Tam Tạng Pháp Sư Thích Tuyên Hóa (1918-1995): Khi được Lão Hòa thượng Hư Vân truyền pháp, Ngài được ban pháp hiệu là Tuyên Hóa. Hòa thượng Tuyên Hoá được Hòa thượng Hư Vân truyền Pháp trước khi rời Trung Hoa đến Hương Cảng rồi sang Hoa Kỳ. Do đó, Hòa thượng Tuyên Hoá là tổ thứ bốn mươi lăm từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tổ thứ mười tám tại Trung Hoa, tổ thứ chín dòng thiền Quy Ngưỡng, và là Sơ Tổ tại Tây Phương.


TỰ GẠT MÌNH CHỨ KHÔNG GẠT ĐƯỢC MỌI NGƯỜI

Nhận Giả Mà Không Nhận Thật



Hòa Thượng Tuyên Hóa

Giảng ngày 20 tháng 11 năm 1985



Người thế gian nói lời giả dối thì nhiều, nói lời chân thật thì ít.

Cũng như có nhiều người nói dối, và ít có người nói thật. Quý

vị thử nghiên cứu xem, tại sao lại có tình trạng như vậy? Tại

sao người ta học tánh không thật thà? Tại sao ở đâu họ cũng

muốn nói dối? Tại sao người ta thích nói láo, mà không thích

nói thật? Bởi trên đời nầy, ít người chân thật, lại nhiều kẻ giả

dối; kẻ đạo đức giả thì nhiều, người thành thật thì rất ít. Nếu

quý vị thuận theo thế thái nhân tình nói lời tốt đẹp thì ai nấy

cũng đều ưa thích, còn nếu quý vị nói câu chân thật thì không

ai ưa. Tại sao vậy? Bởi người đời thường thích giả dối chứ

không thích chân thật. Cho nên gọi là: Nhận giả bất nhận chân.

Ðó là tâm lý của một số người, tuy biết rõ là giả dối nhưng họ

vẫn tham luyến không chịu buông bỏ.


Cư sĩ Thuần Ðà là người thật thà. Tuy gia cảnh rất nghèo khổ,

nhưng ông luôn nói lời chân thật. Ông không giống như ma

vương Ba-tuần, chuyên nói lời tốt đẹp và bảo rằng thần chú của

mình có thể cứu sống người. Ðó là những lời đường mật, hồ

đồ, khiến người nghe toàn thân muốn phát lãnh nổi da gà. Ông

Thuần Ðà rất là thành thật. Ông không khoe khoang là mình đã

cúng dường thực phẩm với đầy đủ hương sắc vật liệu phong

phú như thế nào, hay mùi vị ra sao. Lời nói của ông rất khiêm

tốn như: “Nguyện Thế Tôn từ bi, thương nhận cho lần cúng

dường cuối cùng của chúng con!” Giống như người Trung Hoa

đãi khách, tuy rượu chè và thức ăn đầy bàn, nhưng họ vẫn

khiêm tốn nói với khách: “Hôm nay xin đãi sơ sài, chẳng có

món chi đặc sắc!”


Nói đến đây, tôi lại nhớ tới một câu chuyện. Ngày xưa có vị phú

ông, vì sanh được con trai nên ông bèn mở đại tiệc ăn mừng.

Ông mời rất đông khách, thành thử “bạn bè cao sang đầy bàn,

khách quý đông đảo như mây hội.” Ông lại thỉnh ba vị Hòa

Thượng đến tụng thần chú kiết tường và nói vài lời kiết tường

để ca tụng chúc mừng vậy. Có người trong đám khách

nói: “Con trai của ông nhất định sẽ được vinh hoa phú quý,

sống trường thọ đến trăm tuổi.” Người khác lại nói: “Cháu bé sẽ

có phước, có lộc, có thọ và nó sẽ ít bệnh, ít tai, ít họa.” Chủ

nhân nghe những lời kiết tường nầy thì mặt mày hớn hở, thích

thú không thể tả, bèn dâng rượu mời khách.


Còn về phía ba vị Hòa Thượng, có vị tụng chú kiết tường, có vị

nói lời kiết tường, nhưng trong đó lại có vị nói lên lời chân thật

rằng: “Trong tương lai con trai của ông nhất định sẽ phải chết.”

Chủ nhân vừa nghe liền nổi trận lôi đình. - Không thể nào! Sao

Thầy lại trù nó chết hả? Thế là ông đem Hòa Thượng ra đánh

cho một trận. Vị Hòa Thượng đã dày công tu nhẫn nhục, thành

thử lòng không oán giận. Trái lại, nét mặt ông vẫn hòa nhã mà

nói với chủ nhân: “Cư sĩ! Ông đã không nhận ra chân lý, mà lại

còn ưa thích nịnh hót. Thật ra, họ có thật biết tương lai con của

ông là sẽ được giàu có, hay trường thọ không? Ðó chẳng qua

chỉ là những từ ngữ tán thán, khen tặng mà thôi. Nay ta nói

tương lai con ông sẽ chết, đó là lời chân thật. Không những chỉ

có con ông sẽ chết, mà tất cả con người trên thế giới nầy, ai ai

cũng đều phải chết. Có ai là không chết đâu? Tự ông đã không

giác ngộ chân lý nầy, mà lại còn đánh ta, ông quả là người quá

ngu si!”


Vị chủ nhân sau khi nghe xong, ông cảm thấy có đạo lý và sanh

tâm sám hối. Từ đó về sau, ông kính tin Tam Bảo và ủng hộ

đạo tràng. Nếu vị Hòa Thượng đó cũng nói những lời tốt lành

giống như bao người khác, thì không có cách gì khiến cho phú

ông cảm động mà tin nơi Phật, và tin vào đạo lý cho được.


Chúng ta chớ có thích nghe những lời tán tụng, và cũng đừng

mãn nguyện say đắm về tự ngã, hay tự khoe khoang, khoác lác

về mình. Chúng ta nhất định phải nên khiêm tốn và hòa ái. Ðối

với người, ta không kiêu ngạo, không ngã mạn và cần có tinh

thần từ bi hỉ xả, phổ độ chúng sanh. Quý vị thử nhìn xem! Tại

sao Ấn Ðộ có bốn loại giai cấp? Bởi có hạng người vì lúc xa xưa

đã khinh khi kẻ bần cùng, cho nên kiếp nầy họ mới sanh làm

người hạ tiện. Ðó chính là tiền nhân hậu quả, thật không sai

sót!


Chúng ta nên hiểu rõ về nhân quả, và tin cái đạo lý - nhân nào

thời quả đó. Và dù có ở đâu đi nữa chúng ta cũng phải chân

thật làm việc, không thể giả dối chút nào. Vì nếu chỉ dối trá một

chút thôi, chúng ta cũng phải lãnh chịu quả báo. Cho nên

nói: “Nhân địa bất chân, quả chiêu vu khúc,” tức là nhân không

ngay thì quả cong quẹo.


Quý vị! Trồng đậu được đậu, trồng dưa được dưa, trồng lúa có

lúa, gieo nếp được nếp. Ðạo lý nầy quyết không sai chạy một

mảy may. Quý vị mà làm những chuyện điên điên đảo đảo, rốt

cuộc cũng là tự mình gạt mình, chứ không gạt được mọi người

đâu.


Đọc Phần 1: http://www.dharmasite.net/KhaiThi6.htm

Đọc Phần 2: http://www.dharmasite.net/KhaiThi6_phan2.htm

Nghe: http://dharmasound.net/?type=files&p...mese/KhaiThi-6


KHAI THỊ QUYỂN 6

HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA