-
chủ tịch Hồ Chí Minh
-
??c sách “Hồ Chí Minh? của William J. Duiker:
Nghi vấn và Sự thật
HCM đ?c tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-45/ “Ngục trung nhật ký?/ Hình bìa sách (phải)
Hà Giang
Một trong những nhân vật lịch sử Việt Nam cận đại mà tên tuổi, đ?i tư, sự nghiệp, và hoạt động đã và đang trở thành đ? tài của nhi?u tranh cãi là Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đối với những ngư?i có suy nghĩ nghiêm túc, dù nhìn ở khía cạnh nào và dù có bất đồng ý kiến, ngư?i ta cũng công nhận một đi?u rằng ông là một trong những nhà hoạt động chính trị có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên trư?ng chính trị quốc tế. Trong năm vừa qua, t? tuần san TIME đã bầu ông là một trong một trăm nhân vật của thế kỷ 20.
Nhưng trong suốt th?i gian kể từ ngày Pháp và Mỹ tham chiến ở Việt Nam cho đến ngày ông qua đ?i năm 1969, tiểu sử và cuộc đ?i của ông hầu như bị che đậy trong màn bí ẩn, huy?n thoại. Trong một cuốn sách tiểu sử v? ông Hồ, xuất bản vào năm 1967, Nhà báo ngư?i Pháp Jean Lacouture viết: "Tất cả m?i đi?u mà ngư?i ta từng nghe biết v? cuộc đ?i ông Hồ trước năm 1941 là chắp vá, r?i rạc, nằm trong vòng nghi vấn và ph?ng đoán." Cộng thêm vào sự chấp vá là những thông tin thiếu trung thực do những ngư?i ái mộ ông và những ngư?i không ưa thích gì ông tung ra đã gây ra không ít ngộ nhận và gây nên tình trạng lẫn lộn thông tin. Một số ngư?i Cộng sản Việt Nam thì cố tình huy?n thoại hóa v? cuộc đ?i hoạt động của ông. Ngược lại, những ngư?i chống cộng hay chống lại đư?ng lối ông Hồ đã theo đuổi thì tìm m?i cách bôi nh?, xuyên tạc đ?i tư và sự nghiệp cách mạng của ông. Có lúc ngư?i ta phải lắc đầu không biết tin ai, và phải trông nh? vào các h?c giả nghiêm túc gốc Tây phương để có một cái nhìn công bằng và khách quan hơn v? ông Hồ.
Sự ch? đợi đó đã được đáp ứng bằng cuốn sách của William J. Duiker có tựa đ? đơn giản là "Ho Chi Minh" mới vừa xuất bản vào cuối năm 2000. ?ây là một cuốn tiểu sử đồ sộ, có tầm cỡ hàng đầu ở hải ngoại do một nhà sử h?c chuyên nghiệp biên soạn. Soạn giả đã b? ra 20 năm để thu thập thông tin v? ông Hồ qua ph?ng vấn, và góp nhặt tin tức từ các văn khố và hồ sơ tình báo của Pháp, Anh, Trung Quốc và Quốc tế Cộng sản, cho đến các văn thư lưu trữ của ?ảng Cộng sản Việt Nam ở Hà Nội. Ông Duiker là một giáo sư sử h?c thuộc Trư?ng ?ại h?c Penn State (Mỹ). Ông chuyên nghiên cứu lịch sử ?ông Nam ? châu, và là tác giả của một số cuốn sách v? chủ đ? này.
Bài viết này chỉ có mục đích khiêm tốn là điểm qua vài nét chính v? sự nghiệp cách mạng và một số vấn đ? liên quan đến đ?i tư của ông Hồ. Vì là một bài điểm sách, bài viết chủ yếu dựa vào thông tin của ông Duiker trong cuốn sách vừa kể, và một số thông tin trong cuốn “Trong Cõi? (Nhà xuất bản Trăm Hoa, California, 1993) của sử gia Trần Quốc Vượng.
Nguyên quán và th?i niên thiếu
Như nhi?u ngư?i trong chúng ta biết, quê hương ông Hồ Chí Minh quê xã Kim Liên, huyện Nam ?àn, tỉnh Nghệ An. Ông tên thật là Nguyễn Sinh Cung, con ông Nguyễn Sinh Sắc, và cháu nội ông Nguyễn Sinh Vương.
Năm 1863, bà Hà Thị Hy, vợ thứ hai của ông Nguyễn Sinh Vương (còn có tên là Nguyễn Sinh Nhậm) hạ sinh một ngư?i con trai, được đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc [1]. Vợ cả ông Vương đã chết trước đó vài năm sau khi hạ sinh một ngư?i con tên là Nguyễn Sinh Tr?. Năm Sắc lên bốn, cụ Nguyễn Sinh Vương qua qua đ?i. ?t lâu sau, bà Hà Thị Hy cũng qua đ?i. Vì thế, Sắc phải sống cùng ngư?i anh cùng cha khác mẹ, tức là Nguyễn Sinh Tr?.
Lúc còn nh?, Nguyễn Sinh Sắc nổi tiếng trong làng là một cậu bé ngư?i ham h?c, nhưng không có đi?u kiện tài chính để theo h?c. Thư?ng thư?ng, sau khi chăn trâu xong, Sắc đến h?c lén; tức là, đứng ngoài lớp h?c nghe thầy giảng bài. Tính ham h?c này được sự chú ý của một nhà nho: ông tú tài Hoàng Xuân ?ư?ng. Ông tú ?ư?ng xin ông Tr? để được nuôi nấng Sắc ở nhà mình, và ông Tr? đồng ý. Năm 1878, lúc 15 tuổi, Nguyễn Sinh Sắc chuyển v? ở nhà của cụ tú Hoàng Xuân ?ư?ng.
Nguyễn Sinh Sắc lúc này càng biểu lộ là một ngư?i h?c gi?i, tinh thông kinh sử. Cùng lúc, Sắc đem lòng yêu ngư?i con gái đầu lòng của cụ tú ?ư?ng tên là Hoàng Thị Loan. Năm 1883, Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan (lúc đó chỉ 13 tuổi) được phép làm lễ thành hôn. Cụ ?ư?ng xây cho đôi uyên ương một căn nhà ba phòng kế bên nhà ông. Trong 7 năm kế tiếp, Hoàng Thị Loan hạ sinh ba ngư?i con: Nguyễn Thị Thanh, sinh năm 1884; Nguyễn Sinh Khiêm, 1888; và Nguyễn Sinh Cung (ngư?i sau này là Hồ Chí Minh), 1890.
Năm 1891, ông Nguyễn Sinh Sắc đi thi tú tài ở Vinh, nhưng ông bị trượt. Năm 1893, ông Hoàng Xuân ?ư?ng qua đ?i, và ông Sắc phải d?n cả gia đình v? ở với mẹ vợ. Năm 1894, qua giỗ đầu cụ tú ?ư?ng, ông Sắc đi thi Hương, khoa Giáp Ng? và đỗ cử nhân. Ông được nhận h?c đi?n, tức là ruộng công của làng Chùa dành cho những ngư?i có h?c (để khuyến khích việc h?c) để h?c thêm, chứ không phải nhận ruộng h?c của làng Sen. Năm 1895, ông ra Huế tiếp tục đi thi Hội, khoa Ất Mùi, nhưng ông thi trượt. Ông quyết định d?i gia đình vào Huế để tiện việc h?c hành và luyện thi. Th?i đó, đư?ng đi từ Nghệ An vào Huế là một đoạn đư?ng khó khăn, thư?ng tốn khoảng 1 tháng tr?i đi đư?ng.
Vào tới Huế, ông Sắc lại tiếp tục thi vào năm 1898, nhưng lại trượt. Sau đó, ông nhận một việc làm thầy dạy h?c ở làng Duong No. Năm 1900, ông Sắc được bổ nhiệm làm Thư ký cho Hội đồng thi cử thuộc tỉnh Thanh Hoá. Ông quyết định cùng ngư?i con trai lớn là Nguyễn Sinh Khiêm đi ngược vào Thanh Hóa nhận nhiệm sở, Nguyễn Sinh Cung ở lại cùng mẹ ở Huế. Nhưng tai nạn gia đình xảy ra sau đó không lâu, sau khi bà Hoàng Thị Loan hạ sinh ngư?i con thứ tư tên là Nguyễn Sinh Xin, bà lâm tr?ng bệnh và qua đ?i ngày 10 tháng 2 năm 1901. Ngư?i hàng xóm còn nhớ lại lúc đó, Nguyễn Sinh Cung chạy cùng làng cầu cứu và xin sữa cho em. Khi nghe hung tin, ông Sắc lập tức vào Huế và mang con trở lại quê ngoại Nghệ An. Bé Xin yếu đuối và qua đ?i lúc 1 tuổi. Cậu bé Cung sống cùng với chị mình và bà ngoại, và theo h?c với một ngư?i bà con xa, cụ đồ Vương Thúc ?ổ. Nguyễn Sinh Sắc trở lại Huế và lần này ông thi đổ Phó Bảng.
Phó Bảng là một h?c vị thấp hơn Tiến sĩ (xuất hiện ở Việt Nam từ th?i vua Minh Mạng, 1830-1831), nhưng là một h?c vị có uy tín. Sau khi đỗ, dân làng Kim Liên cho ông một lô đất như một phần tưởng thưởng. Ông dùng lô đất này để cất một căn nhà, và một phòng tưởng niệm vợ mình, tức bà Hoàng Thị Loan. ?áng lẽ với h?c vị này, ông Sắc có thể ra làm quan, nhưng ông không có tham v?ng này, và thay vào đó ông mở một trư?ng dạy h?c trong làng. Tuy là một ngư?i thuộc giai cấp có h?c, ông Sắc vẫn nghèo, nhưng có lòng giúp ngư?i nghèo hơn mình. Với một thân thế và địa vị mới, Nguyễn Sinh Sắc lấy tên là Nguyễn Sinh Huy.
Với Nguyễn Sinh Cung, lúc 11 tuổi, ông Sắc quyết định đặt tên con là Nguyễn Tất Thành [2]. Lúc này, Nguyễn Tất Thành theo h?c với một ngư?i bạn của cha là ông Vương Thúc Quí, một ngư?i theo phong trào kháng chiến chống Tri?u đình Huế lúc bấy gi?. Qua ảnh hưởng của ông thầy này, Nguyễn Tất Thành bắt đầu viết luận văn mang tính yêu nước. Một trong những ngư?i thư?ng hay ghé nhà cụ Nguyễn Sinh Sắc uống rượu, bàn chuyện thế sự là cụ Phan Bội Châu. Những lúc như thế, Nguyễn Tất Thành thư?ng đóng vai trò phục vụ trà nước, nhưng cũng để ý phục thầm sự uyên bác của cụ Phan Bội Châu.
Hoạt động cách mạng
Năm 1906, Tri?u đình Huế cho triệu m?i ông Nguyễn Sinh Sắc, và ông lại phải ra Huế nhận chức Bộ Lễ vào tháng Năm, 1906. Nguyễn Tất Thành cùng anh theo h?c chương trình Pháp, thuộc Trư?ng tiểu h?c ?ông Ba, trong th?i gian này. Năm 1907, Thành và anh là Khiêm cùng thi đỗ vào Trư?ng Quốc h?c. Theo hồi tưởng của một số ngư?i cùng lớp h?c, Thành thư?ng ngồi bàn sau cùng, ít nói, nhưng nổi tiếng là gi?i ngôn ngữ và h?i toàn những câu h?i hóc búa; và vì thế nhi?u thầy giáo rất có cảm tình với Thành. Một ngư?i thầy trư?ng này nhận xét Thành là một "h?c sinh thông minh và thực sự xuất sắc" ("an intelligent and truly distinguished student"). Nhưng Thành cũng là một đối tượng diễu cợt của bạn bè cùng trư?ng vì lối ăn mặc quê mùa và gi?ng nói tr? trẹ nặng âm hưởng xứ Nghệ. Ban đầu, Thành không để ý, nhưng có một lần cậu ta nóng máu lên và tông vào mặt đối thủ mình một quả đấm!
Có lẽ qua ảnh hưởng của ngư?i thầy dạy tiếng Hoa tên là Hoàng Thông, Thành đã bắt đầu có nhi?u ý nghĩ chính trị, từng phê phán chính quy?n thuộc địa và Tri?u đình một cách công khai trước bạn bè. Ngày 9 thánng 5, năm 1907, một nhóm bạn h?c đứng nhìn nông dân biểu tình, Thành đột nhiên tóm cổ hai ngư?i bạn đi tình nguyện làm thông dịch cho đoàn biểu tình. Nhưng đoàn biểu tình bị cảnh sát Pháp chận lại và những ngư?i đi hàng đầu như Thành và hai bạn bị đánh nhi?u lần. Sáng hôm sau, cảnh sát Pháp vào trư?ng, nhận diện, và đ?c lệnh đuổi Nguyễn Tất Thành ra kh?i Quốc H?c.
Hành động của Nguyễn Tất Thành làm ảnh hưởng đến cha mình. Nhà cầm quy?n bắt đầu để ý đến ông Nguyễn Sinh Huy. Mùa hè năm 1909, ông Nguyễn Sinh Huy được thuyên chuyển ra làm Tri huyện (magistrate) Bình Khê, thuộc tỉnh Bình ?ịnh. Thành và Khiêm bị theo dõi gắt gao. Khiêm sau này phạm tội mưu phản và bị cầm tù nhi?u năm. Ngay cả bà chị cả là Nguyễn Thị Thanh còn ở Nghệ An cũng bị thẩm vấn.
Sau sự kiện ở Huế, tên tuổi Nguyễn Tất Thành nằm trong danh sách đen của cảnh sát; Thành không xin được việc làm và cũng chẳng có trư?ng nào nhận vào để h?c. Sau khi lưu lại Bình Khê một th?i gian ngắn, Thành ghé qua Qui Nhơn và tá túc tại nhà của ông Phạm Ng?c Th? [3], một ngư?i bạn cũ của ông Nguyễn Sinh Huy. Thông cảm cho hoàn cảnh của Thành, ông Th? khuyên Thành nên b? tên này và ghi danh thi làm thầy giáo dưới tên sữa (Nguyễn Sinh Cung), nhưng vì lý do nào đó, một viên tỉnh trưởng hay biết được tung tích của Nguyễn Sinh Cung và cuối cùng, Thành không được phép thi. Sau đó, Thành lưu lạc xuống Phan Thiết, và trở thành thầy dạy h?c tại trư?ng ?ức Thành. Theo hồi tưởng của h?c sinh trư?ng này, Thành là một ngư?i thầy rất nổi tiếng của trư?ng, luôn đối xử tình nghĩa với h?c trò, không bao gi? đánh trò, và kính tr?ng đồng nghiệp. Thành dạy h?c trò những triết lý Tây phương như Voltaire, Montesquieu, Rousseau ... Tuy nhiên, đầu năm 1911, Nguyễn Tất Thành bí mật r?i kh?i trư?ng. Không ai biết lý do gì mà Thành r?i trư?ng, nhưng có thể trước đó (1910) Thành hay tin là thân phụ mình sắp vào Phan Thiết.
V? phần ông Nguyễn Sinh Huy, sau khi mới nhận nhiệm sở Tri huyện, ông rất được lòng dân với những hành động như tha những tù nhân đã tham gia biểu tình hay nông dân đòi đất đai, trừng trị b?n du côn, nhưng ông lại t? ra nhẹ tay với những ngư?i với những tội lặt vặt. Ông từng nói rằng thật là buồn cư?i tốn thì gi? đi trừng trị những ngư?i ăn cắp vặt trong khi nước nhà đã mất. Nhưng ông rất nghiêm khắc trong phán xử với ngư?i giàu có và quy?n thế. Tháng 1, năm 1910, ông tuyên án một nhân vật có quy?n thế ở địa phương 100 hèo. Khi ngư?i bị phạt chết sau đó ít ngày, thân nhân ngư?i này khiếu nại lên cấp trên, và ông Nguyễn Sinh Huy bị triệu hồi v? Huế để xét xử. Ngày 19 tháng 5, năm 1910, Hội đồng xét xử ông có tội lạm dụng chức vụ và phạt đánh roi cùng với gián cấp 4 bậc. Nhưng vào tháng 8, có lẽ để kh?i mất mặt, Tri?u đình Huế giảm hình phạt xuống thành gián cấp và đuổi kh?i việc. Theo như bạn bè, ông Huy không h? t? ra quan tâm v? việc mất chức vụ này. Ông trở lại Huế hành ngh? dạy h?c để sinh sống. Tháng 1, năm 1911, ông đệ đơn xin đi Nam, nhưng đơn bị từ chối, có lẽ do nhà cầm quy?n Pháp nghi ông dính dáng vào các hành vi chống chính quy?n. Theo như báo cáo của cảnh sát Pháp viết lúc bấy gi?:
"Nguyễn Sinh [Sắc] ... bị tình nghi có đồng lõa với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và một số ngư?i khác. Hai năm v? trước, con trai ông là một h?c sinh tại ?ông Ba, đột nhiên biến mất. Có tin cho rằng hắn đang có mặt ở Nam phần. Nguyễn Sinh [Sắc] có lẽ có ý định nhập với hắn và hội ý với Phan Chu Trinh."
Ông Sắc không để ý đến việc đơn mình bị khước từ, và đi vào ?à Nẵng, và từ đó đáp tàu vào Sài Gòn, nơi mà ông tìm được việc làm qua dạy tiếng Hoa và bán thuốc Bắc.
Sau khi r?i Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn và ở tr? trong một nhà dựa gạo do ông Lê Văn ?ạt làm chủ. Trong th?i gian ở đây, Thành có liên lạc với cha mình. Thành đệ đơn xin theo h?c trư?ng dạy ngh?, nhưng nhà trư?ng đòi h?i phải trải qua 3 năm huấn luyện, Thành b? h?c và cùng với một đồng hư?ng Nghệ An khác tên Hoàng bán báo dạo kể kiếm sống qua ngày. Trong th?i gian này, Thành thư?ng hay lui xuống bến cảng xem tàu bè qua lại. Ngày 2 tháng 6, một ngư?i thanh niên tự xưng là Ba đến tàu Admiral Catouche-Tréville xin việc làm. Thuy?n trưởng Louis Edward Maisen quyết định nhận anh ta vào làm trong nhà bếp. Mùa hè năm 1911, tàu r?i bến cảng Nhà Rồng trên đư?ng đi Marseille, Pháp.
Hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi r?i Sài Gòn không được rõ ràng, và ít được ghi lại. Cuộc sống của công nhân trên tàu khá khắc khổ. Nguyễn Tất Thành đã ghi lại khá tỷ mỉ trong Hồi ký của mình. Sau khi tạm dừng lại ở các cảng Singapore, Colombo, và Said, tàu Admiral Catouche-Tréville cập bến Marseille ngày 6/11/1911. Lần đầu tiên trong đ?i, Thành thấy được những văn minh của Tây phương, kể cả xe lửa. Và cũng lần đầu tiên trong đ?i, Thành được g?i là "Monsieur" trong quán cà phê ở Rue Cannebière. Anh ta viết: "Ngư?i Pháp ở Pháp lịch sự và tử tế hơn ngư?i Pháp ở ?ông Dương." Thành còn khám phá ra sự nghèo nàn ở Pháp và tình trạng đĩ điếm. Anh ta viết một thư cho bạn, trong đó có đoạn: "Tại sao ngư?i Pháp không mở mang cho dân h? trước khi mở mang cho chúng ta?" Từ đó, ý chí cách mạng càng nung nấu thêm trong con ngư?i của ngư?i thanh niên Nguyễn Tất Thành.
Trong những năm tháng sau đó, ông Hồ theo tàu đi qua ? châu, Phi châu, Mỹ châu (New York) và Âu châu. Ông Duiker cho biết ông Hồ lưu lại New York một th?i gian, làm công và dự mít-tinh ở Marcus Garvey's Universal Negro Improvement Trust thuộc vùng Harlem. Khi sang Âu châu, ông Hồ làm ngh? phụ bếp và sau này đầu bếp dưới tay nấu bếp danh tiếng Auguste Escoffier tại khách sạn Carlton ở London. ?ến cuối Thế chiến thứ nhất, ông sang định cư ở Paris. Trong thới gian ở đây, ông sống bằng ngh? sửa ảnh. Ở đây, thành lập một số hiệp hội ngư?i Việt hải ngoại và viết báo cũng như phát biểu tố cáo những hành vi tội ác của Pháp đối với các thuộc địa trong các cuộc h?p hội của ?ảng Xã hội Pháp. Năm 1919 ông đệ trình một kiến nghị đến Chính phủ Pháp ở Hội nghị Versailles, đòi h?i Pháp phải thực thi nguyên lý của Tổng thống Woodrow Wilson v? tự trị cho Việt Nam. Cảnh sát Pháp để ý theo dõi bảng kiến nghị và tác giả của nó “Nguyễn ?i Quốc?. H? (cảnh sát) theo dõi ông Hồ m?i nơi, mặc dù Nguyễn ?i Quốc là một ngư?i viết không một xu dính túi, một thanh niên yếu đuối trong một bộ y phục rộng thùng thình giống như hình hài của ông vua hài Chaplin.
Qua cuốn sách “Ho Chi Minh?, William Duiker cho biết ông Hồ đến với chủ nghĩa Mác vào mùa hè năm 1920, qua một luận án của Lénin, “Luận v? một số vấn đ? liên quan đến quốc gia và thuộc địa? (Theses on the National and Colonial Questions). Trước đây, ông Hồ cũng từng đ?c v? thuyết của Mác, nhưng chỉ qua những lí giải minh bạch của Lenin mới đánh thức ông một cách mạnh mẽ, đã làm biến đổi ông từ một ngư?i yêu nước bình dị với khuynh hướng xã hội thành một nhà cách mạng Mác xít. Khi ?ảng Xã hội Pháp bất đồng ý kiến v? vấn đ? có nên tham gia vào phong trào Thế giới thứ Ba của Lenin trong ?ại hội năm 1921, ông Hồ trở thành một trong những sáng lập viên của ?ảng Cộng sản Pháp.
?ảng Cộng sản Pháp t? ra có khuynh hướng Âu châu, không mấy quan tâm đến các vấn đ? thuộc địa ở ? châu như Việt Nam. Năm 1921, ông Hồ đi Moscow qua l?i m?i của Quốc tế Cộng sản (Comintern) để thuyết phục tổ chức này yểm trợ hoạt động của ông. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Xô Viết đang bận tâm với các vấn đ? tranh chấp nội bộ, nên ông Hồ phải tiêu ra cả năm tr?i mới thuyết phục được h? gửi ông trở lại Trung Quốc hoạt động, nơi ông tổ chức được một liên minh, qui tụ được vài nhóm ngư?i Việt theo chủ nghĩa dân tộc và nhóm theo Cộng sản. Trong vòng 15 năm sau đó, ông Hồ hoạt động với vai trò một cán bộ cho Quốc tế Cộng sản.
Nhưng quan hệ giữa ông Hồ và Moscow không phải lúc nào cũng mặn mà, mà có lúc cũng gay go. Ông Hồ đặt nặng vào chủ nghĩa dân tộc và quan điểm chính trị này không hòa hợp được với quan điểm của lãnh đạo Quốc tế Cộng sản ở Moscow. Song, ông kiên tâm theo đuổi chương trình làm việc của mình, ch? đợi và vây lấy th?i cơ thuận lợi. Ở Canton, ông Hồ làm báo và sáng lập ra Việt Nam Thanh niên Cách mạng Hội (Vietnamese Revolutionary Youth League) và tổ chức huấn luyện nhằm thu hút h?c sinh từ khắp m?i mi?n trong Việt Nam. Ngoài việc dạy chủ nghĩa Mác-Lê, ông còn dạy đạo đức cách mạng của riêng ông: tiết kiệm, thận tr?ng, tr?ng kiến thức, khiêm tốn, và khoan hồng, những đức tính xuất phát từ Khổng giáo hơn là từ Lenin. ?ối với h?c sinh, ông Hồ là hiện thân của những đức tính này, và những châm ngôn này mà ông giảng dạy sau này trở thành những điểm đặc trưng của cách mạng Việt Nam.
Năm 1927, Tưởng Giới Thạch bắt đầu chiến dịch truy lùng những ngư?i thiên tả, và trung tâm huấn luyện của Hồ Chí Minh bị tan rã, và ông phải trốn qua Hồng Kông và từ đó đi Moscow. Sau đó, ông quay trở lại Pháp, và sau khi lưu lại Pháp một th?i gian, ông đi Thái Lan, nơi mà ông đã lưu lại khoảng 2 năm để hoạt động cách mạng. Năm 1930, ông trở lại Trung Quốc và làm việc bí mật để trốn tránh cảnh sát Trung Quốc và mật vụ Pháp. Ông bị cảnh sát Anh bắt tại Hồng Kông, nằm tù một năm, và lại một lần nữa ra kh?i nhà tù để đi v? lại Moscow. Nhưng lần này Moscow không giúp đỡ gì cho ông, vì lúc đó Stalin thanh trừng cán bộ. Ông Hồ không những bị kiểm điểm cá nhân, mà còn bị đi?u tra và cho ra ngoài l?.
?ến năm 1941, ông lại trở v? Việt Nam sau 30 năm xa cách để xây dựng một căn cứ du kích ở vùng Bắc Việt. Năm 1945, 3 tháng sau khi Pháp bị Nhật đánh đuổi, và chỉ 2 ngày sau khi Nhật dầu hàng ?ồng minh, Việt Minh tiến vào thủ đô Hà Nội cướp chính quy?n giữa tiếng hoan hô của dân chúng, Hồ Chí Minh đ?c l?i tuyên ngôn nước Việt Nam độc lập.
Ông Duiker trình bày nhi?u bằng chứng cho thấy ông Hồ không muốn chiến tranh với Pháp. Thực ra, ông Hồ tìm đủ m?i cách, m?i phương tiện để tránh chiến tranh. Ông từng ve vãn ngư?i Mỹ (qua các sĩ quan tình báo thuộc OSS) mà ông đã quen biết trong th?i chiến tranh, ủng hộ chính phủ ông. Thậm chí, ông còn đánh tiếng là sẵn sàng cho Mỹ dùng Vịnh Cam Ranh cho hải quân Mỹ! Ông còn thành lập một chính phủ liên hiệp, đồng ý cho sự hiện diện của quân đội Pháp, và đồng ý làm thành viên của Liên hiệp Pháp, với đi?u kiện ngư?i Pháp tôn tr?ng và công nhận Việt Nam là một nước độc lập. Nhưng sau khi ngư?i Pháp bị thua trận vào Thế chiến thứ hai, ngay cả ?ảng Xã hội Pháp cũng không có ý định b? cá thuộc địa; do đó, chiến tranh xảy ra và đầu năm 1947, ông Hồ quay trở lại th?i du kích. Ông Hồ nói một câu đáng ghi nhớ với một ngư?i bạn ông là Jean Sainteny, là “Ông giết 10 đồng bào tôi, chúng tôi sẽ giết một đồng bào ông, nhưng cuối cùng ông sẽ là ngư?i kiệt sức.? Ông Hồ quả không sai.
Năm 1954, dưới sự áp lực của Trung Quốc và Liên Xô, ông Hồ và Việt Minh đồng ý ngưng chiến, và chia đôi Việt Nam thành hai nước lấy vĩ tuyến 17 làm điểm chia cắt. Theo đi?u kiện của bảng hiệp định Geneva, một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức hai năm sau đó để thống nhất đất nước. Tuy nhiên, Trung Quốc và Liên Xô không bảo đảm cuộc bầu cử, Hoa Kỳ không chịu ký bảng hiệp định, và sau khi hội nghị chấm dứt không lâu, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ là John Foster Dulles tuyên bố rằng Mỹ sẽ nâng đỡ chế độ không-Cộng sản ở mi?n Nam. Theo quan điểm của những ngư?i cách mạng, Hội nghị Geneva là một bước đi đầu tiên cho một cuộc chiến ở ?ông dương lần thứ hai.
Ở Hà Nội, ông Hồ sống một cuộc sống đơn giản như trong th?i du kích. Dù là chủ tịch nước, ông từ chối cư ngụ trong dinh toàn quy?n, và tự mình trồng vư?n xây một căn nhà tranh bên cạnh cái ao nuôi cá. Ông thư?ng xuất hiện trong bộ khaki bạc màu và đôi giày sandal cũ, nói chuyện với nông dân hay trẻ em. ?ối với nhi?u ngư?i quan sát th?i sự Tây phương, đi?u này có vẻ như là một sự đóng kịch, hay giả tạo. Nhưng thực ra, ông là một ngư?i rất tinh tế, có khả năng quyến rũ, thu hút đối phương bằng ngôn ngữ lịch lãm và hành động ân cần. Ông Hồ muốn làm gương cho thế hệ sau ông là phải hành xử theo đạo đức cách mạng.
Tác giả Duiker còn cho thấy hình ảnh của một nhà ngoại giao Hồ Chí Minh. Vào thập niên 1950s và 1960s, ông Hồ thư?ng đi nước ngoài để thương lượng và tranh thủ ủng hộ từ Xô Viết và Trung Quốc, ông phải “đi hàng hai? một cách tế nhị giữa hai cư?ng quốc chia rẽ này. Tuy nhiên, sau này (sau kỳ cải cách ruộng đất 1955-56), vai trò của ông Hồ càng ngày càng mang tính nghi thức hơn là thực quy?n. Thay vào đó là sự vai trò lãnh đạo của Lê Duẫn, ngư?i từng bị Pháp b? tù nhi?u năm vì hoạt động cách mạng. Theo Duiker, chính Lê Duẫn có lúc còn lấn ép ông Hồ cùng những đồng chí lâu năm của ông (như ?ại tướng Võ Nguyên Giáp và Thủ tướng Phạm Văn ?ồng). Ông Duiker còn cho biết cải cách ruộng đất là một phong trào chịu ảnh hưởng sâu đậm của Trung Quốc. Vẫn theo Duiker, ông Hồ không trực tiếp dính dáng vào chiến dịch này, nhưng thanh thế của một lãnh tụ lo cho dân đã bị thiệt hại nghiêm tr?ng sau vụ cải cách tai tiếng và đẫm máu này.
Tác giả Duiker cho biết trong những năm đầu thập niên 1960, ông Hồ không muốn có chiến tranh với ngư?i Mỹ. Ngay cả khi Tổng thống Lyndon B. Johnson bắt đầu thả bom xuống mi?n Bắc, ông Hồ vẫn hi v?ng Washington sẽ rút quân và ngưng ủng hộ chế độ ở Sài Gòn. Nhưng đi?u kì v?ng này không thành sự thật. Khi quân đội Mỹ bắt đầu đến Việt Nam vào năm 1965, ông Hồ đã 75 tuổi và không còn kiểm soát chính phủ nữa.
Ngày 2 tháng 9 năm 1969 (tức ngày Quốc khánh, kỷ niệm 24 năm sau ngày ông Hồ tuyên bố Việt Nam độc lập), sau buổi ăn sáng và mít-tinh với một phái đoàn cựu chiến binh, đúng 9 gi? 45 phút (sáng), ông Hồ trút hơi thở cuối cùng. Ông bình thản ra đi. Tin Hồ Chí Minh qua đ?i được đón nhận với hàng trăm bài báo khác nhau trên khắp thế giới. Phân ưu từ các lãnh tụ thuộc 121 quốc gia trên thế giới gửi v? Hà Nội. Nhà nước Liên Xô tuyên bố ông Hồ là “một đứa con vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng, là một lãnh tụ xuất sắc của quốc tế cộng sản và phong trào giải phóng quốc gia, và là một ngư?i bạn lớn của Liên Xô.? Một số nước xã hội chủ nghĩa tổ chức mặc niệm. Các lãnh tụ thuộc thế giới thứ ba ca ngợi và đ? cao vai trò của ông Hồ trong việc bảo vệ những ngư?i bị áp bức. Một bài xã luận trên một nhật báo lớn Ấn ?ộ ca ngợi ông Hồ như là một tinh túy cho “nhân dân, là hiện thân cho nguyện v?ng tự do, và đấu tranh trư?ng kỳ?. Phản ứng của báo chí Tây phương cũng rất sôi nổi. Những ngư?i chống chiến tranh đã dành cho ông Hồ những l?i phân ưu tốt đẹp. Ngay cả những ngư?i chống Cộng cũng dành cho ông Hồ một sự kính tr?ng đặc biệt. Nhưng phản ứng từ Mỹ là hoàn toàn im lặng: Tòa Bạch Cung cũng như các viên chức trong chính phủ của Nixon không bình luận gì cả.
Theo di chúc do chính ông viết, Hồ Chí Minh muốn được h?a táng để tránh tốn ti?n của công chúng, và tro ông nên được chôn khắp ba vùng Bắc Trung Nam [4]. Nhưng giới lãnh đạo mi?n Bắc Việt Nam lúc đó không theo ước nguyện này mà lại xây lăng cho ông ở giữa Quảng trư?ng Ba ?ình.
Theo Tác giả William Duiker, “Hồ Chí Minh là nửa Lenin, nửa Gandhi.? Có thể nói đây là một đúc kết sâu sắc và chính xác nhất v? ông Hồ. Trong đ?i mình, ông Hồ luôn luôn t? ra m?m dẽo, thực tế, kiên nhẫn, và tìm cách đạt được mục tiêu của ông đàm phán, hay qua những phương pháp phi quân sự. Nhưng những đối phương của ông thì không kiên nhẫn và thích dựa vào quân sự và sức mạnh để giải quyết vấn đ?.
Cuốn “Ho Chi Minh? còn giúp cho chúng ta trả l?i một số câu h?i v? đ?i tư cá nhân của ông Hồ, mà từ bấy lâu nay, là mục tiêu của một chiến dịch chống cộng và chống ông Hồ. Có thể điểm qua một vài câu h?i nổi cộm như sau:
Ngày tháng năm sinh
Một số ngư?i chống cộng cho rằng ông không có lý lịch rõ ràng, vì ngày tháng năm sinh của ông không nhất quán. Nhưng các nhà sử h?c có thể lấy những lý do hoạt động cách mạng của ông, phải lẫn tránh b?n mật thám và kẻ thù thực dân, để giải thích được sự thiếu nhất quán. Vả lại, đối với nhi?u ngư?i cao tuổi ở Việt Nam, việc quên ngày tháng sinh là chuyện thư?ng, vì ngư?i Việt, nhất là nông dân, không có truy?n thống làm lễ sinh nhật, v.v...
Theo tiểu sử chính thức do ?ảng Cộng sản Việt Nam phổ biến, Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5, năm 1890. Nhưng trong hai cuốn sách do chính Hồ Chí Minh viết thì ông chỉ đ? năm sinh là 1890 (Canh Dần), chứ không đ? cập đến ngày tháng sinh. Thêm vào đó là trong th?i kỳ hoạt động chính trị, ông khai nhi?u ngày sinh khác nhau. Hồ sơ trong kho lưu trữ của ?ệ Tam Quốc tế cho thấy trong t? khai lý lịch vào năm 1934, Nguyễn ?i Quốc ghi là sinh năm 1894. Trong t? khai lý lịch vào năm 1938, Nguyễn ?i Quốc lại khai là sinh vào năm 1903. Trong một số hồ sơ khác, Nguyễn ?i Quốc đã từng đưa ra nhi?u năm sinh khác nhau: 1891, 1892, 1893, và thậm chí 1903! Không ai biết tại sao Nguyễn ?i Quốc lại khai nhi?u năm sinh khác nhau như thế, nhưng giới sử h?c đặt giả thuyết rằng có thể ông muốn đánh lạc hướng nhà cầm quy?n lúc bấy gi?.
Nhưng theo một số nhà sử h?c Việt Nam thì năm 1894 có lẽ là đúng nhất (căn cứ vào l?i khai của các hương chức xã Kim Liên, quê nội của Hồ Chí Minh, rằng: Nguyễn Sinh Cung sinh vào tháng 3 năm Thành Thái thứ 6 (theo âm lịch). Sự thật này đã có ghi rõ trong sổ đinh bạ của địa phương Kim Liên vào th?i ấy. Và năm Thành Thái thứ 6 là năm 1894).
Tuy nhiên, giả thuyết sinh năm 1894 này không hợp lý mấy, vì dựa vào hành trình dài và gian khổ từ Nghệ An vào Huế cùng với gia đình ông vào năm 1895 (lúc đó cả gia đình phải đi bộ trong rừng qua vài tháng tr?i), thì một trẻ em 1 tuổi không thể nào cam chịu nổi. Do đó, phần đông các nhà sử h?c cho rằng năm sinh 1890 là hợp lý nhất.
Còn ngày sinh? Như đ? cập trên đây, trong hai quyển hồi ký của mình Hồ Chí Minh không nói đến ngày tháng sinh. Vậy tại sao lại lấy ngày 19-5? Theo tin đồn ở Hà Nội thì sau khi cách mạng thành Tám (19 tháng 8 năm 1945) thành công, Ban Chấp hành Trung ương ?ảng quyết định “tổ chức ngày lễ sinh nhật công khai trong toàn dân cho Hồ chủ tịch?; nhưng khi được h?i thì ông Hồ nói là không nhớ rõ, nên ông Trư?ng Chinh, có sự đồng ý của Tố Hữu, Phạm Văn ?ồng, và Võ Nguyên Giáp đã quyết định lấy ngày 19 tháng 5 làm ngày sinh nhật cho Hồ Chí Minh. Ngày này cũng là ngày thành lập Mặt trận Việt Minh (19/5/1941). Tuy nhiên, đi?u cần nhấn mạnh đây cũng chỉ là tin đồn, không có gì làm bằng chứng để xác định đúng hay sai.
Hồ Chí Minh và Phan Bội Châu
?ây là một mối quan hệ gây ra nhi?u tranh cãi nhất. Ngư?i chống cộng và không ưa ông Hồ thì cho rằng ông Hồ đã bán ông Phan Bội Châu cho Pháp để lấy ti?n. Nhưng bằng chứng mà h? đưa ra thì quả là không có gì thuyết phục. Trong sách “Ho Chi Minh?, Duiker mô tả sự việc như sau:
Ở Hàng Châu (Hangzhu), Phan Bội Châu theo dõi một cách lí thú sự xuất hiện của nhóm Việt Nam Thanh niên Cách mệnh ?ồng chí Hội (Revolutionary Youth League). Nguyễn ?i Quốc hứa với Phan Bội Châu rằng anh sẽ báo tin cho nhà yêu nước lão thành thư?ng xuyên v? những hoạt động của anh ta, và hai ngư?i đồng ý rằng Phan Bội Châu sẽ sắp đặt đi thăm Quảng ?ông (Canton) vào mùa hè năm 1925. Trong một lá thư gửi cho Nguyễn ?i Quốc vào đầu năm 1925, Phan Bội Châu ca ngợi sự hiểu biết rộng và kinh nghiệm trong hoạt động cách mạng của Nguyễn ?i Quốc, và bày t? sự hài lòng của mình rằng v? triễn v?ng một ngư?i trẻ có thể tiếp tục công việc của ông trong lúc ông đang ở tuổi già bóng xế. Song, Phan Bội Châu cũng bày t? ý muốn tham gia vào hoạt động của phong trào do Nguyễn ?i Quốc lãnh đạo. Tuy nhiên, trong một thư cho Hồ Tùng Mậu, một ngư?i đồng chí của Nguyễn ?i Quốc, Phan Bội Châu khuyên các nhà yêu nước trẻ không nên hành động quá hấp tấp.
Nhưng trước khi chuẩn bị cho chuyến đi Quảng ?ông, Phan Bội Châu phàn nàn rằng Nguyễn ?i Quốc có vẻ phớt l? ông. Giữa tháng 5 năm 1925, Phan Bội Châu r?i Hangzhou trên một chuyến xe hoả đi Thượng Hải, nhưng Nhà cầm quy?n Pháp ở Trung Quốc đã biết được kế hoạch của chuyến đi qua một ngư?i chỉ điểm nằm trong nhóm ngư?i tùy tùng của ông. Khi vừa đến ga xe h?a Thượng Hải, Phan Bội Châu bị công an Pháp [giả dạng tài xế taxi] bắt và giải v? Hà Nội để đưa ra tòa vì tội mưu phản (treason).
?ây là một đoạn lịch sử gây ra nhi?u tranh cãi lâu dài sôi nổi giữa các phe phái chính trị Việt Nam. Ngay từ lúc đầu sau khi nghe tin Phan Bội Châu bị bắt, nhóm Việt Nam Thanh niên Cách mệnh ?ồng chí Hội nghi ng? Nguyễn Thượng Huy?n (lúc đó giữ chức thư ký riêng của Phan Bội Châu) là thủ phạm. Trong hồi ký, Phan Bội Châu cũng nghi ng? Nguyễn Thượng Huy?n là ngư?i chỉ điểm. Nhưng một số ngư?i không cộng sản cho rằng Lâm ?ức Thụ, hoặc Hồ Chí Minh là ngư?i phản bội, đã báo cho mật thám Pháp bắt Phan Bội Châu để lấy ti?n. Một số tác giả Tây phương cũng lập lại l?i cáo buộc này, dù không có bằng chứng cụ thể nào được trưng dẫn. Phía ngư?i cộng sản thì trước sau vẫn khăng khăng cho rằng Nguyễn Thượng Huy?n là thủ phạm, vì Nguyễn Thượng Huy?n sau này r?i b? hàng ngũ cách mạng và ra làm việc cho Pháp.
Cuộc tranh cãi nổ ra chủ yếu trên lằn ranh ý thức hệ. Tài liệu từ văn khố Pháp không cho ngư?i ta một kết luận chắc chắn được; nhưng các tài liệu này cho thấy rõ rằng Nguyễn ?i Quốc không có dính dáng vào vụ Phan Bội Châu bị bắt. Có thể (chỉ “có thể? thôi) Lâm ?ức Thụ là ngư?i chỉ điểm, bởi vì Thụ đã từng đóng vai trò một thành viên trong Việt Nam Thanh niên Cách mệnh ?ồng chí Hội và có tin là sau này ông ta thừa nhận trách nhiệm trong vụ bắt Phan Bội Châu. Tuy nhiên, đó chỉ là giả định, và giả định này cũng không có giá trị gì đáng kể. Theo báo cáo của Sureté (Cơ quan Mật vụ Pháp) viết lúc sự việc xảy ra thì có một ngư?i chỉ điểm cho Pháp, đoán chừng là Nguyễn Thượng Huy?n, sinh sống trong nhà của Hồ Hắc Lãm ở Hàng Châu. Có thể ngư?i này mới biết rõ đư?ng đi nước bước của Phan Bội Châu mà báo cho Mật thám Pháp. Lâm ?ức Thụ nổi tiếng là một ngư?i hay khoe khoang, khoác lác, và có thể đã xung phong nhận công trong vụ bắt cụ Phan Bội Châu để thổi phồng sự quan tr?ng của anh ta mà thôi. Tóm lại, tài liệu Pháp cho thấy có thể Nguyễn Thượng Huy?n là ngư?i đã phản bội cụ Phan Bội Châu.
Ông Duiker lí giải rằng trong bất cứ tình huống nào, sự kiện Phan Bội Châu bị Pháp bắt không đem lại cho Nguyễn ?i Quốc một lợi ích nào. ?i?u này không phải để phủ nhận rằng Nguyễn ?i Quốc không phản bội Phan Bội Châu, nếu việc bắt ông phục vụ cho lợi ích cách mạng. Giá trị chính trị của Phan Bội Châu bị hạn chế vì tuổi tác và sự kém tinh tế trong hoạt động chính trị, cũng như đư?ng lối đấu tranh bất bạo động của ông. Cho đến năm 1825, Phan Bội Châu chỉ là một biểu tượng cho Chủ nghĩa Dân tộc Việt Nam hơn là một ngư?i thực sự tham dự vào phong trào kháng chiến. Sự phẫn nộ của quần chúng qua việc bắt ông càng làm cho chính nghĩa của nhóm cách mạng lên cao. Mặt khác, Việt Nam Thanh niên Cách mệnh ?ồng chí Hội không khai thác nhi?u v? sự kiện Phan Bội Châu bị bắt, mà chỉ tiếp tục ca ngợi sự hi sinh cao cả của Phạm Hồng Thái, ngư?i được lấy làm tấm gương để Hội tuyển mộ thêm tình nguyện viên ở Quảng ?ông.
Một số ngư?i cho rằng có thể Nguyễn ?i Quốc phản bội Phan Bội Châu vì cần ti?n để hoạt động. ?i?u này cũng đáng để đi?u tra thêm, và không nên chấp nhận hay bác b? một cách hấp tấp. Trong thực tế, Nguyễn ?i Quốc chỉ có một số ti?n nh? từ ?ảng Cộng sản Trung Quốc để hoạt động, và thỉnh thoảng ông phải dùng ti?n túi để phụ thêm. Mặt khác, Nguyễn ?i Quốc cần phải bảo vệ uy tín của mình, không thể để cho Pháp dùng sự phản bội, nếu có, để bêu xấu trước ông trước công chúng và đồng chí. Nói tóm lại, Nguyễn ?i Quốc muốn thấy Phan Bội Châu tự do để phục vụ như một lãnh tụ tượng trưng để cho Nguyễn ?i Quốc có thêm uy tín nhằm huy động quần chúng cho mục tiêu cách mạng của ông ta. Ngay cả khi ở tuổi già và bị quản thúc tại gia, Phan Bội Châu lúc nào cũng t? ra kính nể Nguyễn ?i Quốc và chưa bao gi? nghi ng? Nguyễn ?i Quốc phản bội mình.
Nguyễn ?i Quốc và bản kiến nghị
Ngày 18 tháng 6 năm 1919, Nguyễn Tất Thành thảo một bản kiến nghị 8 điểm lên chính phủ Pháp, yêu cầu Pháp áp dụng lý tưởng của Tổng thống Wilson (Mỹ) cho các thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam. Bản kiến nghị được viết bằng một gi?ng văn ôn hòa, và không đ? cập đến vấn đ? độc lập quốc gia, nhưng đòi h?i quy?n tự trị cho ngư?i Việt Nam, truy?n thống dân chủ, tự do h?p hội, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do đi lại, bình đẳng giữa ngư?i Việt Nam và ngư?i Pháp, xoá b? thuế muối, á phiện, rượu, và ân xá cho tù nhân chính trị. Ngư?i ký tên bản kiến nghị là “Nguyễn ?i Quốc,? với địa chỉ tại số 56 Rue Monsieur-le-Prince, đại diện cho Hội Ngư?i An Nam tại Pháp.
Tuy nhiên, tác giả thực sự của bản kiến nghị này vẫn còn trong vòng tranh cãi. Một số ngư?i cho rằng Nguyễn Tất Thành lúc đó chưa đủ trình độ Pháp văn để thảo một bản kiến nghị như thế, và có thể Phan Văn Trư?ng (một luật sư và là ngư?i trong Hội Ngư?i An Nam tại Pháp) soạn thảo. Nhưng Hồ Chí Minh thì tự nhận mình là tác giả và chính là ngư?i thảo bản kiến nghị đó, nhưng ông cũng nói thêm là có sự giúp đỡ của Phan Văn Trư?ng.
?ối với giới nghiên cứu sử nước ngoài thì vấn đ? Nguyễn Tất Thành có phải là tác giả của bản kiến nghị hay không là đi?u không quan tr?ng. ?i?u quan tr?ng là chính Nguyễn Tất Thành là ngư?i chịu trách nhiệm phổ biến bản kiến nghị, chính Thành là ngư?i cầm bản kiến nghị đem đến tận tay các chính khách trong ?iện Versailles, và cũng chính Thành là ngư?i phổ biến bản kiến nghị trên t? L’Humanité, một t? báo cấp tiến có lập trư?ng ủng hộ xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Tất Thành cũng là ngư?i tổ chức phân phối bản kiến nghị này đến hơn 6000 thành viên trong Tổng Công đoàn Pháp. ?i?u đó cho thấy Nguyễn Tất Thành là nhà cách mạng dám nói dám làm.
Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh
Tính đến mùa xuân năm 1927, Nguyễn ?i Quốc đã lưu lại ở Quảng ?ông hơn hai năm. Trong th?i gian này, Nguyễn ?i Quốc đã trở thành một một thành viên nổi tiếng và có uy tín trong những ngư?i hoạt động cách mạng, và đã có quan hệ mật thiết với Chu Ân Lai và một số thành phần khuynh tả của Quốc Dân ?ảng Trung Quốc. Cuộc sống của ông lúc này tương đối ổn định, và có lẽ vì lí do này, ông có ý định lập gia đình. Nguyễn ?i Quốc bàn với Lâm ?ức Thụ v? ý định lập gia đình, và nh? Thụ tìm làm mai mối.
Sau đó một th?i gian, vợ của Lâm ?ức Thụ giới thiệu cho Nguyễn ?i Quốc một phụ nữ trẻ tên là Tăng Tuyết Minh, con gái của một gia đình buôn bán giàu có trong vùng. Thân mẫu của Tuyết Minh là vợ thứ ba của thân phụ cô ta, vì thế cô không được yêu quí trong gia đình. Sau khi thân phụ của Tuyết Minh qua đ?i, cô bị đuổi ra kh?i nhà. Trong hoàn cảnh tuyệt v?ng như thế, khi được vợ của Lâm ?ức Thụ mai mối cho Nguyễn ?i Quốc, Tuyết Minh nhận l?i ngay. Tuy nhiên, Tuyết Minh là ngư?i ít h?c, do đó một số đồng chí của Nguyễn ?i Quốc t? vẻ không đồng ý cho cuộc hôn nhân này. Mẹ của Tăng Tuyết Minh cũng không hài lòng vì thấy Nguyễn ?i Quốc là một nhà cách mạng, nay đây mai đó, và sợ con gái bà sẽ khổ vì phải xa cách chồng. Nhưng ngư?i anh cả của Tăng Tuyết Minh thì lại rất thích Nguyễn ?i Quốc và khuyến khích cuộc hôn nhân. Sau ngày thành hôn, hai vợ chồng Tăng Tuyết Minh và Nguyễn ?i Quốc sống chung trong một villa của Borodin. Nhưng sáu tháng sau khi thành hôn, khi nghe tin công an ruồng bắt, Nguyễn ?i Quốc bí mật r?i Quảng ?ông [b? lại vợ] bằng xe h?a để đi Hồng Kông.
Quan hệ giữa Tăng Tuyết Minh và Nguyễn ?i Quốc trong th?i gian sau đó không được rõ ràng. Có thể là kể từ ngày Quốc r?i Quảng ?ông, mối tình coi như chấm dứt. Tuy nhiên, sau khi r?i Quảng ?ông một năm, Nguyễn ?i Quốc có viết cho Tăng Tuyết Minh một lá thư riêng mà Lâm ?ức Thụ trao lại cho mật thám Pháp; trong thư, Quốc viết: “Tuy rằng chúng ta đã xa cách nhau gần một năm rồi, tình cảm chúng ta dành cho nhau vẫn còn nguyên vẹn, dù không nói ra. Anh muốn nhân cơ hội này gửi đến em vài l?i cam đoan và mong em vững lòng. Anh cũng muốn nh? em gửi l?i chúc tốt đẹp nhất đến mẹ em.? Ngoài ra, có bằng chứng cho thấy hai ngư?i tình c? gặp nhau ở Hồng Kông vào năm 1930.
Theo một sử gia ngư?i Trung Quốc, sau này khi cách mạng thành công và trở thành chủ tịch nước, ông Hồ Chí Minh có tìm cách liên lạc với Tăng Tuyết Minh, nhưng m?i thư từ đ?u không tới tay bà.
Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Minh Khai
Năm 1931, lúc còn lưu lại ở Hồng Kông, Nguyễn ?i Quốc hình như bắt đầu một cuộc tình mới với một phụ nữ ngư?i Việt Nam trong nhóm cách mạng của ông. Ngư?i phụ nữ đó là Nguyễn Thị Minh Khai, là chị của Nguyễn Thị Minh Thái. (Minh Thái là vợ của tướng Võ Nguyên Giáp, một đồng chí trẻ tuổi của Hồ Chí Minh). Minh Khai là một phụ nữ trẻ đẹp, lanh lợi, thông minh, và rất nhiệt tình với cách mạng. Minh Khai xuất thân từ một gia đình có tiếng ở Hà ?ông, là con của cụ Nguyễn Văn Bình, một nhà nho đậu phó bảng, nhưng sau này làm công chức cho Pháp. Mối tình giữa Minh Khai và Nguyễn ?i Quốc không được rõ ràng, và bằng chứng còn lại chỉ là gián tiếp, chứ không cụ thể. Trong một lá thư viết cho Noulens, Nguyễn ?i Quốc xin phép làm lễ thành hôn với Minh Khai, song Noulens trả l?i là ông ta cần phải biết trước hai tháng để chuẩn bị. Tuy nhiên, sau đó không lâu, Minh Khai đã bị cảnh sát Anh bắt vì tội lật đổ chính quy?n. Sau khi bị giam vài tháng, và không đủ chứng cớ, Minh Khai được trả tự do. Sau này, Nguyễn Thị Minh Khai lập gia đình với Lê Hồng Phong (một cán bộ cao cấp trong ?ảng Cộng sản ?ông dương) tại Moscow.
Mối quan hệ giữa Nguyễn ?i Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai là một khía cạnh không rõ ràng trong cuộc đ?i của Nguyễn ?i Quốc. Không có một tài liệu chính thức nào từ Moscow, Trung Quốc, hay Hồng Kông để có thể kết luận rằng hai ngư?i là chồng vợ. Tuy nhiên, một số thư từ và báo cáo mật trong nội bộ ?ảng Cộng sản ?ông dương đ? cập đến Nguyễn Thị Minh Khai như là “la femme de Quoc,? và dữ kiện này cho các nhà sử h?c Tây phương một chứng cớ để cho rằng hai ngư?i có quan hệ tình cảm. Trong một t? khai lí lịch đảng viên [bằng tiếng Nga] của Nguyễn Thị Minh Khai còn lưu trữ tại Moscow, trong phần gia đình, bản lí lịch ghi chồng là Nguyễn ?i Quốc, nhưng có dấu viết gạch b? l?i khai này.
Hồ Chí Minh và những tin đồn
Một vài tin đồn cho rằng khi đến Moscow, Nguyễn ?i Quốc được Trung ương Comintern (Cộng sản Quốc tế) “cho? một bà vợ ngư?i Nga và hai ngư?i đã sinh một ngư?i con gái. Tuy nhiên, đây chỉ là tin đồn, hoàn toàn không có bằng chứng hay dữ kiện gì để kiểm chứng nó đúng hay sai.
Trong cuốn sách “?êm giữa ban ngày? của Vũ Thư Hiên, tác giả cho biết ông Hồ còn có quan hệ với một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Xuân, và sau này bị Trần Hoàn, Bộ trưởng Nội vụ, chủ mưu giết chết. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một đồn đại, mà bằng chứng thì hoặc mâu thuẫn, hoặc không rõ ràng, thậm chí có ngư?i còn dựng chuyện để xuyên tạc ông Hồ. Có thể nói ngay rằng câu chuyện cô Xuân và ông Hồ không có xuất xứ rõ ràng, bởi vì không ai biết tác giả của nó là ai. Trong bài viết của Nguyễn Minh Cần, ông cho biết là ông lấy thông tin từ l?i kể của Vũ Thư Hiên, và từ một số ngư?i mà ông viết là “ngư?i ta kể cho tôi,? trong đó, có thể kể cả “một bức thư dài 5 trang đánh máy của ngừơi chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29 tháng 7 năm 1983? nhưng ông không được quy?n công bố bức thư này! Còn ông Vũ Thư Hiên thì chỉ viết theo l?i kể của ông Nguyễn Tạo và một số l?i nói của ông Vũ ?ình Huỳnh, nguyên bí thư riêng của ông Hồ (ông Huỳnh còn là thân phụ ông Vũ Thư Hiên). Như vậy, có thể nói câu chuyện chỉ là một giai thoại, như hàng ngàn giai thoại khác, bởi vì câu chuyện nguyên thủy chỉ là những l?i kể chuyện, lưu truy?n gián tiếp trong những ngư?i quen. Bởi vì không ai xác định được tác giả là ai, nên không ai biết chắc một cách chính xác câu chuyện xuất phát từ đâu, mục đích của nó là gì, những giả định trong câu chuyện là gì, và nhất là hoàn toàn không có một bằng chứng nào nhất quán với quan điểm hay nhận xét của hai ông Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh Cần.
Ngoài ra, trong cuốn hồi kí ngắn, “D?c đư?ng gió bụi,? ông Trần Tr?ng Kim viết rằng ông Hồ còn có quan hệ tình cảm và có con với một ngư?i tên là ?ỗ Thị Lạc. Tuy nhiên, Trần Tr?ng Kim cũng không đưa một bằng chứng nào để ngư?i đ?c có thể đánh giá sự chính xác của l?i phát biểu.
Vài hàng nhận xét
Theo ngư?i viết bài này, ngư?i viết sử có ba mục tiêu cao quí: ghi lại những gì đã xảy ra trong quá khứ; xây dựng một hệ thống tri thức v? quá khứ; và nghiên cứu quá khứ bằng các phương pháp khoa h?c khách quan. Cuốn “Ho Chi Minh? của Tác giả William Duiker hoàn thành những mục tiêu này một cách xuất sắc. Qua cuốn sách này, Duiker đã làm sống lại cuộc đ?i hoạt động của Hồ Chí Minh một cách trung thực, trung thực hơn bất cứ cuốn sách nào v? ông mà ngư?i viết đã từng đ?c qua. Cuốn sách đã được các nhà nghiên cứu sử đánh giá cao. Trong phần điểm sách của Tạp chí Kirkus Review, một tác giả viết, “?ây là một công trình xuất sắc, một cuốn tiểu sử công bằng v? một lãnh tụ cộng sản. Những ai nghiên cứu v? thế kỷ 20 cần phải đ?c cuốn sách này để hiểu bằng cách nào mà một cá nhân có thể làm gương và khai sinh một quốc gia.?
??c qua cuốn sách này, ngư?i ta thấy được một đi?u nổi bật là tính chuyên môn cao và đạo đức ngh? nghiệp của soạn giả được biểu hiện qua sự thận tr?ng trong việc dùng và đánh giá tài liệu. Cái phong cách nghiên cứu sử của ông Duiker đáng để cho những ngư?i viết v? ông Hồ h?c theo. Ông Duiker cẩn thận ghi chép và kiểm tra sự chính xác của sử liệu, ông không dùng loại sử liệu hạng hai (tức chỉ nghe lại) để phán xét. Tuy thế, cuốn sách của William Duiker không phải hoàn hảo (vì có một số chi tiết, tên của vài nhân vật, cấp bậc quân đội, v.v… trong sách không đúng), nhưng may mắn thay, những nhầm lẫn này không ảnh hưởng đến những nhận xét và sự thật quan tr?ng trong sách.
??c xong cuốn sách của Duiker, ngư?i viết cảm thấy thất v?ng đối với giới viết sử gốc Việt ở hải ngoại, những ngư?i được giới thiệu như là những “h?c giả?. Hình như phần đông những “h?c giả? này chưa (hay không) được huấn luyện có hệ thống v? sử h?c, hay có được huấn luyện nhưng ở trình độ thấp, nên h? thiếu khả năng nghiên cứu và suy luận. Ngoài ra, do vấn đ? thiếu thốn tài liệu, hay do tính lư?i biếng tri thức, nên h? thư?ng dùng tài liệu mà chính h? cũng không kiểm tra được. Cộng vào đó là vấn đ? để cho cảm tính chi phối trong việc viết lách, và hậu quả là phần đông các “h?c giả? loại này đ?u bị rơi vào cạm bẫy của ngụy biện, mà có khi chính h? cũng không biết.
Mức độ khác nhau v? lý trí giữa ngư?i đ?c không cao, nhưng sự khác biệt v? nhận định của h? bị chi phối một phần lớn ở dữ kiện được trình bày trước h?. Và có lẽ đây là một đóng góp lớn của ông William Duiker và cũng là một bài h?c cho giới báo chí Việt ngữ hải ngoại. Ông Duiker, trong trư?ng hợp ông không rút ra được kết luận, ông cẩn thận trình bày dữ kiện để ngư?i đ?c tự đánh giá lấy, mà không tìm cách ảnh hưởng cảm nhận của ngư?i đ?c. Ngược lại, nhìn qua cách tiếp nhận và phân phối thông tin trong báo chí Việt ngữ ở hải ngoại, ngư?i ta có thể nói rằng mục đích chính của báo chí Việt ngữ hải ngoại là chỉ cung cấp thông tin sao cho cộng đồng ngư?i Việt có một thái độ chống ông Hồ, chống cộng sản, chứ không phải cung cấp thông tin đầy đủ để cho ngư?i đ?c am hiểu sự việc và xây dựng được những ý kiến đứng đắn.
Tóm lại, cuốn “Ho Chi Minh? là một cuốn sách đứng đắn nhất và nghiêm túc nhất v? Hồ Chí Minh, một nhân vật lịch sử quan tr?ng không những của Việt Nam mà còn của thế giới. Cuốn sách rất xứng đáng có mặt trong tủ sách của những ngư?i nào quan tâm đến, hay những ngư?i nào muốn tìm hiểu v?, một giai đoạn quan tr?ng trong lịch sử Việt Nam cận đại, và một nhân vật đóng vai trò then chốt trong giai đoạn lịch sử đó: Hồ Chí Minh.
Chú thích:
[1] Theo sử gia Trần Quốc Vượng, ngư?i dân làng Kim Liên đồn rằng: Nguyễn Sinh Sắc (còn có tên là Nguyễn Sinh Huy) không phải là thuộc dòng máu mủ của dòng h? Nguyễn Sinh làng này; mà là con của một ngư?i khác, đó là ông đồ nho, cử nhân Hồ Sĩ Tạo. Ông Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng h? Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh ?ôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (cũng là quê gốc của Hồ Quí Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15, và cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn, vốn h? Hồ, thuộc thế kỷ 18).
Nhà h? Hà có một cô con gái xinh đẹp, có tài múa hát tên là Hà Thị Hy, tuy đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa chồng. Trong nhà lại có một văn nhân, đó là ông Hồ Sĩ Tạo, là ngư?i đã có vợ. Trai tài gái sắc gặp nhau, và "lửa gần rơm, lâu ngày cũng bén": cô Hà Thị Hy bỗng dưng có bầu. ?ể tránh nỗi nhục cho con gái và giữ uy tín cho ông cử, cả nhà h? Hà phải suy tính ...
Lúc bấy gi? ở làng Sen cùng xã, có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cầy, tuổi đã cao mà chưa góa vợ (vợ trước của ông đã qua đ?i, và để lại cho ông một ngư?i con trai tên là Nguyễn Sinh Thuyết cũng đã có gia đình). Nhà h? Hà bèn cho g?i ông Nguyễn Sinh Nhậm đến đi?u đình và cho cô Hy làm vợ kế ông này. Sau đó, lễ cưới diễn ra, và cô Hà Thị Hy mang bụng v? nhà chồng, nhưng khóc thầm vì bẽ bàng, h?n duyên tủi phận. Ông Nguyễn Sinh Nhậm cũng cắn răng chịu ăn "của thừa".
Vài tháng sau, bà Hà Thị Hy hạ sinh một ngư?i con trai, và đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, tức lấy h? ông. Năm Nguyễn Sinh Sắc lên bốn thì cụ Nguyễn Sinh Nhậm qua đ?i. ?t lâu sau, bà Hà Thị Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc phải v? sống chung với gia đình của ngư?i anh vừa khác cha vừa khác mẹ là Nguyễn Sinh Thuyết. Nguyễn Sinh Sắc luôn luôn bị khổ tâm v? tinh thần lẫn vật chất trong một gia đình chẳng có chút tình thương nào dành cho cậu bé ở cảnh ngang trái.
May có ông Tú đồ nho Hoàng Xuân ?ư?ng gần đó thương sót và đưa Nguyễn Sinh Sắc v? sống chung với gia đình ông. Nguyễn Xuân Sắc h?c chữ nho từ nhà cụ tú này, và t? ra là một h?c trò thông minh. Năm Nguyễn Sinh Sắc lên 18 tuổi, ông bà Hoàng Xuân ?ư?ng gã cô con gái đầu lòng mới 13 tuổi, Hoàng Thị Loan, cho Nguyễn Sinh Sắc. Ông bà tú còn xây một căn nhà ba gian cho hai vợ chồng Sắc-Loan ở riêng. Tuy nhiên, khi ông tú Hoàng Xuân ?ư?ng qua đ?i, vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc và Hoàng Thị Loan lại d?n v? sống chung với bà tú.
[2] Theo tập tục địa phương, khi mới sinh ra đứa bé được đặt tên sữa, và khi trưởng thành có thể lấy một tên khác.
[3] Phạm Ng?c Th? là cha của Phạm Ng?c Thạch, ngư?i sau này trở thành bác sĩ và bộ trưởng Y tế dưới chính phủ của ông Hồ Chí Minh.
[4] Toàn văn bản di chúc của ông Hồ Chí Minh có thể xem tại địa chỉ sau đây: http://www.cpv.org.vn/hochiminh/dichuc/index.htm. Ở đây, chỉ xin trích một đoạn di chúc viết như sau:
“Sau khi tôi qua đ?i, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để kh?i lãng phí thì gi? và ti?n bạc của nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hoả táng?. Tôi mong rằng cách h?a táng sau này sẽ được phổ biến. Và như thế đối với ngư?i sống đã tốt v? mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhi?u điện, thì “diện táng? cũng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 phần, b? vào 3 cái hộp sành, một hộp cho mi?n Bắc, một hộp cho mi?n Trung, một hộp cho mi?n Nam.
?ồng bào mỗi mi?n nên ch?n 1 quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả không nên có bia đá, tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rải, chắc chắn, mát mẻ, để những ngư?i đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.?
Posting Permissions
- You may not post new threads
- You may not post replies
- You may not post attachments
- You may not edit your posts
Forum Rules