh tự kỷ (Autism).
Cuộc nghiên cứu bệnh tự kỷ này nhắm vào các học sinh trong 1200 trường học tại tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Kết
quả cho thấy trung bình cứ vài ngàn cân mercury phế thải ô nhiễm lại tăng cao 17% nguy cơ bệnh tự kỷ. Hay nói
cách khác có sự liên hệ trực tiếp giữa ô nhiễm thủy ngân và bành trướng số bệnh tự kỷ ở vùng Texas. Thủy
ngân ô nhiễm ở vùng này có thể do những nhà máy than đá phế thải. (Mỗi năm khoảng 48 tấn thủy ngân phế
thải trong không khí từ những nhà máy đốt than ở Mỹ). Health and Place, March 2005
(Bàn thêm: Bệnh tự kỷ trẻ em là do phát triển não khuyết tật. Bệnh nhân tự kỷ mất khả năng giao tế trong xã hội.
Nhiều bệnh nhân tự kỷ có những cử chỉ bất thường khi học tâp, chú ý hay có những phản ứng cảm giác khác
thường. Bệnh nhân thường lơ đãng, không muốn gần những người xung quanh. Bệnh nhân khó hoà nhập vơí xã
hội như không thể nói hay diễn tả, không thể chơi vơí những trẻ lành mạnh, hay khó khăn trong những liên hệ
đối vơí những người xung quanh.
40% trẻ tự kỷ không muốn nói năng gì. Nhiều khi không bắt kịp hay hiểu được những người xung quanh muốn
nói gì. Trẻ tự kỷ làm việc gì hầu như cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Trẻ chỉ muốn làm một việc có thứ tự hàng
ngày thường làm. Nếu bố mẹ muốn thay đổi thứ tự khi làm một việc gì thì trẻ thấy khó chịu. Chẳng hạn hàng
ngày rửa mặt rồi mơí mặc quần áo, nhưng nêu bố mẹ muốn trẻ mặc quần áo trước rồi lau mặt sau, thì bệnh nhân
tỏ vẻ bất mãn ra mặt. Bệnh tử kỷ bắt đầu từ lúc còn nhỏ tuổi rồi lần lần giảm đi khi lớn tuổi. Hay nói chung trẻ em
bị bệnh tự kỷ nhiều hơn người lớn. Bệnh cũng nặng nhẹ tùy theo từng người.
Nghiên cứu tại Âu Châu và Á Châu cho biết cứ 1000 trẻ lại có 6 em bị bệnh tự kỷ.
Nghiên cứu năm 1996 tại Atlanta cho thấy cứ 1000 trẻ em ở Mỹ lại 3 tới 4 em bị tự kỷ.
Nghiên cứu năm 1998 ở New Jersey cho biết 6.7 trong số 1000 trẻ em tuổi từ 3 tới 10 lại có ít nhất một trẻ bị tự
kỷ.
Trong năm học 2000-2001 tại Hoa Kỳ 150,000 trẻ em từ 3 tới 5 tuổi bị tự kỷ và 78,000 trẻ em và người lớn từ 6
tới 21 tuổi bị bệnh tự kỷ. Chính phủ Mỹ phải mở ra những chương trình học tập hay huấn nghệ đặc biệt cho
những trẻ em hay thanh niên bị tự kỷ.
Nói chung thì trẻ em bị bệnh tự kỷ ở Hoa Kỳ càng ngày càng tăng cao.
Vài chuyên gia cho rằng ít nhất bây giờ có 1 triệu rưỡi trẻ em ở Mỹ bị tự kỷ.
Khoảng 1-2 tuần trước đây, chính phủ Mỹ muốn cắt giảm môi trường ô nhiễm do thủy ngân gây ra, 50% trong
vòng 15 năm. Nhưng các chuyên viên cho rằng không đủ và muốn muốn cắt giảm thêm, tới 90%.
Nghiên cứu môi trường ô nhiễm thủy ngân và bệnh tự kỷ có lẽ bắt nguồn từ những nghiên cứu bàn cãi rầm rộ
trước đây không lâu về chất gốc thủy ngân thimerosal trong thuốc chủng ngừa bệnh Ban Ðỏ Measles, Quai Bị
Mumps và Ban Ðỏ Rubella gọi tắt là MMR.
Bàn cãi liên hệ bệnh tự kỷ và thuốc chủng ngừa MMR bắt đầu từ năm 1998. Một số bác sĩ và bệnh nhân khuyến
cáo liên hệ bệnh tự kỷ và thuốc chủng MMR trong số 12 trẻ em. Triệu chứng bệnh tự kỷ xuất hiện ở trẻ em một
tuổi sau khi chích ngừa mũi thuốc MMR lần đâu tiên. Viên Y Khoa Hoa Kỳ có đưa ra 2 kết quả nghiên cứu cho
rằng có thể có liên hệ giữa bệnh tự kỷ và chất gốc thủy ngân thimerosal trong thuốc chủng ngừa MMR. (Ðể chất
gốc thủy ngân trong những thuốc chủng ngừa là để giữ cho thuốc chủng không bị nhiễm trùng).
Tuy nhiên, kết quả cho rằng chưa đủ dữ kiện kết luận liên hệ giữa chất thimerosal gốc thủy ngân và bệnh tự kỷ.
Trong 5 nghiên cứu (phần 1) khác tìm hiểu liên hệ giữa thủy ngân thimerosal và tự kỷ và 14 nghiên cứu (phần 2)
tìm hiểu liên hệ giữa thuốc chủng MMR và bệnh tự kỷ. Kết quả cho thấy xác suất trong những nghiên cứu hầu
như không thể kết luận liên hệ chắc chắn giữa chất thimerosal và bệnh tự kỷ, mặc dầu 5 nghiên cứu thấy có sự
liên hệ giữa bệnh tự kỷ với chất thimerosal và 2 nghiên cứu khác thấy có sự liên hệ giữa bệnh tự kỷ và thuốc
chủng MMR.
Kết quả nghiên cứu năm 1998 thấy có những triệu chứng bộ máy tiêu hóa của trẻ em dường như do liên hệ giữa
bệnh tự kỷ và thuốc chủng MMR.
Trong một nghiên cứu khác tại Ðại Học Y Khoa Harvard khám phá siêu vi trùng bệnh sởi ban đỏ trong đại tràng
trẻ em bị bệnh tự kỷ, nhưng không thể đưa tới kết luận rõ ràng. Nói tóm lại, theo Viện Y Khoa Hoa Kỳ năm 2004
cho biết thì chưa thể chắc chắn để kết luận có liên hệ giữa chất gốc thủy ngân thimerosal và bệnh tự kỷ hay
không?.
Dù sao, trong những năm gần đây, hầu hết các thuốc chủng ngừa không còn chứa chất thimerosal nữa.
CDC khuyến cáo nên khám phá bệnh tự kỷ trẻ em sớm, 18 tháng sau khi mới sinh. Bởi vì hiện giờ phần lớn bệnh
tự kỷ trẻ em chỉ khám phá ra lúc đã 4-6 tuổi. Chẳng hạn trẻ mới 2 tuổi bình thường có thể đọc tên được vật gì
hay súc vật gì khi bố mẹ chỉ và hỏi. Mặc dầu trẻ mới nói được 2-4 chữ. Khi trẻ lớn 3 tuổi thì có thể bắt chước
được động tác của bố mẹ hay nói được nhiều hơn).
2) Di Thể Bệnh Tự Kỷ (Autism)
Khoa học gia D.Q. Ma cùng những cộng sự viên thuộc Ðại Học Y Khoa Duke nghiên cứu từng phần gene mã
hóa thụ thể GABA trong 470 gia đình người da trắng. Trọng tâm của cuộc nghiên cứu là muốn tìm hiểu 14 di thể
(genes) phản ứng tương tác liên hệ bệnh tự kỷ Autism.
Các chuyên gia đã khám phá một trong những di thể (genes) quan trọng và căn bản nhất của bệnh tự kỷ đặt tên
là GABRA4. Dường như nguy cơ bệnh tự kỷ tăng cao hơn khi GABRA4 phản ứng tương tác vơí một di thể khác
GABRB1. GABRB1 là di thể thứ 2 của GABA. Khám phá kể trên mở đầu cho một loạt nghiên cứu tìm hiểu tương
tác nhiều di thể khác nhau liên hệ bệnh tự kỷ.
Lần đầu tiên, các khoa học gia đã liên hệ một phần nhiễm sắc thể (chromosome) số 15 với nguy cơ bệnh tự kỷ.
Không phải chỉ có một di thể gây nguy cơ bệnh tự kỷ mà có thể ít ra 10 di thể hay 100 di thể liên hệ bệnh tự kỷ.
The American Journal of Human Genetics, September 2005.
(Bàn thêm: Tự kỷ là bệnh não bộ mất khả năng liên hệ giữa người nọ với người kia.
Triệu chứng tự kỷ phát hiện nơi trẻ em trước 3 tuổi, đôi khi trễ hơn. Triệu chứng thường thấy đầu tiên khi trẻ có
vấn đề tập nói hay tâm trí nảy nở khác thường, so vơí những trẻ em cùng tuổi. Trẻ không nói được dễ dàng, như
bị điếc, mặc dầu thử nghiệm thính giác vẫn bình thường.
Ðộ thông minh trẻ bị tự kỷ kém hơn bình thường, 70%.
Trẻ bị tự kỷ thường bị ưu trầm, buồn rầu.
Khi lớn lên, đi học khó khăn hơn.
Cơ nguyên bệnh tự kỷ do di truyền. Chất serotonin dẫn truyền trong tăng cao.
Rất nhiều nghiên cứu khác hiện đang diễn tiến, tìm hiểu nguyên nhân bệnh tự kỷ).
Trần Mạnh Ngô, M.D., Ph.D.

Trẻ em chậm nói và khờ dại : Chứng Autism

Báo chí và truyền hình Mỹ gần đây loan tin về Hội nghị Thần kinh học Hoa kỳ tại San Diego, có một nhóm chuyên
gia báo cáo kết qủa sơ khởi thử được bệnh autism nơi trẻ sơ sanh. Các thử nghiệïm này, thực ra là còn trong
vòng nghiên cứu, và cần kiểm chứng thêm, nếu có dùng được thì cũng mất vài ba năm. Chứng autism là gì? Trẻ
em bị chứng autism ( đọc tựa như o- TÍ –dầm ) không phát triển được về mặt giao tiếp với mọi người, chậm nói
và nếu bị nặng thì không nói được luôn, lủi thủi chơi một mình, thường là lẩn thẩn chơi một kiểu hoài không chán,
và không phát triển được trí khôn bình thường. Tiếng Việt không có danh từ tương đương, ngoại trừ danh từ "
Khờ" để chỉ người chậm trí ( mentally retarded). Tuy rằng phần lớn người bị bệnh autism ít nhiều cũng bị chậm trí
ï, nhưng chậm trí khôn là do nhiều nguyên nhân sinh ra, nghĩa là có nhiều người " khờ" mà không phải do autism.
Các dấu hiệu bất thường là do người nhà nhận xét thấy, khoảng một tuổi trở lên, tới hai, ba tuổi thì đã khá rõ
ràng đến độ gia đình phải đưa em nhỏ đi bác sĩ chuyên môn. Bé trai bị nhiều hơn bé gái , từ hai tới bốn lầøn, tùy
theo thống kê. Trong số 10 ngàn trẻ em, thì từ hai đến năm em bị chứng này ,tức là bệnh không phổ biến, nhưng
cũng không phải là hiếm lắm.
Nguyên do không được rõ lắm, nhưng có yếu tố di truyền, vì các trẻ sinh đôi thường nếu bị thì bị cả hai luôn. Các
yếu tố khác thì có thể kể nhiễm trùng khi mang thai ( một vài thứ bệnh do cực vi trùng ), bệnh bẩm sinh do rối
loạn nhiễm sắc thể X gọi là " nhiễm sắc thể X mong manh" và một bệnh gọi tắt là PKU. Trẻ em bị bệnh PKU vì
bẩm sinh thiếu chất men để biến dưỡng chất phenylalanine có nhiều trong các chất đạm như sữa và thịt cá. Chất
này không biến hóa đi được, tích tụ lại và làm hư óc.
Triệu chứng bệnh
Như đã nói trên, đứa trẻ ưa tha thẩn một mình, không ham được nựng nịu, ít bám mẹ hơn các trẻ khác. Không
thấy "hóng chuyện", con mắt không lanh lợi, không nhìn người đối thoại (tiếng Anh gọi là không có eye contact).
Vẻ mặt và dáng điệu khi đối thoại có vẻ ù lì không như trẻ bình thường. Lớn chút nữa, thì không thích chơi với
bạn, mà có chơi, thì cũng không coi người ta như " bạn chơi", không để ý chung chạ chia sẻ đồ chơi hay qùa
bánh cho vui. Có làm phiền, làm khổ người ta cũng không rõ. Chậm nói, chỉ nói được ít tiếng và làm như không
buồn nói (Lớn lên thì nói được nhiều ít tùy trường hợp). Có hỏi thì phần nhiều không hiểu và không trả lời, có khi
lại nhắc lại câu hỏi. Chẳng hạn người lớn hỏi : "Em muốn đi không?" thì em bé lại nói : "Đi không". Cái chứng
nhái lại câu người ta nói như " tiếng vang" này, danh từ y học gọi là echolalia. Ưa ngồi lẩn thẩn xếp mấy thứ đồ
chơi thành hàng thành dãy, lần nào cũng như lần nào. Ham nhìn cánh quạt quay, có khi đứng bên cửa liên tiếp
mở cánh cửa ra rồi đóng lại hoài không biết chán. Ngồi lắc lư, vỗ tay, bật ngón tay hay là đi nhón gót lấy làm
thích thú. Có cái gì thay đổi , dù là nhỏ nhặt, hay phản ứng ồn ào giận dữ. Thí dụ như chỗ ngồi quen ở bàn ăn, bị
người khác ngồi vào, hay là trong nhà sắp xếp lai ï bàn ghế đồ đạc thì nổi cơn cáu kỉnh, có khi đập phá.
Bác sĩ cho thử nghiệm những gì? - Bệnh này không có thử nghiệm chuyên biêït nào để định bệnh.
Bác sĩ chỉ căn cứ vào bệnh tình do người nhà kể lại, đồng thời quan sát thêm mà đoán bệnh. Vấn đề khá quan
trọng, vì các trẻ em bị autism, theo luật được hưởng nhiều chương trình đặc biệt do chính phủ tài trợ. Các thử
nghiệm thường là để tìm nguyên nhân, trong một số trường hợp. Thí dụ như thử máu để coi có bệnh PKU ( hiêïn
nay thì các trẻ mới lọt lòng đều có thử bệnh này, vì nếu biết sớm và cho ăn theo chế độ đặc biệt, thì óc không bị
hư), thử nhiễm sắc thể để coi có bị nhiễm sắc thể X bất thường không...
Bác sĩ cũng cho thử chỉ số thông minh, gọi là IQ test ( intelligence quotient ), lấy người bình thường là 100, người
có IQ dưới 80 kể như là bị chậm trí. Thử thông minh cho trẻ em bị autism rất khó, vì trí khôn của các em các mặt
phát triển không đều. Thường thì các trẻ bị autism rát kém về mặt ngôn ngữ,nhưng các mặt khác thì khá hơn. Nói
chung thì tơiù ba phần tư các trẻ em bị autism có chỉ số thông minh dưới 70. Trong số các trẻ em bị " khờ" nặng ,
nghĩa là chỉ số thông minh không được 50, thì có tới một phần ba sẽ bị bệnh động kinh trước khi tới tuổi trưởng
thành.
Những thử nghiệm khác là thử về óc, như chụp quang tuyến cắt lớp ( CT scan; computed tomography) chụp hình
cộng hưởng từ ( MRI: magnetic resonance imaging).
Tiến trình và chữa trị - Các triệu chứng bệnh thường là kéo dài suốt đời. Tương lai bệnh nặng nhẹ nhiều
ít, là do khả năng phát riển về ngôn ngữ trong sáu bảy năm đầu. Theo kinh nghiệm trong quá khứ, thì những trẻ
có chỉ số thông minh dưới 50, phần lớn về sau là gia đình chăm lo không nổi, mà phải gửi vào các trung tâm nuôi
dưỡng. Như trên đã nói những trẻ này lớn lên hay bị bệnh động kinh.
Chỉ có một số rất ít trẻ nhỏ bị autism về sau có được một đời sống tạm gọi là tự lập. Khoảng một nửa có thể
chăm sóc tại nhà và theo những chương trình đặc biệt của chính phủ. Còn độ một nửa thì vì trí khôn qúa kém,
cộng thêm vấn đề tính tình bất thường như hung hăng có thể nguy hiểm cho bản thân hay cho người khác, cho
nên phải gửi vào các trung tâm nuôi dưỡng.
Các chương trình đặc biệt, thì trước hết phải kể việc "dậy nói" (speech therapy). Chương trình này cần được tiến
hành càng sớm càng tốt. Ngoài ra, là các chương trình vật lý trị liệu, nghề nghiệp trị liệu (học làm những công
việc đơn giản). Cũng có những chương trình tâm lý trị liệu cho các trẻ em bị vấn đề tính tình, cư sử (hung hăng ,
đập phá, v.v..). Các thuốc loại tâm thần là để kiềm chế các tính tình có hại cho bản thân hay cho người khác, chứ
không phải là chữa bệnh. Những thuốc loại này là các thuốc bệnh tâm trí (chữa bệnh điên) như Haldol,
Risperidone và các thuốc thuờng để chữa phiền muộn, như Zoloft, Paxil, v.v....
Một chứng tương tự ở trẻ em lớn tuổi hơn
Có những trẻ em cỡ bảy tám tuổi, có khi mười, mười hai mới bắt đầu thấy phát hiện triệu chứng bệnh. Trong
trường hợp này, người ta gọi là chứng autism lạc kiểu ( atypical autism). Giống như các trẻ em bị từ hồi nhỏ, các
trẻ lớn mới phát bệnh này cũng ưa lủi thủi một mình không thích chơi với người khác, và thường có những cử chỉ
kỳ cục. Vào tuổi đó thì đã biết nói, cho nên không có trẻ nào bị câm, nhưng cách ăn nói không được bình thường
trong việc sử dụng ngôn từ , hoặc là ngờ nghệch trong việc phát biểu.
Có trẻ bị thêm một chứng gọi là hội chứng Tourette ( Tourette syndrome). Người bị hôïi chứng này, lâu lâu lên
cơn giựt. Có hai loại " lên cơn", một là về động tác, hai là về tiếng nói. Lên cơn về động tác, thì không chỉ đơn
gỉan như bị máy mắt ( mí mắt tự nhiên giựt liên hồi không ngưng được), mà còn thêm nhiều "trò" nữa, thí dụ như
lúc lắc cái đầu, miệng há lớn, cổ vươn ra. Cũng có thể lên cơn múa chân múa tay, đấm đá không tự kiềm chế
được. Lên cơn về tiếng nói, thì bỗng dưng đang nói chuyện bình thường "sủa" ra vài tiếng như chó sủa, cũng có
người "xổ" ra một tràng chửi thề. Cũng có khi đang nghe người ta nói chuyêïn, lại nhái lại mấy tiếng của người ta
vừa nói (echolalia). Dĩ nhiên là những người bị như vậy thì khó thích ứng với xã hội, con nít còn bị đòn oan vì bố
mẹ tưởng con hư. Tuy rằng hội chứng Tourette không phải là bệnh " điên", nhưng bác sĩ có thể cho uống Haldol
(là một thứ thuốc chữa bệnh điên) để làm giảm bớt những cơn giựt .
Bs Vũ Quý Ðài, M.D., Ph.D., Cựu Giáo Sư và Khoa Trưởng Y Khoa Ðại Học Sài Gòn,

Ðiều trị ung thư

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Hiện nay có ít nhất bốn phương pháp để điều trị ung thư: giải phẫu, xạ trị, hóa trị và miễn dịch trị liệu
immunotherapy. Mục đích các phương pháp này là tiêu diệt tế bào ung thư mà cố gắng không gây tổn thương
cho tế bào bình thường. Phương pháp có thể dùng riêng rẽ hoặc phối hợp với nhau. Tiến bộ về kỹ thuật đã tăng
hiệu quả và an toàn của các phương pháp và nhiều bệnh nhân đã được cứu sống.
Khi một ung thư đã được xác định và có khả năng chữa được thì bác sĩ phải thảo luận với bệnh nhân về tất cả
các phương thức trị liệu có thể mang ra dùng. Hỗ trợ tinh thần bằng tâm lý trị liệu rất quan hệ. Đôi khi bệnh nhân
cũng cần được hướng dẫn về các trị liệu hứa hẹn nhiều hơn là có thực lực, để tránh tiền mất tật mang và chậm
trễ trong việc chữa bệnh.
1- Giải phẫu.
Giải phẫu là phương pháp điều trị cổ điển nhất nhưng cũng rất công hiệu đặc biệt là với ung thư thu gọn ở một
phần nào đó của cơ thể. Khi giải phãu, tế bào ung thư được lấy đi càng nhiều càng tốt. Ðôi khi tế bào lành cũng
được cắt bỏ để chắc chắn là tế bào ung thư lẫn vào đã được loại hết.
Hiệu quả tùy thuộc vào một số yếu tố:
a-U bướu thu gọn ở một chỗ và chưa di căn;
b-Tế bào ung thư tăng sinh chậm;
c-Vị trí của u bướu;
d-Khả năng chuyên môn của phẫu thuật gia;
e-Công hiệu của các dịch phụ hỗ trợ như thuốc mê, kiểm soát ngừa nhiễm trùng, tiếp máu, dụng cụ giải phẫu và
chăm sóc sau khi mổ,
2- Xạ trị
Ðây là phương tiện thường dùng. Quá nửa các loại ung thư được chữa bằng xạ trị đặc biệt là ung thư đầu, cổ,
phổi, bọng đái. Thường thường radiation được dùng cho ung thư không chữa được bằng giải phẫu hoặc khi đã
giải phẫu mà có e ngại ung thư tái phát
Sự thành công tùy thuộc vị trí của ung thư, ung thư có mẫn cảm sensitive với phóng xạ; u thu gọn và không di
căn.
Mục đích xạ trị là để tiêu diệt tế bào nổi loạn và làm teo u khối bằng các làn sóng hoặc phân tử như proton,
electron, x-ray, gamma -ray
Có hai cách xạ trị:
a) Ðưa hẳn vào u ung thư. Chẳng hạn sau khi mổ thì radiation chứa trong vật đựng được đặt ngay ở nơi mổ;
b)Dùng máy để hướng radiation vào u bướu và tế bào ở xung quanh;
Xạ tác tiêu diệt hữu hiệu trên tế bào ung thư tăng trưởng nhanh hơn là tế bào thường tăng sinh chậm.
Xạ được đưa vào cơ thể với phân lượng rất nhỏ trong vòng ba hoặc bốn tuần lễ để có tác dụng mạnh lên tế bào
ung thư và giới hạn ảnh hưởng lên tế bào lành. Nếu chẳng may bị tổn thương thì tế bào bình thường cũng mau
lành.
Công hiệu của xạ trị liệu tùy thuộc phương pháp áp dụng. Tác dụng phụ thông thường là mệt mỏi, thay đổi trên
da, ăn mất ngon.
Có điều là chi phí điều trị khá tốn kém, tùy theo điều trị nhiều hay ít.
3- Hóa trị
Ðược dùng khi ung thư đã lan ra ngoài vị trí ban đầu hoặc khi có di căn ở nhiều địa điểm. Phương pháp sẽ hữu
hiệu hơn nếu ung thư nhạy cảm với hóa chất; bướu còn nhỏ; khi bệnh nhân khỏe mạnh, có sức chịu đựng với
tác dụng ngoại ý của thuốc.
Có nhiều loại hóa chất khác nhau. Mỗi hóa chất có tác dụng riêng biệt với từng ung thư bằng cách làm ngưng sự
phân chia và sinh sản của tế bào phản loạn. Khi không có sự phân bào thì tế bào tan vỡ, u bướu teo lại.
Hóa trị đã cứu sống rất nhiều bệnh nhân và cũng giúp nhiều người khác giảm bệnh.
Không như xạ trị hoặc giải phẫu đòi hỏi ung thư thu gọn, hóa trị có thể phân tán khắp cơ thể để tiêu diệt tế bào
ung thư ở các nơi mà bác sĩ không tìm ra.
Thuốc có thể uống nhưng đa số là truyền qua tĩnh mạch.
Tác dụng phụ thường thấy là ói mửa, rụng tóc, mệt mỏi, dễ nhiễm trùng, thiếu hồng huyết cầu
4- Miễn dịch trị liệu - Nói đến điều trị ung thư ta thường nghĩ ngay tới tiêu diệt tế bào bệnh hoạn bằng hóa
chất, phóng xạ hoặc dao kéo giải phẫu. Các phương pháp này rất công hiệu nhưng cũng gây tổn thương cho tế
bào lành.
Miễn dịch trị liệu không ảnh hưởng tới tế bào lành nhưng rất hữu hiệu trong việc tiêu diệt tế bào nổi loạn. Mục
đích của trị liệu này là tăng cường khả năng chống trả với bệnh tật của cơ thể, tăng sức chịu đựng của bệnh
nhân với tácdụng ngoại ý của hóa trị, xạ trị đồng thời ngăn ngừa sự phát triển tế bào ung thư. Phương pháp này
hiện nay đang được nghiên cứu kỹ càng và có nhiều triển vọng sáng sủa cho người bệnh.
Trị liệu mới cho Bốn Ung Thư Hiểm nghèo
Với các bệnh ung thư nguy hiểm, y khoa học đã cống hiến nhiều phương pháp trị liệu khá công hiệu. Nhưng
những phương tiện này cũng tạo ra một số tác dụng xấu mà người bệnh phải cam nhận.
Sau một giải phẫu, một trị liệu bằng hóa chất, phóng xạ, nhiều bệnh nhân rơi vào tình trạng mất khẩu vị ăn uống,
ói mửa, mệt mỏi, suy nhược, tóc rụng, da khô. Đó là do ảnh hưởng của các trị liệu được tung vào người bệnh với
hy vọng là sẽ tiêu diệt được nhiều tế bào ung thư hơn là tế bào lành.
Gần đây, đã có nhiều phát minh mới để trị ung thư một cách chính xác hơn, tập trung vào những tế bào nổi loạn.
Các phương pháp này dựa trên sự hiểu biết cặn kẽ về đặc tính của tế bào ung thư, yếu điểm của chúng và
hướng sự trị liệu vào chúng mà tiêu diệt, thay vì làm hại oan tới tế bào tốt.
Hiện nay đã có một số phương tiện trị liệu mới nhắm vào bốn loại ung thư hiểm nghèo là ung thư phổi, ung thư
vú, ung thư tuyến nhiếp và ung thư ruột già.
1- Ung thư Phổi - Đây là loại ung thư gây ra tử vong rất cao, bằng tổng số tử vong của các ung thư ruột già,
nhiếp tuyên và vú.
Tế bào ung thư phổi rất đa dạng gây ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên không một phương thức trị liệu
đơn độc nào có thể hoàn toàn khống chế được chúng. Các khoa học gia đang thử nghiệm một số trị liệu mới
như sau:
a- Phóng xạ trực tiếp (Directed radiation)- Dưới sự hướng dẫn của X quang cắt lớp ( CAT scan) và máy vi tính,
tia phóng xạ sẽ được đưa trực tiếp tới vị trí của các tế bào ung thư mà tiêu diệt. Phương pháp này, gọi là IMRT
(intesity modulated radiation therapy), có thể đưa một số phóng xạ nhiều gấp bốn hoặc tám lần tới các tế bào
ung thư mà không gây hại gì cho tế bào bình thường ở chung quanh.
IMRT hiện đang được sử dụng ở nhiều trung tâm trị liệu, và cũng được dùng để trị ung thư nhiếp tuyến, ung thư
đầu và cổ, ung thư dạ dầy, bao tử.
Tác dụng không tốt gồm có tiêu chẩy, tiểu tiện gắt, kích thích khó chịu ở ruột già và bọng đái.
b- Dược phẩm trị ung thư để hít vào phổi (Inhaled cancer drugs).- Giống như thuốc hít chữa bệnh suyễn, thuốc
trị ung thư này được hít trực tiếp vào phổi để truy lùng tiêu diệt tế bào ung thư. Một trở ngại là thuốc sẽ chỉ tập
trung ở hai lá phổi chứ không phân tán đi khắp cơ thể.
Thuốc đang ở trong giai đoạn thử nghiệm và hy vọng sẽ sớm được áp dụng..
c- Những trái bom tinh nhanh (Smart Bombs)- Hai loại thuốc mới đang chờ đợi cơ quan Thực Phẩm & Dược
Phẩm Hoa Kỳ chấp thuận để trị ung thư phổi, ung thư ruột già, vú, nhiếp tuyến, tụy tạng. Đó là thuốc Iressa và
Tarceva. Dược phẩm này chuyên đi tìm các tế bào ung thư và chặn sự tăng sinh của chúng, làm u bướu ung thư
nhỏ đi. Thuốc tác dụng trực tiếp trên tế bào ung thư nên gây rất ít thiệt hại cho tế bào lành.
2- Ung thư Vú - Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng trên 200.000 trường hợp ung thư vú được
phát hiện và số tử vong lên tới trên 40.000 người. Các phương thức trị liệu mới gốm có:
a- Dược phẩm làm ngưng sự tăng trưởng tế bào ung thư như Tarceva và Herceptin.
Phối hợp với hóa trị liệu, Herceptin được coi như có nhiều hy vọng tránh tử vong cho người bệnh. Thuốc này đã
được công nhận, còn Tarceva thì khoảng vài năm nữa là được sản xuất.
b- Thuốc kiềm chế kích thích tố estrogen. Vì có nhiều liên can tới ung thư vú, nên kiềm chế tác dụng của
estrogen là muc tiêu của vài dược phẩm mới như Arimidex và Femara. Các thuốc này hiện giờ đang được sử
dụng.
c- Làm đông lạnh u ung thư . Dùng tia laser hoặc sóng vi ba với cường độ cao, đưa thẳng vào u ung thư để tiêu
hủy nó. Phương pháp này có thể làm tan biến u ung thư nhỏ dưới 3/8 inc và thực hiện mau lẹ, bệnh nhân về nhà
ngay ngày hôm sau.
Phương pháp đã được dùng để trị ung thư gan; trong dăm ba năm sẽ được áp dụng cho ung thư vú, phổi và có
thể cho cả ung thư nhiếp tuyến.
3- Ung thư Nhiếp tuyến. - Đây là loại ung thư xẩy ra nhiều nhất ở đàn ông. Hàng năm bên Mỹ có khoảng gần
200.000 trường hợp ung thư mới phát hiện và số tử vong cũng khá cao: khoảng 30.000 mỗi năm. Cho tới nay,
hóa trị đã được áp dụng nhưng không công hiệu lắm mà phẫu thuật lại hay gây ra loạn cương dương và sự
không kiềm chế tiểu tiện ( incontinence) gây bất tiện cho bệnh nhân.
Các phương thức trị liệu mới đang được thử nghiệm và tương lai có vẻ sáng sủa hơn:
ạ- Gieo mầm phóng xạ (radiation seeds). Dưới sự hướng dẫn của màn ảnh siêu âm (ultra sound scan), một đầu
kim chích chứa một lượng phóng xạ được đưa vào u ung thư và làm teo u này. Phương pháp được giới thiệu là
rất chính xác, không làm hại gì tới tế bào lành ở chung quanh. Khi dùng chung với giải phẫu, phương pháp này
có khả năng trị tuyệt từ 60 tới 90% tế bào ung thư nhiếp tuyến.
b- Giải phẫu mà không gây liệt dương. Trong phương pháp này, sau khi cắt bỏ nhiếp tuyến và giây thần kinh
điều khiển sự cương dương, nguờì ta lấy một đoạn giây thần kinh ở dưới cổ chân, cấy nơi bẹn để thay thế cho
giây thần kinh đã bị cắt bỏ. Phương pháp đang ở trong vòng thử nghiệm ở Viện ung thư MD Anderson, Texas.
Hy vọng là trong vài năm sẽ được hoàn chỉnh và được mang ra sử dụng để tránh cho người bệnh khỏi bị liệt
dương vì giải phẫu cứu sống.
4- Ung Thư Ruột già - Đây là loại ung thư đứng hàng thứ tư ở cả nam lẫn nữ giới. Mỗi năm bên Mỹ có khoảng
150.000 ca mới. Số tử vong khoảng 55.000 người.
a- Phối hợp Xạ trị và Giải phẫu. Trong phương pháp này, khi giải phẫu thì xạ liệu cũng được dùng song hành để
tiêu diệt tế bào ung thư. Xạ liệu được đưa tới trực tiếp tế bào bệnh nên không ảnh hưởng gì tới tế bào lành.
Phương pháp rất tốt khi ung thư giới hạn ở ruột chứ khi đã lan ra các cơ quan lân cận thì quá trễ. Nhiều trung
tâm ung thư đã áp dụng phương pháp này.
b- Bỏ đói ung thư (Starving tumors). Tế bào ung thư chỉ tăng sinh khi được nuôi dưỡng đầy đủ. Nếu ta ngăn
chặn sự nuôi dưỡng này từ các mạch máu thì tế bào sẽ chết đói, ung thư ngưng phát triển. Đó là chủ đích của
các dược phẩm Avastin, Endostatin, chặn sự phát triển của các mạch máu trong u ung thư.
Kết luận
Ngày nay, y khoa học đã mang lại nhiều hy vọng cứu sống cho các nan bệnh ung thư. Bệnh nhân cũng có thể
tìm tới các loại cây con mà loài người có kinh nghiệm về trị bệnh từ lâu. Ðông y ta đã từng dùng lá đu đủ, nấm
linh chi, dây tóc tiên, cây rẻ quạt, bạch truật, nam sa sâm, ý dĩ vân vân và đã có trường hợp ung thư thuyên
giảm. Có bệnh thì vái tứ phương mà. Nhưng có lẽ chỉ nên tìm tới các món này khi mà các phương tiện khoa học
hiện có bó tay hoặc dùng phụ thêm nếu không có chống chỉ định. Vì dù sao thì các phương tiện thực nghiệm
cũng đã được chứng minh sự hữu hiệu, chẳng trăm phần trăm thì cũng dăm bẩy chục phần trăm. Ngoài ra, tình
trạng tâm trí cũng có ảnh hưởng tới việc điều trị ung thư và các nan bệnh khác. Một hiểu biết cặn kẽ về bệnh tật,
một thái độ tích cực, một thư giãn tâm hồn làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể để đối phó với khó khăn.
Như giải phẫu gia Berbard S. Siegel, Ðại học Y khoa Yale nhận xét: “Thể chất đáp ứng với các tín hiệu từ trí óc,
một cách ý thức hoặc vô ý thức.Các tín hiệu này có thề là “sinh” hoặc “tử”. Tôi nghĩ là con người không những
chỉ có bản năng sinh tồn mà còn bản năng tự hủy. Bản năng tự hủy khiến cơ thể ngưng sự tự vệ, giảm hoạt
động các chức năng, đưa ta tới tử địa khi chúng ta nghĩ là đời không còn đáng sống nữa”.
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức (Texas-Hoa Kỳ)

Giải phẫu thẩm mỹ - Vết thẹo người Á Ðông
Khuynh hướng tự nhiên hay do bàn tay của người giải phẫu? (Phần I)
Thẹo là mối quan tâm thường xuyên của bịnh nhân, nhất là phụ nữ, từ những người bị cắt da vì sơ ý hay gặp tai
nạn, đến những người trải qua các cuộc giải phẫu lớn nhỏ như giải phẫu ở hạch cổ (thyroid), căng da bụng, giải
phẫu làm to ngực hay sanh đẻ bằng phương pháp C-section. Khi đã có vết thẹo hay có triệu chứng sẽ có vết
thẹo lưu lại trên cơ thể, ai cũng muốn vết thẹo sẽ tàn phai theo năm tháng thời gian, càng nhanh càng tốt; hoặc
nếu không, thì phải ẩn dấu thế nào cho không bị nhận thấy. Cho nên không có gì ngạc nhiên nếu bịnh nhân tìm
mọi phương cách cần thiết để chống lại, diệt trừ thẹo vết trên thân thể mình. Có người tìm đến bác sĩ gia đình, có
người gặp bác sĩ chuyên trị bịnh da, có người tìm đến bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ... Cũng có người đến các tiệm
bán mỹ phẩm hay tìm mua kem dưỡng da thảo mộc (herbal creams) với hy vọng làm biến tan vết thẹo. Với lòng
ao ước mãnh liệt, bịnh nhân hy vọng tìm gặp một thần dược hay một phép mầu để chữa trị vết thẹo, do đó,
không tránh khỏi việc nhận quá nhiều tin tức về cách làm thẹo biến mất; nhiều tin tức cố ý đánh lừa và lệch lạc.
Nóng... nóng... nóng bỏng!
Trong lãnh vực giải phẫu thẩm mỹ, cách chữa thẹo là một trong những đề tài “nóng bỏng” và ăn khách, thu hút
sự chú ý của mọi người và do đó có khả năng thương mãi thật cao. “Nóng bỏng” ở đây không có tính cách hào
hứng như “Tôi phải mua xe Lexus loại SUV năm 2007” hay mua xách tay hiệu Louis Vuitton vừa bày bán ở thị
trường, nhưng chỉ có nghĩa là khí nóng (hot air) được thổi phồng và những “hứa hẹn nóng hổi” khiến bịnh nhân
có thể “bị phỏng” vì với thời gian, kết quả không như ý muốn...
1. Kem thoa và dầu xức (Creams and Ointments)
Ðối với nhiều người có vết cắt hay vết trầy lớn, ra tiệm mua sản phẩm ScarFade hoặc Mederma hay hợp chất
cây cỏ trị bá bịnh, bá chứng là xong. Tùy theo nhãn hiệu món hàng và cũng tùy theo mức độ thuyết phục của
người bán, bạn có thể phải chi trong khoảng từ 15 đến 150 đô la. Những sản phẩm này có lợi hay hại, hay chỉ
làm bạn mất tiền vô ích? Lời hứa hẹn về kết quả có được kiểm chứng một cách khoa học không?
Theo sự thẩm định của các bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ và giải phẫu da bị phỏng, sự “hữu hiệu” của các sản phẩm
này có thể diễn tả như sau:
a. Không làm hại vết thẹo của bạn.
b. Có thể có ảnh hưởng tâm lý tích cực, giúp bạn cảm thấy tốt hơn về việc bạn đang tìm cách chữa trị thẹo.
c. Không giúp thẹo mau lành hơn thời gian cần thiết phải có. “Thời gian” trong trường hợp này cũng “hiệu quả”
như loại dầu xức chữa bá bịnh.
d. Không giúp gì được nếu kỹ thuật may vá vết thương của người giải phẫu vụng về.
e. Làm thâm thủng túi tiền của bạn.
f. Mang lại thành quả thật tốt đẹp cho... người bán.
2. Căng mặt - Một đề tài nóng bỏng khác trên thị trường thẩm mỹ hiện nay là căng da mặt không để thẹo. Nhiều
người cần và rất muốn làm gương mặt trẻ trung lại. Tuy nhiên, khi nhìn kết quả giải phẫu trên gương mặt của
bạn bè với vết thẹo quá rõ ở vùng phía trước tai hay vết thẹo lồi, họ cảm thấy e ngại. Ðánh đúng tâm lý đó, một
số bác sĩ không chuyên ngành giải phẫu thẩm mỹ như bác sĩ gia đình tổng quát, bác sĩ nội thương, và bác sĩ sản
phụ khoa đã nghĩ ra một phương pháp “nóng hổi” để sửa mặt mà không cần phải căng da mặt. Ðó là phương
pháp luồn chỉ (suture lift or thread lift). Các quảng cáo về phương pháp này nhan nhản trên các xe buýt công
cộng, mạng lưới, cũng như trên các làn sóng phát thanh... với hứa hẹn sẽ thay thế phương cách giải phẫu căng
da mặt do bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ chuyên môn thực hiện. Nói khác, làm da mặt thẳng mà không phải giải phẫu
căng da, do đó không để lại vết thẹo trên mặt. Phương pháp này được các bác sĩ không thuộc chuyên môn giải
phẫu thẩm mỹ cổ võ. Phương pháp này được quảng cáo rầm rộ... thật nóng!
Ðiều không may là phương pháp luồn chỉ cũng không mang lại kết quả khả quan như mong ước. Trong cuộc
họp năm 2005, các bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ chuyên môn (American Society of Aesthetic Plastic Surgeons) đã đi
đến kết luận là với tình trạng khoa học và kỹ thuật ngày nay, phương pháp luồn chỉ mang lại kết quả còn ít hơn
phương pháp căng da mặt ở quy mô nhỏ (tức chỉ nâng da thôi). Trung bình, dù không thực sự khả quan như
quảng cáo, kết quả của phương pháp này cũng chỉ kéo dài nhiều lắm khoảng một năm. Và điều này không được
các bác sĩ cổ võ cho phương pháp này - bác sĩ gia đình, tổng quát, nội thương và sản phụ khoa! - giải thích rõ
với bịnh nhân.
3. Cắt mắt và xâm lông mày - Một vấn đề được lưu ý đến trên thị trường làm đẹp cho phụ nữ Việt Nam là vùng
trán. Một số phụ nữ cần một sự căng da mặt toàn diện để làm biến mất những làn nhăn trên trán, sữa lại hai
chân mày xệ và lấy bớt những nếp nhăn thừa trên mí mắt. Trong trường hợp này, vết thẹo ẩn dấu dưới làn tóc
trên trán là phương cách chính xác và đúng để áp dụng. Một số trường hợp khác, bịnh nhân chỉ cần giải phẫu
cắt bớt da mí mắt trên hoặc kéo chân mày lên cho ngang thẳng là đủ.
Ðiều không may là nhiều bác sĩ làm đẹp không biết cách giải phẫu nội soi để nâng trán (endoscopic forehead lift)
nên chỉ đề nghị với bịnh nhân một phương pháp duy nhất là cắt phần da trên chân mày và khuyên bịnh nhân
che dấu vết thẹo cắt bằng cách xâm lông mày ở các tiệm làm đẹp (beauty salon). Ðó là trường hợp đã và đang
xảy ra ở Việt Nam cũng như đã và đang xảy ra ở cộng đồng Việt Nam ở Hoa Kỳ. Phương pháp này xem ra dễ
dàng bán và khuyến dụ đối với những người chưa có ý niệm chính xác về thẩm mỹ cũng như hậu quả dài lâu của
các kỹ thuật áp dụng: Rẻ tiền, không cần có kiến thức về giải phẫu thẩm mỹ, không cần nhiều máy móc trang bị
giải phẫu. Cả một kỹ nghệ làm đẹp loại này liên kết hai giới - bác sĩ làm đẹp không chuyên môn và người xâm
mắt - lại với nhau để che dấu vết thẹo!
Khuynh hướng kết thẹo
Tại sao thẹo vết xuất hiện? Và tại sao nhiều người, nhất là giới phụ nữ, quan tâm nhiều đến vết thẹo? Nói chung,
về phương diện cơ thể, người Á Ðông có khuynh hướng kết thành thẹo xấu hơn so với người da trắng; dân
Hispanic có thẹo xấu hơn người da vàng; và người Mỹ da đen có khuynh hướng kết thẹo xấu nhất.
Nhưng sự kiện trên có ý nghĩa gì? Phải chăng nếu bạn là người Á Ðông đi giải phẫu làm to ngực hay căng da
bụng thì bạn sẽ có thể bị thẹo lồi hay vết thẹo đỏ, to xuất hiện trong một thời gian dài với tỷ lệ 30-40 phần trăm?
(100 người thì có 30 đến 40 chục người?) Và đó là điều tự nhiên không thể tránh được?
Thực tế, dù người Á Ðông có khuynh hướng kết thẹo xấu so với người da trắng, sự khác biệt đó không nhiều
như người ta tưởng. Tỷ lệ thẹo xấu nơi các sắc dân sau khi giải phẫu:
- Da trắng = 1/100.
- Da vàng = 2/100.
- Da đen = 4/100.
Vậy sự khác biệt hay cơ hội có thẹo xấu giữa các sắc dân không phải là 50, 40, hay 30 phần trăm mà rất ít và
gần như không đáng kể, nếu người giải phẫu cho bạn có kỹ năng chuyên môn và bàn tay khéo léo. Nói khác,
yếu tố di truyền bẩm sinh không quan trọng trong vấn đề kết thành thẹo xấu sau giải phẫu.
Ý niệm căn bản về vết thương lành và sự kết thẹo - Khi da bị cắt hay thương tích có chảy máu, cơ thể bạn sẽ trải
qua một diễn trình tự nhiên để tự chữa lành. Trước hết, cơ thể cố làm cho máu chảy thật ít bằng cách bóp chặt
các mạch máu nhỏ đã bị tổn thương và ngăn chặn việc chảy máu bằng bạch huyết cầu (phaletets). Sau đó, các
tế bào đặc biệt được đưa đến vết thương để bắt đầu sự chữa lành. Ở trường hợp đơn giản nhất, không có gì
phức tạp, vết thương sẽ dần dần phục hồi tới 80% sức mạnh của da trước khi bị thương tích trong thời gian 6-8
tuần. Sau đó, khoảng thời gian 2-10 tháng tới, sẽ có thay đổi thêm ở chỗ thẹo.
Những ý niệm căn bản này giúp chọn lựa kỹ thuật giải phẫu và cách chữa trị vết thương để giúp sự kết thẹo lành
được tốt đẹp nhất là trong những trường hợp khó khăn.

Bs Tristan Nguyễn Hùng Anh