Page 2 of 2 FirstFirst 12
Results 21 to 34 of 34

Thread: Kỳ Án Ánh Trăng-Quỷ Cổ Nữ

  1. #21
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 19 Đúng hay là sai


    Ngày 6 tháng 2

    “Bà dùng nhân cách của ai khi nói chuyện với bác sĩ Tuấn?”. Cảnh tượng bác sĩ Tuấn nhảy lầu đã làm đậm thêm bức màn đen ám ảnh Diệp Hinh, sự đe dọa của cái chểt ngày càng mạnh thêm. Hinh bắt đầu ngủ mê thấy hình ảnh Thẩm Vệ Thanh nhảy lầu, cô hiểu rằng cô đã tin theo tín ngưỡng nào thì vẫn có một số sự việc dường như không thể tránh khỏi. Tâm trạng Hinh bắt đầu xuống dốc, hàng ngày, chỉ những lúc gặp gỡ Tạ Tốn hoặc mẹ, Hinh mới cảm thấy cuộc sống còn có hương vị ngọt ngào. Nhưng bây giờ mẹ Hinh đã kết thúc đợt nghỉ một tuần lễ, sắp phải lên đường. Bà San sẽ bị đưa sang buồng bệnh nhân nặng, Hinh muốn tận dụng những cơ hội cuối cùng này để hóa giải bầu không khí thần bí vây quanh bà già ấy.
    “Nếu tôi còn nhớ được, thì tôi đã không bị coi là mắc bệnh tâm thần đa nhân cách. Cô nên biết rằng, bệnh nhân đa nhân cách - ngoài bản thân ra - thì không thể ghi nhớ về các biểu hiện nhân cách khác. Nếu không, thì chỉ là diễn kịch mà thôi. Bên công an cũng đã hỏi tôi, nhưng tôi trả lời gì được? Chắc chắn họ cũng sẽ hỏi cô: tại sao cô lại tìm đến hiện trường?” Bà San nằm trên giường, đôi mắt nhìn thẳng lên trần nhà, hỏi vặn lại Hinh.
    “Lúc đó cháu thấy nhức đầu, có cảm giác như bị một sức mạnh từ bên ngoài dắt mình đi, thế là cháu đi tìm. Cho đến khi tìm thấy phòng điều trị mà bà đang có mặt, khi bước vào gian trong thì lại không thấy nhức đầu nữa”. Hinh trả lời bà San, có sao nói vậy. Giờ đây Hinh hầu như có thể khẳng định: bà San là nhân vật then chốt của hàng chuỗi sự việc ly kỳ.
    “Theo tôi, sau khi bác sĩ Tuấn nhảy lầu, thì cô đã hết nhức đầu!”
    “Bà đừng nói linh tinh thế! Tuy cháu bất mãn với việc chẩn đoán và quyết định của bác sĩ Tuấn, nhưng cháu cũng chưa bao giờ có ác cảm với ông ấy. ông ấy là một thầy thuốc giỏi và rất cần mẫn”.
    “Cô giải thích chuyện nhức đầu của cô như thế, có hợp với lẽ thông thường không?”
    Hinh lắc đầu. Bà San cứ như là đã hiểu thấu tất cả. “Hình như cô ngày càng giống tôi, chứng tỏ cô có duyên với nơi này, sau này cô sẽ còn thường xuyên vào đây!”
    “Cháu sẽ không! Theo cháu nghĩ, trên đời này có những chuyện không thể giải thích bằng những lý lẽ thông thường, nhưng cháu sẽ không bận tâm làm gì”.
    “Nói một đường, nghĩ một nẻo. Mồm nói là thế, nhưng tại sao cô cứ đeo bám mãi “vụ án mưu sát 405”?”
    Lúc này Hinh mới nhớ ra rằng bà lão này có thể nhìn thấu ruột gan người ta, cô bỗng rùng mình: nếu định “moi tin” bà lão thì khác nào con thiêu thân lao vào lửa?
    “Tôi không đáng sợ như thế đâu, tôi cũng buồn vì cái chết của ông Tuấn. Tôi không muốn nhìn thấy bất cứ ai - kể cả cô - phải chết”. Bà San muốn chấm dứt sự im lặng của Hinh, nhưng rõ ràng là câu nói này không có mấy tác dụng an ủi.
    “Bà đã nhìn thấy rất nhiều người chết, phải không? Mới chỉ trong vòng một tháng, cháu đã tận mắt nhìn thấy hai người nhảy lầu”.
    “Tôi chưa nhìn tận mắt quá nhiều cảnh chết chóc, nhưng dù nhìn thấy một ai đó đang sống khỏe mạnh, tôi cũng có thể cảm thấy cái chểt đang có mặt. Hồi tôi còn trẻ, thường dại dột nói luôn với người ta, thế là tôi bị đưa vào đây. Mọi người xung quanh đều nói triệu chứng của tôi là điển hình của người bị “ma ám”, tức là bị ma nhập vào người. Hồi đó, tôi nửa tin nửa ngờ, nhưng sau này thật sự hiểu rõ - toàn là nói láo cả!”
    Hinh nhớ đến cảnh tượng ở phòng điều trị, bà San chẳng phải rất giống như “bị ma nhập” hay sao?
    “Có lẽ, ma mà người đời thường nói, chính là cái chết là bà cảm nhận thấy. Thực ra nó ở đâu?”
    Bà San đang nằm bỗng ngồi thẳng người dậy, đưa sát mặt vào gần Hinh, như muốn nhìn cô cho thật rõ, đồng thời giơ ngón trỏ của bàn tay phải gõ gõ vào đầu: “Chúng đều ở trong này!” Rồi lại chỉ ngón tay trỏ vào trán Hinh: “Chúng cũng nằm ở đây!” Nói xong, bà ta lại nằm thẳng đơ trên giường.
    Hinh sững sờ, cô bỗng cảm thấy cái cách nói này nghe quen quen... “Cháu không hiểu bà nói thể là ý gì”. Hinh chỉ mong bà San nói cho rõ.
    “Cô không hiểu thật à? Đã nghe cái câu tục ngữ “ma ám tâm trí” và “trong lòng có ma” bao giờ chưa?”
    “Ý bà nói là thực ra trên đời này không hề có ma, ma quỷ chỉ có ở trong đầu người ta thôi, đúng không ạ?”
    “Tôi cũng sẽ không nói là đúng, và cũng không bảo là sai”.
    “Vậy rốt cuộc là đúng hay là sai?”
    Bà San lại ngồi dây, cả hai ngón tay trỏ cùng chỉ vào trán Hinh: “Còn muốn tôi phải nói bao nhiêu lần nữa? Cô cho là đúng hay cho là sai cũng thế, đều là ở đây!”.

    12h ngày 3 tháng 6

    Bà San đã bị chuyển đi, Hinh lại thấy hơi ngao ngán như thiếu vắng một cái gì đó. Phải chăng sẽ không thể lại có được những ngày tươi sáng? Tình cảm của Tạ Tốn và sự che chở của mẹ dường như chưa thể làm tiêu tan sự ám ảnh của tử thần mơ hồ quanh quẩn đâu đây: “Vụ án mưu sát 405” vẫn chưa sáng tỏ, bà Uông Lan San có lẽ là điểm nút để tháo gỡ mọi điều bí ẩn, nhưng bà ta thì điên điên rồ rồ, chính bà ta đã như một bóng đen cực lớn, có thể giết người trong gang tấc chẳng ai dám đến gần, nữa là định coi bà ta là một đầu mối thật sự! Các nữ sinh ngày trước nằm viện không ai thoát khỏi nhảy lầu, liệu có liên quan đến bà San không?
    Hinh đang ngồi đờ đẫn thì cô y tá đến, nói là có người vào thăm Hinh. Đó là thầy giáo trẻ Chương Vân Côn dạy môn giải phẫu. “Thưa thầy, buổi tối hôm đó, chắc em đã làm thầy bị liên lụy”. Vân Côn vào thăm, Hinh thấy hơi ngạc nhiên.
    “Không đến nỗi nào. Đúng là nhà trường có hỏi đến tôi, nhưng Hinh đâu phải phạm nhân bị truy nã, tôi cũng không làm điều gì trái pháp luật, nên cũng không bị o ép gì cả”.
    “Thầy vào gặp em có việc gì không ạ?”
    “Không. Chỉ là thăm bạn thôi. Tôi mong Hinh chịu khó dưỡng bệnh, để sớm ra viện. Nếu Hinh bằng lòng, kỳ nghỉ hè này tôi sẽ dạy bù cho, đừng để bị lưu ban”.
    Hinh gật đầu cảm ơn.
    Mỗi người thân, bạn học, thầy giáo vào thăm, đều đem đến cho Hinh sự đầm ấm và lòng can đảm.
    Hinh trở về buồng bệnh, như được thêm phần khích lệ, cô mở cuốn giáo trình giải phẫu học ra đọc. Khi mới vào đây, Hinh không tin rằng mình sẽ bị ở lại lâu dài, cô mang theo một lô giáo trình. Cô rất sợ bị thiếu bài vở. Nào ngờ, vào đây rồi, đêm đêm bị kinh hoàng như thế khiến Hinh tiu nghỉu, thế là đành gác chuyện học hành lại. Đây là lần đầu tiên cô mở sách ra, mới đọc chừng nửa giờ đã thấy mỏi mệt.
    Mắt Hinh rời khỏi trang sách, cô muốn đứng lên đi dạo, tạm nghỉ một lát. Mới đi được vài bước, Hinh nhìn thấy thầy Côn ngồi trong phòng làm việc của y tá đang cúi đầu trên bàn đọc một thứ gì đó.
    Trong phòng làm việc của y tá thì chỉ có hồ sơ bệnh án của bệnh nhân là đáng để đọc, nhưng thầy Côn chỉ là một giáo viên dạy môn giải phẫu thì sao lại được phép đọc hồ sơ bệnh án ở đây chứ? Thầy ấy đang xem hồ sơ bệnh án của ai vậy nhỉ?
    Đoán rằng thầy Côn có mặt ở đây chắc là có liên quan đến mình, Hinh bèn rảo bước đi đến. Vân Côn bỗng ngẩng đầu, nhìn thấy Hinh ngoài cửa kính, anh hớt hải vội vã đứng lên bước ra khỏi phòng, bóng anh mất hút trong hành lang dài.
    “Vừa nãy thầy giáo Côn đã đọc bệnh án của ai thế? Thầy ấy đâu phải bác sĩ ở đây, có tư cách gì mà vào đọc bệnh án?” Hinh đoán chắc phải có uẩn khúc chi đây, cô sẵng giọng hỏi các chị y tá.
    Các cô y tá thì không nghĩ thế, nên trả lời rất tự nhiên: “Anh ấy đã được giám đốc bệnh viện ký giấy cho phép, anh ấy đọc hầu hết bệnh án của mọi người”.
    “Thầy ấy có đọc bệnh án của em không?”
    “Chúng tôi không giám sát nên không biết”. Các cô y tác đưa mắt nhìn nhau, Hinh cũng đã hiểu ra. Nhưng tại sao thầy Côn lại đọc bệnh án của cô?
    Không hiểu tại sao, cái bống đen ám ảnh cô lại mỗi lúc một lớn hơn. Hinh thậm chí cảm thấy mình đang bị rơi vào một âm mưu lớn, khó mà thoát ra và cũng không được ai hỗ trợ.
    “Có khách vào thăm Diệp Hinh kìa!” Các cô y tá đã có cớ để xua Hinh đi ra.
    Hinh hoàn toàn không ngờ người đang ngồi trong phòng tiếp khách lại là Âu Dương Sảnh. “Sảnh ơi, hãy cứu mình ra khỏi đây!” Hinh không ngờ mình lại mở đầu bằng câu nói thảm thương này.
    Sảnh vốn đang cảm thấy hơi thấp thỏm, lúc này nhìn Hinh nhợt nhạt trong bộ quần áo bệnh nhân, mái tóc dài không được chải gọn gàng, cô bật khóc.
    Sảnh - một cô gái trời không sợ, đất không sợ, thì ra cũng biết khóc!
    Hinh chợt nhận ra mình quá ủy mị mềm yếu, Sảnh lần đầu vào thăm, sao mình lại để cho bạn phải khóc thế này?
    “Sảnh ơi, mình không hoa mắt nhìn nhầm đấy chứ?” Hinh nắm chặt hai cánh tay Sảnh, ngắm nhìn Sảnh mãi. Sảnh cũng đang như vậy, nước mẳ yếu đuối làm ướt đôi má cô.
    Hinh nhận thấy Sảnh sau một thời gian nghỉ dưỡng bệnh lại có phần đẫy đà hơn trước, cô liến thoắng khen ngợi để làm dịu bầu không khí buồn bã: “Lúc này cậu đã không còm nhom nữa, đã thành một mỹ nhân rất chuẩn rồi!”
    Sảnh “xùy” một tiếng, cô trở lại bản tính vốn có: “Hinh gớm thật đấy, vừa thấy mặt đã nói kháy nhau rồi! Tớ vừa mới được bệnh viện giảm án cho, bèn vào đây ngay với cậu! Cậu thấy bất ngờ phải không? Cậu đang ngỡ là ai vào thăm? Tớ thử đoán xem nào... có phải là anh chàng Tạ Tốn không? Huyền thoại “cặp tình nhân hạng sao” thật đáng để người ta ngưỡng mộ! Tớ lại đoán tiếp: có phải anh giáo viên trẻ dạy môn giải phẫu không? Tớ vừa nhìn thấy anh ta, có phải là anh ta vừa vào thăm cậu không?”
    “Thôi đừng nhắc đến làm gì! Tớ vẫn nghĩ anh ta là người rất tốt, nhưng vừa rồi lại thấy hơi lạ lùng: anh ta vào để đọc bệnh án của tớ!” Hinh cau mày.
    Sảnh ơ một tiếng, rồi nói: “Tớ sẽ tìm cách điều tra về anh ta. Lâu nay tớ buồn thỉu buồn thiu, khi nghe nói cậu bị ép vào nằm viện, bệnh vàng da của tớ vẫn chưa ổn, tớ rất ức vì không thể vào thăm cậu, tớ đã mấy lần ngồi khóc mãi!”
    Hinh cảm động rơm rớm nước mắt: “Thôi nào thôi nào, thực ra tớ vẫn ổn, chỉ tại chuyện lúc trước hấp tấp điều tra “vụ án mưu sát 405” khiến mọi người cho rằng tớ bị tâm thần! Tuy nhiên, tớ cũng lần ra được một số đầu mối, nhưng những đầu mối này lại dẫn tớ đến một mê cung lớn hơn! Nếu cậu không vào đây, chắc tớ đành phải từ bỏ, vì vẫn phải tiếp tục nằm viện”.
    “Chuyện là thế nào cậu kể hết đi, đừng bỏ sót một điểm nào -kể cả các tình tiết với “Kim Mao Sư Vương”.”
    Sảnh rời bệnh viện tâm thần ra về với một tâm trạng vừa vui mừng vừa nặng nề cùng đan xen. Cô nhìn bầu trời rực nắng, cố cảm nhận tâm trạng của Diệp Hinh đang sống trong bệnh viện. Hinh nhất định không công nhận mình mắc bệnh tâm thần, giữ vững tâm thế ấy lâu dài như vậy, riêng điểm này đã là rất hiếm thấy rồi.
    Nhưng Hinh có mắc bệnh tâm thần thật không? Sảnh thấy mình đáng bị ăn đòn vì dám nảy ra ý nghĩa này, sao mình lại có thể nghi ngờ trạng thái thần kinh của Hinh! Mọi trạng thái vui buồn hay hờn dỗi của Hinh vừa nãy không hề có điểm nào hơi thái quá, Sảnh cảm nhận thấy Hinh thậm chí còn “bình thường” hơn nhiều so với tuyệt đại đa số người bình thường khác!
    Nhưng Sảnh cũng hiểu rằng bệnh viện chuyên ngành thần kinh Giang Kinh nổi tiếng cả nước không thể đơn giản mà “hội chẩn nhầm”, huống chi mẹ cô nói là, bác sĩ Đình và bác sĩ Tuấn là hai thầy thuốc kỳ cựu và tài ba, tỷ lệ nhầm lẫn của họ vô cùng thấp. Mọi biểu hiện tâm thần của con bệnh đâu phải luôn xuất hiện từng giờ từng phút, có lẽ vừa nãy chỉ là lúc Diệp Hinh đang tỉnh táo cũng nên.
    “Âu Dương Sảnh!” Bỗng phía sau cô có tiếng gọi. Một nam sinh viên vóc người tầm thước đi đến, Sảnh nhớ ra đây là anh bạn đồng hương của Diệp Hinh - hội trưởng hội nhiếp ảnh của trường, có cái tên nghe là là: Du Thư Lượng.
    “Bạn vừa vào thăm Diệp Hinh à?”
    “Đúng thế”. Sảnh hơi có ý dè chừng nhìn Lượng, lượng mặc áo choàng trắng, một cuốn giáo trình đang kẹp nách. “Bạn ấy thế nào rồi?”
    “Vẫn ổn cả!”
    Lượng thấy Sảnh có vẻ e dè kín tiếng, anh không hỏi thêm nữa. Anh chào Sảnh rồi dắt xe đạp đi, Sảnh không nén được bèn gọi: “Anh muốn biết Hinh đang thế nào, sao anh không vào thăm bạn ấy?”
    “Mấy hôm trước tôi đã vào vài lần, bọn tôi đang kiến tập thực tế ngay ở đây, nên rất thuận tiện”.
    “Hinh phải nằm viện, sao nam giới các anh đều thi nhau vào thăm nhiều thế nhỉ? Tuy nhiên, Hinh như bông hoa lê gặp mưa - em còn thấy thương nữa là, nam giới các anh tích cực hơn là phải? Nhưng em lấy làm lạ, mấy hôm qtrước anh vào thăm, sao hôm nay lại không vào?”
    Lượng há miệng ngạc nhiên, sau cặp kính, đôi mẳt anh chớp mạnh mấy cái, rồi mới nói: “Tôi xin nói rõ vậy: tôi và Hinh chỉ đơn thuần là tình đồng hương! Tôi biết Sảnh là bạn chí than của Hinh, tôi xin nói thật là mỗi lần gặp Hinh, tôi lại thấy buồn buồn”.
    “Thế mà em chưa được biết, anh Lượng là con người đa sầu đa cảm! Tại sao anh lại thấy thế ạ?”
    “Lại còn phải hỏi à? Hinh phải nằm viện, môi trường này gây ức chế rất căng, bị ở lâu rồi mà bệnh tình chưa khá lên tý nào...”
    “Dừng lại đã, anh nói gì cơ? Chưa khá lên? Em thấy rằng Hinh căn bản không có vấn đề gì hết! Căn cứ vào đâu mà anh cho rằng Hinh có vấn đề thật? Anh thử nói xem?”
    Lượng ngẩn người: “Có phải cô đã lâu chưa về trường không?”
    “Em bị viêm gan A nên về nhà tĩnh dưỡng, vừa được giải phóng thì em vào đây ngay!”
    “Cũng không thể trách gì được. Thoạt đầu tôi cũng cho rằng Hinh không có bất cứ vấn đề gì, chỉ hiềm.. có một vài chuyện tôi thực tình không muốn nói, rất khó nói... Cô cứ về trường mà hỏi”.
    “Trường thì rộng, người thì đông hàng vạn, em biết hỏi ai đây?”
    “Tôi cung cấp cho Sảnh một chi tiết: đã nghe nói về “cặp tình nhân hạng sao” chưa?”
    Sảnh vờ không biết gì, cô nhíu mày: “Nghe cứ lạ hoắc! Họ nói về anh à?”
    “Vớ vẩn! Ở lớp C của các cô có một nam sinh viên...”
    “Ôi, anh bị mắc lừa rồi! Tất nhiên em đã biết “Kim Mao Sư Vương”!”
    “Cứ về mà hỏi anh ta đi!”

    16h ngày 3 tháng 6

    “Anh Tốn ở đây phải không?” Sảnh đứng ở hành lang ký túc xá nam nồng nặc khen khét, cô vừa lắc đầu vừa gõ cửa phòng. Cửa không đóng, nhưng vì Sảnh thoáng nhìn thấy có người đang thay áo nên đành lịch sự gõ cửa. Nghe thấy một giọng nam nói: “Sư Vương ơi, vận đào hoa đã đến kìa!”
    Sảnh bực mình, lẩm bẩm đọc thơ Mao Trạch Đông: “Khoai đã nấu chính, cho thêm thịt bò, không ăn thì vứt! Anh chàng Tạ Tốn có ở đấy hay không, sao cứ ngại ngùng e thẹn như con gái thế nhỉ?”
    Vừa dứt lời thì thấy ngay một nam sinh cao lớn bước ta, mày thẳng mắt sáng, rất điển trai. Sảnh thầm thán phục Hinh tinh mắt. Cô hỏi: “Anh là Tạ Tốn phải không?”
    “Không phải tôi”
    “Thế thì anh ra làm gì? Không phải tôi đến để chia suất cơm, anh định nhận vơ cũng không xong đâu! Tôi muốn gặp anh Tốn, anh gọi giúp tôi với!” Sảnh cất cao giọng.
    “Cần gì bạn cứ nói với tôi!”
    “Nhưng anh là ai?”
    “Lệ Chí Dương. Vì Tạ Tốn bị quấy rối quá nhiều, nên tôi phụ trách nhắn tin cho cậu ấy!”
    Sảnh chợt nhớ ra: đây là anh chàng mặt lạnh mà Hinh đã từng nhắc đến. Dù biết anh chàng này khá khăng khít với Tạ tốn. “Tôi chẳng quan tâm tên anh là gì, nhưng anh là vợ hay là bà bô của anh Tốn thế này? Anh ấy là trang quốc sắc thiên hương hay sao mà sợ người ta đến quấy rối? tôi cần nói chuyện với anh ấy, anh gọi giúp đi! Tôi là bạn thân của Diệp Hinh!”
    Đôi mắt Chí Dương bỗng trợn tròn như muốn “tóe lửa”, chằm chằm nhìn Sảnh: “Được! Bọn này đang muốn tìm Diệp Hinh để tính sổ thì các cô lại tự tìm đến! Diệp Hinh đã mắc bệnh tâm thần gì, sao lại còn kéo theo cả cậu Tốn? Ngay cả công an cũng đến tận đây để hỏi toàn những chuyện giời ơi! Bạn nói đi, Diệp Hinh đã lên cơn rồ dại gì thế?”
    “Anh lên cơn rồ dại thì có!” Nếu là các cô gái khác bị Chí Dương bốp chát sỉ vả như thế, chắc đã phải oà khóc, nhưng đây lại là Âu Dương Sảnh - cô chỉ hơi rơm rớm thôi. Sảnh lừ mắt nhìn lại, lạnh lùng nói: “Hinh đang phải nằm viện, có lẽ bạn ấy cũng có chỗ hiểu lầm gì đó nên tôi đến để tìm hiểu, làm rõ vấn đề. Nhưng nếu không nói chuyện với anh Tốn thì sao mà biết được? Không cho người ta làm rõ sự việc, lại còn cắn nhặng cả lên!” Sảnh lại cất cao giọng hơn nữa: “Tạ Tốn! Nếu anh vẫn còn là đàn ông đàn ang thì ra đây nói cho rõ xem!”
    Một nam sinh viên đứng bên nói ỡm ờ bí hiểm: “Kìa, Lệ đại hiệp cũng chỉ vì quá yêu...” Chưa nói hết câu đã bị Lệ Chí Dương cho ngay một chưởng vào ngực, khiến anh chàng ho lụ khụ. “Bạn cứ lấn lướt người ta kiểu này, thì ai biết là bạn có thiện chí hay không?” Một anh chàng đầu tóc bù xù từ trong phòng bước ra, mặt mũi ỉu xìu. “Mình là Tạ Tốn đây!”.
    Sảnh thấy bộ dạng Tốn co ro thiểu não, cô quá thất vọng: “Anh can đảm thế này kia đấy?”
    “Sao trách tôi gì được? Chỉ tại Diệp Hinh thân thiết của bạn, cho nên lúc thì phòng quản lý sinh viên, lúc thì công an, lúc thì nội san và trạm phát thanh của trường... thi nhau đến tra hỏi hành hạ tôi, ấy là chưa kể đến các đồng đội ở nhà này toàn trêu chọc tôi nữa! Tôi vốn học hành chỉ tầm tầm nhưng bây giờ thì khốn khổ rồi, không dám lên lớp nữa! Nếu thi trượt vài môn, thì trường sẽ ra lệnh đuổi học tôi, đến lúc đó thì tôi không thể lên phòng 405 của các cô em mà nhảy lầu, tạo nên “đột biến” trong “vụ án mưu sát 405” - đã có nam giới chết! Cô xem, thế có thú vị không?”
    Sảnh cũng đã thấy nguôi nguôi, nghĩ thầm “Cũng chẳng phải anh ta nói đều là sai cả, lại còn có vẻ hài hước nữa, vẫn có vẻ “Tạ Tốn” mà Hinh thường miêu tả”. Sảnh nhìn khắp lượt các chàng trai đứng quanh, nghiêm giọng nói: “Xem gì mà xem? Sao cứ như các ông bà già về hưu, chỉ hay rỗi hơi rách việc thế?” Chí Dương cũng khá thông minh, biết rằng lúc này mình nên “chung mối hờn căm”, Dương trợn mắt nhìn đám đông khiến họ ù té luôn. Tốn khoát tay: “Ta vào đây nói chuyện nào!”
    Hai nam sinh trong phòng biết ý, bèn rủ nhau đi ra ngoài đá bóng. Tốn và Sảnh ngồi đối diện nhau, Chí Dương cũng ngồi cạnh Tốn. Sảnh nói chẳng mấy vui vẻ: “Tại sao ở đây lại có thêm một người thứ ba? Anh có việc gì chăng?” Dương định sửng cồ, Tốn vội nói luôn: “Bất cứ chuyện gì mình cũng nói với Dương, hai chúng tôi không giấu nhau bao giờ. Yên tâm đi!”
    Sảnh thầm nghĩ: “Trên đời lại có những anh chàng như thế này kia đấy!” Cô vào đề luôn: “Được, em xin hỏi: anh có quen Diệp Hinh hay không?”
    “Hiện giờ dù muốn không quen cũng khó mất rồi! Được gọi là “người tình hạng sao” kia mà! Thực ra mình cũng chưa thực biết về Hinh, trước khi lên lớp học chung, bình luận về em này em kia, đúng là mình có để ý đến Hinh, xinh đẹp thì dễ gây chú ý! Kể cả bạn nữa, hai người cứ như một cặp tình nhân, bọn mình đã nhiều phen nói đùa với nhau... Nhưng thôi, không nói xa xôi nữa, mình có thể đảm bảo rằng mình chưa ngỏ lời với bạn ấy bao giời!”
    “Anh có đi Vô Tích, Nghi Hưng chứ?”
    “Không! Mấy hôm đó mình toàn ở trường, lúc nào cũng có thể mời một vốc người làm chứng về điều này! Vì thế mà mấy tay công an từ Nghi Hưng đến cũng phải trở về tay không!”
    “Anh biết hát không? Đàn piano thì sao?”
    “Chỉ gào suông, thì ai chẳng biết! Nhưng mình mù nhạc, lên hát sao được! Piano thì càng ngu, chưa bao giờ sờ tay vào! Mình biết bạn định hỏi về chuyện thi hát hồi nọ, oan cho mình quá! Về sau có khối người sỉ vả mình, nói là đã ghi tên rồi lại không tham gia, phí thì giờ của họ!”
    Sảnh ngồi ngây ra đó, như có trăm ngàn ý nghĩ, nhưng lại dường như trống rỗng, cô lẩm bẩm một mình: “Chẳng hiểu có nên tin anh hay không đây”. Điều này quá đủ để chứng minh Diệp Hinh đang mắc bệnh tưởng tượng. Điều đáng buồn hơn nữa là ở đây lại có tình yêu thơ ngây chân thật của Hinh.
    Chí Dương nói: “Nếu đã không tin thì bạn tại sao lại đến đây hỏi làm gì?”
    “Em hỏi một câu cuối cùng: vậy từ ngày Hinh đi viện, anh đã vào thăm bạn ấy chưa?”
    “Chưa! Tôi không dại gì mà mua dây buộc mình đâu!”
    Lời của Tốn chẳng khác gáo nước lạnh tạt vào mặt Sảnh, lạnh thấu tim gan. Cô thấy đầu óc quay cuồng. Phải chăng đây là hiện thực tàn nhẫn? Đúng là Hinh đã có ảo giác - biểu hiện điển hình của chứng tâm thần phân liệt. Ảo giác này kéo dài đến tận bây giờ, nó quyết định Hinh chưa thể mau chóng ra viện. Hinh tưởng mình đang sở hữu một tình yêu hoàn mỹ, mà thực tế chỉ vốn chưa hề quen biết Tạ Tốn, tại sao Hinh lại có ảo giác này? Hay là Hinh đang trở thành nạn nhân của “vụ án mưu sát 405”?
    Điều kỳ lạ là, Hinh miêu tả về Tạ Tốn sinh động và rất thật đến nỗi ai cũng phải tin, có phải bệnh của Hinh đã rất nặng không? Ra khỏi ký túc xá nam, Sảnh vừa đi vữa nghĩ ngợi, chẳng hiểu mình đã bước đến cửa phòng của hội sinh viên từ lúc nào.
    “Đúng thế, hôm dẫn chương trình thi bài hát tự biên tự diễn, Hinh đã có một vài dấu hiệu”. Khi nghe Sảnh hỏi về “sự kiện Tạ tốn đến sân khấu muộn giờ”, anh trưởng ban văn nghệ bỗng nhớ về Diệp Hinh và nói tiếp: “Chuyện là thế này: cuộc thi hôm đó thoạt đầu rất suôn sẻ, trước lúc số 5 ra hát, chúng tôi nhận ra rằng số 6 Tạ Tốn chưa có mặt ở hậu trường; danh sách thì có tên anh ta, chúng tôi nhận ra đó là chữ viết của Diệp Hinh. Lúc đó Hinh rất cuống, đã gọi loa vài lần để thông báo Tạ Tốn đến ngay hậu trường. Nhưng chẳng thấy anh ta đâu, chúng tôi chờ khá lâu, khán giả đã bắt đầu la ó. Anh bạn cùng dẫn chương trình với Hinh là Tiết Lập Dương nói là khỏi cần đợi nữa, sẽ mời người kế tiếp ra hát vậy. Nhưng Hinh nói cứ đợi, rồi cô ấy đứng đó lẩm bẩm một mình... khán giả càng la ó khiếp hơn, suýt nữa thì náo loạn. May mà Lập Dương nhanh trí, mời một cậu cũng là hạt nhân văn nghệ lên hát hai bài hát karaoke, đồng thời nhắc người tiếp theo chuẩn bị ra sân khấu. Thế là tạm ứng phó được việc. Cũng may cậu kia ra lấp chỗ trống đã hát rất hay, bắt chước Chu Hoa Kiên rất giống nên lại còn được vỗ tay tán thưởng nữa. tôi nhìn sang Hinh, thấy cô ấy nước mẳt lưng tròng và đã tỉnh táo trở lại, cùng Lập Dương lên sân khấu.
    Nhưng tiếp đó Hinh dẫn chương trình khá thành công nên chúng tôi hầu như đã quên hiện tượng khác lạ của Hinh vừa nãy. Đến lúc công bố trao giải thì tôi mới thấy có điều không ổn: vì Hinh hỏi tôi rằng vì sao Tạ tốn không được nhận giải? Tôi định bảo Hinh giải thích thì cô ấy chạy biến luôn. Chúng tôi mải thu dọn sân khấu nên cũng không gặp lại Hinh để hỏi thêm gì nữa. Từ sau đó, không thấy Hinh đến hội sinh viên, chúng tôi nghe nói cha Hinh ốm rồi qua đời, Hinh lại bỏ học để đi Vô Tích, hình như cô ấy gặp khá nhiều khó khăn...”
    “Thế này... tức là Tạ tốn không nói sai. Đúng là anh ta không dự thi hát gì hết”. Sảnh lại lẩm bẩm một mình.
    Anh trưởng ban văn nghệ nghĩ bụng: cô này cũng chẳng hơn gì Diệp Hinh. Nhưng rồi lại nhớ ra một điều: “Tôi có băng ghi âm tối hôm đó, vì máy ghi âm đặt gần ở gần vị trí Hinh và Lập Dương dẫn chương trình, lại là ghi chung tất cả mọi âm thanh - chưa biết chừng có thể thu các âm thanh ở bên cạnh sân khấu. Nếu bạn muốn, thì có thể nghe, miễn là có lợi cho Hinh điều trị chóng khỏi thì tốt! Nói thật nhé, tôi còn định bảo Hinh làm phó ban để sau này kế nhiệm tôi”.
    Sảnh vội nói: “Vâng thế thì hay quá”.
    Anh trưởng ban tìm cuốn băng cát sét, thao tác “chạy tiến chạy lui”, rồi bật lên nghe. Thấy sau một tràng vỗ tay là giọng nói của Hinh: “Bây giờ xin mời Ban giám khảo cho điểm. Nhân đây chúng tôi xin thông báo khẩn: mời ca sĩ Tạ Tốn đến ngay phía sau sân khấu”. Chừng nửa phút sau, lại là giọng Hinh: “Mời ca sĩ số 6 Tạ Tốn đến ngay phía sau sân khấu”. Lập Dương và Hinh đã đọc xong điểm số của số 5, Hinh lại thông báo: “Mời ca sĩ số 6 Tạ Tốn đếng ngay hậu trường. Đây là lần gọi cuối cùng, nếu không đến anh sẽ bị loại!”
    Có rất nhiều tiếng lao xao, tiếng huýt sáo nổi dậy đó đây. Có tiếng Lập Dương nói: “Diệp Hinh ơi, không thể cứ đợi mãi thế này, ta gọi người tiếp sau ra thôi!”
    Lại nghe thấy giọng Hinh: “Cứ đợi thêm vài phút nữa!” Tiếng la ó càng nhiều hơn. Lại thấy giọng Hinh trở nên mạnh mẽ, hình như đang chất vấn ai đó: “Thì ra anh biết chơi ghi ta, tại sao lại bảo tôi đi mượn đàn piano, chẳng phải hoài công tốn sức là gì?”
    Tiếng Lập Dương ngạc nhiên: “Kìa, Hinh đang nói gì vậy? Bạn nói với ai thế?” Hình như Hinh thở dài, sốt ruột nói: “Đừng lắm lời nữa, mau lên hát đi!”
    Rõ ràng Lập Dương có phần sợ hãi; “Hinh đang nói ai lắm lời? bảo ai mau lên hát? Bạn không sao chứ?” Tiếp đó là tiếng Dương gọi: “Này trưởng ban ra mà xem, Diệp Hinh... hình như bạn ấy... hình như hơi có vẻ...”
    Tiếng anh trưởng ban hỏi: “Diệp Hinh ư? Diệp Hinh làm sao thế?” Rồi anh dặn dò: “Cậu Dương mau nghĩ cách để cứu sân khấu, có lẽ Diệp Hinh bận lắm việc, rồi quá mệt... Mình để bạn ấy bình tĩnh trở lại đã rồi mới lại tiếp tục thi...”
    Dương bèn gọi luôn: “Băng Quân lên đây chữa cháy hộ với! Cậu có sở trường về “Chu Hoa Kiện”. Tiên Vũ Hà phụ trách đệm nhạc, mình phải ra dàn xếp cho yên!”
    Tiếng la ó bớt dần, tiếng Lập Dương thông báo: “Sau đây, hội sinh viên xin gửi tới các bạn một niềum vui bẩt ngờ: một ngôi sao sáng của bầu trời ca hát đã viếng thăm cuộc thi hát của chúng ta! Mời các bạn nhắm mắt lại, nghe xem đây là giọng hát của ai?”
    Nhạc dạo giai điệu bài “Không muốn cô đơn” của Chu Hoa Kiện vang lên, Băng Quân cất tiếng hát, chất giọng y hệt Chu Hoa Kiện. Có một khán giả nữ phía dưới reo lên: “Chu Hoa Kiện”.
    Tiếng đàn đệm rất vang át cả mọi tiếng nói chuyện ở hậu trường, nhưng vẫn lẳng nghe thấy tiếng anh trưởng ban: “Có lẽ Hinh quá mệt về việc chuẩn bị cho cuộc thi này, cứ nghỉ đi, nếu cần đi viện thì cứ bảo tôi!”
    Hai bài hát “Chu Hoa Kiện” đã biểu diễn xong, tiếng vỗ tay vang lên như sấm, loáng thoáng nghe thấy tiếng Lập Dương: “Để mình tôi ra thông báo tiết mục tiếp theo!” Tiếp đó là tiếng anh trưởng ban gọi: “Hinh ơi, liệu có ổn không? Đừng cố làm gì?”
    Sau đó là Hinh và Dương cùng dẫn chương trình, giọng Hinh hơi nghèn nghẹn, nhưng rồi lại lưu loát như lúc đầu.
    Nghe xong băng Sảnh ngồi đờ đẫn, cho đến lúc anh trưởng ban gọi điện cho phòng y tế thì cô mới tỉnh trở lại: “Anh đừng lo, em vẫn bình thường, chỉ đang nghĩ ngợi một chút thôi! Anh có thể cho em mượn cuộn băng này về nghe được không ạ?”
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  2. #22
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 20 Ký sự bắt ma


    Bước ra khỏi phòng của Hội sinh viên, Sảnh chỉ muốn khóc to lên một hồi. Tuy bằng chứng đã rõ ràng nhưng Sảnh vẫn không thể tin Hinh thật sự có trục trặc về thần kinh.
    Bao năm nay chưa từng thấy khổ sở thế này. Hồi nọ được tin Hinh phải nằm viện, Sảnh chỉ thấy kinh ngạc và bực tức - cô cho rằng họ chârn đoán sai, Âu Dương Sảnh này “ra quân” thì chắc chắn sẽ chứng minh được Hinh là người rất tỉnh táo. Nhưng mới chỉ sau một hồi lâu, thì “cán cân công lý” của cô đã lệch sang phía lẽ ra không nên lệch. Mà lại là do chính cô khui ra nó! Thật là chua chát.
    Mới chỉ gần đây thôi, mình còn cười Du Thư Lượng trở nên đa sầu đa cảm, thì lúc này mình có gì khá hơn anh ta! Ôi, tại sao Diệp Hinh lại để cho những người xunh quanh cậu đều càng trở nên có chiều sâu hơn? Chỉ riêng cái gã Tạ Tốn đáng ghét...
    Sảnh chợt nghĩ rằng chuyện Hinh có ảo giác không phải là vấn đề bệnh lý mà là một hiện tượng kinh dị nào đó, liệu có thể là thế chăng? Sảnh còn nhớ cái lần Hinh nói là sau khi cha Hinh bị liệt não, ông ấy đã đến trường thăm Hinh và để lại chiếc áo jăk-ket nữa. Nếu đúng là còn chiếc áo đó thật, thì chứng tỏ mọi chuyện Hinh đã gặp không hoàn toàn là ảo giác.
    Sảnh bước vào phòng 405 đúng vào lúc các bạn đều đang có mặt. Trông thấy Sảnh, mọi người đều rất ngạc nhiên. Sảnh biết Chu Mẫn và Trần Hy là “quân chủ lực” đi “bắt” Diệp Hinh, cô định nói kháy mấy câu nhưng lại nghĩ rằng việc làm đó của họ lại có tác dụng khách quan là giúp đỡ Hinh, nên Sảnh lại thôi. Sảnh đành gượng cười với họ... rồi giơ hai tay như định ôm choàng Tần Hiểu Lôi.Nhớ là Sảnh vừa bị viêm gan A, Hiểu Lôi đờ người ra rồi kêu toáng lên, vì cô sợ là sẽ bị lây bệnh! Mọi người đều cười như nắc nẻ!
    Nhưng ở đây lại vắng tiếng cười của Hinh.
    Sảnh cụt hứng, đi đến bên giường Hinh đứng ngẩn ngơ một lúc.
    Mắt cô bỗng sáng lên: một chiếc áo jắc-ket vải ni-lông gấp đặt ở đầu giường Hinh.
    Sảnh cầm lên ngắm kỹ, đúng là chiếc áo nam giới thường dùng. Tất nhiên nó không thể là của Hinh - một cô gái luôn biết cách ăn mặc.
    Có nghĩa là Hinh đã nhìn thấy linh hồn của cha thậ? Nếu không, thì chiếc áo jắc-ket này ở đâu ra?
    Chỉ có cách giải thích duy nhất: Hinh đã tiếp xúc với hiện tượng phi vật chất. Vậy thì bao năm qua mình mãi mê với các câu chuyện thần kỳ quái đản cũng không phải là không có lý, các thế lực quái đản ấy lại đang xảy ra với người bạn thân nhất của mình. Thế thì còn phải nghi ngờ gì nữa.
    Vậy tại sao mình vẫn còn bán tín bán nghi nữa chứ? Thì ra là - đúng như Hinh đã nói - mình chỉ là đứa giả vờ đam mê thôi ư?
    Chuyện này chứng tỏ một điều: Diệp Hinh không ảo giác gì hết, Hinh đã nhìn thấy linh hồn, nhưng người khác thì không.
    Không chỉ mình Hinh tiếp xúc với các nhân vật phi vật chất, trong cuốn nhật ký Hinh kể, chẳng phải anh chàng họ Tiêu đã từng cùng nghe nhạc giao hưởng với một đám linh hồn là sao?
    Nghĩ đến “Nguyệt Quang xã”, Sảnh nhớ ngay đến nữ nhân vật chính Y Y trong cuốn nhật ký. Chị ấy giờ đây đang ở đâu? Và còn ông già gù kia nữa. Rành rành là hôm ấy Hinh đã nhìn thấy thảm cảnh bác Phùng bị xẻ thây, nhưng sau đấy lại được biết tối hôm đó bác Phùng không làm việc ở nhà giải phẩu, bác ấy bị xuất huyết não rồi nằm viện theo dõi. Sự việc này thì lại chứng tỏ Hinh bị ảo giác. Chính Hinh cũng thẳng thắn công nhận rằng, vì sau vài lần sợ hãi Hinh đã quá mệt cả thể xác lẫn tinh thần, rất có thể đã rối loạn tâm trí.
    Bác Phùng đã làm việc lâu năm ở nhà giải phẩu, không thể không nghe nói đến “Nguyệt Quang xã”, chưa biết chừng, đó là nguyên nhân khiến bác ấy nhạy cảm trước hai chữ “ánh trăng” bác ấy nên cho biết đầu mối để tìm ra mối liên hệ giữa: “Nguyệt Quang xã” và “vụ án mưu sát 405”. Nhưng bác ấy vẫn cứ ăn nói nữa vời, tại sao thế nhỉ?

    14 h ngày 5 tháng 6

    Cánh cửa bị gõ ầm ầm một hồi, nghe thấy bên trong có tiếng lạch cạch, rồi cửa hé ra một khe hẹp. Trông thấy Âu Dương Sảnh mặc bộ đồ trắng đứng ngoài cửa, ông Phùng ngán ngẩm kêu trời, vội đóng cửa luôn nhưng Sảnh nhanh mắt nhanh tay đã “trấn” ngay, ra sức đẩy cửa rồi lách vào luôn.
    Sảnh vào nhà, cô hết sức ngạc nhiên. Nhà ông Phùng ở trong một con hẻm cũ kỹ, ba hộ chung nhau một cái sân. Nhìn bên ngoài, thấy căn nhà cấp 4 hướng bắc thấp lè tè, tường gạch lở lói lem nhem mái hiên thì thiếu ngói... có vẻ như rất dễ bị Sở Xây dựng cho san ủi cho khuất mắt! Nhưng bên trong thì lại rất trang nhã: chỉ có rất ít đồ dùng, nhưng toàn là đồ Tây ngày xa xưa. Chiếc giường được chạm trổ sơn đen, chiếc tủ lớn bằng gổ phong màu đỏ xẫm, chiếc đồng hồ chuông kiểu cũ... Sảnh nhớ là mình hay nhìn thấy trong phim bối cảnh là những năm 30-40. Trên tường treo hai bức tranh sơn dầu, Sảnh không biết đánh giá, chỉ nhận ra rằng chúng rất “có phong cách”.
    Một thứ thu hút Sảnh nhiều hơn, là chiếc máy quay đĩa kiểu cũ đặt trên một chiếc bàn nhỏ, nắp đang mở lên, thấy có một đĩa hát trong đó. Cả máy hát lẫn đĩa hát đều sạch bóng, không gợn chút bụi, rõ ràng là mới đây vừa cho máy chạy.
    “Thật không ngờ bác lại có những sở thích tao nhã thế này!”. Sảnh tấm tắc khen ngợi.
    “Kìa, nói gì thế? Ý cô là trông người tôi rất thô kệch phải không?” Ông Phùng nói chẳng mặn nồng gì, ông đứng ở cửa, có vẻ như sẵn sàng “tiễn khách”.
    “Bác nhạy cảm quá thì phải, cháu không có ý đó a. Cháu ăn nói vụng về, mong bác bỏ quá cho”.
    “Tại sao cô lại tìm đến tận đây?”
    “Hồi nọ bác phải đi viện, nằm ở bệnh viện trực thuộc số 2 thì phải. Rất là không đúng lúc, vì mẹ cháu là bác sĩ ở đó... Nhưng cháu biết, chẳng nên dò hỏi chuỵên riêng của người khác, cũng không nên làm phiền bác đang dưỡng bệnh, nhưng cháu bí quá, cháu rẩt cần bác giúp đỡ. Vả lại... cháu biết rằng bác có bị xuất huyết gì gì đâu, cháu đã đọc bệnh án của bác, bác cứ đòi nằm viện ít hôm, rồi xét nghiệm một lô một lốc, kết quả là chẳng có vấn đề gì, đúng không ạ? Tuy nhiên bác vẫn là có chừng mực, chỉ cần nghỉ phép vài hôm thế thôi, cháu nói không sai chứ ạ?”
    “Cô là người của công an à? Sao cô “bao sân” lắm việc thế? Mấy điều cô vừa nói đều nằm trong khuôn khổ của pháp luật cho phép, cô định làm gì nào?”. Nghĩ rằng cô này đến chẳng hay ho gì, ông Phùng càng có ý muốn đuổi khách.
    “Tại sao bác lại nghỉ ốm vào đúng dịp này? Cháu không có ý nói là bác không được phép nghỉ ốm - nhưng nghỉ vào dịp này thì rất không bình thường. Cháu đã xem hồ sơ bệnh án của bác, và rất ngạc nhiên: bác đã cao tuổi thế này, nhưng gần 20 năm qua hầu như chẳng nghỉ ốm bao giờ. Tất nhiên cũng vì có thể lực tốt, và vì có nhiệt tình công tác nữa. Từ 20 năm nay, đây là lần đầu tiên bác bị ốm. Tại sao 20 năm luôn khỏe mạnh, mà nay lại “ốm” đúng vào dịp này? Và cũng thật là khéo: hôm trước bác đi viện thì hôm sau Diệp Hinh phải vào nằm viện tâm thần. Tối hôm trước thì Hinh vào phòng chuẩn bị công tác của bác, rồi có ảo giác nhìn thấy bác bị.... Thôi cháu không nói nữa, kẻo bác lại sợ!” Sảnh tưởng tượng tới cái cảnh ấy, cô cũng thấy lành lạnh sau gáy.
    “Muốn nói hay không thì tùy, cô nghĩ xem tôi sống bằng nghề gì?”
    “Vâng, cháu xin nói: Diệp Hinh nhìn thấy bác đang bị máy cưa xẻ thây!” Nói xong Sảnh nhìn chằm chằm vào ông Phùng, cô muốn nhận ra một dấu hiệu gì đó trên nét mặt ông. Nhưng ông Phùng vẫn thản nhiên không thể hiện một điều gì.
    “Được! Cảm ơn cô đã vất vả đi đến tận đây để cho tôi biết. Tạm biệt!”. Ông Phùng chính thức mời Sảnh ra về!
    “Cháu có một việc nghiêm túc còn chưa hỏi bác, bác có thể nói lại chuyện “Nguyệt Quang xã” không? Cháu cũng đã biết: nói chuyện về nó, và quan hệ giữa nó và “vụ án mưu sát 405” là thế nào?”
    “Tôi là kỹ thuật viên, tôi chỉ biết hành hạ xác chết, còn các chuyện khác đều không biết”.
    “Không thể như vậy. Trong khoảng 10 năm, các hội viên “Nguyệt Quang xã” đều lần lượt nhảy lầu bỏ mạng. Họ đều có di chúc xin hiến xác cho phòng nghiên cứu giảng dạy giải phẫu của trường. Bác đã làm việc ở phòng giải phẩu này từ những năm 50, sao lại không biết về “Nguyệt Quang xã” cơ chứ? Cháu còn nhớ lần đầu vào nhà giải phẩu, Diệp Hinh đang mơ hồ nhắc đến hai chử “ánh trăng”, tại sao bác lại chợt biến sắc mặt? Sau đó bác gượng gạo giải thích, lúc đó bọn cháu không để ý, nên đã nghe bác nói quấy quá như thế. Chắc chắn bác phải biết nhiều chuyện, sao bác không kể cho bọn cháu nghe với?”
    “Một là, tôi chẳng biết gì nhiều, thậm chí các cô còn biết nhiều hơn tôi. Thứ hai là, các cô cũng chẳng nên biết thêm nữa. Cô còn cần tôi nhắc hay sao? Cô thấy rồi: cô bạn cô đã biết không ít chuyện, nhưng hiện nay thế nào rồi?”
    “Nhưng nếu được bác giúp đỡ thì...”
    “Tôi có cảm giác rằng nếu tôi nói thêm gì nữa, thì sẽ là đưa cô ta vào ngõ cụt, tôi không gánh nổi cái tội lỗi này! Cô cũng đừng ép tôi, tôi không biết “Nguyệt Quang xã” và “vụ mưu sát 405” có liên quan gì. Mà nếu biết, thì điều đầu tiên tôi làm là đi báo công an, chứ đâu phải chờ cô đến hỏi tôi vào lúc này, đâu có chuyện tôi giương mắt ra nhìn các nữ sinh ấy lần lượt ra đi!” Ông Phùng càng nói càng xúc động, ông rớm nước mắt, bùi ngùi thương cảm.
    Sảnh biết ông Phùng còn có những điều muốn giấu kín, nhưng có lẽ hôm nay thì không hòng gì ông sẽ cho biết. Nhưng cô vẫn chưa chịu thôi, nên lại hỏi: “Thế thì bác thử cho cháu biết tại sao bác lại cáo ốm trong dịp này? Bác có ý tránh né? Tránh né những câu hỏi mà bác không muốn trả lời!” Ông Phùng ngẩn người, thoáng nghỉ ngợi, rồi thở dài: “Thôi được! Cô hăm tôi khiếp quá. Tôi cho cô biết vậy: những hôm đó tôi không dám đi làm, vì tôi sợ!”
    “Sao lại thế? Lại còn thứ gì có thể hù dọa được bác sao?”
    “Tất nhiên có chứ! Riêng cô đã khiến tôi phải sợ rồi! Chuyện là thế này: một buổi tối tôi đang chế tác tiêu bản trong phòng - cô đã biết khi làm việc tôi thường không bật đèn - tôi bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa nhè nhẹ, rồi hình như cửa bị mở ra. Tôi cho rằng có lẽ lại là các sinh viên tinh nghịch như kiểu các cô, nên hỏi luôn “ai đấy”? nhưng không có tiếng trả lời. Tôi ra cửa xem sao, thì thấy cánh cửa vẫn còn rung rung nhưng không thấy ai hết.
    Hôm sau, lúc đang làm việc lại nghe thấy tiếng gõ cửa. Lần này tôi im lặng, thì lại nghe thấy những âm thanh kỳ lạ vọng từ phía cửa vào toà nhà. Những tiếng kít kít lẹt xẹt nghe rất kinh! Tôi đánh bạo chạy ra, thì vẫn không nhìn thấy gì hết, cánh cửa lại cũng đang đung đưa, rõ ràng là có người vừa ra khỏi nhà. Tiếc rằng chân tôi yếu, khi lạch bạch ra được bên ngoài, thì đã chẳng thấy ma nào.
    Từ sau đó, âm thanh kỳ quái đó còn xuất hiện nhiều lần. Nó hành hạ tôi mấy đêm, thần kinh tôi thì yếu, cả đêm cứ nơm nớp. Tôi sợ rằng mình đã làm ở nhà giải phẩu đã lâu năm nên sinh ra ảo giác, huyết áp lại hơi cao, cho nên tôi bịa ra bệnh, thực ra chỉ là vì muốn nghỉ vài hôm”.
    Sảnh nghĩ bụng: chi tiết này rẩt quan trọng, mình phải bắt tay vào từ đây mới được.
    Sao vẫn chưa thấy đến nhỉ?
    Hay là bác Phùng lòe mình?
    Sảnh núp trong bụi cây thấp, đối diện hơi chếch với nhà giải phẩu, căng mắt nhìn vào cửa khu nhà. Sảnh đã mặc quần dài, áo dài tay và phun thuốc diệt muỗi vào người, nhưng suốt một giờ qua đàn muỗi ngoan cố vẫn cứ “được” cô cho ăn no nê. Bác Phùng nói là kẻ bí hiểm ấy ra vào qua lối cửa, cô vốn định vào trong nhà để “cung kính đón” hắn, nhưng chỉ có một thân một mình nên lại sợ, bèn đứng ngoài này quan sát đã; cũng là để tránh đánh động hắn, thậm chí đề phòng bị hắn làm hại.
    Sảnh đang quá sốt ruột thì bỗng nghe thấy những tiếng “sột soạt” vọng đến. Sảnh giơ tay nhìn đồng hồ dạ quang lúc này xấp xỉ 12 rưỡi đêm. Ngước mắt nhìn ra, thấy một bóng đen đang mon men từ phía nam khu nhà đi đến cửa phía bắc, bước đi rất chậm, hình như mang theo vật gì nặng. Hắn sắp đến cửa khu nhà, Sảnh đã nhìn rõ: dáng người cao gầy, mặc toàn đồ đen, đầu đội mũ liền áo, nhưng mặt thì bịt kín không sao nhìn ra. Trông cực giống các vai sứ giả thần chết thường thấy trong các phim kinh dị mà Sảnh đã xem. Có lẽ tiếng sột soạt là tiếng do quần áo cọ xát. Điều lạ lùng là hắn đang nửa vác nửa kéo một cái bao đen rất to, dài đến hai mét, hình như rất nặng.
    Sảnh bỗng nhớ lại tiếng bước chân bác Phùng vác tử thi năm ngoái mà cô nghe thấy. Người này chân bưpức nhanh nhẹn hơn nhưng vẫn là đang mang theo vật nặng. Nếu đúng là hắn vào nhà giải phẫu thì trong cái bao đen kia là thứ gì?
    Xác chết? Hay là các phần cảu xác chết? Sảnh vẫn không sao đoán ra được là thứ gì hợp lý. Liệu có phải hắn là con quỷ nghiện xác chết trong truyền thuyết?
    Quả nhiên bóng đen ấy đứng lại trước cửa nhà giải phẫu, rồi bước lên bậc thềm, đẩy cửa bước vào rồi khép cửa lại.
    Mình có nên vào theo xem ra sao không?
    Cứ với bản tính của mình thì Sảnh nhất định sẽ vào xem, nhưng cô lại thấy mọi chuyệnnày kỳ quái quá bí hiểm nên lại nghĩ ngược lại, không nên manh động mạo hiểm. Một nhà trinh thám cừ khôi phải can đảm nhưng cũng rất nên thận trọng.
    Nhưng rồi sảnh vẫn không nén nổi liền lò dò đến cửa, ghé tai nghe ngóng. Quả nhiên nghe thấy tiếng “kít kít” kéo dài, đúng như bác Phùng đã miêu tả.
    Nếu mình đẩy cửa vào, chưa biết chừng sẽ biết rõ tất cả. Nhưng Sảnh lại nghĩ ra một kế hoạch hay hơn, nếu buộc phải chạm trán trong đó, thì chi bằng mình cứ chờ hắn ra rồi bám theo.
    Sảnh quay lại chỗ bụi cây chờ đợi chừng nửa giờ. Cửa đã mở ra, bóng đen ấy ra, và kéo theo cái bao to. Thấy hắn đi về phía nam khu nhà, Sảnh bèn rón rén bước theo. Vậy là cái chuyện lạ lùng khó tưởng tượng ấy đã xảy ra, bóng đen đi về phía nam khu nhà, không đi thẳng nữa mà là bước lên cầu thang lộ thiên.

    10h ngày 6 tháng 6

    “Gì cơ? Là Chương Vân Côn? Sao lại có thể như vậy được?” Nghe Sảnh kể xong đầu đuôi sự việc đem qua, Hinh lập tức nhớ lại một số lần tiếp xúc với Vân côn, nghĩ xem có gì đáng ngờ ngợ không. Kết quả thật bất ngờ, lần nào xuất hiện hình như anh ta cũng có vẻ kỳ lạ.
    Sau khi nghe Hinh kể lại việc trông thấy một tiêu bản cơ thể thần kỳ, thì hai người đi đến gian nhà nhỏ đặt tiêu bản ấy, bỗng Hinh thấy nhức đầu ghê gớm, khi tỉnh lại thì cô thấy mình nằm ở phòng y tế. Ít lâu sau, Hinh được tin cha mất, cô thấy đầu óc rối bời, bèn đi lan man trong trường, thì lại chạm trán Vân Côn. Hôm đến tìm bác Phùng thì anh ta bỗng xuất hiện sau lưng cô từ lúc nào. Sau đó là cái đêm kinh hoàng ở trạm phát thanh, sau khi Vân côn đến nơi thì âm thanh quái ác kia biến mất. Về sau, khi cô có ảo giác về cảnh tượng bác Phùng bị xé thây thì anh ta đang ở gần đó.
    Phải chăng anh ta là góc rễ của tất cả mọi chuyện? Anh ta chính là lời giải của “vụ án mưu sát 405”?
    “Điều quan trọng là cần điều tra rõ anh ta đang làm gì?” Sảnh thấy sự liên tưởng của Hinh rất có lý, nó càng củng cố kế hoạch tối nay của cô.
    “Nhưng một mình cậu thì điều tra gì được? Lỡ bị làm hại thì sao? Có lẽ nên nói với phòng bảo vệ đã?”
    “Lúc này chúng ta chưa có một bằng chứng gì, nếu đến báo cáo thì khác nào đánh động cho đối phương biết?”
    “Cậu yên tâm, tớ biết tự bảo vệ mình - ít ra cũng chuẩn bị đầy đủ “thuốc chống yêu râu xanh”. Cậu cứ chịu khó nghỉ ngơi đi, sớm muộn gì thì cũng sẽ ra viện”. Sảnh an ủi Hinh, nhưng cô vẫn thấy buồn, chẳng biết nên nói như thế nào với Hinh về chuyện phát hiện ra Tạ Tốn. Nên nói gì? Nói là “Hinh ạ, cái gọi là tình yêu của cậu chỉ là một ảo giác mà thôi” hay nói là “hình như cậu bị tâm thần phân liệt thật rồi”?
    Nhưng nếu tất cả đều là do Chương Vân Côn dàn dựng, thì phải giải thích ảo giác của Hinh về Tạ tốn thế nào đây? Có lẽ đó chỉ là trò dối trá quái dị do Vân Côn tạo ra để nhiễu thần trí của Hinh. Có lẽ, mục đích cuối cùng của anh ta là giết người!
    Các ý nghĩ này lặp đi lặp lại mãi trong đầu Sảnh suốt gần một ngày, cho đến lúc cô đã “vũ trang đầy đủ” và ngồi nấp trong ủt đựng dụng cụ của ông Phùng.
    Sảnh từng đọc rất nhiều sách “lạc dòng” phân tích về ma quỷ, cô đã rút ra được khôn gít “trí tuệ” trong đó. Ví dụ, ma quỷ thường sợ các “tàn tích” của các con vật, cho nên người ta mới rất hay dùng máu chó để làm phép trừ tà ma. Tiếp tục suy rộng ra, tức là ma quỷ không thể xâm nhập vào da các con vật. Cho nên teong cái đêm mùa hạ này, Sảnh đã trang bị áo bludông da, quần da, mũ da, găng tay da và đi giày da. Lúc này khắp người sảnh mồ hôi nhơm nhớp. Túi áo có mấy ghi âm mini và máy ảnh, một tay cầm đèn pin, tay kia cầm thuốc chống yêu râu xag, sẵn sàng xuất kích.
    Đồng hồ dạ quang chỉ đúng 12 giờ rưỡi, quả nhiên nghe thấy tiếng mở cửa khe khẽ.
    Sảnh hơi đẩy cửa tủ ra, dỏng tai lắng nghe. Tiếng xột xoạt và kít kít đã nghe khá rõ. Mình có nên nhòm xem sao không? Sảnh ấn nút máy ghi âm, đang chuẩn bị ra khỏi tủ thì chợt nghĩ “gay rồi”, vì tiếng “kít kít” đang phát ra ở ngay ngoài cửa phòng!
    Cô vội lui về ngồi im, rồi lại lắng nghe tiếng “kít kít” hình như đang loanh quanh ngoài cửam chắc là Vân Côn đang do dự suy tính xem có nên vào hay không.
    “Loanh quanh” như thế chừng một phút, nhưng với Sảnh thì tưởng như dài đến một năm. Sảnh thầm nguyền rủa - dù Vân côn là người hay ma, thì vẫn chỉ là gã nhu nhược thiếu quyết đoán. Nhưng có lẽ chỉ một gã như thế này thì mới có thể làm việc rất kín kẽ, giết người êm như ru mà không thể bị vạch trần.
    Tiếng động quái dị đã tiến vào phòng.
    Sảnh thầm nhắc đi nhắc lại mình: bình tĩnh, bình tĩnh, mình có duyên với ma, dù nó là ma lành ma dữ thì cũng sẽ không hại mình.
    Nhưng nếu hắn là người thì sao?
    Sảnh bỗng nhớ đến câu nói của bác Phùng ngày nào: “Xưa nay kẻ gây lắm tội nhất là người, chứ không phải là ma”.
    Sảnh định hé cửa tủ ra dù chỉ là một khe nhỏ để nhòm cảnh tượng trong phòng, nhưng cô không có cơ hội này, vì hình như tiếng “kít kít” đang tiến đến cái tủ.
    Thì ra hắn đã biết mình đang ở trong này.
    Mồ hôi vã ra, chảy ròng ròng từ má xuống cổ, Sảnh dường như ngừng thở. Cô run run giơ hai tay, chuẩn bị thực thi chiến thuật, hễ cửa tủ bị mở thì bật đèn pin chiếu thẳng vào mặt Vân Côn, và phun ngay hộp thuốc xịt “chống yêu râu xanh”.
    Tiếng “kít kít” đã đi đến trước tủ, rồi lại ngập ngừng tiến lui, hình như đang đắn đo có nên mở cửa tủ hay không?
    Sảnh không rõ mình còn có thể chịu đựng nổi cảnh tra tấn này bao lâu nữa, chằng lẽ đây là chiến thuật hành hạ của Vân côn?
    Nếu đúng thế thì chiến thuật này đang thành công, vì Sảnh cảm thấy bộ não mình đang cực kỳ thiếu ôxy, đã mấp mé ngưỡng tan rã.
    Có lẽ Vân côn đã bỡn cợt Sảnh bị khốn đốn trong tủ như thế là đủ rồi, nên từ từ mở cửa tủ ra.
    Sảnh vội bấm đèn pin và xịt thuốc luôn.
    Ôi! Đèn pin thì không chiếu vào mặt Vân Côn, thuốc chống yêu râu xanh cũng xịt không trúng mắt Vân côn, mùi thuốc cay xè bay khắp căn phòng khiến chính Sảnh bị hắt hơi.
    Lại có ánh đèn pin sáng lên, nhưng chiếu thằng vào mặt Sảnh, Vân Côn quát to: “Cô là ai? Đang làm gì ở đây? Thật là quá đáng, quá đàng! Cô làm tôi phát hoảng lên!”
    Sảnh không thấy giọng có vẻ là ma dữ hay ác quỷ, chỉ là giọng nói của một thanh niên đang khiếp hãi mà thôi, cô thấy yên tâm ngay. Nhờ ánh đèn pin, Sảnh thấy Vân Côn đứng hơi xa, tay cầm một chiếc gậy dài, đầu gậy treo một cái mặt đồng hồ tròn, chính cái này phát ra tiếng “kít kít”.
    “Chính anh quá đáng thì có! Đêm nào cũng chạy đến đây làm trò ma!”
    “Sao cô biết tôi đêm nào cũng đến?... Cô là ai?” Rõ ràng Vân côn còn kinh ngạc hơn cả Sảnh.
    Lúc này, bằng cái “khứu giá ma quỷ” của mình, Sảnh gần như loại trừ khả năng Vân Côn là gã quái dị. Cô đang đinh trả lời thì đèn trong phòng bỗng bật sáng, khiến cả hau đều giật mình,
    Ông Phùng đã đứng ngay ở cửa phòng.
    “Vẫn ổn, vẫn chưa muôn”. Ông Phùng thở phào.
    Sảnh ngớ ra, nhưng cô hiểu ngay: “Sao lại chưa muộn? Nếu thầy Côn mà là kẻ xấu thì cháu đã đi đời rồi. Bác tính toán tài quá, bác cho cháu biết tin, tức là bảo cháu làm con chim mồi nhử thầy Côn ra! Đây là những chuyện kỳ cục gì vậy?”
    “Đương nhiên tôi chẳng ngại chạm trán thầy Côn, có điều là thầy Côn đã thừa biết quy luật hoạt động của tôi, tôi vẫn công khai như thế thì làm gì có đối thủ? Cho nên chỉ còn cách nhờ đến cô bé tinh quái to gan giúp cho. Tôi mong thầy Côn sẽ giải thích xem, thế này là làm sao?”
    Vân Côn nhìn chằm chằm Sảnh: “Bạn này là...”
    “Em là Âu Dương Sảnh, bạn thân của Diệp Hinh. Vừa rồi em bị viêm gan nên vẫn phải nghỉ ở nhà, đến nay vẫn chưa chính thức trở lại học!”
    “Thì ra bạn là Âu Dương Sảnh - xin chào bạn! Thảo nào mà...” Vân Côn như có điều gì nghĩ ngợi. “Vậy là bạn cũng như tôi, chúng ta cùng nghi ngờ “vụ án mưu sát 405” có liên quan đến khu nhà giải phẫu này”. Anh lại nhìn sang ông Phùng.
    Ông Phùng hừ một tiếng: “Thầy nhìn tôi làm gì? Tôi thực sự không hiểu hai người đang nói gì. Thầy Côn thử nói xem, đêm hôm thầy vác cái thứ đồ nghề này đến đây làm gì?”
    Vân Côn thở dài, nét mặt bỗng trở nên buồn bã, anh cúi đầu im lặng một hồi, rồi ngẩng lên nói: “Chuyên dài lắm, chuyện dài - chẳng thể nói gọn trong mấy câu. Nhất là... đang có mặt Sảnh.. Tôi xin nói là tôi có việc rất gấp. Thế này vậy, hai vị cùng lên phòng làm việc của tôi ngồi chơi rồi nói chuyện. Tôi nói xong, thì bác Phùng có thể bổ sung gì đó... xin cứ nói thẳng thắn!”
    Cả ba ra khỏi khu nhà, đi về phía nam, đi cầu thang lộ thiên lên tầng hai. Vân Côn mời hai người vào phòng của anh, rồi khép cửa lại.
    Sảnh đã nhìn thấy ngay chiếc khung ảnh đặt trên bàn viết có lồng bức ảnh đen trắng của một thiếu nữ, cô “ơ” lên một tiếng.
    “Sao thế?” Vân Côn nhìn thấy sắc mặt sảnh cso vẻ khác thường.
    “Em có thể mở đầu nội dung mà thầy Côn định nói”. Sảnh lim dim mắt, đôi môi nhỏ xinh hình như đang lẩm bẩm... rồi cô nói “đúng là thế”. Sảnh mở to mắt nhìn thẳng vào Vân Côn: “Cô gái xinh đẹp này tên là Nghê na, là bạn gái ngày trước của thầy đúng không ạ?”
    Vân Côn kinh ngạc: “Tại sao cô lại biết được?” Anh lại thở dài: “Thật đáng tiếc, chuyện này đã rất lâu rồi...”
    Sảnh đưa mắt nhìn xuống: “Xin lỗi, em đã nhắc đến chuyện không vui của thầy, Em biết sự việc bất hạnh này xảy ra vào sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1984, chị ấy đã nhảy lầu. Thầy rất đau buồn, và đã thề sẽ tìm ra sự thật về “vụ án mưu sát 405”. Thầy đã rất gian khổ tìm kiếm mọi dấu vết. đau đáu hồi ức về mùa xuân năm đó xem là rốt cuộc đã có sai sót gì”.
    Vân Côn cực kỳ ngạc nhiên nhìn Sảnh, càng nghĩ càng thấy sờ sợ, anh đứng lên chỉ tay vào Sảnh hỏi: “Bạn.. thực ra bạn là ai...?”
    “Cô ta là người thành tin! Từ năm ngoái tôi đã biết rồi”. Ông Phùng nói khấp khởi và khoái trá.
    “Không dám ạ! Chẳng qua là vì em đã điều tra rất tỷ mỉ đó thôi. Mối quan hệ giữa thầy và Nghê Na là do em suy luận ra. Em luôn rất có hứng thú với “vụ án mưu sát 405” nhưng em làm gì có đủ tài để giở từng tấm ảnh cua các cô gái là nạn nhân của vụ “405” này, cho nên chỉ có thể lợi dụng các tư liệu hiện có. Phòng quản lý sinh viên thường lưu trữ các bức ảnh chụp chung của các sinh viên mới, em nhờ thấy giáo ở đó cho xem bức ảnh năm 1983 và em đã nhận ra Nghê Na. Hôm nay thấy bức ảnh này trên bàn, thì em đoán ra mối quan hệ ngày đó của hai người. Thầy đã giữ bức ảnh này ngần ấy năm, chứng tỏ thầy đã nhớ nhung da diết. Em cũng có thể tưởng tượng được nỗi đau khô của thầy năm đó”.
    “Cho đến giờ tôi vẫn chẳng hề nguôi”. Đôi mắt Vân Côn đỏ hoe. “Nhất là, những năm qua, năm nào cũng có một nữ sinh đi đến chỗ tuyệt vọng như thế”.
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  3. #23
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 21 Không sao hiểu nổi


    Sảnh cúi xuống nhìn chiếc gậy dài và chiếc mặt đồng hố đặt dưới sàn, rồi lại nhìn Vân Côn. Vân Côn hiểu ý, bèn nói: “Nói ra, tôi chẳng lo hai người sẽ cười cho: hai vị thử đoán xem cái này để làm gì? Đây là “dụng cụ bắt ma”, tôi đã mua từ nước ngoài, gửi bưu điện về đây”.
    Sảnh bật cười: “Ôi, thật không ngờ! Thầy vốn không tin quỷ thần vớ vẩn kia mà?”
    “Hiện nay tôi lại càng không tin. Suốt mấy năm qua tôi gần như đã lần mò khắp khu nhà giải phẫu, mà vẫn chưa phát hiện thấy một manh mối nào. Tôi nói thật: chính vì Diệp Hinh xuất hiện, rồi nghe Hinh kể lại những hiện tượng không sao giải thích nổi - tôi mới nảy ra ý nghĩ “cứ thử xem sao”. Tôi thấy một tạp chí của Mỹ giới thiệu về cái “dụng cụ bắt ma” này. Theo lý luận của một số “chuyên gia bắt ma” người Mỹ thì ma quỷ cũng là một dạng vật chất, một dạng năng lượng, nó cũng sinh ra một trường, và tồn tại dưới hình thức sóng điện từ. Dụng cụ này thực chất là một thiết bị tìm kiếm và khuếch đại sóng điện từ, nếu gặp một từ trường tương đối mạnh, nó sẽ phát ra âm thanh “kít kít”. Tất nhiên là khi gặp một nguồn phát nhiệt đáng kể, ví dụ cơ thể người không được che chắn kỹ thì thiết bị này cũng có phản ứng mạnh. Cho nên, hôm nọ bác Phùng đang làm việc ở khu nhà giải phẫu, tôi vừa bước vào cửa thì nó đã phát luôn tín hiệu có người. Tôi biết ngay là bác Phùng đang ở trong nhà. Còn việc đêm đêm tôi đều đến để “bắt ma” thì vẫn chưa có kết quả gì”.
    “Thầy chớ nói thế! Thầy đã bắt được “con ma lanh” Âu Dương Sảnh kia mà!” Ông Phùng cười nói.
    Sảnh hứ một tiếng: “Chẳng lẽ bác Phùng đã nhẫn tâm đẩy cháu ra làm mồi, để câu được con cá sộp là thầy Côn à? Lỡ thầy Côn là kẻ xấu, là ác quỷ thật thì sao?”
    Ông Phùng nói: “Tôi đi lại kém nhanh nhẹn thật, nhưng những lần thầy Côn đến đều mang một lô các thứ nên cũng không thể đi nhanh, vì thế từ lâu tôi đã nhận ra thầy Côn, cảm thấy thầy Côn có vẻ rón rén làm một việc gì đó, nhưng hỏi thẳng thì không hay, tôi bèn mời cô ra khám phá. Nếu thầy Côn là kẻ xấu, đêm nào cũng bị tôi cản trở công việc, thì thầy Côn đã chặt tôi ra làm tám khúc từ lâu - giống như... ảo giác của bạn cô vậy!”
    Thấy Sảnh nhăn mũi, thầy Côn vội nói: “Thôi nào, bác Phùng cũng đừng nên xét đoán này nọ gì nữa. Tôi vì cảm thấy xấu hổ, nên mới rón rén bí mật như thế. Có lẽ từ nay tôi sẽ chấm dứt cái việc hão huyền này, và giữ vững lý luận của tôi trước đây”.
    “Là lý luận gì ạ?” Sảnh tò mỏ hỏi.
    “Điều vẫn gọi là “vụ án mưu sát 405”, thực chất là không hề tồn tại”. Vân Côn nói rất tự tin.
    Sảnh lắc đầu quầy quậy: “Em vẫn không thể tin cái gọi là ngẫu nhiên, năm nào cũng có một nữ sinh viên nhảy lầu từ cùng một căn phòng, lại cùng vào một ngày, và lại đều là tự sát?”
    “Không phải tự sát thì là gì nữa? Nếu là bị giết thì công an đã không thể không tìm ra một manh mối nào suốt bao năm qua! Mấy năm qua tôi đã tốn nhiều công sức trong việc phân tích bệnh học thần kinh về chuỗi vụ án nhảy lầu này. Kết luận của tôi có lẽ là cô không thể tin các nữ sinh đều mắc bệnh tâm thần ở các mức độ khác nhau!”
    Sảnh khẽ “a” một tiếng, cô cảm thấy rất kỳ cục. “Nội dung bản luận văn thạc sĩ của tôi là những phân tích bệnh học thần kinh về chín vụ tự sát xảy ra ở phòng 405. Về các nạn nhân, tôi đã thu thập rất nhiều tư liệu và tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn. Ví dụ, người thứ nhất Du Tĩnh, là bạn chí thân của người chết vào năm sau là Tưởng Dục Hồng. Mùa xuân năm 1977, Dục Hồng nằm viện tâm thần, còn Du Tĩnh - có vẻ đang rất bình thường - thì lại nhảy lầu chết ngay năm đó. Tôi đã gặp gỡ phỏng vấn các thầy các bạn và phụ huynh của cả hai cô, và nhận ra rằng sau khi Dục Hồng nằm viện thì Du Tĩnh rất buồn chán uể oải, mất cả hứng học tập và hoạt động xã hội. Xét mọi biểu hiện thì cô ấy đã mắc chứng trầm cảm rất điển hình. Hành vi tự sát là biểu hiện có tỷ lệ khá cao của các bệnh nhân mắc chứng trầm cảm.
    Trước khi ra viện, Dục Hồng đã biết tin Du Tĩnh qua đời, nghe nói Hồng đã khóc rất đau đớn. Nhưng chứng hoang tưởng của Hồng đã không tái phát, không cần thiết phải nằm viện nữa. Nhưng nghe nói, sau khi trở lại trường học, Hồng không bận tâm gì đến các bạn xung quanh nữa, nếu có ai nhiệt tình chủ động hỏi han thì Hồng trả lời “cậu sao có thể thay thế Du Tĩnh được!” Thậm chí Hồng coi mình là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Tĩnh. Cho đến mùa xuân năm 1978, Hồng thường hay nói những câu đáng sợ, ví dụ “Du Tĩnh đang chờ tớ ở bên kia!” Cũng tức là Hồng đã chuẩn bị để đi đến cái chết. Tiếc rằng hòi đó người ta chưa hiểu sâu về bệnh thần kinh, chỉ gọi chung các bệnh nhân thần kinh là “người điên”, mà bỏ qua các vấn đề về tâm lý và tinh thần, thế là dẫn đến các bi kịch. Còn các nữ sinh nhảy lầu sau đó, nếu có thời gian tôi sẽ kể từng...”
    Sảnh bỗng ngắt lời: “Nhưng các nữ sinh đã từng nằm viện tâm thần đều có ảo giác? Tại sao nào? Ví dụ tại sao Dục Hồng ban đầu lại có ảo giác? Tại sao mấy nữ sinh sau này cũng đều có ảo giác? Và tại sao các cuộc tự sát đều xảy ra vào lúc 0h ngày 16 tháng 6 - một thời khắc khá đặc biệt?”
    “Có thể nói trong suốt quá trình điều tra, đây là chi tiết lý thú nhất, nhưng cũng khiến người ta không sao hiểu nổi. Tôi nghĩ, rất có thể Dục Hồng là bệnh nhân đã trực tiếp nảy ra ảo giác, rồi tác động đến thế hệ tiếp theo sống ở phòng 405. Sao khi Hồng chết, hình ảnh xuất hiện trong ảo giác của cô ấy - ví dụ, “ánh trăng” kêu gọi, cô gái áo trắng và người mặt nát... lại xuất hiện trong ý thức của các nữ sinh tự sát sau này. Nghe thì có vẻ rất hão huyền phải không? Nhưng tôi đã điều tra và thấy rằng, Dục Hồng đã nhiều lần kể với các bạn về ảo giác của mình, cho nên sau liền hai năm xảy ra sự kiện ở phòng 405, ảo giác ấy cứ như có cánh bay đi khắp trường. Rất có thể, các nữ sinh nhảy lầu mấy năm tiếp đó đã bị tác động ám thị của các lời kháo nhau kia, rồi cũng nảy ra ảo giác, và càng muốn chọn cái ngày 16 tháng 6 ấy!
    Về sau, nhà trường ý thức được rằng đó là một vấn đề nghiêm trọng, nên đã nhiều lần nhắc nhở cấm kể lại câu chuyện ấy, coi đây là một phần của công tác tư tưởng. Điều này đã có tác dụng rõ rệt để ngăn chặn tin đồn nhảm. Cho đến khi hai khóa sinh viên mới các cô vào nhập trường thì tuy còn có người nhắc đến “vụ án mưu sát 405”, nhưng nội dung cụ thể thì căn bản đã bị thất truyền rồi”.
    Sảnh lắc đầu: “Thế thì lại càng kỳ lạ. Nếu những miêu tả về ảo giác đã cơ bản bị thất truyền thì sao nó lại xuất hiện trong những giấc mơ của Diệp Hinh?”
    Vân Côn nghĩ ngợi, rồi nói: “Tôi chịu không thể giải đáp được điều này, cũng không thể giải thích tại sao lúc đầu ảo giác lại xuất hiện trong đầu Tưởng Dục Hồng. Vì thế lâu nay tôi mới cố tìm nguyên nhân ở trong nhà giải phẫu. Tuy nhiên tôi cũng không cho rằng nếu tiếp tục tìm thì sẽ có kết quả. về tình hình Diệp Hinh thì cô hiểu rõ hơn tôi, ngoài ánh trăng, cô gái áo trắng có khuôn mặt nát ra, cô Hinh còn có nhiều ảo giác khác, ví dụ; về linh hồn người cha, về cậu sinh viên Tạ Tốn...”
    Sảnh vội ngắt lời: “Hình như cha của Hinh có đến thăm bạn ấy thật. Đến vào chiều hôm trước ngày Hinh nhận được tin dữ, bác ấy còn để lại cho Hinh chiếc áo jắckét làm kỷ niệm. Lúc về phòng ký túc xá, em đã nhìn thấy chiếc áo đó”.
    Vân Côn ngạc nhiên bóp trán suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tôi cũng nhớ rằng Hinh có nhắc đến chiếc áo jắckét, nó đã có mặt thì nhất định phải có cách giải thích - ví dụ, vì bác ấy đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo, sợ rằng không còn dịp gặp lại con, nên nhân một lần Hinh sắp lên đường, bác ấy đã nhét chiếc áo đó vào hành lý chăng? Hoặc là, Hinh có linh cảm rằng người cha ngày càng suy nhược, hom hem đã mắc bệnh. Nhìn lại vật cũ nhớ đến người thân, thế là Hinh đã xáo trộn thời gian xuất hiện chiếc jắckét hoà lẫn cùng nỗi nhớ cũng nên?”
    Sảnh thở dài: “Thầy tuy có hơi lúng túng khó lý giải, nhưng thầy nói cũng hơi có lý. Tuy nhiên vẫn là tương đối xa vời”.
    Vân Côn nói: “Ca Diệp Dinh khá là đặc biệt. Đúng là cô ấy có những ảo giác kỳ lạ, nhất là ảo giác về cậu Tạ Tốn. Nhưng đồng thời, khi tiếp xúc với Hinh, tôi có thể cảm nhận ra rằng cô ấy có khả năng tư duy phân tích khá cao, rất bình tĩnh, rất biết phân tích chính mình. Điều này rất hiếm thấy trong các ca bệnh nhân tâm thần phân liệt. Sư phụ Từ Hải Đình cũng đồng ý với cảm nhận của tôi. Ngay từ đầu, bác sĩ Đình đã cho rằng Diệp Hinh không giống như các nữ sinh trước kia nằm viện, tuy có mắc chứng ảo giác nhưng không hề ảnh hưởng đến tư duy”.
    Sảnh chợt nảy ra một ý: “Thầy Chương, thật may mắn được biết thầy giỏi về phương diện bệnh học thần kinh, em muốn xin thầy chỉ bảo cho: đến lúc này, Diệp Hinh hầu như vẫn chưa biết rằng thực sự Tạ tốn không tồn tại trong cuộc sống của mình, bạn ấy chỉ đang giao lưu với một thứ ảo ảnh mà thôi, thậm chí còn đang yêu. Em nên làm gì để cho Hinh hiểu ra điều này đây?”

    10h ngày 7 tháng 6

    Gặp Sảnh trong phòng tiếp người nhà bệnh nhânm Hinh tươi cười: “Mình đang lo cho cậu đây này! Sao rồi? Thầy Côn đã làm trò ma quỷ gì vậy?”
    Sảnh thuật lại mọi sự việc đêm qua, khi kể đến chuyện toàn thân Sảnh “bọc da”, người đầm đìa mồ hôi, đã biến thành “con ma đầu tiên” bị “máy bắt ma” của Vân Côn tóm được, cả hai cùng cười phá lên.
    “Mấy hôm nay mình cũng đang muốn tìm tung tích của Y Y. Nhưng nếu chỉ dựa vào cái tên cúng cơm Y Y thì nên bắt đầu từ đâu để tìm kiếm? Suy từ ngày tháng viết trong cuốn nhật ký mà cậu đọc được, thì chị ấy và anh chàng họ Tiêu học khóa 1963, mình đã hỏi mẹ mình có biết nữ sinh nào là Y Y học khóa 63 không, mẹ mình cố lục trí nhớ... rồi nói mẹ học khóa 65, tuy cũng có quen khóa 63 nhưng không phải là quen tất cả, và chưa bao giờ nghe nói đến cái tên này. Mình đã cố nài mẹ thăm dò hộ, chẳng rõ bà có cố giúp cho không?”
    Hinh nghĩ ngợi rồi nói: “Cậu cũng có thể hỏi thăm cái tên “máy kéo”, hình như ông ta rất nổi tiếng”.
    “Được, mình sẽ thử xem sao”. Sảnh vơ như hỏi bâng quơ: “Đã nói đến nổi tiếng.. thì Tạ Tốn hôm nay có vào đây không?”
    “Đã vào hai lần rồi. Anh ấy vừa ra về thì cậu đến!” Ánh mắt Hinh rất trìu mến.
    Sảnh lại thầm thở dài, cô mở ví lấy ra một bức ảnh: “Tớ cho Hinh xem ảnh một anh chàng điển trai. Thử nghĩ xem, cậu có quen người này không?”
    Hinh nhìn kỹ, thấy trong ảnh là một chàng trai có vẻ bẽn lẽn. Cô lắc đầu: “Tớ cũng hơi ngờ ngợ, có lẽ đã nhìn thấy ở trường. Nhưng chắc chắn là không quen. Mà sao cơ? Là chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng của cậu à?”
    Tuy đã lường trước, nhưng Sảnh vẫn thấy lòng bỗng nặng trĩu. Cô lại giở ra một bức ảnh chụp hai nam giới, đứng bên trái là người vữa nãy, đứng bên phải là một anh chàng cao lớn, lông mày ngang, mắt sáng, “rất phong độ”.
    Hinh nhìn anh chàng đứng bên phải, cô định trêu rằng “thì ra đây mới là chàng hoàng tử của cậu” nhưng cô ngẩng đầu nhìn thấy Sảnh vốn hay chớt nhả nhưng lúc này vẻ mặt lại nặng chình chịch, Hinh lại cúi xuống nhìn kỹ hai người trong ảnh, cô bỗng mơ hồ cảm thấy một điều gì đó không hay...
    “Mình không quen hai người này... nhưng không hiểu tại sao, mình thấy hình như đã từng quen họ”.
    Sảnh cúi đầu, thầm nhẩm lại một lượt những câu đã chuẩn bị sẵn, nhưng khi mở miệng thì cô lại nói hơi chệch đi: “Hinh ạ, mình... không biết nói sao đây, mình nói ra, mong cậu đừng trách mình, vì mình không thể không nói”.
    Sảnh chỉ vào anh chàng trông hơi bẽn lẽn đứng bên trái rồi nói: “Anh ta tên là Tạ Tốn”.
    Rồi lại chỉ vào anh chàng khôi ngô đứng bên phải: “Anh này là Lệ Chí Dương”.
    Hinh run run, ngạc nhiên nhìn Sảnh, cô lại cúi xuống xem bức ảnh, rồi im lặng rất lâu. Trong lúc đó, Sảnh thấy như mình đã biến thành Hinh, cô đang giẫy giụa trong nỗi giằng xé của Hinh, Sảnh rớt nước mắt.
    Nhưng Hinh thì lại bình tĩnh một cách kỳ lạ, cô không khóc, cũng không lớn tiếng căn vặn. Cô dùng đầu ngón tay trỏ khoanh các vòng tròn xung quanh khuôn mặt hai chàng trai. Sảnh hiểu rằng bộ não thông minh của Hinh đang chịu đựng những tác động mạnh, đang vận động rất nhanh, muốn gạt bỏ màn sương mù đang mỗi lúc một dày đặc hơn.
    Đúng như Sảnh đã lường trước, ý định khóc lóc và lớn tiếng căn vặn đã tan đi như cơn phong ba đã lướt qua nhanh, hoặc là nói chúng chưa kéo đến - vì Hinh kinh hoàng đến cực độ, nhưng lại bình tĩnh trở lại ngay. Những câu hỏi đang quay cuồng trong óc cô.
    Tại sao mình lại bị đưa vào bệnh viện tâm thần? Có phải bác sĩ Đằng Lương Tuấn vì là người đứng ngoài sẽ quan sát rõ hơn, đã chẩn đoán chính xác cho mình?
    Tại sao Sảnh vừa mới đứng ra điều tra đã có được kết quả đáng sợ này? Sảnh có hiểu rằng nó có sức hủy diệt mạnh đến thế nào không?
    Tại sao phải tin Sảnh? Đây có phải là một phần của một âm mưu nhất quyết kết luận mình mắc bệnh tâm thần, buộc phải điều trị cho đến khi mình chỉ là các xác không hồn?
    Hinh lập tức phủ nhận khả năng này, không chỉ vì Hinh dường như có niềm tin vô bờ bến đối với Sảnh mà chủ yếu là vì, các loại tin đồn nhảm nhí thường là tự biến mất, sẽ trở thành những điều nhảm nhí tồi tệ nhất trong lịch sử. Nhưng nếu điều Sảnh vừa nói là đúng, thì chẳng phải là mình đã trực tiếp đón nhận điều nhảm nhí lớn nhất này hay sao?
    Nếu đón nhận nó, thì chẳng phải là mình đã rơi vào địa ngục đau khổ hay sao? Mình vốn nghĩ tình yêu đẹp như hoa đang nở rộ trong những ngày đầy gian khó của tuổi trẻ, rốt cuộc lại nhận ra rằng nó chỉ là bông hoa giấy! Không chịu nổi gió mưa đã đành, mà nó sẽ héo khô nhạt phai ngay cả dưới ánh nắng mặt trời.
    Nhưng, trong trái tim Hinh, tình yêu này đã ở bên cô suốt quãng thời gian gian khó này, cô sẽ mãi mãi không bao giờ quên.
    Phải chăng chính vì cảm giác này mà mình phải vĩnh viễn sống trong ảo ảnh về một thiên đường tuyệt mỹ được xây dựng trong trái tim mình.
    Hinh không sao hiểu nổi nữa. Đã không biết bao nhiêu lần, hễ băn khoăn suy nghĩ thì Hinh lại thấy đầu nhức như búa bổ. Lần này cũng vậy.
    Nước mắt rơi, rơi lã chã, rớt xuống bức ảnh. Hinh bỗng nắm lấy tay Sảnh nghẹn ngào nói: “Sảnh ơi, mình không biết.. mình thật sự không hiểu.. cậu hãy giúp mình...”
    Chưa bao giờ thấy Hinh bất lực như lúc này, ốảnh đau xót tuôn trào nước mắt, nhưng cô lập tức lắc đầu, hình như lắc đầu có thể xua đi được nỗi bi thương. Thế rồi ôSảnh kể cho Hinh nghe phát hiện của mình mấy hôm trước về Tạ Tốn và cuộc trò chuyện với anh trưởng ban văn nghệ. Cuối cùng Sảnh nói: “Mình biết những điều này thực khó chấp nhận, có chấp nhận hay không - là ở cậu. Cậu có thể cố nhớ lại tất cả xem sao, ví dụ, anh ta vào thăm cậu nhiều lần như thế, có mua cho cậu một thứ quà gì không?”
    Hinh ngẩn người, nhưng chẳng cần tốn mấy công sức để nói rằng Tạ tốn chưa bao giờ tặng mình một thứ gì. Thông thường, điều này không thể gọi là yêu đương gì cả, chẳng qua vì Hinh cho rằng Tốn là một anh chàng bỗ bã và rất tự nhiên, không “vật chất hóa” tình yêu, trái lại, còn thể hiện rằng “không phàm tục” nữa. Nhưng hôm nay Sảnh đã thức tỉnh cô, thì hình như tất cả đều là rất hợp lý.
    Nhưng Hinh lại chán ghét cái thứ hợp lý này.
    Điều này có nghĩa là Hinh phải bắt đầu cưỡng lại nếp sống và tình yêu của mình, đặc biệt là trong những ngày gió mưa chao đảo này, Hinh thà rằng quay trở lại với cõi hư ảo còn hơn.
    “Mình còn có cuốn băng ghi âm cuộc thi hát hồi nọ, nếu cậu có thể chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, thì mình sẽ mở để cậu nghe”.
    Hinh lắc đầu: “Mình tin ở Sảnh. Chuyện này để sau hãy hay, chờ mình tĩnh tâm trở lại đã. Nhưng cậu hãy nói đi, mình nên tiếp nhận cái hiện thực này như thế nào, hãy nói xem có phải mình đã mắc bệnh tâm thần phân liệt thật không?”
    Sảnh hơi sững người, nghĩ bụng: Hinh có thể hỏi câu này, thì đâu phải là tâm thần phân liệt gì nhỉ?
    “Mình thật sự không biết... không hiểu về bệnh học thần kinh. Có lẽ, có ảo giác chưa hẳn đã gọi là tâm thần phân liệt! Mình cho rằng cậu công nhận rằng đã có ảo giác và không đắm chìm trong đó nữa, thì tức là vẫn khỏe mạnh”.
    “Hiện nay mình rất sợ: không chỉ vì những ngày qua mình có thể còn có những ảo giác khác, mình không thể phân biệt được thật giả ra sao. Điều đáng kể hơn là mình cảm thất bất lực, khó thoát ra khỏi các ảo giác”.
    Sảnh lại có cảm giác rằng Hinh vẫn cần được như Sảnh - phải ra ngoài cái bệnh viện này để sống vui tươi. “Vậy là cậu đã ý thức được rằng đúng là mình có ảo giác?”
    “Mình cần có thời gian để suy ngẫm lại về cuộc sống trong mấy tháng qua, rồi mình sẽ dứt ra được hay sẽ càng chìm đắm sâu hơn, mình cũng không biết nữa”. Tuy đang nhức đầu dữ dội, song Hinh vẫn cố gắng hồi tưởng lại những sự việc khó hiểu mà gần đây cô đã trải qua.
    “Mình nhất định sẽ giúp cậu”. Nhìn vẻ mặt đau khổ của Hinh, Sảnh tự nhận thấy câu nói này thật là yếu ớt.
    Nên bắt đầu từ đâu đây?
    Hinh biết mình tuy tin ở Sảnh nhưng cô vẫn từ chối những sự thật mà mình đã nói ra. Tạ Tốn đâu rồi? Anh hãy đến đây nói cho rõ xem?
    Hinh biết, vẫn là ở mình mà thôi: hãy tháo gỡ cái mớ bòng bong kia, dù kết quả sẽ là khổ đau, sẽ là vỡ tan giấc mơ đẹp.
    Nhưng giấc mơ dù đẹp đến mấy, cũng vẫn chỉ là giấc mơ. Hinh ngồi lặng trên giường hồi tưởng lại từng sự việc ngày trước đã làm rối loan cuộc sống của mình. Nhưng nên bắt đầu xem xét từ đâu? Không còn lựa chọn nào khác, đành bắt đầu từ Tạ Tốn vậy.
    Bắt đầu từ sau lúc giữa trưa của ngày xuân ấy, anh lặng lẽ xuất hiện ở phòng làm việc của hội sinh viên, ghi tên dự thi bài hát tự biên tự diễn. Lúc đó trong phòng chỉ có một mình mình thiu thiu ngủ... Hình như anh không hề biết cái biệt hiệu “Kim Mao Sư Vương” là từ truyện “Ỷ thiên đồ long ký” của Kim Dung mà ra, anh còn nói là cần cây đàn piano.
    Ở cuộc thi hát, anh đã đến muộn, sắp bị loại không được dự thi nữa. Nhưng rồi anh lại vẫn đến và hát hai bài hát “Tuyệt tình cốc” và “Chờ đợi, đợi chờ”. Lúc đó anh lại như rất quen thuộc với Kim Dung - “Tuyệt tình cốc” là từ “Thần điêu hiệp lữ” của Kim Dung mà ra. Anh đã tham gia mấy hôm tập huấn về Kim Dung thì phải? Nhưng lạ thay, mình nghe các bạn nữ lớp C nói là Tốn đã sớm có biệt hiệu “Kim Mao Sư Vương”, nhưng lần đầu gặp, thì Tốn hình như chưa từng nghe nói đến cái tên này. Tại sao lại thế?
    Vẫn trong cuộc thi đó, rõ ràng là Tốn không đến, danh sách kết quả thi không hề có tên anh, thì tại sao mình vẫn kêu oan hộ cho? Lúc đó ánh mắt anh trưởng ban cũng rất ngạc nhiên không sao hiểu nổi. Bây giờ mình mới biết rằng ngoài mình ra, chẳng có ai khác nhìn thấy Tốn!
    Sau đó, anh xuất hiện trên tàu hỏa xuôi về miền nam, khi xuống tàu anh lại khăng khăng không đi cùng về nhà mình. Nhưng trên chuyến tàu trở về, thì mình lại gặp Tạ Tốn. Hai hôm sau, Tốn lại đi với mình đến Nghi Hưng tìm Thẩm Vệ Thanh, cả hai cùng chứng kiến thảm kịch Thẩm Vệ Thanh nhảy lầu nhưng chỉ riêng mình bị công an gọi đến xét hỏi, và không thấy anh ta đâu. Khi mình ra khỏi cơ quan công an thì Tốn lại xuất hiện và cùng mình trở về trường. Tốn còn nói “vớ vẩn” khiến mình tức giận. Và trong hai chuyến đi ấy chỉ có mình mình trông thấy anh ta.
    Khi gặp lại Tốn, thì mình đã vào nằm viện tâm thần. Đúng vào những ngày tâm trạng mình u ám nhất, Tốn đã vào thăm, đã lau nước mắt cho mình. Nếu không có anh thì chẳng rõ mình có vượt qua được những ngày gian khó ấy không.
    Lần nào anh cũng mặc chiếc áo blu trắng để “trà trộn” vào đây, chứ không đến chính thức đến phòng dành cho bệnh nhân tiếp người nhà, càng chứng minh rằng chỉ có mình chứ không có người thứ hai nhìn thấy Tốn.
    Không kể bà Uông Lan San.
    Chính bà San đã nhận ra anh ở trong trái tim mình, có điều bà ta cứ chần chừ không chịu nói rõ tên “Tạ Tốn”, khi bị mình ép mãi, bà San mới nói: “Giả sử tôi nói tên là “Tạ Tốn” thì có thể nói lên điều gì? Cũng chỉ là một cái tên gọi mà thôi!”
    Hay là bà ấy đã nhìn ra anh nhưng không muốn gọi anh là “Tạ Tốn”? Thực ra anh là ai?
    Diệp Hinh không sao hiểu nổi, và lại thoang thoảng nhức đầu. Hinh ngẫm nghĩ một lát và dần cảm thấy rằng Tạ Tốn chỉ là một con sóng lớn trong chuỗi thăng trầm của mình suốt nửa năm qua, nếu muốn hiểu cho rõ thì vẫn cứ phải lần giở lại từ đầu.
    Tại sao vừa mới nhập học ít lâu mình đã hay ngủ mê thấy cô gái áo trắng, tiếng âm nhạc kỳ diệu và khuôn mặt nát bươm? Hình như Tưởng Dục Hồng, Thẩm Vệ Thanh cũng từng ngủ mê thấy cảnh này và kết cục của họ là cái chết. Nó dự báo mình sẽ có số phận tương tự. Những người như Dục Hồng, Vệ Thanh.. hình như cũng nghe nói về “ánh trăng” - riêng Vệ Thanh còn biết được nguồn gốc của “ánh trăng” - nhưng rốt cuộc họ đều phải chết, và mình lại được dự báp sẽ có số phận tương tự.
    Về sau, mình nhìn thấy một tiêu bản rất hoàn hảo ở phòng thực nghiệm giải phẫu, nhưng ngoài mình ra thì không có ai nhìn thấy nó. Nó lại là một ví dụ chứng tỏ có “áo giác”, nhưng cuốn nhật ký của anh chàng họ Tiêu cũng đã xác nhận cái tiêu bản này là có thật. Tại sao lại chỉ riêng mình có thể nhìn thấy?
    Việc mình nhìn thấy cha, cũng là chuyện không ai có thể tin. Sau bảy ngày bị liệt não, sao cha có thể đi từ nơi xa xôi đến tận đại học y Giang Kinh? Đó là ảo giác. Sau đó, tại nhà xác, thi thể của cha lại biết nói, đương nhiên cũng là ảo giác. Nhưng phải giải thích thế nào về chiếc áo jắckét của cha?
    Mình rất mong cảnh Thẩm Vệ Thanh nhảy lầu cũng là ảo giác. Tiếc thay đó lại là sự thật! Có phải là tự sát không? Nếu đúng thế, thì phải chăng là số trời đã sắp đặt? Nếu không phải thế, thì ai đã giết Vệ Thanh? Là người, hay không phải là người?
    Theo gợi ý của Vệ Thanh, mình đã tìm đến phòng hồ sơ của trường. Nhưng ai đã lôi kẹp hồ sơ năm cuối cùng của “Nguyệt Quang xã” đặt lên bàn, và cả mấu giấy ghi số điện thoại kia nữa?
    Khi biết tin nhà trường định đưa mình đi viện tâm thần, mình đã cố sống cố chết bỏ trốn, khi chạy ra khỏi cổng vường ươm cây, thì gần như bế tắc, nhưng một chiếc tắc xi như được ma xui quỷ khiến đã đến đỗ ngay bên cạnh. Ai đã gọi chiếc xe đó? Một phụ nữ đã gọi điện. Lẽ nào trên đời này có chuyện “ma dẫn lối quỷ đưa đường” thật hay sao?
    Sau đó lại là một đêm kinh khủng ở trạm phát thanh. Âm thanh quái dị ấy ở đâu ra? Ảo giác về báp Phùng bị xé thây cũng từ đâu đến? Tại sao lại là bác Phùng?
    Sau khi vào nằm viện tâm thần, các sự việc không sao hiểu nổi đã xảy ra đều xoay quanh bà Uông Lan San. Bà ta biết được những gì liên quan đến “vụ án mưu sát 405”? Bà ta thực chất là người như thế nào? Một bệnh nhân tâm thần? một diễn viên nghiệp dư siêu hạng? Một bậc thầy về khoa phân tích thần kinh? Hay là một sát thủ?
    Tại sao bà San lại giết bác sĩ Đằng Lương Tuấn?
    Ngần này điều nghi hoặc, nếu tiếp tục nghĩ ngợi thì chỉ có thể là càng thêm nhức đầu dữ dội. Hinh đang muốn gạt bỏ chúng, cô đưa mắt nhìn một bệnh nhân đang nằm ở giường gần cô, không hiểu tại sao, người ấy lại khiến Hinh liên tưởng đến cái tiêu bản cơ thể bí hiểm ở khu nhà giải phẫu.
    Nếu cuốn nhật ký kia không phải là ảo giác, nếu cái tiêu bản kia có thật, thì chứng tỏ mình đã nhìn thấy những thứ mà ngươi khác không nhìn thấy. Từ đó suy ra rằng, liệu có phải ảo giác đều là những thứ mà chỉ mình nhìn thấy, người khác không nhìn thấy không? Cũng như Uông Lan San, bà ta có thể biết được tâm lý người ta, nhưng người khác thì lại cho rằng đó cũng chỉ là ảo giác?
    Diệp Hinh đứng dậy nhìn quanh bốn phía. Đã đến giờ hoạt động tự do rồi thì phải? Hinh sốt ruột muốn gặp bà San, biết đâu bà ta có thể giúp mình thoát ra khỏi những cảnh sa lầy không sao hiểu nổi này?
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  4. #24
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 22 Âm thanh kỳ lạ


    15h ngày 7 tháng 6

    Kể từ khi bà San bị chuyển sang khu bệnh nhân nặng, Hinh chỉ có thể thấy bà ta ở vườn hoa mà thôi. Những lúc đó lại thường có Tạ Tốn ngồi bên Hinh, con tim và ánh mắt cô đều dành cho Tốn, nên chẳng nói gì nhiều với bà San. Nhưng vẫn còn nhớ mọi lần ấy Hinh đều nhận ra ánh mắt của bà San nhìn sang cô đầy vẻ ái ngại bất lực và buồn bã. Lúc này nhớ lại, mặc dù đang ngồi dưới ánh mặt trời, Hinh vẫn thấy nổi da gà. Vì ánh mắt ấy ứng với một câu nói của bà ta “Thứ đang xâm chiếm lòng cô, không phải là một cái tên, mà là một bi kịch”.
    Thực là xác đáng, cái gọi là tình yêu của mình chỉ là một ảo giác thứ thiệt, mà mình thì đã sa lầy quá sâu, đã “cố đấm ăn xôi”, kiếm cớ để không rũ bỏ cái đẹp hư ảo ấy.
    Đây không phải là sự lựa chọn đúng đắn của Diệp Hinh này.
    Quả nhiên Hinh nhìn thấy bà San ở trong vườn hoa. Vẫn như mọi ngày, bà ta đang ngồi trên chiếc ghế mây, tay cầm tấm bìa kẻ giấy và bút vẽ, nhưng có lẽ ánh nắng ấm dễ đưa người ta vào giấc ngủ, bà San đang ngả đầu hình như đã ngủ.
    Hinh đi đến nơi, ngồi xổm xuống bên cạnh ngẩng đầu nhìn bà San, rồi nghẹn ngào nói: “Bà hãy giúp cháu với”.
    Bà San mở mắt ra, ánh mắt lộ vẻ xót thương, nhưng giọng nói thì lại lạnh lùng: “Cô thì không muốn tin, tôi cũng chẳng có tài thuyết phục, làm nhiều những việc vô ích, chỉ tổ giảm thọ thôi”.
    “Bà nói là nhìn thấy “anh ta” trong trái tim cháu, tại sao khi cháu hỏi các cô y tá và các bệnh nhân thì họ đều không nhìn thấy anh ấy? Bà nói đi, anh ấy là người như thế nào? Anh ấy là ai?”
    “Cô gọi anh ta là Tạ Tốn”.
    “Nhưng nay cháu đã biết: có lẽ không phải anh ta.Bà hãy cho cháu bíêt thực ra anh ấy là ai? Trong chuyện này, chỉ mới có thể giúp được cháu”.
    Bà San cúi thấp người, nhìn Hinh. Thấy khuôn mặt cô đẫm lệ, đôi mắt già nua của bà cũng nhòa đi. Bà San bỗng nâng bức vẽ, nhanh tay vẽ luôn.
    Chẳng rõ thời gian trôi đi bao lâu, chỉ thấy bàn tay đang vững vàng cầm bút của bà bỗng run run, Hinh lo lắng hỏi : “Bà có sao không?”
    Bà San có vẻ như thở rất khó khăn: “Sắp xong rồi”
    Hinh không nén được, quay người sang nhìn bức vẽ, thấy một chàng trai đang tươi cười, mặc áo choàng trắng - chính là “Tạ Tốn” mà cô vẫn ngày đêm khắc khoải nhớ nhung. Tay bà San trở nên linh họat, chỉnh sửa những nét cuối cùng, rồi đưa bút sang phía tay trái của chàng trai - bà tỉa nét bút rất tỉ mỉ.
    Có thể nhìn rõ trên mu bàn tay ấy có hai hàng vết răng mờ mờ!
    Khi “Tạ Tốn” xuất hiện lần đầu trong vườn hoa, Hinh đã dồn nỗi nhớ da diết và niềm mui mãnh liệt để cắn nhẹ vào tay anh, nhưng hoàn toàn không đứt da. Nếu ở trên tay người bình thường thì chỉ sau vài giây vết đó sẽ hết dấu vết ngay, nhưng tại sao trên tay “Tạ Tốn” thì lại hằn mãi nhưng thế và tại sao bà San nhận ra rõ nét?
    Hinh vốn nghĩ sự xuất hiện của Tạ Tốn sẽ khiến cô thỏa nỗi nhớ mong và được hạnh phúc, nào ngờ đó chỉ nhưng hoa đẹp trong gương, bóng trăng đáy nước!
    Tại sao tay bà San run run nhưng vẫn tiếp tục vẽ?
    Không phải bà tiếp tục vẽ “Tạ Tốn”, mà đang vẽ ở một góc khác của bức họa - vẽ một khuôn mặt khác. Hinh kinh ngạc nhìn... rồi dần dần nhìn rõ, một khuôn mặt khôi ngô, cặp lông mày rậm, đôi mắt to sắc sảo, có điều dưới nó là một quầng mắt khá lớn - chính là anh sinh viên có vẻ mặt lạnh lùng.
    Chẳng lẽ trong trái tim mình cũng có anh ta?
    Bà San bỗng “ôi” một tiếng, bức vẽ và bút chì rơi ngay xuống đất. Toàn thân bà bất động trên chiếc ghế mây, đôi tay bất lực buông thõng, mái tóc hoa râm tơi tả, đầu ngửa ra phía sau, sùi bọt mép.
    Trở về buồng bệnh nhân, Hinh vẫn chưa hoàn hồn sau biến cố vừa xảy ra đối với bà San. Bà ta làm sao vậy? Sau khi mình kêu cứu, các bác sĩ y tá đã chạy đến, đều nói đó là đột ngột trúng phong, hiện tượng không hiến gặp ở người cao tuổi như bà San. Nhưng dù đúng là trúng phong, thì vẫn là xảy ra vào lúc rất đáng ngờ.
    Bà San đã chứng minh sự tồn tại của “Tạ Tốn” trong Hinh, nhưng dáng vẻ “anh ta” lại khác hẳn Tạ Tốn trong thực tế. Mình và bà San đều nhìn thấy “anh ta” - kể cả anh chàng lạnh lùng kia nữa - thì chứng tỏ rằng cái gọi là “ảo giác” thực chất không tồn tại. Có lẽ chỉ những “bệnh nhân” như mình và bà San thì mới nhìn thấy.
    Giải thích kiểu này cho dù có ly kỳ đến mấy thì cũng đã thể hiện rằng đầu óc mình rất tỉnh táo, điều cần thiết bây giờ là phải có người tin mình.
    Nếu ngay Sảnh cũng không tin mình thì e trên đời này không còn ai có thể tin mình được nữa.

    9h ngày 8 tháng 6

    “Sảnh ạ, tớ đã nghĩ rất kỹ rồi, cậu nói không sai tý nào”.
    Hinh bình tĩnh nói với Sảnh khi Sảnh vào thăm cô.
    “Cậu nghĩ thế thật à? Tớ vẫn chưa hoàn toàn công nhận thế đâu”
    Hinh khẽ thở dài, biết rằng Sảnh đã nhiều lần suy nghĩ từ góc độ của mình nên cho đến giờ vẫn chưa thể hoàn toàn công nhận. Hinh dịu dàng nói: “Sảnh ạ, cậu đừng buồn thay cho tớ nữa, mà cậu có thể làm giúp tớ vài việc để chứng minh cho quan điểm của tớ”.
    Sảnh rất lo Hinh vẫn tiếp tục sa lầy trong đó, vội hỏi ngay “Cậu có quan điểm gì?”
    “Tớ thấy mọi người đều không sai, cậu nói với tớ câu nào cũng đúng. Và những chuyện tớ đã tiếp xúc - dù kỳ dị đến mấy - cũng không hoàn toàn là ảo giác”.
    “Tớ nghe không hiểu mấy”.
    “Cũng tức là, những thứ mà tớ đã nhìn thấy nghe thấy cảm nhận được, thì những người khác đều không nghe thấy không nhìn thấy và không cảm nhận được”.
    “Như thế chẳng phải ảo giác là gì?”
    “Cậu còn nhớ cái lần tớ nhìn thấy tiêu bản cơ thể đỉnh cao tuyệt vời không? Đó không hẳn là ảo giác. Về sau, ở cuốn nhật ký trong “Hồ sơ Nguyệt Quang xã” tớ đã đọc thấy ghi chép về sự tồn tại của nó. Nếu cậu có thể tìm cách mà đọc được cuốn nhật ký ấy, sẽ biết rằng tớ không nói vu vơ. Cậu lại nhìn cái này nữa”. Hinh đưa ra một bức vẽ ký họa. “Hãy nhìn anh sinh viên này, anh ta chính là “Tạ Tốn” trong “ảo giác” của tớ - do bà San vẽ. Bà Uông Lan San là người mà tớ từng kể với cậu, bà ấy có thể nhìn thấy “anh ta” thậm chí cả anh bạn lạnh lùng kia nữa. Cậu nói xem, đây là ngẫu nhiên hay sao?”
    “Thực thất bà Uông Lan San này là người như thế nào?”
    “Cho đến nay tớ vẫn không hiểu rõ lắm, nhưng có cảm nhận rằng bà ấy biết rất nhiều chuyện, có lẽ bà ấy có liên quan trực tiếp đến “vụ mưu sát 405”.”
    “Vậy thì, cậu cũng như bà ta, đều có thể “gặp ma” à?”
    Sảnh thoáng cảm nhận rằng mọi điều Hinh nói không phải là không có lý.
    “Chưa đến nỗi là “gặp ma”, nhưng có lẽ đều là quá nhạy cảm chăng? Này, cậu có thể đến trạm phát thanh lấy hộ tớ cuốn băng ghi âm không? Tớ đã ghi sau trận kinh hãi trong trạm phát thanh tối hôm đó, cậu nghe xem có thấy những âm thanh quái dị như bắt hồn đòi mạng người ta không?”
    “Diệp Hinh phải nằm viện, thế là mình tạm thời không sao chọn nổi ai sẽ là người kế tục mình khó có thể yên tâm mà tốt nghiệp được!” Chị trưởng trạm phát thanh đưa cho Sảnh cuốn băng cát-sét có giọng Diệp Hinh. Chị có vẻ lo lâu. “Mình đã nghe rồi, chỉ có mình Hinh độc thoại, nhưng không hề có âm thanh quái dị nào như cô ấy bảo. Đủ thấy lúc đó Hinh rất cần được giúp đỡ. Mình rất áy náy, vì mọi ngày thường rất vui vẻ với nhau trong căn phòng, ấy thế mà mình chẳng quan tâm gì đén sức khoẻ của Hinh...”
    Sảnh cám ơn chị trưởng trạm phát thanh, rồi vội đặt ngay cuộn băng vào chiếc máy mini mang theo, tai nghe truyền rõ giọng nói nhỏ nhẹ của Hinh: “Có một nữ sinh tên là Diệp Hinh đã mất tích...” sau đó là tiếng băng trắng chạy trơn, không nghe thấy gì khác. Chừng một phút sau, thấp thoáng nghe thấy tiếng đóng cửa và tiếng bước chân. Gần như hầu hết chỉ là im lặng. Về sau thấy ghi tiếng hít thở nặng nề, rõ ràng là Hinh đã sợ hãi đến cùng cực.
    Một tiếng “uỳnh” vang lên, hình như có vật gì rơi xuống sàn nhà, liệu có phải là Hinh Không? Hinh đã kể là Hinh có bị choáng một lát.
    Sau đó lại thấy tiếng Hinh run run: “Tôi là Diệp Hinh, lúc này khoảng 22 giờ ngày 11 tháng 5. Cách đây ít phút, có những sóng điện kỳ lạ hiện trên màn hình máy ê-qua-li-dơ, và các âm thanh phát ra loa, thoạt đầu có quy luật và mỗi lúc một vang hơn. Sau đó đèn ở trạm phát thanh bị tắt thì sóng điện trở nên không có quy luật gì nữa và rất chói tai. Tôi rất nhức óc, rồi mê man khoảng vài giây. Bây giờ đã rất yên tĩnh nhưng tôi... tôi rất sợ, thật sự rất sợ hãi”.
    Nghĩ đến cảnh một mình Hinh phải khiếp hãi như thế, Sảnh lại rất buồn.
    Tiếp đó là Hinh gọi điện cho Vân Côn, rồi Vân Côn đến.
    Hinh ghi lại đoạn lời nói, nhằm để lại một thông báo, nói lên rằng đêm đó cô đã phải vật vã ra sao, có căn cứ để điều tra. Đó là sự nguy hiểm thật sự chứ không phải là ảo giác.
    Rõ ràng là Hinh tuy bị hành hạ dữ dội nhưng vẫn biết giải quyết mọi việc một cách bình tĩnh.
    Nhưng trong này hoàn toàn không có những âm thanh quái dị kia, thì càng chứng tỏ đầu óc Hinh đã có ảo giác.
    Hinh thật là đáng thương.
    Sảnh ngẫm nghĩ lại câu nói của Hinh ở trong bệnh viện. “Tớ thấy mọi người chúng ta đều không sai, có điều, những thứ mà tớ nhìn thấy nghe thấy cảm nhận được thì những người khác đều không nghe thấy nhìn thấy và không cảm nhận được”.
    Lúc nói mấy câu này, Hinh rất thật, ánh măt càng hiện rõ rằng Hinh rất tin mình.
    Vì Hinh hiểu rằng chỉ có mình mới tin ở Hinh.
    Sảnh tua cuốn băng quay lại từ đầu, nghe lại lần nữa. Nhưng càng nghe cô càn thất vọng: Hinh ơi, đừng trách mình không tin cậu, rõ ràng là mình không nghe thấy gì trong các đoạn băng im lặng này, kể cả đã vặn hết cỡ volum của máy thì mình vẫn không hề thấy thứ âm thanh quái dị như cậu kể lại.
    Đúng trong lúc Sảnh mở to hết cỡ để nghe, thì một thứ tạp âm rất yếu vọng đến tai cô.
    Nhưng rất có thể đây là tiếng chạy của máy hoặc tiếng rít của chính băng từ.
    Sảnh nhớ là Hinh đã kể rằng, âm thanh lạ lùng ấy thoạt tiên có nhịp điệu - chậm hơn nhịp tim, nhanh hơn nhịp thở, rất giống tiếng nhịp bước chân. Nhưng sau đó lại như “người say” bước đi lúc mạnh lúc nhẹ, rối loạn lung tung, đôi lúc lại như là có nhịp điệu như tiếng bước chân. Nếu những tạp âm này có những đặc điểm như Hinh đã kể, thì chứng tỏ thứ âm thanh quái dị kia là có thật hay sao?
    Lại tua về, rồi vặn hết cỡ volum, Sảnh chăm chú lắng nghe. Đúng thế: thứ tạp âm này lúc đầu nhịp nhàng, sau đó thì có phần rối loạn bất thường.
    Nhưng tạp âm này lại quá yếu, Sảnh không dám tin chắc nó là thứ âm thanh quái dị mà Hinh đã nghe thấy. Tại sao nó không mạnh chói tai như Hinh đã kể? Hay là, vì Hinh hết sức thính tai, tựa như một cái máy khuyếch đại âm thanh, những âm thanh quá yếu không ai nghe thấy, thì Hinh lại cảm thấy rất vang? Nếu thế thì hàng ngày nghe mọi người nói, Hinh sẽ điếc tai hay sao? Và nếu vẫn suy luận kiểu này thì trong cuộc thi hát hôm nọ, cũng tương tự - Hinh đã nghe thấy “Tạ Tốn” nói chuyện và hát thật hay sao?
    Sảnh lập tức mở túi lấy ra cuốn băng ghi âm cuộc thi hôm đó, lắp vào máy rồi bật nghe - Những cảnh tượng hôm đó luôn rât ồn ào, dù có lúc lắng xuống thì vẫn có người đang hát, và không hề nghe thấy có gì khác thường.
    Thầy Vân Côn thì đoán rằng các nữ sinh nhẩy lầu vì đã bị ám thị, có phải tại mình quá muốn tin vào lời của Hinh, cho nên mình mới nghe thấy những tạp âm rất yếu kia?

    12h ngày 8 tháng 6

    Chương Vân Côn nghe cuốn băng ghi âm Diệp Hinh ở trạm phát thanh đến hơn chục lần, rốt cuộc anh gỡ tai nghe xuống, xua tay nói: “Lý luận của tôi vẫn đúng, chính xác là bạn đã bị ám thị bởi niềm tin mãnh liệt của Diệp Hinh. Chứ tôi thì không nghe thấy gì hết, chứ đừng nói chi đến nhịp bước chân hoặc là sự thay đổi lúc chậm lúc nhanh!”
    Sảnh thấy thầy Côn nói thẳng băng, cô hứ một tiếng rồi ngắt lời: “Liệu có phải thầy rất cố chấp không muốn tin Hinh, và cũng bị ám thị bởi quan niệm ngoan cố của mình nên mới không nghe thấy gì khác không?”
    Vân Côn ngớ ra, anh sờ lên mái tóc đen nhánh phẳng phiu, không biết đối đáp ra sao. Nghĩ ngợi một lúc, anh gật đầu “Lời bạn nói không phải là không có lý. Thế này vậy: có hay không có âm thanh lạ, chúng ta đi nhờ chuyên gia thực thụ giám định xem sao?”
    Vân Côn dẫn Sảnh đến phòng nghiên cứu vật lý của đại hoc kỹ thuật Giang Kinh đóng gần trường y. Hồi làm nghiên cứu sinh bệnh học thần kinh, anh đã chọn học môn tâm lý học thực nghiệm, nhiều thí nghiệm của chương trình - trong đó có thí nghiệm về thính giác - đều được hoàn tất ở bên này. Trong thời kỳ học nghiên cứu sinh, Vân Côn đã thoải mái bộc lộ mọi hứng thú của anh. Anh đã từng thiết kế một đề tài ghi lại các đọan lời nói của các bệnh nhân tâm thần, hy vọng sẽ tìm ra những điểm chung về mặt ngữ âm của các nhóm bệnh nhân, cùng loại hình, tìm tòi tiềm năng của ngữ âm học để trợ giúp cho công tác chẩn đoán. Một vị nghiên cứu sinh của đại học kỹ thuật Giang Kinh tên là Nghiêm Viêm đã giúp Vân Côn tiến hành phân tích âm học, và hai người đã trở thành đôi bạn thân. Chính Nghiêm Viên đã cho Vân Côn biết thông tin về chiếc “máy bắt ma” - vốn chỉ là để đùa cho vui, nào ngờ Vân Côn lại “rất nghiêm chỉnh” bỏ món tiền lớn ra đặt mua nó về. Việc này đã khiến Nghiêm Viêm cứ cười anh mãi.
    Nghiêm Viêm mới ngoài ba mươi tuổi nhưng tóc đã lưa thưa, đang trở thành hói đầu. Ngồi trong phòng làm việc nghe hai người cứ khăng khăng mỗi người một phách, anh cười: “Thế thì, để tôi cho nghe bằng thiết bị âm học “hàng xịn” xem sao!”
    Sảnh thúc giục: “Thế thì sang luôn. Phòng thí nghiệm của thầy ở đâu ạ?”
    “Kìa, tôi nói rồi mà: ta nghe bằng thiết bị âm học loại xịn, chưa vội sang phòng thí nghiệm làm gì”. Thấy Sảnh vẫn cứ ngớ ra, Nghiêm Viêm cười và chỉ tay vào tai mình.
    Vân Côn và Sảnh cùng bật cười. Nghiêm Viêm bật máy ghi âm mini mà Sảnh mang theo, nghe kỹ vài lần, cuối cùng lắc đầu nói: “Cái máy xịn này của tôi hơi khó vận hành, hình như có nghe thấy văng vẳng tiếng lẹt xẹt gì đó nhưng hoàn toàn không có quy luật, cũng không rõ có phải là tiếng cơ của máy mini này không. Nghe lại thì không thấy gì nữa. Càng nghe lại càng mơ hồ”.
    “Vậy có phải là chứng tỏ rằng dù có âm thanh, thì cũng ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người?” Vân Côn hỏi.
    “Vẫn nên để cho máy móc phát biểu ý kiến vậy” Nghiêm Viêm đứng dậy mời hai vị khách sang phòng thí nghiệm. “Đây cũng là dịp để tôi được khoe với các vị một thiết bị đáng để mơ ước. Nó là một máy thuộc loại đẳng cấp cao để đo âm thanh, rất giàu tính năng, có thể đo được tần số, cường độ và âm phổ, khảo sát các âm siêu trầm hoặc siêu âm, có thể đo dải tần và thang cường độ rất rộng, cũng có thể tách các nguồn âm thanh riêng biệt, tất cả đều được vi tính hóa, và in ra ảnh rất nét. Nếu sự việc giống như ta nhận định - âm thanh ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người - thì dùng thiết bị này khác nào dùng dao mổ trâu để giết gà? Đối với nó chỉ là trò trẻ con thôi!”
    Tiếng của Diệp Hinh trong băng cát-set vang lên, trên màn hình của máy “giấc mơ” hiện ra sóng âm rất nét. Câu nói : “Có một nữ sinh tên là Diệp Hinh đã mất tích” vừa dứt thì trên màn hình chỉ còn dấu chữ thập định vị, chứ không có sóng âm nào khác.
    Vân Côn thở “phù” một cái, rồi ung dung nói “Thôi nào, bạn Sảnh, nếu bạn còn nhớ lời hứa của mình thì bữa cơm trưa nay tôi khỏi phải nhai băng cát-set! Tuy nhiên, là thầy giáo mà lại để cho học sinh chiêu đãi thì cũng không mấy phải đạo cho lắm!” Trước đó hai thầy trò đã “cá” điều này.
    Sảnh thì đang buồn bã, Nghiêm Viêm chỉ tay lên góc màn hình có dòng chữ tiếng Anh nhắc nhở, anh nói hạ giọng: “Chớ vội sớm kết luận, vấn đề không đơn giản thế đâu!” Nghiêm Viêm nhấn vào các lệnh tiếp theo, chuyển đổi cách hiển thị trên màn hình, và trước mắt ba người đã xuất hiện hay dấu cộng định vị, một ở trên một ở dưới, trên moãoi dấu có một đường sóng âm.
    Nghiêm Viêm nói rất tự tin: “Quả nhiênlà thế thật!”
    Sảnh vội vàng hỏi ngay: “Quả nhiên là gì ạ? Thầy hãy giải thích cho mọi người cùng nghe với”
    “Nghĩa là thế này: ở phía trên, là sóng âm thuộc âm vực siêu âm, phía dưới là sóng âm siêu trầm. Nói cách khác, đúng là trong băng này có âm thanh nhưng ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người”.
    Vân Côn kinh ngạc: “Nghĩa là thế nào? Anh nói là Diệp Hinh đã nghe thấy những âm thanh mà người bình thường không nghe thấy ư?”
    Nghiêm Viêm không trả lời, anh chỉ tay vào hai vùng dấu định vị và nói: “Anh hãy nhìn hai sóng âm này: tuy tần số chênh nhau rất lớn nhưng những thay đổi về cường độ đều có chung một quy luật như nhau, nói cách khác, hai loại âm thanh này đều có chung một quy luật như nhau, nói cách khác, hai loại âm thanh này đều có chung một nhịp điệu. Giả sử tai người nghe thấy, thì sẽ giống như nhịp tim đập hoặc giống như nhịp chân đi với tốc độ đều”.
    Sảnh kinh ngạc kêu lên: “Nó hệt như Hinh đã miêu tả”.
    Vân Côn nói: “Anh Viêm hãy nói cho rõ đã: ý anh là trong lúc im lặng ấy đúng là đã có một nhóm âm trầm và một nhóm âm cao cùng xuất hiện? Chúng có cùng nhịp điệu đúng như Diệp Hinh đã miêu tả - giống như tiếng bước chân à?”
    “Đúng thế! Có nhịp, và dường như mỗi lúc một mạnh hơm.. chậm dần, chậm dần rồi lại biến đổi nên không có quy luật nữa. Nhưng cường độ thì lại mạnh lên..”
    “Ôi, giống hệt như Hinh đã miêu tả! Thế là đã giải mã được vấn đề” Sảnh phấn chấn kêu lên.
    Nhưng không ngờ Nghiêm Viêm lại dùng chuột khoanh vào một đoạn sóng âm, phóng to lên, rồi bình thản nói: “Cô cũng đừng đắc chí quá sớm. Tôi còn có hai điểm nghi vấn rất lớn: một là, xét dạng thức của hình sin, thì hai sóng âm này không hoàn toàn là được truyền qua không khí, theo kinh nghiệm đọc âm phổ của tôi, thì hình như chúng đi qua một môi trường chất dẻo hoặc môi trường chất rắn mật độ cao, rất khó phán đoán. Mà hai vị thì nói rằng lúc đó chỉ có mình Diệp Hinh trong trạm phát thanh, thì tai sẽ nhận tín hiệu âm thanh truyền qua không khí, dù nguồn âm thanh phát ra từ ngoài cửa thì cũng chỉ là cách một tầng cửa - nó sẽ không có dạng hình sin lạ lùng kiểu này”.
    “Anh nói là nguồn âm thanh ấy rất kỳ quái à?”
    “Đúng thế, và còn điều lại lùng thứ hai nữa. Tôi tuy không chuyên nhưng cũng biết nguyên lý của việc ghi âm trên băng từ, là thông qua dòng điện âm tần để biến đổi từ trường trên đầu từ của máy ghi âm, sau đó tác động vào các từ tính riêng biệt và sự phân bố của các phân tử bột từ bám trên băng, để ghi lại âm thanh. Cách ghi âm này rất thô, ngay các âm thanh bình thường còn có thể bị mất tín hiệu, thì ghi sao nổi các âm siêu cao và siêu trầm? Có lẽ tôi cũng chưa được hiểu biết nhiều, nhưng tôi đã có lần được nghe nói như thế”.
    “Nhưng có điều gần như có thể khẳng định: đúng là Diệp Hinh đã nghe thấy những âm thanh mà những người phàm tục như chúng ta không nghe thấy, phải không ạ?”
    Nghiêm Viêm chỉ tay vào Vân Côn “Điều này cô hãy nói với anh Côn! Tôi có “cá” bữa cơm trưa nay với cô đâu”.
    Vân Côn lắc lắc đầu: “Thật không thể tưởng tượng, không thể tưởng tượng nổi”.
    Sảnh nói: “Có gì mà không thể tưởng tượng nổi? Em thấy thầy quá máy móc bảo thủ thì có! Cần phải làm gì nữa thì thầy mới chịu tin hẳn?” Sảnh chợt nảy ra một ý, cô lấy ra cuốn băng ghi âm cuộc thi hát đưa cho Nghiêm Viêm: “Phiền thầy phân tích cuốn băng này nữa vậy, nhất là hai bài hát của Chu Hoa Kiên”.
    Khi mở đến đoạn Băng Quân hát hai bài hát karaoke của Chu Hoa Kiện, vì dưới sân khấu khá im ắng, nên màn hình vi tính rất ít hiện ra tạp âm, chỉ nổi lên rõ nhât là sóng âm của tiếng hát Băng Quân. Bỗng Nghiêm Viêm kêu lên: “Đúng là có chuyện đó!” Anh nhấp chuột ngắt ra một đoạn sóng âm rồi phóng to ra, thấy rằng ngoài tiếng nhạc đệm và tiếng hát “Không muốn cô đơn” ra, thì lại xuất hiện một sóng âm khác - cũng lên xuống rõ ràng. Nghiêm Viêm lại dùng máy “giấc mơ” này khảo sát đoạn song âm này bằng âm phổ, anh chăm chú nhìn bản in vừa được in ra, không ngớt trầm trồ: “Thật là thú vị, quan sát bước đầu của tôi là âm phổ này thể hiện mọi đặc trưng trầm bổng ngừng ngắt của âm phát ra, có thể cơ bản coi là giọng hát nhưng hầu như lại không có cường độ. Nói cách khác, băng cát-set này đồng thời ghi hai bài hát, một giọng là giọng Chu Hoa Kiện, ai cũng nghe thấy còn một bài nữa thì không rõ tên là bài gì, không ai có thể nghe thấy”.
    “Ngoài Diệp Hinh! Hinh nghe thấy nó!” Sảnh hào hứng kêu lên.
    Hai bài hát “nhại Chu Hoa Kiện” đã hát xong. Nghiêm Viêm nói: “Có hai bài không thể nghe thấy. Có cảm giác là “gặp ma” thật rồi!”
    Sảnh thấy trong lòng lâng lâng, đầu cô thoáng hiện vô số ý nghĩ: xem chừng Diệp Hinh không nhầm, Hinh có thể cảm nhận được những sự vật mà người káhc không thể cảm nhận, thì ra, điều gọi là “ảo giác” lại chínhlà cảm giác thật sự. Không có lý gì để Hinh cần phải “điều trị”, Hinh lại có thể trở về sống giữa mọi người.
    Nhưng Sảnh vẫn không quên một việc quan trọng, cô cười nhìn Vân Côn đang ngồi ngây ra: “Thầy Côn ạ, đã đến trưa rồi, thầy Viêm và em đều đã đói rồi, sao thầy còn đứng mãi đây làm gì?”
    “Anh lại cho em mượn chiếc chìa khóa ấy được không?”
    “Chìa khóa nào?” Thấy Sảnh bất chợt đến, Du Thư Lượng biết ngay là có việc lên quan đến Hinh.
    “Còn chìa khóa nào nữa? Đương nhiên là chìa khóa phòng hồ sơ. Hồi nọ Hinh đã mượn anh mà!”
    “Cái đầu em nghĩ những gì gì thế? Phòng bảo vệ đã khám túi Hinh và lấy mất cái thứ đồ cổ ấy, nó bị coi là công cụ để gây án, đời nào họ lại trả lại tôi! May mà Hinh rât có nghĩa, đã không cung khai tôi ra, mà chỉ nói là tìm thấy nó ở hội sinh viên. Cho nên chỗ tôi không thể có nó được nữa!”
    “Tất nhiên là em biết rồi, em chỉ hỏi gọi là cầu may vậy thôi”. Sảnh tinh quái nhìn Lượng.
    “Em định làm gì nói xem nào?”
    Sảnh bỗng xị mặt: “Anh cứ như là thẩm vấn em! Em đang muốn thẩm vấn anh thì có! Tại sao mấy hôm nay anh toàn đến phòng bảo vệ? Đến đó để nói xấu Diệp Hinh à? Có phải lần trước anh đã tố nó ra không đấy?”
    “Gì thế? Em theo dõi anh à?” Lượng đứng bật dậy khỏi ghế, suýt nữa thì rơi cả cặp kính.
    “Ai hơi đâu mà theo dõi anh!” Sảnh lại nói với giọng ma mãnh. “Thôi nào, anh đừng ngại! Chuyện là thế này: mấy hôm nay em hay đi loanh quanh gần phòng bảo vệ, nghĩ cách lẻn vào trong đó nhìn xem có hồ sơ “Nguyệt Quang xã” hay không. Nhưng ở đó hoặc là luôn có người hoặc là khóa cửa, nên em hết cách! Nhưng em lại thấy anh ra vào đó mấy lần, có phải anh đã mắc sai phạm gì không? Đánh mạt chược ăn tiền, hoặc là trêu ghẹo nữ sinh gì gì đó...”
    “Hồ sơ Nguyệt Quang xã là cái gì?”
    “Tức là tập hồ sơ mà cái đêm hôm nọ Diệp Hinh đã đọc trong phòng hồ sơ. Tiếc rằng Hinh vẫn chưa đọc xong. Kìa, sao anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của em?”
    Lượng gật gù: “Thì ra là thế. Tôi xin nói, tôi đến phòng bảo vệ, đúng là có việc liên quan đến Diệp Hinh. Hôm đó Hinh bị tóm cổ ở phòng hồ sơ, bị phòng bảo vệ tịch thu chìa khóa cửa và cuộn phim. Họ biết Hinh đã vào đó, thì cũng chỉ là chụp các nội dung của hồ sơ mà thôi, nhưng muốn chứng minh thì phải rửa phim in ảnh xem rõ là chụp cái gì. Thầy giáo Kim phụ trách công tác học tập cũng thm gia với phòng bảo vệ, thầy Kim nói “Đưa ra hiệu ảnh thì tốn thì giờ, tốn tiền, chi bằng hãy để cho hội nhiếp ảnh giải quyết. Nhà trường vẫn tài trợ một phần kinh phí cho họ kia mà”. Thế là việc đó rơi vào tay tôi”.
    Sảnh thích quá nhẩy cẫng lên: “Thì ra là anh đã nhìn thấy ảnh rồi! Sao anh không nói ra cho sớm? Chắc anh đã giữ lại một tập, đúng không?”
    Lượng bình thản nói: “Coi như em đã đóan đúng. Tôi có giữ lại một tập”. Lượng lại lặng lẽ mở ngăn kéo tủ bàn làm việc lấy ra một xấp ảnh đưa cho Sảnh.
    Sảnh không nén nổi hào hứng, cúi đầu xem, nhưng cô chợt biến sắc: “Cái gì thế này? Toàn là mờ ảo cả lũ”.
    “Trước khi in tráng mấy tấm ảnh này, tôi đã đoán được kết quả này rồi. Nguyên nhân rất đơn giản, máy ảnh của Hinh chưa phải là cấp độ tinh xảo, khả năng bắt ánh sáng cũng chỉ có hạn, kỹ thuật chụp thì chưa cao, muốn chụp ảnh đẹp trong bóng tối thì đâu có dễ”.
    “Thế thì phải làm sao đây? Đúng là của trời cho mà vẫn không ăn đựơc!” Sảnh ngán ngẩm thở dài, chiếm ngay cái ghế của Lượng ngồi luôn.
    “Nhưng vẫn còn chuyện đáng ngán hơn thế nữa kia. Khi tôi bàn giao kết quả cho phòng bảo vệ thì họ chẳng mấy bận tâm, mà họ còn bám riết tôi, bảo tôi phải rửa ảnh cho họ mấy lần, thế là tôi biến thành đầy tớ của họ. Sảnh nhìn thấy tôi đến, là vì tôi phải giao ảnh cho họ”.
    Sảnh nghe Lượng nói thế, cô lập tức nảy ra một ý tưởng: “Em có một cách này: lần sau còn đến giao ảnh cho họ, anh cố ngồi nán lại một lúc, nhìn xem có thấy “Hồ sơ Nguyệng Quang xã” cất ở phòng bảo vệ không. Tuy vụ việc Diệp Hinh “bị bắt” đã trôi qua một quãng thời gian thật, nhưng nếu họ sơ suất, thì rât có thể vẫn chưa chuyển tập hồ sơ ấy trở lại phòng hồ sơ cũng nên”.
    “Nếu vẫn thấy nó ở phòng bảo vệ thì sao?”
    “Em xin trả lại anh câu nói lúc nẫy: thật không biết cái đầu anh nghĩ những gì! nếu cẫn còn, thì tất nhiên sẽ tìm cách để lấy trộm nó! Nếu không, em cần anh đến trinh sát làm gì?” Sảnh đã thấy trong lòng dễ chịu hơn.
    Lượng lắc đầu như cái máy rung trong phòng thí nghiệm vật lý: “Lấy trộm? Làm thế sao được? Tôi là một thanh nên biết tôn trọng luật pháp”.
    “Thế thì không gọi là “trộm” nữa. Đổi cách nói khác. Khổng Ất Kỷ đã nói: “thó sách không bị coi là trộm cắp”.”
    “Cô em này thật to gan! Diệp Hinh đã lây thói xấu của em rồi”
    Sảnh lại thở dài, hơi ngẩn người: “Đúng thế còn gì! Hình như mọi người cũng đều nói thế. Thôi vậy, xem ra, anh Lượng cứ như là A Đẩu, khó mà vực lên được, em cũng không muốn phí sức nữa. Em để lại số máy nhắn tin, nếu nhìn thấy tập hồ sơ ấy thì anh báo ngay cho em, được không ạ?”
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  5. #25
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 23 Sự phản bội dịu dàng


    Ngày 9 tháng 6

    Hôm sau Lượng đến phòng bảo vệ giao cho phó phòng Vu Tự Dũng bức ảnh “Hiên ngang trong đêm tuần tra” đã in xong. Vừa bước vào gian chính của phòng bảo vệ, Lượng đã đảo mắt tìm khắp một lượt. Nhưng ở đây sổ sách bề bộn, anh không sao nhận ra đâu là “hồ sơ Nguyệt Quang xã”.
    “Chú Dũng ạ, các bức ảnh chụp hồ sơ lần trước đã in, không nhìn thấy gì hết, vậy các chú đã xử lý ra sao?” Vì đã thân quen nên Lượng bắt chuyện với ông Dũng rất tự nhiên.
    “Còn biết làm gì nữa? Kẹp vào hồ sơ, chờ 10 năm sau rồi hủy”. Ông Dũng vừa ngắm ảnh “Hiên ngang trong đêm tuần tra” vừa trả lời không mấy bận tâm.
    “Thế thì chịu Diệp Hinh rồi! Kiến thức nhiếp ảnh phổ thông cũng không nắm được!”
    Vừa nghe nhắc đến “Diệp Hinh”, ông Dũng ngẩng đầu: “Cậu không nhắc đến thì tôi không thể nhớ ra. Diệp Hinh thế nào rồi? Vẫn nằm viện tâm thần à? Sinh viên các cậu có biết tin tức gì không?”
    Lượng thở dài: “Hinh là đồng hương của cháu, cô ấy rất giỏi giang, chẳng biết đã bị trúng tà gì. Gần đây bọn cháu đi kiến tập ở viện tâm thần, mấy hôm trước có gặp Hinh, cô ấy thực đáng thương. Người vốn đã mảnh khảnh, nay còn gầy thêm. Nghe nói ông bác sĩ rất có uy tín chuyên môn phụ trách điều trị cho Hinh bỗng dưng tự sát, thật quá lạ lùng!”
    Ông Dũng ngạc nhiên: “Tôi nghe nói vị bác sĩ ấy tự sát cũng lại là nhảy lầu? Mà ông ta lại đang điều trị cho cô Hinh. Thật là kỳ dị!”
    “Cháu không rõ chuyện về Diệp Hinh là thế nào, tập hồ sơ hôm đó có ý nghĩa gì? Có tác dụng hỗ trợ điều trị cho Hinh hay không?”
    Ông Dũng lắc đầu: “Toàn là những thứ cũ rích mốc meo, sao lại có tác dụng hỗ trợ điều trị gì được? Cách đây ít hôm chúng tôi đã đem trả cho phòng hồ sơ rồi”.
    Nghe nói thế Lượng cảm thấy vừa thất vọng lại vừa nhẹ nhõm, vì sẽ không phải có một động cơ “gây án” gì nữa. Anh chào rồi ra về, định tìm đến trạm điện thoại công cộng để nhắn tin cho Sảnh, bảo cô ta đừng nghĩ đến hồ sơ gì gì nữa. Khi đến chỗ ngoặt cầu thang, bỗng nghe có người gọi phía sau: “Anh khoan hãy đi, tôi muốn biết một số tình hình về Diệp Hinh”.
    Lượng quay lại, thấy một thanh niên đứng đó. Anh ta nhìn quanh bốn phía như muốn xác định rằng không có ai ở xung quanh, rồi nói: “Tôi quen Diệp Hinh, tôi có một việc quan trọng muốn hỏi anh”.
    Lượng nửa tin nửa ngờ, hỏi lại: “Anh là...”
    “Tôi họ Bành, là một lái xe của trường ta, mời anh vào phòng làm việc của tôi, tôi muốn tìm hiểu vài điều về cô Hinh”.
    Lượng hơi do dự, rồi gật đầu đi theo anh Bành vào phòng trực ban của lái xe.
    “Vì ở gần kề phòng bảo vệ nên tôi khá quen họ, vừa nãy tôi nghe thấy anh nói chuyện với họ trong đó, anh và phó phòng Vu Tự Dũng có nhắc đến Diệp Hinh, nên tôi rất muốn hỏi anh, Diệp Hinh hiện nay thế nào rồi? Vẫn nằm viện tâm thần phải không? Cô ấy đã bình phục chưa, hoặc nói là, cô ấy có vấn đề thật hay không?”
    Lượng nghĩ bụng: Anh là ai mà tôi phải cho anh biết tình hình cụ thể nhi? Nhưng thấy vẻ mặt anh Bành bộc lộ sự quan tâm trân thành, và có lẽ anh ta quen Hinh thật cũng nên.
    “Hiện giờ Hinh vẫn đang nằm viện, tôi là đồng hương của cô ấy và cũng là bạn thân. Tôi cho rằng có lẽ cô ấy hơi có phần không bình thường, tôi vẫn đang muốn tìm hiểu thêm xem đã xảy ra chuyện gì. Tôi rất muốn giúp đỡ Hinh”. Lượng tặc lưỡi nói thật luôn.
    “Quê anh ở vùng Giang Triết thì phải?”
    “Vâng”.
    “Nghe giọng nói, nên tôi đoán là thế. Hồi nọ Hinh và tôi nói chuyện, cô ấy nói tiếng phổ thông rất chuẩn nên tôi không đoán ra cô ấy quê ở Giang Nam. Hiện giờ thì gay rồi: nằm viện tâm thần thì đúng là bi kịch lại tái diễn”. Anh Bành băn khoăn đi đi lại lại.
    “Anh nói gì? Sao lại nói là bi kịch? Đừng nên nói thế nghe sợ chết khiếp! Anh là ai mà lại...?”
    “Tôi vừa nói rồi mà: tôi là lái xe, nhưng tôi rất quan tâm đến “vụ án mưu sát 405”. Hồi nọ Hinh đến phỏng vấn phó phòng Vu Tự Dũng, muốn tìm hiểu thêm về vụ kỳ án này, tôi đã kín đáo nói chuyện riêng với Hinh. Chính vì nghe thông tin của tôi, nên Hinh mới đi Nghi Hưng. Và ngay trong chuyến đi ấy, nhân vật duy nhất may mắn sống sót trong “vụ án mưu sát 405” là Thẩm Vệ Thanh đã nhảy lầu một cách bí hiểm. Sau khi Hinh trở về chẳng được mấy hôm đã bị đưa đi viện tâm thần. Sự việc ấy khiến tôi rất bức bối, cảm thấy mình đã có một quyết định sai lầm, khiến Vệ Thanh phải chết, đồng thời tôi phải chứng kiến Hinh đi vào ngõ cụt”. Anh Bành lại nói một lượt về nguyên nhân khiến anh quan tâm đến “vụ án mưu sát 405” như vậy.
    Nghe mãi nghe mãi, đôi mắt Lượng mỗi lúc một tròn xoe. Lượng bắt đầu hiểu ra tại sao Hinh cứ mải mê đi điều tra tìm hiểu về “vụ 405”, rõ ràng không phải chỉ vì những thứ “ảo giác” kia. Thấy anh Bành đầy vẻ rầu rĩ, Lượng vội nói: “Anh đừng nên nghĩ ngợi quá xa như vậy, Hinh chưa chắc đã đi vào ngõ vụt gì đâu, nghe có vẻ quá thiên về thuyết định mệnh”.
    “Chẳng phải tôi định đề cao thuyết định mệnh gì cả, nhưng thật là không may, nó lại trở thành một quy luật: 405 - các cô gái từ miền Giang Nam - bệnh viện tâm thần - nhảy lầu...”
    Mỗi từ mà anh Bành nói đến đều khiến Lượng thót tim. Lượng trầm ngâm: “Tôi tuy chưa hoàn toàn tán thành cách quy nạp của anh, nhưng nhìn vào tình hình của Hinh hiện giờ thì đúng là chúng ta rất nên giúp đỡ cô ấy!”
    “Đúng thế! Lúc nãy thấy anh nhắc tới “hồ sơ”, tôi nghĩ ngay là anh đang muốn điều tra một cái gì đó. Có phải tôi đã có phần lan man sa đà quá không?”
    Lượng vội nói: “Đâu phải thế! Đúng là tôi đang điều tra nghĩ cách giúp đỡ Hinh, nhưng chẳng biết nên bắt đầu từ đâu. Tập hồ sơ ấy là một đầu mối gợi mở, Hinh đã đọc được một phần trong đó. Cho nên tôi muốn tìm đọc xem nó có liên quan gì đến “vụ án mưu sát 405” hay không?”
    Anh Bành dừng bước, trầm ngâm trong giây lát, rồi dường như phải hạ quyết tâm, cuối cùng anh nói: “Tôi đã xem qua rồi, có vẻ như chẳng liên quan gì cả”.

    Trong căn nhà lợp tôn - nơi hội nhiếp ảnh hoạt động, Lượng và Sảnh đang sốt ruột đợi anh Bành đến. Sự việc khá là vòng vo. Anh Bành nói với Lượng là sau khi Diệp Hinh bị phòng bảo vệ “tóm được”, anh nghe nói cô gái Diệp Hinh - từng nói chuyện với anh - đã đột nhập vào phòng hồ sơ của trường để đọc rất lâu một tập hồ sơ cũ kỹ. Anh Bành có thế ra vào phòng bảo vệ rất tự nhiên như vào phòng làm việc của mình, phần lớn anh em bảo vệ lại không phải là công an đã được huấn luyện có bài bản, ý thức cảnh giác chưa cao, nên anh Bành đã có thời cơ để “ẵm” tập “hồ sơ Nguyệt Quang xã” ra ngoài. Thấy nó quá dày, anh biết khó mà đọc hết trong một lúc, bèn tặc lưỡi bỏ tiền ra hiệu phô-tô tất cả, rồi nhanh chóng đem trả về chỗ cũ. Anh bưng chúng về nhà để đọc.
    Hoàng hôn đang buông xuống, anh Bành cắp một bọc giấy tờ xuất hiện ở cửa.
    Ba người không nói gì nhiều, vội giở ra luôn. Vì đã đọc hết từ lâu, nên anh Bành chỉ dặn dò vài câu, rồi bước ra ngoài hút thuốc.
    Vì Hinh đã nhiều lần kể về cuốn nhật ký, nên trước tiên Sảnh và Lượng tìm bản phô-tô cuốn nhật ký, giở đọc từ đầu.
    Khi Sảnh đọc đến đoạn miêu tả lễ cưới của Lăng Hoành Tố và Lạc Vĩnh Phong, có nhắc đến cái tiêu bản cơ thể thần kỳ sắp hoàn thiện, cô kêu lên: “Điều này lại chứng minh rằng đúng là Hinh đã nhìn thấy những thứ mà người thường không nhìn thấy, Hinh không thể bị nằm viện tâm thần gì hết mới đúng. Chúng ta phải mau tìm cách đưa Hinh ra viện”.
    Lượng nói: “Nếu Hinh ra viện, rồi vẫn không tránh thoát cái ngày 16 tháng 6 thì sao?”
    “Anh khỏi phải lo. Sẽ có cách thôi. Đêm hôm trước Hinh phải về ở nhà em, mẹ em đã nói rồi: hôm đó sẽ lấy xích xích chặt Hinh lại, đã đủ an toàn chưa nào?”
    Lượng nhíu mày: “Nghe sao mà đáng sợ! Chẳng kém nằm bệnh viện tâm thần là mấy!”
    Sảnh lầu bầu: “Nhà anh là viện tâm thần thì có!” Rồi lại tiếp tục đọc. Sảnh đã nghe Hinh ở trong bệnh viện tâm thần kể về phần đầu của cuốn nhật ký, tuy nửa tin nửa ngờ nhưng Sảnh vẫn còn nhớ được. Khi nhìn thấy phần nhật ký viết từ ngày 23 tháng 5 năm 1967 trở đi, Sảnh hiểu rằng phần này Hinh chưa kịp đọc đến. Sảnh chăm chú đọc.

    23/5/1967

    Hôm nay tôi bị đưa ra Khu xét xử công khai, ở trường này, có tôi và hai sinh viên cùng trường đều có vấn đề “xuất thân” nghiêm trọng, bị đưa ra “phê đấu”; ngoài ra còn có một số sinh viên của các trường khác cũng na ná như vậy, cả thảy là 18 người. Chúng tôi bị quần chúng phê đấu gọi đùa là Thập bát La Hán. Giữa chừng cuộc xét xử, một sinh viên trong số này nhảy xuống dưới sàn, tuy không chết nhưng vỡ đầu chảy máu, và gãy chân.
    Khi trở về, cặp kính của tôi bị vỡ, khắp người là nước bọt, đầu gối sưng vù vì bị quỳ quá lâu.
    Có lẽ đời người ta bị làm nhục đến thế này là cùng cực chăng?
    Lúc này tôi bỗng hiểu ra, tại sao lại có nhiều hội viên “Nguyệt Quang xã” đã không hẹn mà cùng quyết làm “ngọc nát”. Trước hết là vì họ đều quá duy mỹ, có phải đây là căn bệnh chung của những người đam mê âm nhạc cổ điển hay không? Có phải những người theo đuổi cái đẹp thường có ít khả năng chịu đựng vấp váp hoặc những đối xử bất công không? Hay là họ căn bản chưa hề thử chịu đựng xem sao? Tôi liên tưởng đến một chút kiến thức tâm lý học trước kia được học, những con người ấy - hoàn toàn giống hệt nhau - cùng chọn cách tự sát là nhảy lầu, điều này có phải là sự ám thị tập thể, là sự theo đuổi một định hướng đồng nhất không?
    Tại sao lại có cái ý nghĩ này? Tôi thấy lo sơ, chẳng lẽ mình cũng nảy ra ý nghĩ giống như vậy hay sao?
    Không. Tôi vẫn còn rất nâng niu cuộc sống và yêu mến những người mến yêu tôi. Từ nhỏ tôi đã thiếu tình thương của cha mẹ, cho nên tôi rất trân trọng bất cứ ai yêu mến tôi, thậm chí có thế nói -tôi sống là vì họ.
    Nhưng những người như thế lại không nhiều, bác trai của tôi chưa rõ sống chết ra sao, bác gái thì đã qua đời, Y Y, Kình Tùng và.. có thể còn ai nữa?

    1/6/1967

    Có lẽ đây là lần viết nhật ký cuối cùng của tôi.
    Một trong những nguyên nhân khiến tôi nghĩ thế, là vì kể từ ngày mai tôi bị cách ly để thẩm tra. Thực ra gần đây tôi đã bị theo dõi rất chặt cho nên lần này tôi phải ngồi trong nhà vệ sinh để viết. Tôi thường cất cuốn nhật ký này trong một gian nhỏ thường dùng để chất các dụng cụ vệ sinh, mãi trên tầng 5 của ký túc xá, ở đó có vài cái tủ cũ nát chứa các thứ lặt vặt, cùng đủ thứ vớ vẩn - từ các tờ áp-phích cho đến cái ghế gấp -những thứ chẳng bao giờ có ai đụng đến chúng.
    Một nguyên nhân nữa là, tôi cảm thấy tổ điều tra đã quyết ý phải dò cho ra cái nguồn gốc của tôi và “Nguyệt Quang xã”, tôi chẳng rõ mình còn có thể chống đỡ được bao lâu nữa. Có lúc tôi nghĩ: vì sao lại thế? Vì nhà trường đã lâu không bắt được một vụ “trọng án” nào chăng? Có lẽ không phải vậy. Vì muốn tìm được một lý do để phê đấu tôi chăng? Họ không cần bất cứ lý do nào. Chỉ biết rằng tôi đã bị xét xử công khai 6 lần, phải chịu đựng vô số cú đấm đá và nước bọt.
    Cách giải thích duy nhất là, có kẻ muốn bắt tôi chính thức trở thành kẻ phạm tội, rồi bỏ tù, thậm chí đem bắn. Nếu có chứng cứ rành rành, thì tôi sẽ bị xóa tên khỏi lịch sử một cách suôn sẻ.
    Tôi nghĩ, mình là một thằng điên thì phải, đến giờ mà vẫn muốn lưu lại cuốn nhật ký này. Nếu là một người bình thường, thì ngay từ khi bắt đầu bị điều tra, nên đốt ngay cuốn nhật ký này đi mới đúng.
    Nhưng tôi biết rõ ý định của mình là muốn ghi chép lại những ngày tháng này, muốn ghi chép lại sự trong sáng và nỗi gian nan vật vã của “Nguyệt Quang xã”; biết đâu có ngày nó được đưa ra ánh sáng, nó sẽ nhắc nhở thế hệ sau chớ mắc lại sai lầm tương tự như thế nữa.
    Tôi tuy bị áp lực rất lớn, nhưng may thay vẫn có Kình Tùng thường đến thăm tôi, cùng ăn cơm với tôi ở nhà ăn, động viên tôi hãy tiếp tục gắng sức. Không thể phủ nhận rằng cho đến nay Kình Tùng vẫn là một trong những nguồn động lực mạnh mẽ đối với tôi. Tùng tốt với tôi như thế, tôi không cần phải giữ bí mật với anh về bất cứ điều gì. Và thế là tôi đã kể với Tùng về “Nguyệt Quang xã”.
    Còn một người nữa biết tôi là người duy nhất còn sót lại của “Nguyệt Quang xã”, là Y Y. Nhưng đã lâu không thấy nàng xuất hiện.
    Tôi có thể hiểu được, vì xuất thân của nàng cũng không hay mấy, lại bị Máy Kéo giám sát, bất cứ một hành động nào tiếp tục tiếp cận tôi, sẽ chẳng khác nào thiêu thân lao vào lửa. Tôi có thể cảm nhận rằng nàng vẫn đang nhớ đến tôi, đang đợi chờ ngày tái ngộ. Vì chờ đợi cái ngày ấy, tôi sẽ âm thầm chịu đựng, dù phải xa cách bao lâu, thậm chí dù bị đi tù, tôi vẫn sẽ kiên trì bám trụ như các liệt sĩ cách mạng trước kia.
    Hôm nay là ngày Quốc tế thiếu nhi, khi rời chỗ tổ điều tra trở về tôi nhìn thấy các cháu ở nhà trẻ của trường đang vui chơi ca hát trên bãi cỏ xanh trước toà nhà hành chính. Chúng đều hồn nhiên vô tư lự, lòng tôi bỗng thấy xót xa. Bọn trẻ ngây thơ kia đâu phải nghĩ ngợi đến những biến đổi ghê gớm đang xảy ra với mình. Tôi cũng nhớ về những năm tháng tôi và Kình Tùng cũng vui đùa hồn nhiên vô tư như thế này.

    15/6/1967

    Tôi đã nuốt lời hứa với mình, tôi lại lấy cuốn nhật ký này ra. Nó vẫn được cất ở chỗ cũ, rõ ràng là không bị ai đụng đến.
    Nuốt lời, không phải là có tội. Nhưng phản bội thì sao?
    Hôm qua tổ điều tra bỗng nói với tôi rằng đã kết thúc điều tra, tôi có thể ra về.
    Gần nửa tháng trời bị cách ly thẩm tra, hàng ngày tôi phải đối mặt với các điều tra viên, ngoài ra thì chỉ còn có những bức tường. Nếu tôi nói, đến lúc này tinh thần tôi vẫn còn lành lặn thì chắc chắn đó chỉ là tự an ủi mà thôi.
    Tôi có thể ra về nhưng không có nghĩa là đã được tự do. Người của tổ điều tra nói rằng: hãy nghiêm chỉnh ở lại ký túc xá để chờ sự sắp đặt tiếp theo. Tôi ko hiểu nổi thế nghĩa là gì, bèn gặng hỏi mãi. Họ vì ngán quá nên cuối cùng họ bảo tôi rằng: đã có người cung cấp chứng cứ, chắc chắn anh là dư đảng của “Nguyệt Quang xã”. Sẽ xử lý tôi thế nào, thì tổ điều tra không quyết định được. Kể ra thì họ vẫn còn có chút tình người, họ thả tôi về, là để tôi liệu mà thu xếp, báo tin cho người nhà, bạn hữu... để rồi lên đường “ra đi không hẹn ngày trở lại”. Cho nên, về trường không phải là được tự do, tự khắc sẽ có các đồng chí cách mạng giám sát tôi. Đồng thời, họ báo lên thành phố, chờ xem sẽ quyết định bỏ tù là còn nhẹ - có lẽ sẽ còn tồi tệ hơn.
    Tôi đờ đẫn đứng trong phòng làm việc của tổ điều tra, đầu tôi trống rỗng, không biết mình nên có tâm trạng gì đây. Đứng ngoài nhìn vào, dường như tôi còn quyến luyến không nỡ rời cái địa ngục đã thẩm tra tôi mấy tháng nay.
    Tôi đi về ký túc xá, thất thểu như người mất hồn, hầu như suốt dọc đường đã nghĩ rất nhiều nhưng đầu óc chẳng sáng ra được điều gì. Chỉ có Kinh Tùng và Y Y biết tôi từng tham gia “Nguyệt Quang xã”, nếu đúng là có người làm chứng thì chỉ có thể là một trong hai ngừơi. Tôi đã hỏi tổ điều tra “nhân chứng đó là ai” thì họ quyết không hé lộ, nói là cần phải bảo vệ các đồng chí cách mạng, nhưng lần sau phỏng vấn sẽ cho đối chất với tôi từng câu.
    Liệu có phải họ chuẩn bị để vu cáo hãm hại tôi không?
    Khi sắp ra khỏi tổ điều tra, thấy họ nói đến vài chi tiết về việc tôi tham gia “Nguyệt Quang xã”, thấy đều đúng cả.
    Vậy tức là một trong hai người Kinh Tùng - Y Y đã khai tôi ra.
    Về đến ký túc xá, Kinh Tùng biết tin vội đến ngay. Khi nhìn thấy tôi, Tùng đứng ngây người, đôi mắt Tùng đỏ hoe. Lần đầu tiên tôi trông thấy Kinh Tùng vốn cứng rắn như thép gang lại buồn như thế này. Có lẽ tại tôi nửa tháng qua chẳng buồn tắm gội, trông nhếch nhác như một kẻ lang thang. Nhưng khi Tùng bắt đầu nói thì tôi hiểu ngay tại sao Tùng lại buồn.
    Tùng đã nghe nói về việc tôi đã bị khép tội.
    “Cậu đã biết rồi, sao cậu còn đến gặp tôi nữa? Không sợ bị mang tiếng là “thông đồng với địch” ư?” Tôi rất xúc động bởi Tùng đã đến với tôi nhanh như thế này.
    “Cậu nói gì lạ thế? Tôi đã sợ cái gì bao giờ chưa?” Kinh Tùng vẫn giữ cái tác phong hùng dũng vốn có. “Cậu có biết ai đã khai ra cậu không? Tôi thấy mấy tay ở tổ điều tra nói vanh vách đâu ra đấy, nói là có chứng cứ rành rành”.
    Tôi thở dài “Chỉ có hai người biết về chuyện này”.
    Tùng kinh ngạc nhìn tôi. Anh đương nhiên biết mình là một trong hai người.
    Tùng đứng im nhìn tôi, rồi chợt nói “Tôi sẽ đến bệnh viện Tuyên truyền gọi Y Y lại đây, hỏi tại sao cô ta lại làm cái việc như vậy”. Rõ ràng là Kinh Tùng không phải là người đã tố giác tôi.
    Chẳng lẽ là Y Y thật hay sao? Người tôi căng âm ỉ, nhói đau.
    Đã rất lâu nàng không đến thăm tôi, có lẽ đã nói lên một điều gì đó.
    Nhưng tôi đang nghĩ, với tính cách nóng như lửa của Tùng, chưa biết chừng cậu ấy sẽ có hành động quá mức đối với Y Y. Y Y lại đang ở dưới tầm ngắm của Máy Kéo, nhất định hắn sẽ đùng đùng chạy đến ngay.
    Tôi nghiêm giọng can ngăn Tùng đừng đến bệnh viện tiền tuyến, và nói rằng tôi sẽ gọi điện để hỏi Y Y cho rõ. Tôi cảm ơn Tùng đã không tố giác tôi. Đến lúc này, Tùng trào nước mắt, ôm lấy vai tôi: “Người anh em ạ! Nếu tôi đã làm thế thật, thì thà tôi chết đi còn hơn!”.
    Một câu nói đầy xúc động, đời người ta có được một người bạn như thế này, đã đủ để thấy mình sống thật không uổng phí. Nhưng điều này cũng không thay thế nổi nỗi buồn trong lòng tôi.
    Kể ra thì nếu đúng là Y Y đã khai tôi ra, thì tôi cũng có thể hiểu được. Vì không đời nào tổ điều tra lại buông tha Y Y, cũng như không buông tha Kinh Tùng bấy lâu nay. Đòi hỏi một cô gái mảnh mai yếu ớt phải chịu đựng những áp lực lớn như thế, thì rất không công bằng, đúng không? Nhưng hễ nghĩ đến cái hiện thực tàn khốc này: một người con gái có chỗ đứng quan trọng nhất trong đời tôi đã giao số phận tôi vào tay tổ điều tra.
    Cái gì đang chờ đợi tôi? Nỗi nhục nhã khi bị xét xử công khai, kết án tù đày thật khó lường (kể cả khả năng bị đem ra bắn bỏ), và vĩnh viễn mất Y Y.
    Tôi bỗng thấy cuộc sống không còn lạc thú gì nữa. Tôi chợt thấy mình có thể hiểu về sự lựa chọn của các bạn hội viên “Nguyệt Quang xã”. Lựa chọn chấm dứt cuộc đời, vì không còn nhìn thấy hy vọng. Hoặc nói là, vì không còn niềm tin và sự nhẫn nại để chờ thấy được hy vọng. Đó cũng là tôi hôm nay. Tôi thậm chí đã bắt đầu tin rằng, có lẽ cái lời tiên đoán đáng sợ kia - cái lời tiên đoán đáng sợ mà tôi vẫn bĩu môi coi thường - đã bắt đầu ứng nghiệm vào ngay số phận tôi. Điều đáng sợ hơn nữa là, dường như tôi đang bước vào con đường của thuyết định mệnh.
    Liệu có phải Y Y không hề khai tôi ra, mà là do có điều oái oăm gì khác chăng? Tôi phải hỏi Y Y xem sao, dù chỉ nghe giọng nàng nói thôi, tôi cũng áng chừng có thể cảm nhận được đã xảy ra chuyện gì. Tổ điều tra sẽ không cho tôi quá nhiều thời gian “tự do”, nếu định gặp Y Y thì tôi phải nhanh lên mới được.
    Nghĩ ngợi cả đêm không sao chợp mắt được, trời vừa sáng tôi đã xuống dưới nhà, chuẩn bị đi xe buýt đến bệnh viện tiền tuyến để gặp Y Y. Nào ngờ vừa ra khỏi cổng trường thì có ngay hai người tiến lại “mời” tôi quay về. Rõ ràng là họ sợ tôi bỏ trốn. Tôi không cưỡng lại được, đành vào phòng điện thoại để gọi đến bệnh viện tiền tuyến.
    Phải vòng vo mãi, phải chuyển tiếp qua qua vài phòng ban, rồi mới nghe thấy tiếng Y Y ở đầu dây bên kia. Thoạt đầu tôi không dám tin đó là giọng của Y Y, vì đầy vẻ nơm nớp, ngập ngừng định nói rồi lại thôi, và lại như nấc lên nghẹn ngào. Trực giác mách bảo tôi, có lẽ, cái điều tôi không muốn tin, đã xảy ra thật. Nhưng khi nghe thấy giọng nói Y Y đang run run, tôi đã nén lại cái câu định hỏi, rồi tôi không biết nên nói gì nữa. Để rồi Y Y lại phải hỏi tôi rất khẽ gần như không thể nghe thấy: “Anh... có khỏe không?”
    Tôi biết, nam nhi chẳng nên khóc than thút thít trong cuộc điện thoại, bèn cố tỏ ra bình thản nói: “Anh vẫn khỏe”.
    Đầu dây bên kia lại lặng im một hồi lâu, bỗng Y Y nói: “Em sợ...”. Nàng sợ cái gì thế? Chắc chắn lúc này Y Y đang phải chịu áp lực rất lớn, chưa biết chừng “Máy Kéo” đang đứng áp bên cạnh như muốn nuốt chửng! Tôi càng hiểu nàng hơn nữa, dù nàng đã khai tôi ra thật, thì cũng không đáng trách. Con người ta ai cũng cần phải sinh tồn, được sống sót thì mới còn có hy vọng. Không kể những người như tôi - đối với tôi, sinh tồn chỉ còn là một gánh nặng.
    “Em đừng sợ. Em hãy làm chủ bản thân, anh vẫn mãi yêu em”. Tôi cảm thấy mình đã nói năng rối loạn chẳng đâu vào đâu.
    Lại im lặng một lúc rất lâu. Rồi Y Y lại nói: “Chúng ta... không thể gắn bó với nhau nữa, mong anh đừng trách em”.
    Điều này là thật ư? Tại sao thế? Tôi vẫn còn chưa nói gì kia mà.
    “Anh biết hiện nay là lúc rất khó khăn đối với em, nhưng em biết không, lúc này cũng là lúc anh đang rất khó khăn”. Tôi có thể cảm nhận được tâm trạng nặng nề của Y Y, nhưng tôi vẫn không thể tin nàng muốn bỏ tôi, sau khi đã tố giác tôi. Tôi cũng có thể thông cảm, nhưng khó mà chấp nhận.
    Tôi lại nói rất bình thản: “Y Y, em đừng buồn. Anh có thể thông cảm và cũng có thể chấp nhận. Em hãy hứa với anh một điều em phải đến đây với anh một lúc. Anh có việc rất cần nói chuyện với em, hãy coi như chúng ta gặp nhau lần cuối! Sau lần này chúng ta sẽ không còn dính dáng gì nữa, được không?”
    Đắn đo rất lâu, Y Y mới nói: “không thể ạ...”
    “Tại sao thế?”
    “Em sợ...”
    “Yêu cầu của anh không có gì gọi là quá đáng, anh chỉ muốn gặp em một lần. Em coi như vào thăm tù nhân để an ủi hoặc thậm chí là để đấu tranh - gọi là gì cũng được. Chỉ một lần này thôi. Hoặc, em bảo một đồng chí cách mạng đang đứng bên cạnh em đi kèm cũng được. Chỉ một lần này thôi”. Tôi muốn gặp, để nhìn vào mắt nàng và hỏi có phải nàng đã tố giác tôi không? Sau đó sẽ nói: bất kể là thế nào tôi vẫn yêu nàng. Mọi việc nàng đã làm, tôi tuy khó mà chấp nhận nhưng đều có thể thông cảm.
    Thực ra tôi có thể không cần phải hỏi một câu nào, bởi lẽ đã không còn mấy ý nghĩa nữa rồi. Tôi chỉ muốn gặp nàng trước khi tôi ra đi, dù sao nàng cũng là người tôi yêu nhất trong đời.
    “Hãy để em nghĩ xem đã...” Giọng chần chừ của nàng như xé nát cõi lòng tôi. Đây đâu phải là Y Y thân quen của tôi.
    Tôi nài nỉ: “Tối nay dù thế nào em cũng phải đến, anh sẽ đợi em đến tận nửa đêm”.
    Lại im lặng rất lâu. Văng vẳng thấy tiếng khóc thút thít của Y Y. Rồi bỗng nhiên dập máy. Liệu Y Y có đến không?
    Câu trả lời do dự của nàng trong điện thoại như đã đập tan hoàn toàn mảnh vỡ còn sót của giấc mộng đẹp của tôi. Trong vở ôpêra “Rigoretto” của Véc đi có bài hát “Đàn bà hay tráo trở” vốn bị coi là thành kiến đối với phái nữ, nhưng biết đâu lại hàm chứa châm ngôn trong đó?
    Tôi không tin. Tôi chỉ biết rằng, nếu Y Y có thể đến với tôi đêm nay, chứng tỏ trong trái tim nàng vẫn có tôi. Ngắm khuôn mặt sáng trong của nàng, tôi sẽ có can đảm để vững vàng tiếp tục sống. Nhưng nếu nàng không đến thì sao?
    Tôi cũng đã sắp xếp xong cả rồi.

    Đến đây, cuốn nhật ký bỗng nhiên dừng lại. Sảnh nhìn lại dòng chữ ghi mở đầu đoạn cuối cùng, chính là ngày 15 tháng 6. Sảnh lim dim mắt suy nghĩ, rồi bỗng nhảy bật dậy kêu lên: “Anh Bành, anh Lượng ơi! Hai an hãy cùng em đi tìm một người. Tối nay nhất định chúng ta sẽ tìm ra được một đáp án”.
    Sau một hồi gõ cửa gấp gáp, cánh cửa hơi hé ra. Ánh đèn ngoài sân giúp ông Phùng nhìn rõ Âu Dương Sảnh mặc bộ váy áo màu trắng đang đứng một mình ngoài cổng. Ông thầm kêu trời, rồi nói: “Lại là cô? Tối thế này lại còn đến đây, cô không nghĩ gì đến an toàn hay sao?” Ông vừa nói vừa mở cửa, lúc này ông mới nhận ra bên cạnh Sảnh còn có hai người nữa.
    Sảnh không phân bua gì nữa, lách ngay vào căn nhà nhỏ của chủ nhân, bước thẳng đến chiếc bàn nhỏ kê bên cửa sổ, chỉ vào chiếc máy quay đĩa, hỏi: “Cháu muốn phiền bác Phùng cho chúng cháu biết: chiếc máy hát này ở đâu ra?”
    Ông Phùng chợt sững người: “Cô... hỏi để làm gì?”
    Sảnh cười nhạt: “Bác kín miệng ghê thật đấy! Bác cứ muốn cháu nói thẳng ra à?”. Sảnh bỗng xoay chiếc máy hát 180 độ. Lượng và anh Bành bước lại gần ngó nhìn. Thấy trên vỏ gỗ của chiếc máy hát có khắc một chữ “Tiêu”.
    Ông Phùng thở dài, bước lùi lại, ngồi trên ghế sô pha: “Thì ra các vị đều đã biết cả rồi!”
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  6. #26
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 24 Định mệnh khó thoát


    9h ngày 11 tháng 6

    “Diệp Hinh, em nhìn xem ai đến đây này!” Cô y tá tươi tỉnh gọi Hinh.
    “Mẹ, Sảnh ơi! Cả hai cùng đến, sao lại khéo thế này?” Hinh rất vui vì cùng một lúc được gặp hai người thân nhất của mình. Cô ngắm kỹ khuôn mặt của mẹ còn vương lớp bụi đường, chắc là vừa mới đến Giang Kinh, nhưng trông bà rất tươi tắn. Cô lại nhìn Sảnh, Sảnh rất điềm tĩnh.
    “Thử đoán xem ai đã nhắn mẹ tới đây?” Bà Kiều Doanh cười hỏi.
    Hinh nhìn Sảnh, Sảnh lắc đầu: “Đừng nhìn tớ! Cô ơi, cô đừng dứ nó nữa, cô báo tin vui cho Hinh đi”.
    “Con ạ, bác sĩ Đình gọi điện cho mẹ, ông ấy đã quyết định cho con ra viện”.
    Hinh ngây người, nét mặt lộ rõ niềm vui vô hạn, nhưng cô vẫn trào lệ, hồi lâu không nói nên lời. Sảnh lặng lẽ nhìn Hinh, cô hiểu rằng không phải Hinh khóc vì quá vui, trong làn nước mắt ấy chứa đựng bao nỗi chua cay, những áp lực về tinh thần cùng bao ảo tưởng về một tình yêu. Mùi vị của chúng ra sao chỉ có mình Hinh âm thầm chịu đựng.
    Đã làm xong các thủ tục ra viện, Sảnh nói với hai mẹ con Diệp Hinh: “Cháu đã nói chuyện với cha mẹ cháu, từ nay tạm để Hinh ở cùng gia đình cháu ít lâu. Nhà trường cũng đã đồng ý cho chúng cháu tự học là chính, đồng thời cử giảng viên dạy bù cho để chúng cháu khỏi bị lưu ban. Chúng cháu có thể cùng học và cùng giúp đỡ nhau trong sinh hoạt”.
    Bà Kiều Doanh vốn định đón Hinh về Giang Nam nghỉ ngơi ít lâu, nhưng nghe Sảnh nói thế bà bèn hỏi ý con gái xem sao. Phải nghỉ học đã lâu, và cũng không muốn bị lưu ban nên Hinh đồng ý ngay, cô sẽ ở lại Giang Kinh để học bù.
    Sau khi cùng ăn bữa trưa, cả ba người về nhà Sảnh. Cha mẹ Sảnh đều đang đi làm, bà Kiều Doanh trò chuyện tâm tình với con gái rồi rời khỏi nhà Sảnh đi tìm khách sạn, tiện thể mua ít quả cảm tạ gia đình Sảnh.
    Bà Kiều Doanh vừa đi, Sảnh bèn nói ngay với Diệp Hinh: “Điều mà lần trước Hinh đề xuất, tớ đã hỏi cha mẹ tớ xem có nghe nói về nhân vật “Máy kéo” ấy không? Cậu đoán xem, cha mẹ tớ đồng thanh nói là “có biết”. Người ấy tên là Sầm Thiết Trung, một nhân vật nổi tiếng oai hùng ở Đại học Y Giang Kinh thuộc phái “tạo phản” hồi đó. Cha tớ khi còn ở trong trường thường chơi bóng rổ với ông ta, về sau cũng không có liên lạc gì nữa. Ông ta luôn rất sôi nổi, vẫn liên lạc với các bạn học cũ, nghe nói mấy năm trước đã đi khỏi bệnh viện Thâm Quyến mở công ty dược và dụng cụ y tế. Tớ đã nài nỉ mẹ tớ khẩn trương tìm số điện thoại của nhân vật này để chúng ta có thể đến hỏi thăm về các chuyện cũ”.
    Sảnh ngừng một lát, cô lại quan sát vẻ mặt và ánh mắt của Hinh, rồi nghiêm túc nói: “Hinh ạ, cậu vừa mới ra viện thật, nhưng mình vẫn muốn đưa cậu đến ngay một nơi, cậu hãy hứa với mình là cậu nhất định sẽ kiên cường”.
    Hinh hơi ngạc nhiên, không rõ Sảnh lại bày trò kỳ quái gì đây. Cô cũng nghiêm túc nói: “Cứ yên tâm, nếu hỏi mình đã có thu hoạch gì sau những ngày nằm viện, thì nên nói là mình ngày càng can đảm hơn, mình chỉ e cậu còn phải phục mình ý chứ”. Nói đến câu cuối cùng, Hinh không nhịn được cười.
    Sảnh thoáng buồn, rồi cùng Hinh ra khỏi nhà.

    Bước đến gần bậu cửa cao cao trước tòa nhà giải phẫu, Hinh hơi sững người, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời bao la không một gợn mây, tâm trạng cô cũng rất thoải mái. Trước kia thường cảm thấy hình như luôn có một nỗi sợ hãi bao trùm lên căn phòng thực nghiệm giải phẫu, nhưng bây giờ thì ánh sáng chan hòa, nào có gì đáng sợ chứ? Nhưng khi nghĩ rằng còn vô số điều bí hiểm khó hiểu vẫn đang tồn tại quanh mình thì cô vẫn thấy hơi rờn rợn. Nhưng cô hiểu rằng phải can đảm tìm tòi khám phá thì mới có thể tìm thấy sự yên ổn thật sự cho tâm hồn và thể xác, cho dù phía trước còn có nhiều nỗi sợ hãi mà ta chưa biết. Thế rồi cô tiến lên trước, bước qua bậu cửa, bước lên thềm, đẩy cửa tiến vào.
    Cả hai đi thẳng đến cuối hành lang, Sảnh gọi to: “Bác Phùng, chúng cháu đây mà”.
    Tiếng bước chân lệt sệt trong phòng chuẩn bị. Thấy Diệp Hinh, nét mặt ông Phùng tỏ ra thiếu tự nhiên, ông chỉ nói một câu: “Cô đã ra viện à? Tốt, rất tốt”. Rồi ông dẫn hai cô vào căn phòng nhỏ đối diện với phòng chuẩn bị. Hinh vẫn còn nhớ, chính trong căn phòng nhỏ này cô đã từng nhìn thấy cái tiêu bản cơ thể cực kỳ tinh xảo.
    Ngoài dãy tủ kê áp tường ra, căn phòng nhỏ này không có thứ gì khác. Hinh đang ngạc nhiên thì ông Phùng đã khom người xuống. Dưới sàn có một cái vòng tròn để làm tay kéo, nó nằm ngang mặt sàn, rất ít gây chú ý. Ông Phùng mạnh tay nhấc lên “kẹt, kẹt”. Mặt sàn được mở ra, phía dưới là một bể chứa rộng đến hai chục mét vuông. Mùi thuốc bốc lên nồng nặc, khi ông Phùng dùng móc sắt móc lên một thi thể rữa nát, Hinh mới nhận ra rằng căn phòng này chính là một nhà kho chứa tử thi.
    Lại một thi thể nữa được móc lên, rồi được xếp song song với thi thể kia trên một tấm cao su màu trắng. Ông Phùng thoáng nhìn Hinh, rồi lấy chìa khóa mở một cánh cửa tủ, lấy ra một túi đựng giấy tờ kiểu dáng như một chiếc phong bì. Ông lại nhìn Hinh, rồi nhìn Sảnh. Hình như ông đang có phần do dự. Thấy Sảnh khẽ gật đầu, ông Phùng mới mở túi lấy ra hai cuốn sổ nhỏ bìa đỏ, mở chúng ra rồi đưa đến trước mặt Hinh: “Đây là thẻ sinh viên của hai người chết, cô nhìn hai tấm ảnh này xem”.
    Hinh nhìn hai tấm ảnh, rồi bỗng thấy chóng mặt dữ dội. Cô đau khổ nhắm mắt lại. Một trong hai người chính là Tạ Tốn, nét mặt lộ rõ vẻ ngang tàng, bấy lâu nay vẫn bầu bạn sớm tối cùng cô, quyến luyến không rời. Còn người kia thì trầm tĩnh rắn rỏi, chính là anh chàng thư sinh Lệ Chí Dương lạnh lùng vẫn hay cặp kè bên Tạ Tốn.
    Hai tấm thẻ lại ghi rõ họ tên: Tiêu Nhiên, Trịnh Kinh Tùng.
    Hinh lại thoáng thấy nhức đầu, ông Phùng nói oang oang bên tai cô, hình như đang giải thích cho cô về những cơn ác mộng bấy lâu vẫn đeo bám cô.
    “Hai cái xác này được đưa đến khu nhà giải phẫu sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1967. Sở công an giao việc khám nghiệm tử thi cho phòng nghiên cứu giảng dạy pháp y của trường ta. Thực ra cũng chẳng phải khám nghiệm gì nhiều vì cả hai đều là nhảy lầu, ở hiện trường cũng không có dấu vết vật lộn. Công an đã kết luận là tự sát. Điều chắc chắn là sau khi nhảy lầu, hai thi thể đã được chuyển ngay đến phòng nghiên cứu giảng dạy giải phẫu, vì trước đó cả hai đều ghi tên đăng ký tự nguyện hiến xác. Phòng chúng tôi luôn có ghi chép về từng thi thể loại này. Nhưng thường chỉ là một vài tư liệu liên quan, nhiều nhất là ghi họ tên. Có một số người nhà còn chọn giải pháp nặc danh. Nhưng hai người này thì không hề có người nhà đến tổ chức lễ tang, cho nên chỗ tôi đây trở thành nơi dừng chân cuối cùng của hai người và lưu giữ giấy tờ của họ. Thật là hết sức thê thảm!”
    “Tại sao bác vẫn giữ nguyên xác của họ?” Hinh đau khổ ôm đầu mỗi lúc một nhức hơn, cô hỏi một cách khó khăn.
    “Hồi đầu tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có người nhà đến nhìn mặt họ lần cuối. Và cũng vì việc giảng dạy năm đó không được bình thường, chưa thật cần đến tiêu bản của hai thi thể này. Về sau nghe nói Trịnh Kinh Tùng vốn là trẻ mồ côi, không có họ hàng thân thích. Tiêu Nhiên cũng không có người thân ruột thịt, chỉ có vợ chồng người bác thì một người đang ở tù, người kia đã qua đời hai năm trước đó. Thế rồi tôi quyết định xử lý hai thi thể này làm tiêu bản giải phẫu. Nhưng đã xảy ra một chuyện kỳ lạ.
    Tôi vẫn quen xử lý tiêu bản vào ban đêm, nhưng trước kia thường bật đèn để làm. Giữa đêm hôm đó tôi chuẩn bị cưa xác của Tiêu Nhiên, lúc chuẩn bị cầm dao thì cả năm bóng đèn tuýt và một ngọn đèn rọi của phòng chuẩn bị bỗng tắt ngấm. Cùng lúc đó, một điệu nhạc tuyệt diệu vang lên, sau này tôi mới biết đó là “bản giao hưởng ánh trăng” của Bét-tô-ven. Tôi nhìn về hướng phát ra tiếng nhạc: chẳng biết từ lúc nào, trên sàn căn phòng chuẩn bị có một máy hát đang chầm chậm quay, bên cạnh còn có một chồng đĩa hát nữa. Tôi thận trọng bước đến, thấy một mảnh giấy chèn dưới máy hát, tôi cầm lên. Nhờ có ánh đèn ngoài hành lang, tôi nhìn thấy rất rõ chữ viết: “Rực rỡ dễ tan, thân lạnh dễ nát, hồng nhan dễ tàn, xương cứng dễ gãy. Trên thế gian chỉ có âm nhạc là vĩnh cửu. Xin người hữu duyên hãy nhận kỷ vật vĩnh hằng này”.
    Tính tôi không nhút nhát, nếu không đã chẳng làm cái nghề này lâu như vậy. Nhưng đêm đó tôi đã sợ mất vía. Kể từ đó tôi không dám xử lý hai cái xác này nữa, song cũng từ đó tôi thay đổi thói quen - tôi chỉ xử lý các tiêu bản trong bóng tối, hoặc cùng lắm là nhờ ánh trăng hắt vào. Đương nhiên tôi không mê tín, nhưng sự việc đêm hôm đó khiến tôi nhớ đến các lời đồn đại rằng phần lớn các tiêu bản của phòng thực nghiệm giải phẫu là của các thành viên “tổ chức đặc vụ” có tên là “Nguyệt Quang xã” - đều bị chết oan uổng cho nên họ biến thành ma quậy phá, dẫn đến việc ông Tang - sư phụ tôi phải xây một cái bậu cửa cao. Nói là để phòng các chất thuốc ướp tràn ra ngoài, nhưng thực ra là để trấn ma. Về sau nghe nói Tiêu Nhiên chính là thành viên cuối cùng của “Nguyệt Quang xã”.
    Cũng vì vậy mà tôi giữ chiếc máy hát đó - thấy mặt ngoài của chiếc máy có khắc chữ Tiêu - tôi đoán có lẽ nó là của anh sinh viên Tiêu Nhiên. Sau thời gian nghe hết chồng đĩa hát ấy, tôi cũng trở thành một người mê nhạc cổ điển, cho nên sau khi cô Sảnh nói với tôi rằng thực ra các thành viên của “Nguyệt Quang xã” chỉ là những người thích nghe nhạc cổ điển, thì tôi không rõ là mình có cảm giác gì nữa.
    Nhớ lại những năm trước kia, tôi luôn cảm thấy bầu không khí ở phòng giải phẫu luôn thấp thoáng một cái gì đó không bình thường, cụ thể là gì thì tôi không diễn tả ra được, nhưng nó là một cảm giác mơ hồ luôn khiến tôi phải nơm nớp lo sợ, nhất là sau 12h đêm thì thường có những âm thanh lạ lùng. Tôi tuy hơi thấy sợ nhưng vốn tính tò mò nên tôi vẫn chờ đến sau nửa đêm để biết rõ sự thật. Cứ thế mãi, rồi đâm quen. Nhưng cũng từ sau khi chiếc máy hát xuất hiện thì không có hiện tượng gì khác nữa, hai cái xác vẫn ngâm ở đây, tôi cũng không có ý định xử lý chúng nữa.
    Cách đây bảy năm, cô sinh viên Thẩm Vệ Thanh đã đến phòng giải phẫu này vài lần vào lúc nửa đêm, trông cô ta cứ như người mất hồn. Tôi hỏi cô đến đây làm gì, thì cô ấy lại hỏi tôi các câu hỏi kỳ lạ: tôi có từng nghe nói về “Nguyệt Quang xã” không? Có phải các thi thể của thành viên “Nguyệt Quang xã” đều hiến cho phòng giải phẫu không? Bọn họ có còn hay không?.... khiến tôi nhớ ngay đến chiếc máy hát ấy. Tôi cân nhắc mất vài hôm, xem có nên kể với Vệ Thanh những điều tôi đã trải qua không. Tôi lo nhất là nếu tôi nói ra rồi, cô ấy sẽ hoảng hồn, rồi sẽ kể lại lung tung khiến tôi bị mang tiếng là reo rắc mê tín nhảm nhí. Tôi do dự mãi, nhưng rồi vẫn kể cho cô ấy biết câu chuyện về chiếc máy hát. Nào ngờ chỉ sau ít lâu, tôi nghe nói cô ấy đã đi viện tâm thần, rồi về sau lại nhảy lầu. Có người bảo cô ấy đã chết, người thì nói cô ấy vẫn còn sống.
    Cho nên hôm cô Hinh gặng hỏi tôi về “Nguyệt Quang xã”, thì trong lòng tôi rất không yên. Tôi chỉ sợ cô ấy lại đi vào con đường cũ của Thẩm Vệ Thanh. Nhưng tôi cũng nghĩ là không nên giấu điều gì, mặc dù tôi không muốn tùy tiện reo rắc những chuyện mê tín gì. Hôm đó coi như tôi đã hạ quyết tâm, nếu hai cô lại đến hỏi thì tôi sẽ kể với cô Hinh mọi chuyện mà tôi đã biết”
    Sảnh bỗng kinh ngạc kêu lên: “Hinh ơi, cậu sao thế?”
    Chỉ thấy Diệp Hinh người mềm oặt rũ xuống, may mà Sảnh đã kịp đến đỡ cô khỏi bị ngã. Hinh thấy đầu nhức như búa bổ, choáng váng, hình như đang bị quay trong một vùng xoáy nước, chìm nổi vật vã, và hình như hai chữ “ánh trăng” trầm trầm rót vào tai cô như muốn chọc thủng màng nhĩ. Mắt Hinh mờ dần đi, một màn tối đen thẫm bao phủ lên cái kho chứa xác nho nhỏ. Từ màn tối đen ấy, một cô gái áo trắng hiện lên trong làn ánh sáng trắng, và dần bước tới gần, cho tới khi Hinh nhìn rõ mồn một: một khuôn mặt nát đầm đìa máu tươi.
    “Để mình đưa Hinh đi viện” Sảnh dìu Hinh ra ngoài.
    “Không cần đâu, mình chỉ hơi chóng mặt... có lẽ vì quá ngột ngạt... ngồi nghỉ một lát rồi sẽ ổn mà” Hinh biết phòng y tế chẳng phải là nơi cô có thể giải quyết được vấn đề.
    Sảnh dìu Hinh đi đến một phòng học, bảo Hinh ngồi xuống rồi khẽ nói: “Hinh hãy ngồi nghỉ một lát, mình sẽ sang hỏi xin bác Phùng mấy viên nhân đan hoặc lọ dầu gió gì đó để giúp cậu đỡ khổ sở đã!”
    Khi Sảnh và bác Phùng quay trở lại, thì không thấy bóng Hinh đâu nữa.

    Sau hôm bị trúng gió, bà Uông Lan San được đưa đi điều trị tại khoa tim mạch bệnh viện số 2 trực thuộc đại học Giang Kinh. Bệnh viện này ở cách trường năm bến đỗ xe buýt. Hinh ngồi xe đi đến đó, xin tấm thẻ vào thăm bệnh nhân San. Cô đi thẳng đến khoa tim mạch ở khu nhà 8 tầng, bước vào buồng bà San đang nằm. Bà ta đang nhắm mắt, chẳng rõ đang dưỡng thần hay đang ngủ.
    Hinh ngồi lên chiếc ghế kê bên giường, hồi lâu cô vẫn chưa bình tâm lại được. Rõ ràng là có vô số hiện tượng chứng tỏ mình đã nhìn thấy những sự vật mà người khác không thể cảm nhận được. Đó là hình bóng hai con người đã chết. Họ muốn làm điều gì? Và điều khiến Hinh càng không thể tin, là mình và một linh hồn đã yêu nhau, hơn nữa còn yêu nhau rất sâu nặng. Dù đã biết đây là sự thật rất hão huyền thì cô vẫn không đủ sức để bứt ra. Thực hết sức đáng buồn. Nước mắt cô lặng lẽ tuôn trào.
    Và cũng thật nực cười. Ngu xuẩn và ấu trĩ nữa. Khỏi cần nghĩ nhiều, Hinh cũng có thể hình dung cuộc sống bốn năm đại học tới đây sẽ có bao nhiêu lời đàm tiếu chê cười sau lưng cô.
    Bốn năm, liệu có bốn năm nữa không đây?
    Ngày 16 tháng 6 ngày càng đến gần, và càng thấy rõ ràng mình là nạn nhân được “lựa chọn” cho năm nay. Những nữ sinh bị lựa chọn trong suốt 16 năm qua, không một ai thoát. Mình nào có năng lực đặc biệt gì để mà tránh được cái nạn này đây?
    Hy vọng đã mỏng manh như thế, tại sao mình còn dềnh dàng ngồi đây thở dốc, bấm đốt ngón tay xem còn mấy ngày nữa? Sao không tìm cách phá tan điều mê tín này, để sớm từ giã cái vận mệnh bất đắc dĩ này?
    Trời dần sẫm lại. Hinh bất giác ngẩng nhìn cánh cửa sổ lớn của buồng bệnh nhân. Hinh bỗng thấy mình có thể hiểu được cái quyết định cuối cùng của Tiêu Nhiên: khi con người ta không thể làm chủ số phận, khi muôn vàn cái tốt đẹp đã tiêu tan, thì tội gì lại không phủi tay để ra đi?
    Hinh bước lại gần cửa sổ, dưới kia là cái sân nhỏ để cho bệnh nhân đi dạo. Thấy vài bệnh nhân, người thì chống nạng, người thì ngồi xe lăn, người thì chân đất... dường như sự sống đang dần rời xa họ.
    Sự sống cũng đang rời xa mình.
    Hinh mở cửa sổ, đứng lên thềm cửa.
    “Cô có cảm thấy rằng càng hiểu biết nhiều thì càng tiến gần đến cái chết không?” Tiếng bà Uông Lan San bỗng từ phía sau vọng đến. Câu nói này bỗng thức tỉnh Diệp Hinh. Cô thấy mình đang đứng trên bậu cửa sổ tầng 8, chơi vơi trước gió, có thể hụt chân rơi xuống bất cứ lúc nào. Toàn thân cô bỗng râm ran sởn da gà, cô vội nhảy ngay xuống, chạy vào căn buồng bệnh nhân, rảo bước đến trước giường bà San hỏi gay gắt: “Vừa rồi bà làm cái trò gì thế?”
    Bà San vẫn nằm trên giường, vì đang phải truyền dung dịch thuốc nên không thể thoải mái cử động. Hinh bỗng mủi lòng, vì thấy bà ta già yếu như thế này không nỡ trách móc. Vẻ mặt bà San hiện rõ nét vừa như vô tội vừa như đang thương hại: “Tôi có làm gì đâu? Tôi chỉ nhắc cô, cô không thoát được đâu!”.
    “Bà càng nói cái luận điệu về định mệnh thì cháu càng không tin”. Giọng Hinh lại trở nên gay gắt: “Cháu đến để hỏi bà, có phải bà đã đến tầng dưới của tòa nhà giải phẫu hay không?”
    “Đó là một trong những thánh địa của các thế lực thần thánh quái đản, sao lại có thể chưa từng đến? Nhưng tôi thực sự chẳng mấy hứng thú với cái nơi đó, tôi chỉ đến có một lần, vào mùa thu năm 1981 thì phải”.
    “Bà hãy nói cho cháu biết, tại sao chỉ có cháu và bà nhìn thấy Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng?”
    Bà San nghển người dậy, nhìn thẳng vào đôi mắt vừa bi thương vừa giận dữ của Diệp Hinh, lắc đầu: “Tôi không biết, tôi có thể nhìn thấy rất nhiều thứ mà người khác không nhìn thấy, nhiều bác sĩ đã nói đó là ảo giác, tôi nghĩ, chắc chắn đó là ảo giác. Những thứ cô nhìn thấy cũng là ảo giác. Cho nên, không phải tôi và cô có thể nhìn thấy họ, mà là tôi và cô tự cho rằng mình có thể nhìn thấy họ”.
    “Cháu không hiểu”.
    “Cô rất thông minh kia mà, sao lại không hiểu chứ? Cái mà chúng ta nhìn thấy là hình ảo ảnh. Cô nói xem, hình ảnh ảo - ấy từ đâu ra?” Bà San khéo léo dẫn dắt.
    Hinh ngây người, rồi giơ ngón trỏ chỉ vào trán mình.
    “Đúng, họ ở trong đầu cô hay có thể nói là trong lòng cô, tôi không dám khẳng định. Tôi chỉ suy luận lôgic mà thôi”. Bà San lại nằm xuống “Bây giờ đến lượt cô cho tôi biết anh ta tên là gì?”
    “Cháu vẫn chưa dám khẳng định, có lẽ tên là Tiêu Nhiên”. Hinh thấy mũi cay cay. Anh ta đã trở thành một nỗi ám ảnh trong cô.
    “Không sao, tên chỉ là một thứ tín hiệu”.
    “Nhưng tại sao cháu lại nhìn anh ta thành Tạ Tốn chứ không phải ai khác?”
    “Cô nghĩ kỹ xem, trước khi Tiêu Nhiên xuất hiện thì cô có ấn tượng về Tạ Tốn thật không?”
    Hinh cố tập trung nghĩ ngợi. Nếu theo lý luận của bà San thì nên giải thích ra sao? Cùng học chung với lớp C, thường xuyên nhìn thấy hai anh chàng ấy thân nhau cứ như Giả bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc thì đám nữ sinh không xì xào bình phẩm sao được? Quan sát mãi đôi “tình nhân” ấy, tiềm thức của mình sẽ lưu giữ ấn tượng về Tạ Tốn và Lệ Chí Dương. Thậm chí chỉ nghe người khác nhắc đến, dù mình đã quên tên họ rồi, thì các thông tin ấy vẫn lưu lại trong đầu.
    “Những hình ảnh ảo trong đầu cô cùng tồn tại với cái ấn tượng này, thế là nó tận dụng luôn hai cái tên Tạ Tốn và Lệ Chí Dương. Quan hệ của hai người này song đôi và trùng khít với tình cảm giữa Tiêu Nhiên và Kinh Tùng”. Bà San tiếp tục phân tích. “Vì những hình ảnh ảo ấy tồn tại, nên cô mới liên hệ chúng với Tạ Tốn và Lệ Chí Dương, nên cô mới nghe thấy tiếng hát của Tiêu Nhiên, nên cô mới nghe thấy những âm thanh rùng rợn ở trạm phát thanh, rồi cô lại nhìn thấy ông kỹ thuật viên ở phòng giải phẫu bị cưa thây làm tám khúc, và cô cùng hò hẹn với Tiêu Nhiên cùng đi dạo ở vườn hoa bệnh viện tâm thần”
    Tuy thế, Hinh vẫn phải cố giữ cho tỉnh táo để suy nghĩ.
    “Theo như bà nói, thì tại sao hai người kia lại xuất hiện trong đầu hoặc là trong lòng cháu? Bà cũng từng đến nhà giải phẫu của trường cháu, xác của họ cất trong đó, vậy cháu có thể suy luận rằng linh hồn của họ đang ở trong nhà giải phẫu, bà và cháu đến đó, họ đã chui vào trong lòng chúng ta - nhưng tại sao lại là cháu?”
    “Vì cô là một tín đồ. Cũng như tôi. Cho nên chúng ta mới gán ghép cho những linh hồn này”.
    “Không đúng, xưa nay cháu chưa từng tin điều này. Rõ ràng là những điều kỳ dị xảy ra quanh mình đã thôi thúc cháu đi tìm hiểu”.
    “Nhưng cô luôn tin rằng mình có liên quan đến “vụ án mưu sát 405”, đúng không? Cho nên cô là một tín đồ, niềm say mê với các vụ án nhảy lầu đã khiến cô mở rộng lối vào não bộ để cho các điều dị thường thoải mái xâm nhập”.
    Hinh trầm ngâm nghĩ ngợi, soi xét kỹ các câu nói của bà San: “Bà nói cũng hơi có lý, vậy bà cũng là một tín đồ, cho nên bà có thể nhìn thấy họ, họ cũng cư trú trong lòng bà, đúng không? Nhưng chẳng lẽ họ đã nói gì với bà à? Tại sao bà nói cháu không thể tránh thoát? Lúc nãy cháu đứng lên bậu cửa sổ, chẳng lẽ cũng là do họ bày trò hay sao?”
    “Cô hỏi nhiều quá, cũng oái oăm nữa. Tôi chẳng biết trả lời ra sao. Nhưng cô không thể thoát, mỗi bước đi của cô đều phải theo kế hoạch của họ”. Bà San bỗng lên cơn ho dữ dội.
    Hinh sửng sốt: “Tại sao lại nói thế? Chẳng lẽ bà biết cả những ý nghĩ của họ? Kế hoạch của họ là gì? Là bắt cháu trở thành nạn nhân thứ 13 hay sao? Để cháu nghĩ xem nào... Phải chăng chính họ đã tạo ra những hình ảnh ảo, khiến mọi người đều coi cháu là bệnh nhân tâm thần phân liệt? Chính họ đã tạo cho cháu hy vọng bỏ trốn khỏi trường, rồi lại cho cháu nghe nhiều thứ âm thanh khủng khiếp, để cháu phát điên thực sự? Phải chăng chính họ đã để cho bà nhiều lần nói với cháu những lời đe dọa, khiến cháu phải đi viện tâm thần làm một bệnh nhân thực sự? Và ngày 16 tháng 6 sắp đến gần, phải chăng họ... Trời đất ạ, phải chăng họ đã thông qua bà, để trừ bỏ bác sĩ Đằng Lương Tuấn - người đang cản trở cháu ra viện? Và, khi bà đột ngột trúng phong cũng là vì bà đang vẽ ra hình hài của họ, họ trừng phạt bà đã tiết lộ nhiều bí mật về họ?”
    Bà San gật đầu, nhưng lại lắc đầu lia lịa, và thở gấp gáp: “Sao cứ phải hỏi lắm thế? Đã biết là có nhiếu sự việc không thể cưỡng lại, thì sao cô không tranh thủ hưởng thụ những ngày ít ỏi còn lại?”
    Hinh lại sửng sốt. Đúng thế, bà San hầu như thừa nhận những điều suy đoán này, xem ra mình nằm trong “kế hoạch” của họ thật.
    Lẽ nào đây là số phận thật ư?
    “Đúng, cô không thể thoát được”. Bà San khẽ nói
    Có lẽ, cách phá vỡ kế hoạch ngày 16 tháng 6 chính là: Mình phải kết liễu vào giờ phút này.
    Hinh gần như vội vã trèo lên bậu cửa sổ, phía dưới kia vẫn là những bệnh nhân không có mấy sức sống, thêm một người nữa thì đã sao?
    Hinh xác định rõ ràng trong đầu, cô sắp nhảy xuống thì phía dưới sân bỗng xuất hiện một bóng người thân quen với bộ váy trắng, cô nhận ra chính là Âu Dương Sảnh.
    Hình như đã biết Hinh đang đứng ở bậu cửa sổ, Sảnh nhìn lên, lắc đầu.
    “Diệp Hinh, cậu mau xuống ngay”. Bỗng có tiếng Sảnh gọi từ phía buồng bệnh nhân.
    Hinh kinh hãi, cúi nhìn xuống dưới: bóng Âu Dương Sảnh đã biến mất. Cũng như ý định nhảy lầu của cô đã vụt tan biến.

    Trên đường trở về trường, Sảnh ai oán: “Hinh ạ, suýt nữa thì bà già ấy đã hại cậu. Theo mình thì việc này phải báo công an, tại sao cậu lại tha cho bà ta?”
    Hinh nói chầm chậm: “Báo công an thì có ích gì? Đúng là bà San hành động hết sức quái dị lạ lùng, nhưng mình quan sát thấy rằng những khả năng khác thường của bà San không phải của chính bà ấy. Nói cách khác, chính bà ấy không thể kiểm soát được bản thân”.
    “Ý cậu là, có kẻ đang điều khiển bà San? Hoặc là có ma nhập vào người bà ấy? Cũng hơi có lý đấy”. Sảnh có vẻ phấn chấn
    “Gì mà ma nhập? Tớ chẳng tin những chuyện như thế! Nếu có thì là do ở đây” Hinh chỉ tay vào trán. “Cậu còn chưa cho tớ biết tại sao cậu lại đến đây? Nếu cậu không đến đúng lúc ấy thì có lẽ tớ đã thành tiên rồi. Từ nay tớ mắc nợ cậu một mạng sống rồi đấy”.
    “Đừng nói thế, nghe sợ chết khiếp. Tớ yêu cầu cậu đừng chạy lung tung nữa, kẻo mẹ cậu sẽ không đồng ý cho cậu ở nhà tớ nữa. Thực ra là, bỗng nhiên không thấy cậu đâu, tớ ngẫm nghĩ thì biết ngay là cậu đi tìm bà San, vì cậu từng nói là bà ấy có thể nhìn thấy hai bóng người trong đầu cậu, cũng có thể nói là Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng. Cậu chưa từng liên hệ hai bóng người ấy với các nhân vật trong cuốn nhật ký kia, cho nên khi nhìn thấy hai thi thể ấy cậu sẽ nghĩ đến. Hai “người” này định làm gì? Họ có liên quan đến “vụ án mưu sát 405” hay không? Có lẽ chỉ bà San mới có thể giải đáp được các vấn đề này cho cậu.
    Tớ đoán rằng việc bà San bỗng nhiên bị trúng phong khá nặng ở bệnh viện tâm thần, thì sẽ được điều trị tại bệnh viện trực thuộc số 1 hoặc số 2. Tớ bèn gọi điện cho mẹ tớ đang làm ở bệnh viện số 2, mẹ tớ tra ngay ra bà San đang nằm ở buồng nào”. Sảnh nói hơi có phần đắc ý.
    “Kể cũng kỳ lạ, lúc tớ đứng trên bậu cửa sổ thì thấy cậu đang ở dưới sân, và còn lắc đầu với tớ. Nhưng - gần như là đồng thời - tiếng cậu lại vang lên ở trong buồng bệnh. Tình huống này giống như cảnh tớ đã gặp trong một giấc mơ. Có lẽ tớ lại có ảo giác mất rồi! Sảnh hãy mau đưa tớ vào viện tâm thần đi thôi!”. Nói đến câu cuối, Hinh tủm tỉm cười, rõ ràng là cô đang đùa.
    “Tớ không làm! Mà dù có đưa cậu vào, thì họ cũng phải cần cậu đã chứ. Tớ cho rằng đúng là có một số chuyện kỳ lạ không dễ mà giải thích bằng các lý lẽ thông thường đã xảy ra với cậu, có lẽ đều do Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng gây ra cũng nên. Tớ còn chưa kịp cho cậu biết: hồi cách mạng văn hóa, ký túc xá số 13 dành cho sinh viên nam ở. Mẹ tớ bảo thế”.
    Hinh bỗng dừng bước: “Thật à? Vậy thì có thể Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng đã ở phòng 405. Xem ra nếu chúng ta tin rằng những chuyện lạ không dễ giải thích bằng các lý lẽ thông thường ấy là có thật, thì có lẽ hai người này thấy mình bị chết oan nên mới không ngớt quậy phá trêu ngươi. Cách chết của các nữ sinh trong bao năm qua cũng trùng với họ, đều là nhảy lầu”.
    “Dù sao nó cũng không cho phép tớ không tin. Trước tiên hãy nói về các chuyện khó mà giải thích nổi ấy có tồn tại hay không? Thầy Chương Vân Côn vốn nhất định không tin, nhưng sau khi tìm hiểu cuốn băng ghi âm ở trạm phát thanh, đã tin đến tám phần rồi. Chính thầy Côn và sư phụ Từ Hải Đình đã nói chuyện với nhau rất lâu, rồi mới chính thức quyết định cho cậu ra viện. Tớ thấy giả thiết vừa rồi của cậu là quá hợp lý, nếu không làm gì có chuyện trùng hợp đến thế? Thầy Côn đã nghiên cứu thấy rằng các nữ sinh ngày trước nhảy lầu, trước đó đều đã từng đến khu nhà giải phẫu lúc nửa đêm. Cuốn nhật ký của Tiêu Nhiên cho thấy đã từng có chuyện oan hồn của “Nguyệt Quang xã” gây rối. Tiếp tục suy luận, thấy rằng anh ta là đệ tử cuối cùng của “Nguyệt Quang xã”, sau khi chết gây rối cũng không có gì là lạ!”.
    “Nói như thế, kết hợp với các lý luận kỳ cục của bà San, thì cách gây rối của anh ta là thâm nhập lòng người, thao túng họ, khiến cho họ nảy sinh ảo giác rồi có các hành vi trái lẽ thông thường. Cách trực tiếp nhất, có hiệu quả nhất là để cho các nữ sinh phải đối mặt với hàng loạt ảo giác, cảm thấy mình là nạn nhân đã được “lựa chọn”, thực ra chỉ là bị ám thị hoặc thôi miên. Giống như vừa nãy tớ ở trong buồng bệnh của bà San, tớ đã mất tự chủ để đi đến chỗ tự hủy diệt”. Hinh thấy rùng mình ớn lạnh.
    “Này, luận điệu của cậu hơi giống với thầy Côn, tớ thấy hơi có lý đấy”.
    “Muốn lần ra gốc rễ, có lẽ vẫn phải tìm hiểu xem sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1967 đã xảy ra những chuyện gì?”
    “Suy đoán từ đoạn nhật ký ghi ngày cuối cùng, thì Tiêu Nhiên muốn gặp Y Y, nếu chị ta đến, hai bên thành thực giãi bày, thì anh ta sẽ có ý chí mạnh mẽ để tiếp tục sống. Chúng ta đã biết anh ta lựa chọn cái chết, thì rõ ràng là Y Y không đến”.
    Hinh thở dài, ánh mắt cô hơi thẫn thờ “Thực ra tớ cũng đoán là thế. Rành rành là cái bài hát “Chờ đợi, chờ đợi” đã ghi lại câu chuyện đó. Tại sao tớ lại có thể nghe thấy bài hát này? Và nếu đúng là anh ta ngầm thể hiện rằng sẽ giết người thì thực ra anh ta muốn đạt được cái gì? Nếu giết người để trả thù, thì các nữ sinh kia và cả tớ nữa, nào có oán thù gì với anh ta? Anh ta làm thế sẽ là không hợp tình hợp lý” Hinh không muốn đánh đồng Tạ Tốn trong tâm trí cô và cái linh hồn có dã tâm sát nhân kia.
    “Có lẽ anh ta bụng dạ dẹp hòi, cho rằng chị Y Y kia bán đứng mình, cho nên anh ta mới tạo ra thêm các oan hồn để truyền thông tin phẫn nộ”.
    “Nếu đúng là thế thì hành vi ấy cực kỳ xấu xa. Giờ đây điều mình suy nghĩ nhiều hơn cả là phải hóa giải cái vận hạn khó tránh này như thế nào?”
    Sảnh ngẫm nghĩ, rồi nói: “Muốn tháo chuông, hãy tìm người treo chuông. Theo mình thì phải tìm ra nhân vật Y Y, có thể sẽ được việc cũng nên. Lúc nãy mẹ mình gọi điện, nói là đã hỏi được số điện thoại của nhân vật Máy Kéo. Chúng mình sẽ gọi cho ông ta”.
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  7. #27
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 25 Y Y


    “Xin mạo muội làm phiền bác Sầm, cháu là Âu Dương Sảnh. Bố mẹ cháu là Âu Dương Diên Khánh và Lương Chí Quân. Cháu đang học ở Đại học Y Giang Kinh”. Vừa về đến nhà Sảnh đã gọi điện cho “Máy kéo” Sầm Thiết Trung. Sảnh cầm một ống nghe khác để hai người nói chuyện.
    Có vẻ như ông Trung hơi ngạc nhiên “Chào cháu. Cháu có việc gì không?”
    “Cháu muốn hỏi thăm bác về một người”.
    Giọng ông Trung xởi lởi: “Đừng ngại gì, nếu biết thì bác sẽ nói với cháu”.
    Theo miêu tả của cha mẹ, Sảnh có thể hình dung ra một vị trung niên cao lớn đĩnh đạc.
    “Y Y đang ở đâu?”
    Ông Trung “Ơ” một tiếng, rồi nói ngay “Có lẽ cháu đã nhầm chăng? Bác không quen ai là Y Y cả”. Ông ta quả là người đã lăn lộn trên thương trường. “Bác đúng là nhân vật quan trọng hay quên chuyện cũ! Năm xưa khi bác thực tập ở bệnh viện tiền tuyến, trong tổ có một cô gái mà bác say mê, cô ấy tên là Y Y”.
    Đầu dây bên kia im lặng một hồi, cuối cùng ông Trung nghèn nghẹn hỏi: “Các cô được hỏi thẳng cái tên Y Y hay sao? Không, không phải, ý bác là các cháu nghe được chuyện này ở đâu thế?”
    Âu Dương Sảnh lạnh lùng đáp: “Là bác Tiểu Nhiên nói cho cháu biết”.
    Lại im lặng một hồi lâu, ông Trung gần như tự lẩm bẩm một mình: “Không... không thể. Anh ấy đã đi từ lâu rồi”.
    Sảnh lạnh lùng nói: “Hình như bác có phần xúc động. Có phải trước kia bác từng làm những việc không phải với ông Tiêu Nhiên không?”. “Cô có biết mình đang nói gì không?”
    “Nguyệt Quang. Bác có nghe nói gì về Nguyệt Quang không?”
    “Lẽ nào... cô biết thật ư? Rốt cuộc Tiêu Nhiên có chết thật hay không?”
    “Quả đúng là bác. Ngày ấy ở bệnh viện tiền tuyến bác đã o ép Y Y phải hợp tác với tổ điều tra rồi khai ra Tiêu Nhiên là thành viên của Nguyệt Quang xã, và ép chị ấy tránh xa Tiêu Nhiên, đúng không? Vì Y Y lần lữa không đến, Tiêu Nhiên đã hoàn toàn thất vọng, rồi nhảy lầu tự sát vào sáng sớm ngày 16/6. Vật cản lớn nhất ngăn cản bác theo đuổi Y Y đã biến mất, và từ đó bác có thể rất đắc ý chứ gì?”
    Sảnh thấy mình phân tích rất hợp tình hợp lý, lòng cô dâng lên nỗi căm giận “Máy Kéo” đang ở đầu dây bên kia.
    “Gì thế? Cô đang nói linh tinh gì vậy?” Ông Trung cũng điên tiết, nhưng rồi lại nghĩ ra là đang đối thoại với một cô gái mới lớn, giọng ông bình tĩnh trở lại. “Những điều cháu Sảnh nói, đều khác xa với sự thật. Năm xưa bác còn trẻ dại, đúng là đã làm thủ lĩnh của một nhóm trong phái “tạo phản” ở đại học Y Giang Kinh, cũng từng khao khát Y Y nhưng vẫn rất tôn trọng cô ấy. Cô ấy vẫn luôn giữ một khoảng cách với bác, tuy bác tồi thật nhưng cũng không hề làm điều gì quá đáng. Bác cũng không hề tham dự các hoạt động của tổ điều tra. Cháu nghĩ mà xem: Y Y ghét bác, đời nào cô ấy lại nghe theo bác để rồi khai ra việc Tiêu Nhiên đã tham gia “Nguyệt Quang xã”. Bác đâu có sức mạnh để ngăn cản Y Y và Tiêu Nhiên gặp nhau. Bác biết đúng là tổ điều tra đã gây sức ép rất dữ đối với Y Y, nhưng bác tin rằng mình hiểu Y Y là người rất tốt, cô ấy yêu Tiêu Nhiên sâu nặng, dù bị o ép không cho tiếp tục quan hệ với Tiêu Nhiên thì Y Y cũng quyết không bán đứng anh ấy. Đương nhiên... lúc đó hình như cô ấy cũng rất mâu thuẫn, luôn thấy hoang mang, rất có thể sẽ bị tổ điều tra lợi dụng. Có thể đã xảy ra những chuyện gì thì bác không có quyền phát biểu”.
    “Cháu sao có thể tin lời bác nói”. Sảnh thấy ông Trung nói không phải là không có lý.
    Cháu có thể đi mà hỏi Y Y. Ông Trung không nghĩ ngợi nói luôn. Nói rồi ông mới nghĩ ra rằng hình như đây mới là mục đích gọi điện thoại của Sảnh. Ông im lặng một hồi lâu. Sảnh chờ đợi, cô không nén được nữa: “Chắc chắn bác phải biết tình hình cô Y Y hiện nay, đúng không ạ?”
    Rốt cuộc ông Trung cũng trả lời: “Lần này thì cháu đã nói đúng rồi. Nhưng đây là chuyện đời tư, có lẽ bác không thể cho cháu biết. Và tại sao bác phải cho cháu biết chứ?”.
    “Vì vụ mưu sát 405. Bác vẫn có liên lạc với các bạn học cũ, chắc bác có nghe nói. Phòng ký túc xá 405 là nơi Tiêu Nhiên đã từng ở, bác ấy đã nhảy lầu từ nơi ấy, bác không thể không biết. Lẽ nào trải qua bao năm bác không có chút nghi ngờ về những điều kỳ lạ ẩn chứa trong đó? Y Y nghĩ sao? Chắc cô ấy sẽ không cho rằng chỉ là một sự trùng hợp?”
    Ông Trung “a” lên một tiếng rồi nói: “Bác có nghe nói về vụ 405, nhưng vẫn tin rằng đó là những sự trùng hợp. Theo bác được biết, Y Y không hay biết những chuyện này”.
    Y Y tên thật là Khổng Phồn Di, tuy cùng là sinh viên khóa 63 nhưng không cùng lớp với Tiêu Nhiên mà lại cùng lớp với Sầm Thiết Trung. Sảnh đã nói gần như cặn kẽ với ông Trung về những suy đoán của của cô với “vụ án mưu sát 405” và “Nguyệt Quang xã”, và cả mọi phân tích về tình trạng của Diệp Hinh mới khiến ông Trung rất kín đáo này phải mở máy nói.
    Ông Trung nói: “Năm 1967 Khổng Phồn Di bị điều tra o ép dữ dội kéo dài đã có dấu hiệu suy sụp tinh thần từ trước khi Tiêu Nhiên tự sát. Dưới sự giúp đỡ của tổ điều tra và phái tạo phản, Y Y buộc phải tuyên bố vạch rõ ranh giới với Tiêu Nhiên. Sau khi biết tin Tiêu Nhiên tự sát, Y Y đã mắc chứng trầm cảm nghiêm trọng, phải ngừng thực tập ít lâu. Về sau cô cùng nhiều sinh viên đi lao động ở nông trường của bộ đội sau đó đi làm bác sĩ ở một thị trấn nhỏ tại Hoán Nam. Đầu những năm 70 do cô có trình độ cao, cô được điều lên bệnh viện cấp thành phố tại vùng Bang Phu. Năm 1980 cô học nghiên cứu sinh tại bệnh viện Hiệp Hòa, Bắc Kinh, sau khi tốt nghiệp đã công tác ở Bắc Kinh hai năm rồi sang Mỹ học nghiên cứu sinh tại một trung tâm y học, đề tài chính là thực nghiệm lâm sàng về khối u não. Từ đó Y Y đi khắp các nước Âu Mỹ để nghiên cứu khoa học, có nhiều thành tích trong lĩnh vực u não.
    Thực ra, tôi biết Y Y xa quê hương đi khắp bốn phương, hầu như không quan hệ với các bạn học cũ thậm chí - sống xa chồng trong khoảng thời gian dài như Ngưu Lang Chức Nữ là vì sự nghiệp đang lên phơi phới, nhưng đúng ra là vì né tránh - cô ấy vẫn không thể đối mặt với những chuyện xưa bi thảm”. Ông Trung đang thổ lộ những điều dồn nén trong lòng bấy lâu, trước khi cảnh cáo Sảnh không được xốc nổi tùy tiện hành động.
    Phồn Di không bắt tay hòa giải với Thiết Trung để trở thành bạn bè thân thiết. Trên thực tế hầu như chị đã đoạn tuyệt quan hệ với tất cả các bạn học cũ. Nhưng vì chị là cô gái duy nhất mà Thiết Trung thầm yêu trong đời, nên ông vẫn mang trong lòng một niềm say mê, ông vẫn cố gắng dò hỏi tình hình của Phồn Di và biết rằng chị đã kết hôn với một bác sĩ tốt nghiệp đại học Y Giang Kinh cũng được phân công đến Hoán Nam công tác. Tuy chị phiêu bạt khắp nơi nhưng nhà vẫn ở Giang Kinh. Có điều ông không biết làm thế nào mới có thể liên lạc được với chị. Cuối cùng, ông cho biết một thông tin cách đây không lâu, trong một lần tìm kiếm tư liệu y học ông biết có một bài nghiên cứu của Khổng Phồn Di xuất phát từ một viện nghiên cứu của Thụy điển.
    Đặt ống nghe xuống, Sảnh và Hinh lập tức đến ngay thư viện trường để dò tìm tài liệu ghi chép. Lần theo hướng ông Trung nói, hai cô tìm ra tên tiếng Anh của Phồn Di là Faye Ro. Ông Trung đã nói đúng: Phồn Di đang ở Thụy điển.
    Ngày 16/6 đã cận kề ngay trước mắt, cơ hội gặp Phồn Di hết sức mong manh. Và dù cso gặp thì liệu Phồn Di có thể giúp gì được không? Nói là “muốn tháo chuông, phải tìm người treo chuông” nhưng sẽ tháo cái chuông ấy ra sao? Tuy nhiên cả hai vẫn gọi điện ra nước ngoài theo số điện thoại của tác giả đã ghi rõ trong bài viết. Nữ thư ký phòng thí nghiệm của Phồn Di đang ở đầu dây bên kia, trả lời rằng gần đây tiến sĩ Di đã về Trung Quốc.
    “Làm thế nào để liên lạc được với cô ấy?”
    “Chị ấy có để lại số điện thoại nhà riêng để gọi khi cần thiết. Nhưng đây là thông tin cá nhân, tôi không tiện cho các vị biết. Nếu cần các vị cứ fax cho tôi, tôi sẽ fax lại cho chị ấy”. Người trợ lý của Phồn Di ở Thụy Điển trả lời.
    Hinh và Sảnh cũng soạn một bức thư viết bằng tiếng Anh, nói rằng Diệp Hinh là một sinh viên y khoa, rất thích các bài nghiên cứu của tiến sĩ Di, mong có dịp được bà giúp đỡ để sau này quyết chí phấn đấu phụng sự cho nghiên cứu khoa học. Trong thư nói rõ mình đang học ở đại học Y khoa số một Giang Kinh nêu thuận tiện có thể gặp mặt ở một địa điểm nào đó. Hai cô cố ý giấu rằng mình học ở đại học Y số hai Giang Kinh vì sợ bà nhạy cảm phải nghĩ ngợi. Gửi fax đi rồi cả hai vẫn cảm thấy khả năng gặp bà Di gần như là con số không. Không ngờ Phồn Di lại trả lời ngay nói rằng bà rất vui khi biết có sinh viên trẻ tự nguyện lao vào sự nghiệp nghiên cứu y học và ngạc nhiên vì Hinh biết nhiều về các nghiên cứu của bà. Bà nói mình không có văn phòng tại Giang Kinh nên chỉ có thể gặp gỡ ở bên ngoài.

    14h ngày 13 tháng 6.

    Sau khi tân trang sáng sủa, hiệu sách Tân Hoa ở Giang Kinh đã mở cửa trở lại. Không chỉ cửa kính bàn ghế bóng lộn khắp lượt mà các loại sách và văn hóa phẩm cũng rất hào nhoáng bắt mắt. Tầng trên cùng còn bố trí bàn trà để độc giả mê sách có thể ngồi uống, đồng thời nhẩn nha xem sách. Hai bên hẹn gặp nhau vào lúc 3h chiều, nhưng chỉ ít phút sau buổi trưa, Sảnh và Hinh đã lên phòng trà, ngồi xuống chiếc bàn nhỏ, khắc khoải chờ đợi.
    Chắc Y Y bí hiểm này sẽ không thất hẹn chứ nhỉ? Thử đoán xem, chữ R tên tiếng Anh của cô ấy (Faye Ro) có ý nghĩa gì không?. Lúc không có người lạ đứng bên, Sảnh hỏi Hinh: “Tớ biết cậu lại đang động não rồi đây. Chắc cậu định nói rằng đó là chữ cái đầu tiên phiên âm chữ Nhiên, đúng không? Tớ đã tra cứu một bài nghiên cứu khác của cô ấy, chữa R trong tên tác giả bài viết là viết tắt của tên đầy đủ là chữ Rem. Kể cũng lạ, vì đây không phải là tên người, khi đọc lên hơi giống Ran nhưng rõ ràng không phải. Nếu không sử dụng Ran thì càng chuẩn sai mà. Tớ đoán Rem là 3 chữ cái đầu tiên của từ Remember (nhớ) và có hai ý đan xen vừa là nhớ nhung vừa ngầm chỉ người mà cô nhớ nhung là Ran”.
    Sảnh không ngớt tâm đắc tán thành: “Diệp Hinh siêu thật. Cậu đã không uổng công đọc truyện trinh thám của Agstha mà tớ cho mượn. Nói có lý lắm”.
    Hinh tập trung suy nghĩ, rồi lẩm bẩm: “Nhưng nếu thế thì tại sao cô ấy lại bán đứng Tiêu Nhiên? Cô ấy có tình cảm sâu nặng với Tiêu Nhiên như vậy, cho đến tận bây giờ vẫn nhung nhớ không nguôi, và lại về nước trong dịp này, liệu có phải ý tưởng niệm Tiêu Nhiên không?”
    Sảnh bỗng ngồi thẳng người lên, nhìn về phía sau Diệp Hinh nói: “Có lẽ là cô ấy?”
    Phòng trà không quá đông người, Hinh ngoảnh lại nhìn thấy một phụ nữ trung niên đeo kính râm, mặc bộ váy màu trắng ngà có dải đeo vai, đang tiến đến.
    “Có bạn nào là Diệp Hinh ở đây không?”
    Làn da, đôi tay người này vẫn rất mịn màng, mái tóc dài vấn lên và được cài bằng chiếc cặp tóc có phần lưng khá rộng, làm nổi bật khuôn mặt trái xoan gần như hoàn mỹ, trông đâu có giống một người đã gần 50. Hinh và Sảnh ngẩn người nhìn.
    “Là cháu ạ! Cháu là Diệp Hinh, đây là Âu Dương Sảnh bạn cháu. Cô là tiến sĩ Di phải không ạ? Chúng cháu đều rất ngưỡng mộ cô, cho nên đã cùng đến: Chúng cháu xin cảm ơn cô đã bớt chút thời gian đến gặp chúng cháu”. Hinh đứng lên chào hỏi.
    Người phụ nữ gật đầu, mỉm cười: “Tôi là Khổng Phồn Di. Hai cô cũng chịu khó thật, đã tìm được tôi trong kỳ nghỉ này. Nói thật nhé, chúng ta trò chuyện về công tác của tôi, tôi rất vui. Mấy khi đã có người muốn nghe lời nói về những điều khô khan này. Mấy hôm nay phải xa phòng thí nghiệm và bệnh viện, tôi thấy hơi lạ lẫm, nhưng năm nào cũng cần có một khoảng thời gian để thích nghi...”
    Sảnh bỗng thản nhiên hỏi: “Vậy là, tuy tiến sĩ Phồn Di du học ở bốn phương, nhưng năm nào cũng về nước một lần, và có phải đều vào dịp tháng 6 này không ạ?”
    Hinh hơi hoảng, tặc lưỡi khẽ trách “Kìa Sảnh!”, rồi lại nhìn vẻ mặt Phồn Di hơi khang khác.
    “Mời cô giáo ngồi ạ!Chúng cháu mong được cô chỉ bảo cho”. Hinh rất sợ Sảnh làm cho Phồn Di lo ngại, cô tươi cười để giải tỏa bầu không khí. Người phục vụ tới rót trà, Phồn Di hơi do dự, rồi ngồi xuống, nghiêm túc hỏi: “Hai cô muốn gặp tôi để nói những gì?”
    Hinh nhìn Sảnh, thấy ánh mắt vẫn sắc lạnh như thế thì thầm kinh ngạc và nghĩ ngay rằng Sảnh - vốn cực ghét cái ác - chắc vì nghĩ rằng Phồn Di đã bán đứng Tiêu Nhiên cho nên Sảnh rất căm hận. Nhưng sao mình lại không hề thấy căm giận? Nhưng có lẽ khỏi cần vòng vo, nên sớm làm rõ sự thật rồi tính sau, Hinh định nói thì Sảnh đã lên tiếng trước: “Xin nói thật với cô Phồn Di, chúng cháu không phải là sinh viên đại học Y số một mà là sinh viên đại học Y số hai Giang Kinh - vẫn gọi vắn tắt là Giang Y. Nói cách khác chúng cháu là sinh viên cùng trường với cô”. “A ra thế...” Phồn Di bỏ kính râm xuống, cặp lông mày dài và mảnh nhíu lại vẻ mặt càng thêm nặng nề. “Đã tốt nghiệp được hơn 20 năm, mà cô lại không liên lạc với bất cứ người bạn học cũ nào. Cô có thể cho chúng cháu biết tại sao không ạ?” Sảnh hỏi dồn dập. Hinh ngầm đá nhẹ vào chân bạn, nhưng Sảnh vẫn cứ thản nhiên.
    Phồn Di hít thở sâu vài lần, rõ ràng là đang gắng kìm nén tâm trạng không vui của mình. Bà ngắm kỹ Hinh và Sảnh rồi trả lời vừa lich sự cũng lạnh nhạt: “Mỗi người đều được tự do lựa chọn lối sống của mình, đúng không?”.
    “Nhưng, đồng thời với việc hưởng thụ quyền tự do này thì không thể làm tổn thương đến người khác, nhất là đối với người mà mình yêu sâu sắc, có đúng không ạ?”. Sảnh vẫn không chịu buông tha. Hinh lại kêu lên: “Kìa Sảnh?”
    Toàn thân Phồn Di hơi rung rung, ánh mắt đượm buồn: “Cô đang nói gì vậy?Cô là ai? Tại sao lại nói với tôi như thế?”.
    “Có phải cháu đã đưa ra câu hỏi mà chú ấy muốn hỏi nhưng không bao giờ có cơ hội để hỏi nữa? Đúng không ạ? Và bao năm trôi qua cô cũng luôn tự hỏi mình câu hỏi này, đúng không ạ? Cô rời xa Giang Kinh, bao năm qua cô buồn bã không vui, thực chất là vì cô bị cắn rứt dày vò, đúng không? Có lẽ năm xưa cô không thể ngờ rằng chỉ vì một phút yếu đuối, sai lầm sẽ dẫn đến nỗi đau khổ trải mãi nhiều năm sau”. Sảnh nói đoàng hoàng, rành rọt cứ như là đọc thuộc lòng một nội dung cô đã ngầm soạn sẵn từ lâu.
    Thoạt đầu bà Di nhìn Sảnh bằng ánh mắt khó hiểu và nghi hoặc. Dần dần, đôi mắt bà dỏ hoe, đôi môi mấp máy nhưng không nói thành lời. Hinh nhìn Sảnh với ánh mắt bất bình, oán trách Sảnh đã quá sỗ sàng dẫn đến tình huống bẽ bàng. Hinh dịu giọng: “Thưa cô Di, bạn Sảnh muốn nói đến một vài chuyện cũ hồi cách mạng văn hóa, liệu cô có thể giúp chúng cháu làm rõ được không?”
    Phồn Di bỗng ngẩng lên, đưa tay nắm lấy tay Hinh và Sảnh hỏi: “Hai cô đã biết những gì? Tại sao lại muốn dồn ép tôi?”. Ánh mắt Phồn Di rối loạn, hai hàng lệ tuôn trào loang trên lớp phấn son thoang thoảng, các nếp nhăn nơi khóe mắt hiện lên rất rõ, khác hẳn với hình ảnh người phụ nữ trung niên xinh đẹp với vẻ mặt thư thái điềm tĩnh khi nãy. Hinh chợt mủi lòng, cô nhớ rằng ông Sầm Thiết Trung đã nói bà Di từng mắc bệnh về tâm lý và thần kinh. Hinh càng thêm oán trách Sảnh đã quá bỗ bã như thế, cô dịu giọng: “Chuyện là thế này ạ, Sảnh và cháu đang cùng ở phòng 405 khu nhà13 đại học Y Giang Kinh”.
    Hinh cố ý ngừng lời. Quả nhiên nét mặt Phồn Di lộ vẻ rất kinh ngạc. “Không rõ cô có nghe nói rằng: kể từ năm 1977 đến nay, gần như năm nào cũng có một nữ sinh viên nhảy lầu từ phòng 405 rồi chết - chuyện này từ nhiều năm qua được gọi bằng cái tên: Vụ án mưu sát 405”.
    “Ôi”, Phồn Di kêu lên một tiếng, rồi lẩm bẩm: “Tại sao, tại sao tôi lại không biết gì cả?”
    Hinh vội nói: “Cũng không thể trách gì cô. Bao năm qua cô không liên lạc với các bạn học cũ thì đương nhiên nhiều chuyện cô sẽ không biết”.
    Phồn Di lắc đầu: “Không thể coi đó là một cái cớ. Lẽ ra tôi phải biết mới đúng!” Phồn Di như đã ra khỏi những ý nghĩ bề bộn, bà hỏi: “Xin lỗi đã ngắt lời cô, cô nói tiếp đi”.
    “Phần lớn trong hơn một chục nữ sinh đã nhảy lầu lần ấy, trước đó đều mắc bệnh tâm thần ở mức độ nặng nhẹ khác nhau. Một số người nghe thấy từ “ánh trăng” và nhìn thấy một cô gái có khuôn mặt nát bươm, nghe thấy những điệu nhạc du dương. Mọi hiện tượng đó có lẽ nên gọi là ảo giác. Và những ảo giác hệt như thế xuất hiện trong đầu cháu”. Hinh lại ngừng nói, cô nhìn thẳng vào Phồn Di.
    “Ánh trăng, ánh trăng là gì?”. Phồn Di nhắc đi nhắc lại từ này.
    “Một cơ hội ngẫu nhiên khiến cháu được đọc một tập hồ sơ cũ về “Nguyệt Quang xã” và nhìn thấy một số đoạn nhật ký của chú Tiêu Nhiên. Trong đó có ghi tường tận về chú ấy và nguồn gốc sâu xa của Nguyệt Quang xã. Trong cuốn nhật ký cũng có nhắc đến cô, chú ấy đã yêu cô vô cùng sâu nặng... Nhưng rồi chú ấy đã lựa chọn cái chết, cũng như các thành viên khác của Nguyệt Quang xã - chú ấy đã hiến xác cho phòng ngiên cứu giảng dạy giải phẫu của trường ta.
    Trong số các nữ sinh đã nhảy lầu, nhiều nữ sinh trước đó đã có ảo giác về ánh trăng và nhạc cổ điển, việc nhảy lầu từ phòng 405 đều xảy ra vào sáng sớm ngày 16/6 hàng năm. Vì thế không thể khiến chúng cháu không đem các vụ nhảy lầu và chú Tiêu Nhiên liên hệ lại với nhau. Đương nhiên cũng không loại trừ yếu tố trùng hợp ngẫu nhiên nhưng nếu chỉ là trùng hợp thì rất khó giải thích được mọi điều. Cho nên mong cô lượng thứ cho chúng cháu đã liều lĩnh dám nghi ngờ rằng vì chú Tiêu Nhiên chết oan không thể nhắm mắt chú ấy muốn thông qua các vụ nhảy lầu này để thông báo cho ngưoiừ đời về các vụ oan khuất của mình”.
    “Gì cơ?” Khổng Phồn Di kinh ngạc đứng lên, thiếu chút nữa gạt phăng cả bộ đồ trà trên bàn: “Thiếu nữ các cô có tư tưởng thật quá tự do, sao lại đưa ra cả ma quỷ hồn phách gì ra thế này? Lẽ nào các cô lại tin những chuyện hoang đường như thế?”
    Sảnh cũng đứng lên: “Thế thì xin tiến sĩ Phồn Di hãy cho chúng cháu một lời giải thích hợp logic, tại sao lại là “ánh trăng”? Tại sao lại là 405? Tại sao lại là ngày 16/6? Chú Tiêu Nhiên đã cho cô biết nguồn gốc của Nguyệt Quang xã, có phải ở đó cũng có ma quỷ hồn phách không ạ? Thế thì phải giải thích sao đây?”
    Hinh vội nói: “Cô Di và Sảnh nữa, xin hãy ngồi xuống nói chuyện nhẹ nhàng. Cô ạ, có rất nhiều chuyện trong quá khứ đã trở thành lịch sử, thì chẳng nên can thiệp vào cuộc sống hiện tại nữa. Chúng cháu nhắc đến chuyện cũ không phải vì muốn khiến cô phải đau đớn, mà là vì mong được cô giúp đỡ. Cháu đã trải qua không chỉ là các hiện tượng kỳ quái ấy mà điều đáng sợ hơn là cháu cho rằng cháu... Có lẽ, cô sẽ càng nói rằng cháu quá ư hoang đường vô lý... cháu cho rằng cháu đã nhìn thấy chú Tiêu Nhiên, thậm chí cả chú Trịnh Kinh Tùng nữa”.
    Phồn Di vừa tạm bình tĩnh ngồi xuống, lúc này lại đứng phắt dậy: “Rõ ràng là hoang đường quá thể! Cô nhìn thấy họ thế nào được?”
    “Cô Di ạ, chác chắn trí nhớ của cô vẫn rất tốt. Chú Tiêu Nhiên tuy xuất thân trong cảnh giàu sang nhưng vẫn không mấy chau chuốt trang phục, có đúng không ạ? Mái tóc đen, dầy luôn không chịu chải, có đúng không ạ? Có phải khuôn mặt chú ấy luôn nở nụ cười tươi như trẻ con, hình như không bao giờ bận tâm đến cái gì nhưng lại là một con người rất đa sầu, đa cảm? Có phải chú ấy thường hay trêu ngươi, đeo bám dai như đỉa, khiến người ta vừa tức vừa buồn cười - nhất là khi chú ấy yêu một cô gái”. Hinh nói rất sôi nổi, từng cảnh từng cảnh ngày trước gắn bó với Tạ Tốn trỗi dậy từ trong đáy lòng và lướt trôi trước mặt Hinh.
    Hinh đã mất đi cái tình cảm rất khó diễn tả ấy. Khuôn mặt Hinh đầm đìa nước mắt. Phồn Di đứng run rẩy hồi lâu rồi thẫn thờ ngồi xuống. Di hồi tưởng lại những tháng ngày dập dìu gắn bó cùng Tiêu Nhiên năm xưa, khuôn mặt Di đẫm lệ, cô vô cùng đau xót, đầu rũ xuống, nghẹn ngào nức nở. Sau một lúc im lặng Di lắc đầu tỏ ý không thể tin được: “Sao lại có thể như thế? Nhưng cô đã nói không sai chút nào, người mà cô miêu tả đúng là Tiêu Nhiên”.
    “Kinh Tùng là anh chàng thư sinh lạnh lùng, rất lạnh lùng, có khuôn mặt trắng nhợt, ánh mắt cũng rất lạnh, phía dưới mắt có quầng. Kinh Tùng luôn cặp kè bên Tiêu Nhiên, khi Tiêu Nhiên nói chuyện với cháu thì Kinh Tùng thường đứng từ xa, lạnh lùng nhìn lại”. Hinh nhìn Phồn Di, thấy nét mặt Phồn Di càng hiện rõ sự kinh ngạc không sao hiểu nổi. “Cô nói đúng cả, rất đúng, anh ấy có sắc mặt trắng nhợt, có quầng mắt khá to. Ngày ấy mỗi khi tôi và Tiêu Nhiên bên nhau, anh ấy thường đứng xa xa lạnh lùng nhìn chúng tôi, có lúc khiến tôi thấy sờ sợ”. Phồn Di bắt đầu để ý quan sát Diệp Hinh, và đã tin rằng không phải hai cô gái này tìm đến để gây sự vô lối với mình, và thấy sự việc thực sự nghiêm trọng.
    “Cháu không rõ tại sao họ lại tìm đến cháu... Trên thực tế, cháu đã suy nghĩ kỹ và không cho rằng họ thật sự đang tồn tại trong thế giới khách quan, có thể coi mọi điều cháu đã nhìn thấy là những “ảo giác” trong bệnh tâm thần phân liệt. Vì hai người ấy không tồn tại như một thực thể mà chỉ tồn tại trong đầu cháu. Bộ não của người ta, nếu chứa đựng những thứ không tồn tại thì chẳng phải là có vấn đề thần kinh là gì? Cho nên cháu đã được khuyên vào nằm bệnh tâm thần một thời gian, rồi cháu rất kinh ngạc nhận ra rằng không chỉ có mình cháu biết về sự tồn tại của họ. Cô Di thử nhớ lại xem cô có biết một phụ nữ tên là Uông Lan San không?”. Hinh cảm thấy bà San là một khâu trong chuỗi các điều bí hiểm nên thuận miệng hỏi thế, chứ cô không hi vọng có câu trả lời nào.
    Nào ngờ Phồn Di hơi sững người, gật đầu: “Tôi nhớ ra rồi, bà ấy là bệnh nhân lâu năm của bệnh viện tâm thần, đúng không?”
    Hinh và Sảnh đều ngạc nhiên, cùng hỏi: “Sao cô lại biết ạ?”
    Phồn Di nghĩ ngợi, khẽ kêu lên “trời ạ”, rồi nói: “Hình như là, khi chúng tôi học năm thứ ba - ngay trước thời kỳ cách mạng văn hóa, khi ấy việc dạy và học vẫn rất bình thường - lớp của Tiêu Nhiên đi kiến tập ở bệnh viện tâm thần, tôi cũng đang không có bài vở nên đã đi theo cho vui. Hôm đó, thầy giáo đưa ra một ca bệnh nhân đa nhân cách điển hình. Đó là một phụ nữ trung niên khoảng trên 40 tuổi. Trước mặt đông đảo chúng tôi, người ấy chuẩn bị nghe thầy giáo hỏi. Nào ngờ bà ta xông lên phía trước túm ngay lấy Tiêu Nhiên rồi quan sát anh từ đầu đến chân hết sức tỉ mỉ, đến nỗi các bạn anh ngồi bên cạnh đều sởn gai ốc, còn Tiêu Nhiên thì rất khó chịu. Mọi người lôi bà ta ra, bà ta bỗng òa khóc rồi kêu lên: “Chẳng lẽ đây đều là sự thật? Chẳng lẽ đây đều là sự thật?”. Rồi đột nhiên lại đổi giọng hết sức dịu dàng: “Anh hãy ở lại bên em và đừng đi đâu hết, được không? Có thế anh mới được an toàn”
    Bấy giờ tôi thấy rất tò mò, cũng khó tránh khỏi có phần không vui, tôi nhìn Tiêu Nhiên hồn nhiên “vô tội” nói là chưa từng quen biết. Về sau chúng tôi hỏi thăm mới biết đó là bệnh nhân mắc bệnh nhân cách phân liệt rất nặng tên là Uông Lan San, đã vào nằm viện 20 năm trời. Chính vì có cái chuyện ồn ào ấy nên tôi mới nhớ được cái tên này. Xưa nay tôi chưa từng liên hệ câu nói ấy của bà San với các sự việc xảy ra sau này. Nay nghĩ lại thì hình như bà ta đã tiên tri một điều gì đó”.
    Hinh nói: “Chính bà San này đã nói trong đầu cháu có “hai người”, cháu hỏi hai người đó là ai, thì bà vẽ luôn hai bức “ký họa” đại thể về Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng”.
    Phồn Di vẫn cảm thấy chuyện này quá ư kỳ dị, bèn hỏi: “Nếu đúng là hai người ấy ở trong đầu cô thật, thì họ vào bằng cách nào?”. Phồn Di “à” một tiếng, và bất giác đưa mắt nhìn về hướng đại học Y khoa Giang Kinh, trong lòng bộn bề xáo động, một lát sau mới nói: “Cô ngầm có ý cho rằng, Tiêu Nhiên đã nhập vào bộ não các nữ sinh kia, điều khiển họ nhảy lầu vào ngày 16/6? Nhưng tại sao anh ấy phải làm thế? Lẽ nào là nhằm gây sự chú ý cho người đời - như lúc nãy cô nhận định?”
    Sảnh lạnh lùng “hừ” một tiếng: “Còn có khả năng chỉ đơn thuần là trả thù các nữ sinh đến từ Giang Nam”.
    “Trả thù? Trả thù về cái gì?”
    Sảnh hậm hực: “Cô đã tự biết rất rõ. Nếu cần cháu phải nói toạc ra thì cháu cũng sẵn lòng để làm một kẻ độc ác! Chú ấy đương nhiên có lý do để trả thù cô gái Giang Nam mà chú ấy nặng lòng yêu thương - không chỉ ruồng bỏ mà còn bán đứng chú ấy! Ngay khi chú ấy muốn gặp mặt lần cuối, cô ấy cũng phớt lờ! Vì sự phản bội và cạn tình cạn nghĩa của cô nên chú ấy mới mất hết hi vọng vào cuộc sống, thế rồi đi vào ngõ cụt”.
    “Cô nhầm rồi”. Phồn Di gay gắt ngắt lời Sảnh. “Đúng là tôi đã không chịu nổi sức ép, đã vạch rõ ranh giới với anh ấy, đã hoảng hốt hoang mang, đã không đến gặp anh ấy lần cuối cùng... vì lúc đó tôi đã mắc bệnh trầm cảm rất nặng, cuộc sống đã hỗn loạn tơi bời. Nhưng tôi không hề bán đứng anh ấy, không hề tố giác anh ấy là thành viên của “Nguyệt Quang xã”, tôi vẫn giữ được chuẩn mực làm người”.
    “Không phải cô, thì có thể là ai? Theo cuốn nhật ký của chú Tiêu Nhiên thì chỉ có hai người - cô và chú Trịnh Kinh Tùng - biết chú ấy là thành viên “Nguyệt Quang xã”; nếu không phải cô thì chẳng lẽ là chú Kinh Tùng? Nhưng, đến giờ phút cuối cùng của chú Tiêu Nhiên, chú Kinh Tùng vẫn còn đến an ủi động viên chú ấy, và rành rành sau đó cùng tự sát với chú ấy. Một con người rất có tình nghĩa như vậy sao có thể bán đứng người bạn chí thân của mình?”
    “Các cô nói đến cuốn nhật ký....”
    Sảnh mở cặp sách lấy ra một tập giấy tờ, đẩy đến trước mặt Phồn Di: “Đã đoán là cô sẽ không thừa nhận, nên cháu đã phô-tô một bản cho cô, chỉ e cô không có can đảm để đọc thôi”
    “Kìa Sảnh!” Hinh thấy Sảnh đã lại quá khích
    Phồn Di đờ đẫn, ngồi ngây ra một lúc, hơi đưa người ra trước, tay run run nhẹ lên mặt giấy. Phồn Di đang cảm nhận gì đây?
    Rồi Phồn Di ngước mắt lên: “Cô nói đúng, tôi cũng không biết mình có can đảm để đọc hay không. Hai cô cũng có thể không tin tôi, nhưng hãy thử nghĩ xem, nếu đúng là tôi đã bán đứng Tiêu Nhiên, anh ấy thì chết rồi, sao tôi cứ phải chối cãi? Tôi có thể nói thẳng thắn, nhưng chuyện kỳ lạ mà bạn Diệp Hinh đã cảm thấy, tôi tin nhưng tôi không đồng ý với những suy đoán của các bạn. Tôi rất hiểu Tiêu Nhiên, anh ấy có trái tim rất tinh tế và rất thiện, dù phải ôm hận mà ra đi thì anh ấy cũng không quậy phá như thế sau khi đã khuất. Trong chuyện này chác phải có những điều lạ lùng chi đây”. Nghe đến mấy chữ những điều lạ lùng, Hinh lại hỏi: “Cô giáo Phồn Di có nghe nói đến một người tên là Trang Ái Vân không?”
    Phồn Di ngẩn người, lắc lắc đầu.
    Hinh mạnh mẽ đứng dậy, nhanh nhẹn nói: “Cháu xin cảm ơn cô Phồn Di. Cháu cũng tin tưởng ở cô, mong rằng cô cháu mình sẽ giữ vững liên lạc”. Hinh vừa nói vừa chạy ra khỏi phòng trà.
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  8. #28
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 26 Bí mật bị phơi bầy


    16h ngày 13 tháng 6

    Sảnh phải chạy một mạch mới đuổi kịp Hinh. Chạy dưới trời nắng tháng sáu nóng như thiêu như đốt, mồ hôi vã ra như tắm.
    “Tớ đoán xem nào, chắc cậu đang định sang bệnh viện số 2 tìm bà San, đúng không?” Hai cô đứng ở bến xe buýt, sốt ruột chờ xe đến. Sảnh cho rằng lần này mình không thể đoán nhầm.
    Lòng Hinh đang rối bời, cô im lặng gật đầu.
    “Này Hinh, sao cậu không hỏi tại sao tớ lại đoán đúng?”
    Hinh thở dài, trách bạn: “Tớ đang tức cậu đây! Đồ quỷ sứ ma mãnh, sao cậu chẳng hiểu cách đối nhân xử thế gì cả? Cô Phồn Di về nước nghỉ ngơi, đã nhiệt tình đến với chúng ta như thế. Cuộc đời cô ấy cũng rất gian nan, từng mắc bệnh trầm cảm... sao cậu lại cư xử với cô ấy thô bạo thế?”
    Sảnh dẩu môi: “Tớ biết thế nào cậu cũng mắng tớ! Nghĩ lại, tớ cũng hơi hối hận. Nhưng kể cũng lạ, lúc đó tớ không sao nhịn được, có lẽ tại tớ vốn đã chủ động, đã nhận định rằng cô ấy tố giác Tiêu Nhiên; lại nhìn thấy dáng vẻ sung sướng, nhàn nhã của cô ấy... còn Tiêu Nhiên thì đã ở nơi chín suối, cho nên vừa thấy mặt, tớ đã lộn ruột rồi!”
    “Nhưng mình cũng không nên nói oan cho người ta. Cô ấy nói có lý; nếu đúng là cô ấy đã sai, thì thời gian đã trôi bao năm rồi, cô ấy chẳng cần phải cứ chối cãi. Tớ nghe nói thời đó đã có rất nhiều người mắc sai lầm kiểu ấy, nếu cô ấy đã làm thế thật thì cũng chỉ là chuyện vặt trong muôn vàn sự việc, chối cãi thì có ý nghĩa gì đâu?”
    Sảnh “ừ” và nói: “Tớ cũng đã rất buồn rồi, cậu đừng nói nữa có được không? Lúc sắp chia tay tớ đã rất thân thiện với cô ấy, đã để lại số máy nhắn tin nữa. Cô ấy hỏi có thể đọc được nhật ký Tiêu Nhiên và “hồ sơ Nguyệt Quang xã” ở đâu, tớ bèn quyết định đưa luôn cho cô ấy bản phôtô “hồ sơ Nguyệt Quang xã” đang để trong cặp. Chúng mình đi gặp bà San để hỏi về gì?”
    “Khi đang nói chuyện với cô Phồn Di, tớ đã nghĩ rất nhiều, và cũng đồng ý với cô Phồn Di rằng trong câu chuyện này còn ẩn chứa những điều kỳ lạ. Cho nên tớ nghĩ đến bà San. Bà ta có thể nhìn thấy Tiêu Nhiên và Trịnh Kình Tùng trong đầu tớ, thì có lẽ bà ta còn biết hiều chuyện ly kỳ hơn. Và, vấn đề nhân cách Trang Ái Vân, tiếng hát, khuôn mặt dập nát... rõ ràng đều có liên quan đến chuyện này. Tiếc rằng bà lão ấy không “thoáng” tý nào, hỏi điều gì, bà lão toàn nói vòng vo, cố làm ra vẻ huyền bí. Hôm nay tớ đã nghĩ rồi, nhất định sẽ bám bà lão đến cùng để hỏi cho rõ xem bà còn biết những gì nữa”.
    Sảnh nói: “Lần này nhất định tớ sẽ hộ vệ cậu, lần trước sợ ơi là sợ. Hôm qua tớ đã gặp thầy Côn, nhờ thầy phân tích bệnh án của bà San, chưa biết chừng sẽ có ích cho chúng ta”.
    Hinh ngạc nhiên, rồi cười: “Tớ nhận ra rằng thầy giáo trẻ Vân Côn hay cậy mình có tài - đã bắt đầu nghe lệnh của cậu rồi đấy! Thật đáng chúc mừng!”

    Lúc đến buồng của bà San, thấy giường bỏ trống, cô y ta nói là bà San đã xuống sân đi bách bộ. Hinh và Sảnh ra cửa sổ nhìn xuống, thấy bà lão đang ngồi trên ghế đá, tay đang cầm một chiếc bình đựng dung dịch muối vẫn dùng để truyền. Cả hai đang định đi xuống thì Sảnh - thật tinh mắt - kêu lên: “Bà lão vẫn còn ham đọc sách kia”
    Trên cái bàn kê bên đầu giường, là một chồng sách. Hinh cười: “Tớ đã biết đó là những sách gì rồi. Toàn là sách về nghệ thuật biểu diễn, để diễn cứ y như thật, không hiểu bà ta còn ham học những thứ gì nữa, đã luyện được đến đỉnh cao rồi!”
    Sảnh bước lại xem, rồi nói: “Đúng, toàn là sách lý luận về biểu diễn. Cuốn này thì hơi lạ: “Tân Kim Lăng Thập Nhị Thoa - nữ minh tinh màn bạc Trung Quốc thập kỷ 40”, là sách đọc chơi để giết thì giờ. Nhưng, lạ nhỉ, cuốn này còn kẹp vài tờ giấy. Ch8ảng lẽ đọc sách lại còn phải ghi chép nữa kia?” Sảnh mở cuốn sách lấy mấy tờ giấy đó ra, cúi xuống lần giở xem. Cô bỗng “à” một tiếng, ngẩng đầu lên ngạc nhiên nhìn Hinh.
    Hinh vội bước đến xem, trong tay Sảnh là mấy tờ giấy cũ đã ố vàng, có các chữ Hán phồn thể được in dọc, có vẻ như được cắt ra từ một cuốn tạp chí. Có mấy tiêu đề phí bên trái khiến Hinh hơi run run: “Phụ trương đặc sắc của bản báo: hoàng hậu màn bạc Thượng Hải năm xưa giờ đây đã mất vía nơi sâu thẳm”. Một tiêu đề phụ là “Hé lộ bí mật Trang Điệp (Ái Vân) đã mắc bệnh tâm thần rất nặng, bóng ma dập dìu chốn phong lưu”.
    “Cậu xem cái này”. Sảnh bỏ tờ thứ nhất xuống, thấy tờ thứ hai - rõ ràng là cùng xuất xứ với tờ thứ nhất - là một tấm ảnh đen trắng choán già nửa trang tạp chí, chụp một cô gái áo trắng, dáng cao cao, mảnh dẻ đang đứng nhìn ra cửa sổ với tư thế tuyệt đẹp, mái tóc dài rủ xuống quá vai, trang nhã sống động như muốn bước ra khỏi nền giấy khiến Hinh phải tấm tắc trầm trồ. Hinh lập tức nhớ ra: đêm nọ trong bệnh viện tâm thần, bà San đã mô phỏng cái vai này!
    Tờ thứ ba vẫn là cắt từ cuốn tạp chí cũ ấy, phần quảng cáo của ngân hàng Hoa Kỳ choán một nửa, phía dưới là một bài viết kèm theo hai bức ảnh nhỏ. Một bức là chân dung một cô gái tuyệt đẹp, chú thích là “Trang Điệp thuở xưa”, bức kia - thực đáng kinh ngạc - là một khuôn mặt giập nát chằng chịt các vết ngang dọc, máu tươi đầm đìa.
    “Khuôn mặt nát bươm!” Cả hai cùng kêu lên. Sảnh lại giở cuốn “Tân Kim Lăng Thập Nhị Thoa - nữ minh tinh màn bạc Trung Quốc thập kỷ 40”, thấy trang có kẹp mảnh bìa đánh dấu chính là bài kỵ có tiêu đề: “Nay nàng là hoa bị chôn, cười ngây dại - “Tiêu Tượng phi tử” Trang Điệp bệnh tật và mộng mị quái đản”.
    Sảnh hỏi: “Mau nghĩ đi, nên đọc bài nào trước?”
    Hinh nói: “Tạp chí khổ nhỏ”.
    Sảnh nói: “Rất hợp với ý tớ”. Hai người bắt đầu xem từ “phụ trương đặc sắc”.

    Phụ trương đặc sắc của bản báo: hoàng hậu màn bạc Thượng Hải năm xưa giờ đây đã mất vía nơi sâu thẳm
    Hé lộ bí mật Trang Điệp (Ái Vân) đã mắc bệnh tâm thần rất nặng, bóng ma dập dìu chốn phong lưu

    Trần Vân Cảnh - Tuần san Thân Giang

    Một thời gian sau khi quốc nạn đã đi qua, hoàng hậu màn bạc Trang Điệp sắm vai trong “Ánh trăng lạnh” và “Giấc mộng hồ điệp” nổi danh Thượng Hải một thời, hai năm nay bỗng vắng bóng trên phim trường, “nhún mình” lấy chồng họ Tiêu - đại gia ngành tiền tệ, rồi về Giang Kinh ở ẩn, tin này đã từng gây xôn xao. Bản báo đã nhận được tin của một số vị là “người nội bộ”, được biết tình trạng thần trí của Trang Điệp ngày càng xấu đi, luôn luôn có những cử chỉ kỳ quặc, không ngờ, khắp nhà họ Tiêu đều đang kinh hãi.
    Cuối tháng trước, chúng tôi đã liên tiếp nhận được ba bức điện báo nặc danh, người gửi nói mình là “người nội bộ” thấy lo lắng cho sự an nguy của nhà họ Tiêu, muốn công bố việc nữ chủ nhân Trang Ái Vân đã gây nên bầu không khí đáng sợ ở nhà họ Tiêu. Trang Ái Vân tức Trang Điệp, từng được gọi là “Hoàng hậu màn bạc” “Tiên nữ ca nhạc”, cách đây 3 năm đã kết mối lương duyên với Tiêu Thừa Khiên - nhị công tử nhà họ Tiêu - nhân vật cự phách của ngành tiền tệ. Thực ra con đường gnhệ thuật của Trang Điệp đang rực rỡ như mặt trời lên cao, có tài năng bẩm sinh và kinh nghiệm lâu năm, tiền đồ nghệ thuật thênh thang, khác với các minh tinh có sắc hương nhưng chỉ sớm nở tối tàn. Vì vậy giới nghệ sĩ nhận định nàng vẫn có thể đứng ngôi hàng đầu nghệ thuật trong nhiều năm. Nhưng chỉ một năm sau khi kết hôn, Trang Điệp lại bất ngờ tuyên bố giã từ màn bạc, tuy nàng có viện lý do đang mang thai và sau này sẽ một lòng thờ chồng nuôi con, nhưng vẫn khiến công chúng bàn tán xôn xao, cuối cùng trở thành một câu đố rất khó giải. Chúng tôi đến Giang Kinh với một niềm hy vọng xa vời là thực hiện một phóng sự chân thực về tình hình nhà họ Tiêu, và cũng mong sẽ làm rõ sự thật về việc Trang Điệp giã từ màn bạc.
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  9. #29
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 27 Những cơn mộng du kinh hồn


    “Chiều nay em đi đâu? Anh gọi điện về không thấy em ở nhà?”
    Phồn Di đang mở cuốn “Tạp chí hội y học Mỹ” nhưng tâm trí đang vẩn vơ mãi ở đâu. Lòng chị đang ngổn ngang trăm mối đến nỗi không biết chồng vừa hỏi gì: “Anh bảo sao cơ?”
    Người chồng hỏi lại câu vừa nãy, Phồn Di đáp: “Em đến hiệu sách Tân Hoa - Giang Kinh vừa mở cửa trở lại, rất bề thế!”
    “Có mua được cuốn gì hay hay không?”
    Phồn Di nghĩ ngợi rồi nhìn thẳng vào đôi mắt người chồng: “Em đứng bên quầy sách y học thì gặp mấy sinh viên đại học y Giang Kinh đang mua sách học thêm, vô tình nghe thấy họ nói về “vụ án ám sát phòng 405” gì đó, hơn chục năm qua dường như mỗi năm có một nữ sinh nhảy lầu tự tử ở phòng 405 khu nhà 13. Anh Thành, sao anh chưa từng kẻ với em chuyện ấy?”
    Ánh mắt Lục Bình Thành không tỏ ra ngạc nhiên, anh chỉ thở dài, vẻ mặt rầu rầu: “Phồn Di, chắc em hiểu tại sao anh không nói với em”.
    “Vâng em hiểu, anh không muốn em biết chuyện rồi lại nghĩ ngợi lan man, anh đang giữ gìn cho em, xưa nay anh luôn bảo vệ em để em có thể tĩnh tâm, có thể sống bình thản, yên ổn”. Phồn Di gật đầu cảm kích nhìn Bình Thành. “Anh gọi điện cho em có việc gì không?”
    “Không có việc gì đáng kể, anh chỉ mong nhân dịp này em hãy gắng nghỉ ngơi ít hôm, tiện thể nói với em là, anh đã đặt bàn ăn ở hiệu “Thường Tất Tiên”, tối nay chúng ta đi ăn hiệu”.
    Phồn Di thấy ấm lòng, chị cảm thấy mình có phần không phải với chồng. Đã lấy nhau bao năm, khi xưa chị đi du học nước ngoài và tuổi sinh nở đã trôi qua. Bình Thành trước đây vẫn có ý định sinh con, nhưng thấy Phồn Di không mặn mà thì anh cũng không ép. Anh luôn chiều vợ mọi bề, đặc biệt rất ủng hộ chị tiến bước trên con đường sự nghiệp. Phồn Di hiểu Bình Thành cũng cần sự âu yếm và cần được giúp đỡ.
    “Gần đây anh có ngủ được không? Hình như đêm qua anh hơi trằn trọc?”
    “Vẫn tạm được! Dùng mãi thuốc an thần, sắp lờn thuốc mất rồi! Lâu nay anh bận quá nhiều việc. Sắp đến cuối học kỳ rồi mà mọi chyuện vẫn bề bộn, sau đợt này đến kỳ nghỉ hè thì sẽ thoải mái thôi! Anh tính là, nếu em không quá bận thì đến kỳ nghỉ hè anh sẽ cùng em sang châu Âu một chuyến”. Bỉnh Thành ngồi xuống bên Phồn Di.
    “Thế thì quá hay. Sẽ như trước đây, hễ anh nghỉ hè là em sẽ đi với anh luôn!” Phồn Di tươi cười. Bình Thành ngắm nhìn khuôn mặt nhẹ nhõm, trong sáng và trang nhã của vợ, anh thấy vừa đáng yêu cũng vừa ái ngại.
    Phồn Di chợt nói sang chyuện khác: “Nhưng anh còn phải ứng phó cho qua cái ngày 16 tháng 6 đã, đúng không? Liệu sự việc căng đến mức nào?”
    Bình Thành đứng lên: “Sinh viên phải chịu áp lực bài vở tương đối nặng, năm nào cũng có người không chịu đựng nổi nên đã tự sát. Điều này cũng hay gặp trong các trường đại học, dặc biệt là đại học y. Nhà trường rất coi trọng chuyện này, tuy vậy chúng ta không thể coi các tin đồn nhảm nhí là một vấn đề gì đó”.
    “Nhưng hàng năm đều có chuyện xảy ra ở phòng số 405 khu nhà 13, là ngẫu nhiên quá mức thì phải? Các anh làm công tác sinh viên, tất nhiên sẽ không tin vào những chuyện đồn đại kháo nhau, nhưng cũng không thể tốn sức ứng phó với nó chỉ vì chưa tìm ra nguyên nhân!”
    “Về những chuyện này em đã biết được đến đâu? Đội trưởng trinh sát giỏi nhất của công an thành phố đã từng phân tích sự việc, anh ta biết những sự việc lịch sử của căn phòng ấy, nhưng cũng không co s bất kỳ bằng chứng nào để liên hệ hai nhóm sự việc với nhau vì chính cách nghĩ đó đã là quá hão huyền!” Bình Thành đi đi lại lại trong phòng.
    “Nhưng, những thứ xuất hiện trong ảo giác của các sinh viên kia thì sao? “Ánh trăng” có liên quan đến “Nguyệt Quang xã” ngày trước không?”
    Bình Thành bỗng dừng bước: “Mấy sinh viên đã bàn tán về việc đó, là nam hay nữ? Là người như thế nào?”
    Phồn Di thấy vẻ mặt của chồng trở nên rất căng thẳng, chị thầm kinh ngạc và nói: “Là mấy cậu sinh viên, họ đang tìm thêm sách đọc thêm về môn Chẩn đoán và Nội khoa, chắc là sinh viên năm thứ hai thứ ba...”
    Bình Thành thở phào rồi nói: “Em ạ, thời đại đã khác rồi, em cũng không nên quá nhạy cảm về các sự việc trong quá khứ nữa. Các vụ nhảy lầu ở phòng 405 những năm gần đây, đã cách xa những năm tháng ấy, không thể dính dáng gì đến nhau! Đúng là cá biệt có sinh viên đang đắm đuối nghiên cứu những sự việc này, đến nỗi “tẩu hỏa nhập ma”, ảnh hưởng đến học tập và sinh hoạt, thật là đáng buồn! Em phải tin rằng nhà trường sẽ giải quyết tốt việc này. Năm nay phòng bảo vệ sẽ bố trí phòng đặc biệt, trước hết sơ tán các nữ sinh viên ở đó, rồi cử 6 nhân viên canh gác căn phòng 405, chia nhóm 3 người, cứ 15 phút lại đổi ca túc trực. Bố trí chặt chẽ như thế, anh không thể tưởng tượng lại còn có thể xảy ra sự kiên bất trắc gì ở phòng 405”.
    Phồn Di gật đầu: “Có lẽ tại em quá nhạy cảm. Anh cũng nên hiểu cho em, sự việc Tiêu Nhiên vẫn nặng trĩu trong em”.
    Bình Thành đặt hai bàn tay ấm áp và mạnh mẽ lên đôi vai Phồn Di: “Đương nhiên là anh rất hiểu, vì thế, anh luôn thận trọng, không đụng chạm đến nỗi lòng ấy của em. Và mong em cũng hiểu cho anh!”

    Nhấm nháp các món sơn hào hải vị của tiệm “Thường Tất Tiên”, Phồn Di thấy như đang nhai rơm, bởi tâm trạng của chị vẫn đang ngổn ngang trăm mối.
    Lúc này đêm đã về khuya, Phồn Di nằm trên giường, bao ký ức ngày xưa tìm về với chị, dù chị không muốn thế. Chị càng thấy khó ngủ.
    Phồn Di nhớ về năm ấy, những tháng ngày u ám trong cuộc đời chị. Đầu tiên là bị thế lực của “Máy kéo” lôi chị ra khỏi Tiêu Nhiên, đến thực tập tại bệnh viên tiền tuyến ở ngoại thành phía Đông. Mùa xuân mới về được ít hôm, thì nghe nói Tiêu Nhiên bị cách ly để thẩm vấn - bởi vì anh ấy bị nghi là thành viên của tổ chức đặc vụ có tên “Nguyệt Quang xã”. Ngay sau đó chị cũng bị điều tra luôn.
    Tổ điều tra đã nhiều lần hỏi chuyện, và đưa ra nhiều tuyên bố cảnh cáo ghê rợn. Thoạt đầu chị không để ý, và tin chắc ở sự trong sáng và nhân cách của Tiêu Nhiên, nhưng khi anh công nhận có quan hệ với “Nguyệt Quang xã” thì chị trở nên khủng hoảng.
    Khi tổ điều tra tiếp tục căn vặn, Phồn Di thấy thấp thỏm, tuy chị nhiều lần tự nhắc mình phải kiên quyết không phụ lòng tin cậy của Tiêu Nhiên, nhưng hình như tổ điều tra đánh hơi thấy điều gì đó... họ càng o ép chị dữ dội hơn. Thoạt đầu chị hoang mang mất tự chủ, sau đó rơi vào trạng thái trầm cảm nặng nề.
    Chính vào lúc này, một thực tập sinh lớp trên đã đến với chị, đó là Luc Bình Thành.
    Bình Thành đang là thực tập sinh năm cuối, cùng làm với Phồn Di ở khoa nội. Khi biết anh là sinh viên của đại học y số 1 Giang Kinh, Phồn Di rất ngạc nhiên. Vì bệnh viện tiền tuyến vốn là nơi thực tập cho sinh viên đại hoc y số 2 Giang Kinh. Bình Thành giải thích rằng bệnh viện tiền tuyến chủ yếu phục vụ công nhân của vài nhà máy lớn ở ngoại thành phía đông Giang Kinh. Những công nhân này sống thì gian khổ, hưởng thụ thì ít, rất cần được ưu tiên chăm sóc tốt, cho nên anh đã từ bỏ cơ hội thực tập ở bệnh viên Nhân dân của thành phố, và được nhà trường nỗ lực đưa anh sang làm “con nuôi” của đại học y số 2 Giang Kinh, “đi xuống cơ sở” là bệnh viện tiền tuyến tương đối gian khổ thực tập. Những lời này khiến Phồn Di hết sức xúc động. Về sau, khi tổ điều tra và phái “tạo phản” càng ráo riết theo dõi chị, chị hết cách để tiếp xúc với Tiêu Nhiên, thì Bình Thành trở thành bến cảng giúp chị tránh cơn bão tố.
    Đồng thời với việc tổ điều tra bám riết Phồn Di, thì phái “tạo phản” cũng một mực dồn ép chị phải “tỏ rõ lập trường”. Cho đến một hôm, quá mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần và muốn chấm dứt sự hành hạ tâm thần bất tận ấy, Phồn Di đã nói với tổ diều tra rằng mình không còn là bạn gái của Tiêu Nhiên nữa. Tiêu Nhiên biết tin này, anh vô cùng đau xót, gọi điện đến yêu cầu gặp chị một lần cuối. Phồn Di không còn can đảm để đi gặp anh. Tối hôm đó chị ngồi nép mình bên Bình Thành cho đến tận khuya.
    Tin Tiêu Nhiên nhảy lầu tự sát bay đến, và Phồn Di thực sự suy sụp tinh thần. Thoạt đầu mất ngủ liền mấy đêm, ban ngày cũng không thể đến bệnh viện để làm việc, suốt ngày đêm chỉ ngồi ngây dại bên cửa sổ, thậm chỉ từng muốn giã biệt thế gian để đi theo Tiêu Nhiên - Phồn Di vẫn yêu anh tha thiết, ý nghĩ chết theo người yêu vẫn thấp thoáng hiện lên. Ngay Trịnh Kim Tùng còn có can đảm ấy nữa là! Tuy nhiên Phồn Di vẫn nuôi hy vọng, vẫn ngóng chờ ngày ánh dương lại đến.
    May sao Bình Thành luôn ở bên chị, anh động viên chị cố chịu đựng vượt qua được những ngày này. Thấy Phồn Di phờ phạc như người mất hồn, nhà trường đã để cho chị được nghỉ tĩnh dưỡng ít lâu. Khi trở lại trường, Phồn Di được biết các sinh viên từ khóa này trở lên đều phải ngừng học tập, đi đến các nông trường của bộ đội miền biên cương để “giáo dục lại”. Phồn Di cùng một số bạn được bố trí vào một đại đội ở vùng Hoán Nam. Sau đó ít lâu, một đợt sinh viên khác cũng được cử đến, Phồn Di nhận ra khuôn mặt thân quen: Lục Bình Thành.
    Hồi tưởng lại bao chuyện xưa, Phồn Di bất giác lệ rơi lã chã.
    Bình Thành nằm bên, anh giở mình, và chợt thở dài trong giấc ngủ mơ màng.
    Phồn Di chợt thấy lòng mình trùng xuống, chỉ có chị mới biết Bình Thành trông có vẻ khoẻ mạnh song đã từ lâu anh mắc chứng mất ngủ. Đáng lo hơn nữa là anh có tiền sử mắc bệnh mộng du, tuy hiếm khi phát bệnh, nhưng cũng đủ khiến Phồn Di phải đi cùng anh cầu cứu các chuyên gia. Thuốc của họ rất có hiệu quả, chứng mất ngủ của Bình Thành đã được khống chế một thời gian rất dài.
    Nhưng đêm nay chị có một linh cảm chẳng lành. Quả nhiên, chỉ một lát sau khi chị nghĩ đến điều này thì Bình Thành từ từ ngồi dậy. Phồn Di khẽ gọi: “Anh Thành!” Bình Thành hoàn toàn không hay biết, Phồn Di hiểu rằng anh đã lại bắt đầu mộng du.
    Anh xuống giưòng, bước lên vài bước, rồi ra đứng trước cửa sổ phòng ngủ nhìn bầu trời đêm đen kịt, đôi môi mấp máy như định nói điều gì đó. Phồn Di nhớ đến lời dặn của bác sĩ hãy tìm cách ghi lai lời của Bình Thành nói trong lúc mộng du để giúp cho việc phân tích sau này. Chị vội lần tìm chiếc máy cát-sét mi-ni và ấn nút ghi.
    Quả nhiên Bình Thành đã nói mấy câu ngắn, tiếc rằng ngữ điệu lại rất kỳ quái - cũng như các câu nói lúc ngủ mê, không sao nghe rõ được. Bình Thành đứng im một lát, rồi quay người rời xa cửa sổ.
    Phồn Di vừa thở phào, thì lại thấy chồng mình đi chân không ra khỏi phòng ngủ. Chị đi theo và nghĩ sẽ lựa lúc để gọi anh tỉnh lại. Đây là một cách điều trị mà chuyên gia từng điều trị cho Bình Thành đã nói với chị, trái ngược với cách của dân gian vẫn bảo nhau là “tuyệt đối không được đánh thức người đang mộng du”. Đánh thức người mộng du, thực tế là “liệu pháp chán ghét” - để cho bệnh nhân hiểu rằng mình đã bị mộng du, họ sẽ kiểm điểm lại hành vi bệnh trạng của mình, để ức chế sự phát sinh lần sau.

    Phồn Di đi theo ra phòng khách, Bình Thành đi thẳng ra cửa, bước ra ban công.
    Mọi lần mộng du trước kia anh chưa từng làm thế này!
    Bác sĩ từng dặn dò Phồn Di: người mộng du không hề biết mình đang mộng du, khả năng gây tác hại cho bản thân tuy nhỏ nhưng không phải là không có. Bước ra ban công tầng thứ 12, đúng là một tình huống rất nguy hiểm.
    Chị đang định gọi lại thì thấy anh đang dờ đẫn nhìn xuống phía duới, giọng nghèn nghẹn lẩm bẩm mấy tiếng, anh bỗng giơ hai tay đưa mạnh lên, rồi quay người lại ngay. Tuy bất chợt đối mặt với vợ nhưng hình như anh không nhìn thấy gì, anh đi qua, bước đi rất nhanh, trong chớp mắt đã đến ngay cửa chính và mở rộng cửa.
    “Anh Thành!” Phồn Di gọi to. Bình Thành sững người, quay lại nhìn, vẫn không nhìn thấy vợ, anh quay người bước ra khỏi nhà. Phồn Di chạy ào ra, nhưng đôi chân mạnh mẽ của Bình Thành lướt đi như bay, rồi anh chạy xuống cầu thang, Phồn Di không dám gọi nữa sợ hàng xóm thức giấc, chị đành chạy xuốn cầu thang bám theo Bình Thành.
    Có lẽ chỉ một lát sau cả hai đã xuống hết mười hai tầng cầu thang. May mà sau khi ra khỏi khu nhà, Bình Thành bỗng đi chậm lại, lững thững đi vài bước rồi dừng, mắt anh nhìn xuống đất rồi lại ngửng đầu nhìn lên. Phồn Di nhìn theo hướng Bình Thành đang nhìn, hướng đó là ban công tầng 12 nhà mình.
    Chị ôm chặt Bình Thành, gọi vào tai anh: “Anh Thành, tỉnh lại đi! Đã hết ngủ mê rồi, mình quay về đi nghỉ thôi!”

    Rồi Bình thành cũng đã ngủ say, nhưng Phồn Di thì không sao ngủ được nữa.
    Chị đứng đậy, bước ra khỏi phòng ngủ, sang phòn đọc sách, đeo tai nghe lai những câu nói mê vừa nãy ghi âm. Câu đầu tiên nói ở trước cửa sổ, hình như có 8 chữ nhưng âm thanh quá kém. Tua lại, sau khi nghe lại đến vài lần, chị chợt thấy âm điệu này quen quen. Chị cố nhớ lại... thì ra đây là tiếng địa phương Tấn Nam - quê của Bình Thành. Bình thường anh nói tiếng phổ thông rất chuẩn, khi trò chuyện với cha mẹ, anh cũng không nói tiếng địa phương. Có một lần đi cùng anh về Sơn Tây thăm mẹ chồng bị ốm nặng, Phồn Di lần đầu tiên nghe Bình Thành dùng tiếng địa phương nói chuyện với bà con họ hàng.
    Tuy nhiên chị cũng không lạ gì tiếng Sơn Tây. Khi công tác ở trong nước, chị từng tiếp xúc với không ít bà con với Bình Thành ra đây chữa bệnh. Chị cố gắng tìm lại cảm giác về tiếng địa phương này, nghe lại vài ba lần nữa, cuối cùng đã ang áng nghe ra, hình như bình Thành nói là: “Đốm lửa tuy nhỏ, đốt cháy đồng cỏ”.
    Nếu mình nghe đúng là thế, thì câu này có hàm ý gì?
    Chị lai nghe tiếp hai chữ Bình Thành nói ở ban công, cũng là tiếng địa phương Tấn Nam, nhưng kỳ lạ thật, hình như anh cố nén giọng, nói như nghèn nghẹn.
    Hai chữ này không nói nhanh, Phồn Di nghe vài lần, rồi hầu như có thể khẳng định đó là hai chữ “ánh trăng”.
    Theo như hai cô gái gặp lúc ban ngày đã nói, thì “ánh trăng” đã từng tồn tại trong bộ não của các cô sinh viên đã nhảy lầu, và họ đoán rằng “vụ án mưu sát 405” và “ánh trăng” có liên quan chặt chẽ đến nhau.
    Tại sao hai chữ này lại xuất hiện trong đầu Bình Thành?
    Và ngày 16 tháng 6 đã gần kề, anh ấy phải chịu áp lực quá lớn chăng?
    Hay là anh ấy có điều gì đó đang giấu mình?
    Anh ấy chưa bao giờ nói với mình là ở đại học y Giang Kinh bao năm qua liên tiếp nhảy ra các vụ nhảy lầu? Vì sợ sẽ đụng đến nỗi đau của mình, thật không?
    Nếu sớm biết chuyện, chắc mình sẽ lập tức liên hệ ngay đến cái chết của Tiêu Nhiên.
    Tại sao lại xảy ra các vụ nhảy lầu? Lẽ nào lại quái đản như hai cô sinh viên kia đã nói?
    Phồn Di thấy hướng suy nghĩ của mình có phần rối loạn, chị đứng lên pha tách trà rồi lại ngồi xuống bình thản ngẫm nghĩ: tại sao hễ nghe đến “vụ 405” mình lại bứt rứt không yên? Hình như không chỉ vì căn phòng 405 là phòng ký túc xá định mệnh của Tiêu Nhiên. Thế thì còn vì cái gì khác nữa? Có lẽ, hồi tưởng rành rọt quá khứ sẽ khiến cho những điểm nghi vấn đã nhạt nhoà lại được hiện lên rõ nét.
    Trước tiên là việc Bình Thành chuyển trường học, có thể nói điều này chưa từng nghe nói đến trong các trường đại học ở thời kỳ ấy. Cái gì đã khiến anh có thể chuyển trường một cách thuận lợi? chẳng lẽ vì nhiệt tình muốn phục vụ giai cấp công nhân? Chính Bình Thành nói, anh đã học hết phần đại cương ở đại học y số 1 Giang Kinh, ở Giang Kinh rộng lớn có hàng chục bệnh viện lớn nhỏ, anh ấy lại chẳng tìm được một người bạn cũ để nhờ? Tại sao mình vừa đến bệnh viện Hoán Nam thì anh ấy lò dò đến, và ngẫu nhiên làm cùng với mình luôn? Quyền phát ngôn lựa chọn nông trường bộ đội, thường nằm trong tay phái “tạo phản” đang “nắm” nhà trường, nhưng Bình Thành thì không có cái vai trò ấy. Ở nông trường, tại sao chỉ ít lâu sau khi mình và anh ấy đã chính thức yêu nhau, thì cả hai cùng nhận được lệnh khẩn “vì thiếu cán bộ y tế” nên điều động về bệnh viện thị trấn, ít lâu sau lại lên huyện, rồi về thành phố Bang Phụ? Tất cả đều như bước lên một con đường đã được sắp đặt “phẳng phiu”. Cho đến thập kỷ 70, Bình Thành được điều về bệnh viện Giang Kinh, còn mình - vì vẫn còn dư âm của chuyện xưa tan nát cõi lòng, nên vẫn khăng khăng ở lại An Huy.
    Có quá nhiều vấn đề. Phồn Di buồn bã đứng lên đi đi lại lại mấy bước. Chị biết đêm nay mình sẽ mất ngủ. Từ lúc chiều đến giờ, chị cứ do dự chẳng biết có nên đọc bản phô-tô “Hồ sơ Nguyệt Quang xã” mà Âu Dương Sảnh đưa cho không? Chị không tin rằng, chỉ qua một thời gian ngắn, chị sẽ có can đảm đọc nó - chứng trầm cảm nghiêm trọng tuy đã được khống chế, nhưng bác sĩ vẫn dặn dò phải gắng tối đa không để cho tâm trạng bị xáo trộn. Đọc nhật ký của Tiêu Nhiên, chắc chắn tâm trạng của mình sẽ biến động dữ dội, vậy nên hãy tránh thì hơn. Trên đường trở về nhà, Phồn Di đã mấy lần định đứng lại mở ra xem nhưng rồi lý trí của chị vẫn kiểm soát được. Lúc này đêm dài đằng đẵng, chị không muốn lại mệt óc để cân nhắc nữa, quyết định sẽ mở cuốn nhật ký của Tiêu Nhiên ra đọc, coi như để thư giãn vậy.
    Chị mở va-li du lịch lấy tập phô-tô hồ sơ đó ra, thoáng nhìn đã biết ngay là chữ của Tiêu Nhiên, nét chữ thân quen này đã trôi đi xa lắm, chị thấy đau xót, và hiểu rằng mình đã quyết định sai lầm, chỉ e không có can đảm để đọc nó nữa.
    Phồn Di không đọc nội dung nhật ký, mà chỉ giở rất nhanh lướt nhìn các trang hồ sơ.
    Sau phần nhật ký là một số trang ghi chép với nhiều dạng chữ viết khác nhau, chắc là tổ điều tra ghi các nội dung thẩm vấn Tiêu Nhiên.
    Bỗng Phồn Di nhìn thấy một kiểu chữ viết quen quen.
    Trên một tờ giấy viết thư có in hàng chữ “Ủy ban cách mạng đại học y số 2 Giang Kinh”, thấy viết rõ ràng “Báo cáo nội bộ về hoạt động của “Nguyệt Quang xã” trong thời gian gần đây”, thấy tất cả thảy có 5 tờ, ghi chú ở phần cuối cùng là hai chữ: “Tinh Hỏa”.
    Đốm lửa tuy nhỏ, đốt cháy đồng cỏ.
    Đây chính là bút tích của Lục Bỉnh Thành.
    Phồn Di cảm thấy hơi chóng mặt, cố gượng để đọc bản báo cáo này. Càng đọc chị càng thấy kinh hoàng.
    Nửa đầu của báo cáo, nói về tình hình từ 1966 Ủy ban cách mạng đại học y Giang Kinh - dưới sự giúp đỡ của Uỷ ban cách mạng các trường đại học toàn thành phố - đã tóm được một loạt thành viên “Nguyệt Quang xã” vẫn đang bí mật hoạt động. Từ bản báo cáo này, nhận ra rằng chính đồng chí “Tinh Hỏa” đã dùng bí danh “Liễu Tinh” để thâm nhập nội bộ tổ chức “đặc vụ” này, nắm được quy luật hoạt động của “Nguyệt Quang xã”, từ đó giăng lưới vét sạch cả bọn phản cách mạng.
    Nửa sau của báo cáo, chủ yếu ghi chép quá trình triển khai điều tra thẩm vấn chu đáo tỷ mỉ ra sao, cuối cùng làm rõ Tiêu Nhiên là thành viên cuối cùng của “Nguyệt Quang xã”, đánh dấu chấm hết tuyệt đẹp cho quá trình phá “vụ trọng án Nguyệt Quang xã” trải suốt 10 năm. Và, người tổ trưởng luôn đứng sau họat động của tổ điều tra, chính là đồng chí “Tinh Hỏa”- người viết bản báo cáo này. Tuy “Tinh Hỏa” không trực tiếp tham gia thẩm vấn Tiêu Nhiên nhưng anh đã rất thành công trong việc phân hóa, làm tan vỡ “những thế lực thông cảm” với Tiêu Nhiên, dùng áp lực mạnh buộc người yêu của Tiêu Nhiên phải tuyên bố “vạch rõ gianh giới” với Tiêu Nhiên, đồng thời thu được chứng cứ quan trọng chứng minh anh ta đã tham gia hoạt động của “Nguyệt Quang xã”.
    Đáng tiếc, bản báo cáo này không viết rõ “chứng cứ quan trọng” cụ thể là thứ gì, có lẽ nó chỉ là cuốn nhật ký này. Cũng không viết ai đã cung cấp chứng cứ, nhưng hình như ngầm chỉ ra rằng chính Khổng Phồn Di đã “trở về với chính nghĩa”, khai ra Tiêu Nhiên.
    Thảo nào Âu Dương Sảnh nhìn mình hằn học như thế.
    Điều này mới khiến Phồn Di phải rùng mình: thì ra Lục Bỉnh Thành là một con người như thế!
    Tay Phồn Di run run, nhưng chị lập tức an ủi: ở cái thời đại ấy, thì hành động của Lục Bỉnh Thành là biểu hiện của cách mạng - thậm chí là cao thượng, là vinh quang. Có vô số người đã mắc những sai lầm kiểu này. Trong thời kỳ mới, họ sửa chữa sai lầm, đổi mới vươn lên không làm hại ai nữa, là tốt rồi. Thậm chí chị nghĩ rằng trong báo cáo này Bỉnh Thành đã cố ý miêu tả chị là “đã nâng cao giác ngộ cách mạng”, ngụ ý rằng chị khai ra Tiêu Nhiên - là sự bảo vệ cho chị.
    Lúc này đã có thể hiểu, tại sao trong khi các sinh viên khác vẫn đang phải “rèn luyện” thì mình đã trở thành một bác sĩ.
    Có một điều đáng sợ là, xưa nay Bỉnh Thành vẫn luôn giấu chị.
    Chuyện này, anh ấy có thể giấu chị lâu như thế, ổn thỏa như thế, liệu còn có những chuyện gì khác vẫn đang chôn giấu trong lòng anh ấy không?
    Phồn Di không còn tâm trí nào để đọc nhật ký của Tiêu Nhiên nữa, vì chị đã cảm giác được rằng tất cả đều bắt đầu từ một sai lầm rất lớn, không thể khắc phục, và ngoài cả sự tưởng tượng của chị. Chị cảm thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ, bèn vội vã cất ngay đám giấy tờ vào xắc du lịch, chị rất sợ Bỉnh Thành phát hiện thấy. Hôm nay chị mới nhận ra rằng, người đàn ông đã chung sống với mình bao năm qua xa lạ biết chừng nào!
    “Em đang làm gì thế?”
    Phồn Di suýt kêu lên, quay đầu lại, chị chưa kịp hòan hồn nhìn Bỉnh Thành đang đứng sau lưng chị.
    “Bỉnh Thành! Thì ra là anh làm em giật cả mình.... Em... không ngủ được, nên ra đây thu dọn các thứ”.
    Dưới ánh đèn sáng choang, sắc mặt anh có phần uể oải và khô cứng: “Em đừng vội, để sau hãy thu dọn, có gì mà không thu dọn được chứ”.

    8h ngày 14 tháng 6

    Sáng ra, Bỉnh Thành lại hăm hở cưỡi xe đạp đi làm. Anh vừa đi khỏi, Phồn Di cũng dậy ngay, bắt đầu từ phòng đọc sách, chị tìm kiếm khắp nhà. Chị cũng không biết mình đang tìm kiếm cái gì, hoàn toàn không có mục đích. Có lẽ chị nhằm loại trừ mối nghi ngờ của người chồng.
    Trên bàn là một vài cuốn sách giáo dục học và mấy sổ “Bản tin tham khảo” mà gần đây anh chưa kịp đọc trong giờ đi làm. Có một tập “Hóa đơn / Ghi chép chi tiêu” cũng đặt trên bàn. Chị biết anh là một nòng cốt của Đảng ủy Viện y học lâm sàng, một số tín hiệu gần đây cho thấy có thể anh sẽ được đề bạt làm hiệu phó, cho nên anh liên tục đi công tác, anh tập hợp các hóa đơn, đủ mọi hạng mục, đúng là thượng sách. Đang định lướt qua cái bàn thì chị chợt nghĩ: nên tìm hiểu Bỉnh Thành hay đi đâu, thì cũng không có gì là dở cả, ít ra cũng có thể chứng minh anh đi đâu, có giấu mình hay không?
    Đọc hóa đơn, phiếu chi... là chuyện cực kỳ đáng ngán, Phồn Di giở vài tờ phiếu chi gần đây, thấy các địa chỉ anh đi đến đều khớp với các điều anh đã nói với chị trước đó. Khi nhìn thấy một phiếu ghi chi tiêu ghi ngày đầu tháng 5, chị bỗng chững lại. Chị nhớ rằng, anh đã nói lần ấy là đi Nam Kinh dự hội nghị bàn về giáo trình y khoa do Bộ y tế và Ủy ban giáo dục cùng triệu tập. Nam Kinh khá gắn bó với Vô Tích quê chị, mấy năm trước cha mẹ chị lần lượt qua đời nhưng chị vẫn còn nhiều người thân ở quê, chị vẫn rất nhớ thương họ.
    Tờ khai chi tiêu này bao gồm vé tàu hỏa khứ hồi, phí nghỉ khách sạn, và hóa đơn đi taxi. Nhiều năm làm công tác nghiên cứu khoa học đã tôi luyện cho chị có đôi mắt sắc sảo, chị vừa thoáng nhìn đã nhận ra ngay có điều bất thường. Lại nhìn kỹ từng tờ vẽ, chị thấy nổi cộm một điều nghi vấn lớn.
    Chị phát hiện ra rằng, tấm vé tàu từ Nam Kinh trở về Giang Kinh ghi 10 giờ ngày 7 tháng 5 tàu chạy. Vì là tàu tốc hành, nên khoảng trưa ngày 8 sẽ về đến Giang Kinh. Nhưng, tám “Vé thống nhất của taxi thành phố Giang Kinh” cùng tên trong tập phiếu khai này, thì lái xe ghi là ngày 9 tháng 5. Tại sao lại chênh nhau một ngày?
    Phồn Di nhìn kỹ hai tấm vé tàu hỏa bằng bìa cứng, rõ ràng là có dấu hiệu của kiểm soát vé - là vết “bấm” riếng của nhân viên trên tàu làm, thường là lưu lại bên mép tấm vé bằng bìa cứng hai cái “răng” nhỏ. Có lẽ mình đã đa nghi, rõ ràng là anh ấy lên tàu hỏa trở về Giang Kinh, chắc là anh lái xe taxi đã ghi nhầm ngày trên vé xe, chỉ là viết nhầm thôi, khi viết ngoáy, số 8 và số 9 cũng dễ lẫn lộn kia mà!
    Nhưng chị lại nhìn tấm vé chuyến đi khỏi Giang Kinh, thì chị lại nghĩ khác. Vết soát vé để lại trên tấm vé tàu đi khỏi Giang Kinh, là hai “răng” có quy tắc, cái răng nhỏ có hình chữ nhật. Nhưng tấm vé trở về Giang Kinh tuy có hai cái răng nhỏ ấy, nhưng lại không phải hình chữ nhật. So sánh tiếp hai tấm vé, còn thấy khoảng cách giữa hai răng lại cũng khác nhau.
    Nó nói lên điều gì? Bỉnh Thành đã không dùng tấm vé này, nhưng tự anh đã “bấm” thành hai cái răng để làm bằng chứng báo cáo tài vụ thanh toán? Tại sao anh phải làm thế?
    Phồn Di nghĩ mãi nghĩ mãi rất lâu, đưa ra nhiều giả thiết...cho đến lúc chính mình cũng thấy thật vô lý: chẳng lẽ một con người từng có một đoạn đời đen tối, thì không thể có hiện tại và tương lai trong sáng đàng hoàng nữa? Liệu có phải mình đã quá đa nghi không nhỉ?
    Nhưng Phồn Di vẫn muốn loại trừ một giả thiết táo tợn và đáng sợ nhất.

    Sau khi Phồn Di nhấn vào máy nhắn tin của Âu Dương Sảnh, rất nhanh chóng chị đã nhận được điện thoại trả lời: “Cô Phồn Di, cháu và Hinh đang ở đây, mỗi người cầm một ống nghe”.
    Nên bắt đầu nói từ đâu nhỉ? Phồn Di hơi ngập ngừng, rồi hỏi: “Tôi nhớ là Hinh nói rằng đã chứng kiến một sự kiện nhảy lầu ở Nghi Hưng, người ấy trước kia cũng ở phòng 405, cũng từng nhảy lầu, nhưng đã may mắn sống sót. Cháu còn nhớ mình đi Nghi Hưng, hôm nào không?”
    “Cháu còn nhớ, là ngày 8 tháng 5”. Hinh khẳng định. Một chuỗi các cảnh ngộ hôm đó, đến nay cô vẫn còn nhớ như in.
    “Trời ơi” Phồn Di kinh hãi kêu lên. Chị lại càng do dự, có nên nói cho hai cô gái này biết bí mật về Lục Bỉnh Thành hay không? Phồn Di vốn luôn rất có ý thức giữ kín bí mật đời tư, nhưng lúc này chị thoáng cảm thấy mình càng biết nhiều thì nguy hiểm sẽ càng tiến đến gần.
    “Để tôi kể từ đầu nhé. Tối qua tôi đã mở đọc hồ sơ “Nguyệt Quang xã” mà hai cháu đưa cho, thấy rằng rất có thể chồng tôi cũng liên quan đến “Nguyệt Quang xã”.”
    “Ôi!” Hinh và Sảnh cùng kêu lên: “Chú ấy là ai ạ?”
    “Anh ấy là phó bí thư Đảng ủy Viện y học lâm sàng của các cô, tên là Lục Bỉnh Thành!”
    Sau khi nghe Phồn Di kể xong phát hiện của mình qua tập hồ sơ, Diệp Hinh nói: “Thật không ngờ chú ấy lại là Liễu Tinh! Một loạt các thành viên của “Nguyệt Quang xã” đã bị chú ấy tố giác, tuy không trực tiếp bị chết bởi bàn tay chú ấy, nhưng chú ấy không thể thoái thác trách nhiệm!”
    Hinh lập tức nhớ ra ngay rằng dù sao Lục Bỉnh Thành cũng là chồng Phồn Di. “Cô ạ, có lẽ cháu không nên nói về chồng cô như thế!”
    “Không sao. Tôi cũng vừa mới biết anh ấy là tổ trưởng “tổ điều tra chuyên án Nguyệt Quang xã” năm xưa, tôi và Tiêu Nhiên bị gây sức ép nặng nề, đều là ý của anh ấy đưa ra”. Phồn Di không dám nghĩ thêm về cái năm ấy nữa, tất cả - đều ngầm nói rằng kể từ năm ấy, cuộc đời chị đã đi chệch hướng.
    “Vậy thì chú ấy nhất định phải biết ai đã bán đứng chú Tiêu Nhiên!” Sảnh nói.
    Hinh nói: “Khỏi cần hỏi nữa, đã không phải là cô Phồn Di thì rõ là Trịnh Kình Tùng rồi!”
    “Điều này càng chứng tỏ Kình Tùng không thể là cùng chết với chú Tiêu Nhiên. Liệu có phải là tự sát hay không, đó là một câu hỏi lớn!”
    “Cháu nghĩ là, chắc chắn Thẩm Vệ Thanh không muốn tự sát, nhưng rồi chị ấy cũng rơi xuống lầu, liệu có ai đứng sau đẩy xuống không?” Hinh nhớ lại căn hộ của Vệ Thanh, nếu cánh cửa thông ra ban công mở ra, thì một ai đó sẽ rất dễ đẩy chiếc xe lăn ra sát lan can của ban công rồi xô xuống, Vệ Thanh cũng không còn cơ hội để chống lại.
    Phồn Di đang định nói mối nghi ngờ của chị về chuyến đi Nam Kinh của Bình Thành, nhưng chị lại kìm lại. Biết nói thế nào đây? Nghi ngờ chồng là hung thủ giết người? Chỉ một tấm vé tàu hỏa, thì có thể nói lên điều gì?
    Chị và Sảnh giao hẹn sẽ tiếp tục liên lạc, đặt máy xuống rồi chị vội vã ra khỏi nhà.
    Chị muốn được nghe thêm các ý kiến khách quan về người chồng của mình.
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  10. #30
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 28 Tai họa do con người đem đến


    Khi Phồn Di về đến nhà thì Bình Thành vẫn chưa đi làm về. Chị lo lắng đi đi lại lại trong phòng. Mình làm sao thế này? Liệu có phải bị điên rồi chăng? Hay là, việc phát hiện ra Bình Thành chính là “Tinh Hỏa” khiến mình bị sốc quá nặng? Chuyên án “Nguyệt Quang xã” đã đập nát tình yêu của mình, tàn phá tuổi xanh của mình, phải chăng anh ta đang cần tìm đến sự thăng bằng, và tìm cách bù đắp? Hay là vì mình ngờ ngợ rằng Bình Thành liên quan đến toàn bộ “vụ án mưu sát 405”?
    Nhưng vừa rồi chị đến đại học Giang Kinh tiếp xúc với các sinh viên Viện y học lâm sang, họ đều hết lời ca ngợi Bình Thành rất có phương pháp công tác, giản dị dễ gần. Phồn Di không hiểu ra sao nữa.
    Càng nghĩ chị càng thấy mình rất mù mờ thậm chí có phần kỳ quái. Tuy nhiên chị vẫn cứ mở tủ quần áo định lục tìm trong túi áo của Bình Thành, có lẽ sẽ thấy một cái gì đó có thể chứng minh cho phỏng đoán của chị.
    Nhưng lục khắp lượt các túi áo túi quần vẫn không tìm thấy một thứ gì gọi là có giá trị tư liệu. Cuối cùng chỉ còn đám giầy dép để dưới sàn là chưa kiểm tra. Liệu có cần thiết không? Chẳng lẽ anh ấy giấu cái gì đó quan trọng trong giày dép? Mình suy nghĩ thật vớ vẩn.
    Tuy nhiên, tác phong tỷ mỉ cặn kẽ vốn có vẫn thôi thúc chị ngồi xuống ngắm kỹ các đôi giầy. Giày của Bình Thành phần lớn là giầy thể thao và giày bata để chạy bộ, vì anh thường đi làm bằng xe đạp, đến trường lại đi lên hơn chục tầng cầu thang cho nên rất ít khi đi giầy da. Anh chỉ đi giày da trong những trường hợp giao tiếp chính thức, ví dụ đi họp, tiếp khách từ bên ngoài hoặc gặp gỡ lãnh đạo. Nếu đi công tác, anh thường đi giày thể thao cho thích hợp với đường xa, và mang thêm một đôi giầy da để dự các cuộc họp.
    Chị chợt nhận thấy có một đôi giầy thể thao mà phần áp sát đề giầy lại có một vệt màu hồng. Chị nhìn thật kỹ, sờ vào phía trong giầy rồi lại lật xem đế giầy. Mắt chị bỗng sang lên.
    Mặt đế giầy cũng giống như mặt đế của các đôi giầy thể thao thường thấy, có hàng chục đường rãnh lớn nhỏ, nhiều đường rãnh còn bám một ít bột mầu đỏ tía. Giơ lên trước ánh sáng mặt trời có thể thấy một số đốm lấm tấm xanh xen trong mầu tía. Phồn Di rùng mình, cảm thấy hơi chóng mặt.
    Lẽ nào lại đúng là như thế?
    Chị lấy một túi ni lông có sẵn mép gấp, dùng lưỡi dao nhỏ cạo một ít chất bột ấy...
    Ngoài cửa có tiếng chìa khóa cho vào ổ rồi mở cửa. Phồn Di vội giấu ngay túi ni lông.
    “Chiều nay em đi đâu vậy? Anh gọi điện về, không thấy em ở nhà”. Bình Thành hỏi có vẻ như chỉ là thuận miệng.
    “Có việc gì không ạ? Chả lẽ em cứ phải ngồi nhà để chờ điện thoại của anh à?” Phồn Di bình thản đáp.
    “Tất nhiên không phải thế” Bình Thành nói: “Anh sợ em ở nhà một mình buồn, đang định khuyên em nên năng đi ra ngoài”.
    “Em đã đến đại học Giang Kinh, từ sinh viên cho đến giáo viên đều ca ngợi anh, em thấy rất tự hào”. Phồn Di cũng chẳng rõ tại sao mình lại bịa thêm.
    “Thế ư? Anh vẫn tưởng em chả bao giờ muốn bước vào đại học Giang Kinh nữa”. Bình Thành ngạc nhiên nhìn vợ.
    “Có lẽ, thời gian thực sự có thể làm nhạt phai tất cả! Hoặc cần nói là, sự chín chắn là một quá trình không đơn giản. Em đã thấy khá hơn nhiều, sẽ không chìm đắm trong ký ức nữa”. Chị cũng nhìn Bình Thành, muốn có thể tìm thấy một số đáp án trong mắt anh.
    Nhưng chị chỉ nhìn thấy một đôi mắt rất sâu, rất đen. Chị không nhận ra điều gì khác.

    17h ngày 15 tháng 6

    Công viên nghĩa trong quốc tế Rochesea nằm ở ngoại ô phía tây nam Giang Kinh, phía tây giáp hồ Chiều Dương, phía bắc giáp khu lãnh sự quán cũ, phía đông là quần thể các vi la kiểu cũ. Âu Dương Sảnh đứng ở cổng nghĩa trong ngắm nhìn khung cảnh xung quanh, cô thầm tấm tắc: vị trí của nó đúng là khu nhà của họ Tiêu ngày xưa
    Sảnh đã nhận ra Phồn Di, hai người khẽ chào nhau rồi bước vào nghĩa trang.
    “Cháu đoán, chắc là cô đã xây bia tưởng niệm cho chú Tiêu Nhiên ở đây đúng không ạ?”
    “Cháu cứ như là thành tinh rồi”.
    “Dễ đoán thôi mà, hôm nọ cháu nghe nói cô về đúng vào dịp này, không về sớm hơn cũng không về muộn hơn, nên cháu đoán cô có nỗi niềm này”.
    “Thử đoán nữa xem, hôm nay tôi hẹn gặp cháu để làm gì nào?”
    “Chắc là sẽ cho cháu biết thêm các tình tiết về thầy Bình Thành?”
    Phồn Di gật đầu: “Tôi có một số ý nghĩ mà chính tôi cũng không muốn tin là nó sẽ đúng”.
    Sảnh dừng bước, ngẫm nghĩ một hồi rồi nói “Cô đã nói thế, cháu liên hệ với những điều có nói lúc sáng thì cháu có một lập luận táo bạo - có lẽ sẽ kỳ quái hơn cả sự tưởng tượng của cô - cô nghe rồi, xin cô đừng mắng cháu!” Sảnh nói.
    “Không đâu. Tôi hiểu, tất cả mới chỉ là suy đoán”.
    “Cô còn nhớ, đêm 15 và sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm đó, chú Bình Thành luôn ở bên cô phải không?”
    Phồn Di chợt đỏ mặt: “Hồi ấy đâu có “thoáng” như ngày nay? Chuyện yêu đương là điều không được tự do công khai, hồi đó anh ấy tựa như người anh quan tâm đến cô em là tôi. Đêm đó tôi ngồi ở ký túc xá của anh ấy đến lúc nào, không nhớ nữa nhưng chắc chắn không quá 11h đêm. Cháu định nói anh ấy...”
    “Cháu xin nói lại: cháu chỉ phỏng đoán thôi. Cháu cho rằng chồng cô - thầy Thành của bọn cháu - có liên quan đến cái chết của hai người Tiêu Nhiên và Trịnh Kình Tùng. Chú ấy mượn tay tổ điều tra để bức tử chú Tiêu Nhiên, vì chú ấy muốn mãi mãi được sở hữu cô, và biết rằng nếu không trừ khử chú Tiêu Nhiên thì trái tim cô vẫn mãi mãi thuộc về người yêu đầu tiên đầy tài hoa ấy. Kình Tùng đã bán rẻ Tiêu Nhiên, thì vừa khéo thỏa mãn nguyện vọng của chú ấy!”
    “Nếu là Kình Tùng bán rẻ Tiêu Nhiên, thì tại sao Bình Thành phải hãm hại Kình Tùng?”
    “Chú Kình Tùng bán đứng chú Tiêu Nhiên, chắc là vì biết chú Bình Thành là tổ trưởng tổ điều tra chuyên án, nếu chú Tùng còn sống trên đời thì sẽ có ngày chú ấy vạch rõ vai trò thật sự của chú Thành, nếu thế, chú Bình Thành sẽ không thể có được trái tim của cô. Và, sau khi trừ bỏ chú Tùng rồi, chú Thành có thể cứ thế mà gán cho cô “công lao” bán đứng chú Tiêu Nhiên, sẽ có lợi cho tương lai của cô! Một công đôi việc”.
    “Cũng hơi có lý, nhưng tại sao kết luận lại là Tiêu Nhiên và Kình Tùng cùng nhảy lầu từ phòng 405? Nếu đúng là Bình Thành đã ra tay thì tại sao có thể cùng một lúc hãm hại hai người?”. Phồn Di nghĩ chính mình đang nghi ngờ chồng là hung thủ sát nhân, chị thấy toàn thân mình run rẩy. “Cô đừng quên rằng, chú Tiêu Nhiên viết nhật ký, là để chuẩn bị cho tự sát, cho nên chú Bình Thành chỉ cần giết có một người - là chú Trịnh Kình Tùng. Chú Tùng biết võ thuật nên nếu đọ sức chưa chắc chú Thành đã đáng là đối thủ, và cùng sẽ để lại nhiều vết vật lộn. Nhưng nếu bị đánh trộm, thì dù chú Tùng có quyền cước cũng phải ôm hận nơi chín suối. Vấn đề cần giải thích cho xuôi là, nếu chú Tùng bán đứng chú Tiêu Nhiên, thì tại sao chú ấy lại có mặt trong ký túc xá của chú Tiêu Nhiên?”
    Phồn Di im lặng một lúc, rồi nói: “Sảnh không được nhìn thấy hai người ấy thân nhau như thế nào! Đúng như hai anh em! Nghe Tiêu Nhiên nói, cha Tùng mất sớm, mẹ thì đoảng cho nên họ đã bị người quản lý cuỗm sạch gia sản. Cho nên trong phút chốc nhà ấy biến thành vô sản, ông bác của Tiêu Nhiên nể tình quen biết cũ, thỉnh thoảng có tiếp tế cho hai mẹ con Tùng. Tôi cho rằng, dù muốn kiếm chác cái nhãn mác cách mạng nên Tùng phải bán đứng Tiêu Nhiên, nhưng Tùng vẫn có tình nghĩa, sẽ không để Tiêu Nhiên tự sát. Chắc chắn anh ta biết rằng mọi thành viên của “Nguyệt Quang xã” đều nhẩy lầu tự sát, cho nên anh ta sẽ rất chú ý đến mọi động tĩnh của Tiêu Nhiên”
    Sảnh gật đầu “Và, nhật ký viết rằng, khi chú Tiêu Nhiên sắp bị đưa ra xét xử lần cuối, Ủy ban Cách mạng đã cử hồng vệ binh giám sát chú Tiêu Nhiên. Rất có thể chú Kình Tùng là một trong số những người đang giám sát chú Tiêu Nhiên.” Cháu đoán là thế này: sau 0h ngày 16 tháng 6, chú Tiêu Nhiên quyết định sẽ làm theo các thành viên Nguyệt Quang xã trước đó, sẽ chết để tỏ rõ sự trong sáng của mình. Lúc chú ấy đang chuẩn bị nhảy lầu thì chú Kình Tùng đang giám sát chú Tiêu Nhiên, không nỡ nhìn bạn mình chết, bèn chạy đến can ngăn, tình hình cụ thể cháu không biết nhưng chắc là chú Tiêu Nhiên đã đứng lên bậu cửa sổ nên chú Tùng mới biết là định nhảy lầu. Vậy chú Tùng sẽ làm gì đây? Khuyên bảo thì ích gì? Chú ấy vốn hành động rất mau lẹ, có lẽ đã tóm chặt hai chân chú Tiêu Nhiên đang cố giãy giụa để nhào người ra.
    Lúc này, nếu chú Bình Thành bỗng chạy đến thì sẽ nhận ra ngay đây là cơ hội để bắn một mũi tên giết hai con chim, thì chú ấy sẽ làm gì? Chú Tùng đang tập trung vào việc giữ chú Tiêu Nhiên, thì sẽ không đề phòng gì cả, trọng tâm cơ thể đang lệch ra phía ngoài cửa sổ, thậm chí là đang rất bấp bênh. Lúc này chú Bình Thành chỉ cần nhẹ chân bước đến đẩy cho chú Tùng một cái hoặc bốc hai chân chú Tùng lên thì đồng thời giết được cả hai.
    Ngoài Diệp Hinh ra thì Thẩm Vệ Thanh là nữ sinh điều tra nhiều nhất về vụ án bí hiểm này, chị ấy biết được những gì thì cháu chịu, nhưng chắc chắn là đủ để khiến chú Bình Thành phải hoảng sợ. Vệ Thanh năm xưa nhẩy lầu, may mắn thoát chết nhưng chấn thương sọ não, không nhớ được những chuyện xưa kia thì chú Bình Thành có thể ung dung miễn lo âu. Nhưng khi biết tin Hinh đi Nghi Hưng thì chú Bình Thành bỗng thấy lo ngại. Nhân có chuyến công tác Nam Kinh chú ấy bèn đến ngay Nghi Hưng. Chú ấy ngầm theo dõi, thấy Hinh đến nhà Vệ Thanh, bèn nghe lỏm câu chuyện của hai cô gái, thấy Vệ Thanh không nói gì cũng yên tâm, nhưng sau khi Vệ Thanh cân nhắc suy nghĩ lại và chuẩn bị kể với Hinh về lịch sử “Nguyệt Quang xã” thì chú Bình Thành lo sợ quá khứ đen tối của mình bị phơi bầy bèn xông vào nhà Vệ Thanh đẩy chiếc xe lăn ra ban công. Cũng chỉ cần đẩy nhẹ là đủ giết hại Vệ Thanh. Cô Phồn Di, cô vẫn bình thường chứ ạ? Cháu chỉ thuần túy suy đoán thôi, chứ không có bằng chứng gì, Sảnh ngừng nói, sợ cô Phồn Di sẽ không chịu đựng được nổi cú sốc quá dữ dội này
    “Nói thực tình tôi đã cảm thấy khá hơn nhiều rồi, xem ra không chỉ mình tôi có cách nghĩ điên rồ như thế này”.
    “Cháu đoán rằng hai tay anh ấy hẩy lên chính là động tác anh ấy đã làm trong lúc mộng du”.
    “Điều này còn khiến tôi sợ hơn, nếu những điều suy đoán của cháu đúng sự thật thì chúng ta nên làm thế nào? Chỉ căn cứ vào những tư liệu hiện có rồi miễn cưỡng suy đoán thì chắc chắn là không thể tố cáo được”.
    Phồn Di kể với Sảnh về việc mấy tấm vé tầu xe không khớp nhau rồi nói “Tôi hỏi thêm câu này: gia đình Thẩm Vệ Thanh ở thị trấn Tân Ngụy huyện Nghi Hưng, vùng đó có sản phẩm gì đặc sắc?”
    “Tất nhiên là ấm Tử Sa ạ!”
    “Tôi phát hiện thấy đôi giày thể thao của Bình Thành và trên thảm chùi chân ở cửa nhà chúng tôi đều có những bụi đất màu đỏ tía hơi sẫm. Ngày trước tôi sang Mỹ làm việc tại một trường đại học, có quen một nghiên cứu sinh vốn làm tại sở nghiên cứu mỏ địa chất, sau đợt nghiên cứu đó anh ấy đã về nước. Tôi cầm một ít bột đất này lên nhờ anh ấy phân tích giúp, được kết luận là bùn sét Đoàn Sơn, chỉ riêng Nghi Hưng mới có, là một thứ đất sét hỗn hợp cát đỏ, dùng để nung ấm chén gốm Tử Sa. Quê tôi ở Vô Tích nên tôi đã nhiều lần qua Nghi Hưng. Ở đó có một số thị trấn, cảnh tượng chế tác gốm sứ rất nhộn nhịp, khắp ngõ xóm nhỏ nào cũng mở một lò nung gốm. Đất sét nhỏ được xe ba bánh hoặc xe tải chở đến, lúc trút đất xuống thì rơi vãi là chuyện thường, nếu không có người quét dọn mặt đường thì đất đỏ sẽ dính vào giày dép người đi bộ. Tôi cho rằng kẻ gây án sẽ không để lại vết chân ở hiện trường nhà Vệ Thanh nhưng chắc chắn khi đi trên phố kẻ ấy không thể đi bít tất cho đế giầy!”
    Sảnh liên tiếp gật đầu: “Theo cháu dường như có thể khẳng định được rồi. Nhưng giờ cô nghĩ sao, đã nên đi báo công an chưa?”
    Phồn Di thở dài “Tôi thật sự không biết nữa, đầu óc tôi đang rối bời”, chị mở túi xách lấy một túi ni lông có miệng gấp kín, một chiếc phong bì lớn, đưa cho Sảnh. “Trong túi này là bột đất Tử Sa dính ở đề giầy anh ấy, trong phong bì là bản phô tô các tấm vé tầu xe mà tôi vừa nói với cháu, hãy giữ một bản, ngộ nhỡ anh ấy cảm thấy ngờ ngợ điều gì đó sẽ tiêu hủy chứng cứ”
    “Cô Phồn Di đã thấy lo ngại thế này thì rất nên báo công an - cho dù cuối cùng không điều tra được điều gì. Nếu chú ấy là người thật sự tử tế như biểu hiện mà chúng ta vẫn thấy thì chú ấy sẽ không nặng lời trách cứ cô đâu”
    Phồn Di đưa tay lên áp đầu, thở dài: “Để tôi nghĩ thêm xem sao”.
    Cả hai vừa nói chuyện vừa đi đến một bia mộ nhỏ, bia đặt rất đơn giản, chỉ khắc hai chữ Tiêu Nhiên. Một bó hoa tươi đặt trước tấm bia, cánh hoa đang nhẹ rung theo gió. Phồn Di nói “Anh ấy phải xa cha mẹ từ nhỏ, về sau vợ chồng ông bác lần lược qua đời, anh ấy lại bị oan khuất rồi tự sát, lúc chết không có ai thân thích ở bên. Tôi lại quá nhu nhược, không có nổi đủ can đảm để đến gặp anh ấy lần cuối. Chắc anh ấy rất hận tôi, đôi lúc tôi vẫn nghĩ nếu tối hôm đó tôi đến gặp anh ấy thì chưa chắc anh ấy đã đến chỗ tuyệt vọng”.
    Sảnh định nói là trong nhật ký của Tiêu Nhiên cũng có viết cái ý đó, nhưng thấy Phồn Di hai hàng lệ tuôn trào, cô bèn kìm lại không nhắc đến nữa.
    Sảnh chợt sững người và nói ngay: “Hôm nay đã là 15 tháng 5, chúng ta đã đoán ra một số nguyên nhân hậu quả xung quanh “vụ mưu sát 405” nhưng vẫn chưa biết đề phòng tai nạn thế nào và vẫn có linh cảm chẳng lành. Cháu đã dặn Diệp Hinh phải ở lỳ trong nhà cháu không được đi đâu vì sẽ gặp bất trắc”.
    Thế nhưng vào lúc này Hinh đã rời nhà Sảnh
    Cách đấy vài phút cô nhận được cú phôn lạ lùng, một giọng nam giới ở đầu dây bên kia “Diệp Hinh phải không?”
    Hinh bỗng cảnh giác: chỉ có đôi ba người biết mình đang ở nhà Sảnh, sao bỗng mọc ra một người lạ, lại còn biết cả số điện thoại nhà Sảnh?
    “Xin hỏi anh là ai?”
    “Tôi là cháu bà Uông Lan San, là người nhà duy nhất còn sống của bà ấy. Tôi đang ở trạm điện thoại công cộng của bệnh viện trực thuộc số 2. Bà ấy... bà ấy sắp nguy đến nơi, bác sĩ đã dặn tôi chuẩn bị lo liệu hậu sự. Vào lúc lâm chung này, bà San nói là muốn gặp cô, có một thứ quan trọng muốn giao cho cô, và dặn dò những điều hệ trọng nữa... Tôi... tôi biết, lời đề nghị này có phần hơi quá vì cô và bà bác tôi không phải thân thích gì nhưng tôi vẫn mong cô sẽ đến để bà bác tôi được thỏa mãn một nguyện vọng cuối cùng. Hơn nữa việc này cũng liên quan đến ‘vụ mưu sát 405’.”
    Hinh vẫn không buông lỏng cảnh giác: “Tại sao anh lại gọi được đến đây?”
    “Bác tôi cho tôi số điện thoại này”.
    “Để tôi nghĩ xem có nên đi hay không đã”. Hinh vội dập máy, hít sau một hơi. Đi gặp bà San vào lúc này, Hinh linh cảm có sự nguy hiểm, nhưng lại thấy mình không thể không đi. Một bà lão sắp chết, đoạn kết của một sự bí hiểm, sao mình có thể bỏ lỡ? Giao lưu với bà San trong một tháng qua căng thẳng chẳng khác gì làm xiếc đi trên dây thép, có oán hận có cảm kích, và cả bất đắc dĩ nữa, một thứ tình cảm hết sức khó hiểu đã nảy sinh.
    Khi vào đến buồng bệnh của bà San, Hinh thấy linh cảm kinh hãi ấy càng thêm dữ dội, trong phòng chỉ có bà San đang nằm trên giường, và Hinh nữa, không có ai khác.
    Hinh hỏi cô y tá, có phải cháu bà San đến thăm bà ấy không thì cô y tá trả lời: “Bà lão này không hề có người nhà ở Giang Kinh. Ngoài cô ra thì chỉ có các bác sĩ của bệnh viên tâm thần ra vào đây! Bà ấy sắp đi đến nơi, bác sĩ điều trị dặn chúng tôi phải trông nom sát sao, có lẽ một lúc nào đó sẽ phải cấp cứu lần cuối cùng”.
    “Nhưng vừa nãy có người gọi điện cho cháu, họ xưng là cháu bà San”.
    “Lúc nãy bà San bảo tôi đẩy xe lăn đưa bà ấy đi gọi điện thoại. Trong mấy ngày qua đó là lúc bà ấy tỉnh táo nhất. Tôi đang nghĩ đây là hiện tượng đèn tắt chợt sáng (chỉ hiện tượng người sắp chết bỗng trở nên rất tỉnh táo khỏe mạnh). Đúng thế: sau khi gọi xong điện thoại, bà ấy lặp giọng ngượng ngịu rồi ngủ lịm đi”. Cô y tá nhìn Diệp Hinh: “Cô là Diệp Hinh phải không”
    Hinh gật đầu, thầm nghĩ tức là bà San lại sắm vai người cháu để gọi điện cho mình. Bà ấy muốn cái gì nhỉ.
    Cô y tá nói: “Cô nhìn cái hòm giấy của bà ấy mà xem, không hiểu sao bà ấy lại dán tên cô vào đó! Tôi hỏi có phải bà muốn giao nó cho Diệp Hinh không, thì bà ấy gật đầu”.
    Hinh khẽ bước đến bên giường bà San, đứng đó một lúc. Bà San vẫn ngủ, hoàn toàn im lặng.
    “Bà cần gì ạ, bà muốn cháu làm điều gì không? Tại sao bà gọi cháu đến?” Hinh khe khẽ hỏi, nhưng cũng lại rất lo sẽ đánh thức bà San tỉnh giấc.
    Bà San bỗng mở to mắt ra, Hinh giật mình hoảng hốt. Cô nhận ra đó không phải đôi mắt của bà San mà là đôi mắt hơi man dại của một người trẻ tuổi, lại có vẻ quen quen.
    Bà San giơ một tay ra như có ý muốn cô Hinh đỡ bà ngồi dậy
    “Bà muốn ngồi dậy à?”
    Bà gật đầu
    Hinh đỡ bà ngồi dậy, nhưng bà lại cố đòi xuống giường, Hinh lung túng đỡ bà và giữ cả giá treo bình dung dịnh muối.
    Hinh ngẩn người.
    Bà San mặc bộ váy dài màu trắng, trước kia Hinh đã nhìn thấy trong cái đêm bà San đóng vai Trang Ái Vân. Thảo nào trông ánh mắt này quen quen, chính là của Trang Ái Vân.
    “Bà là Trang Ái Vân à?”
    Hình như bà San không nghe thấy, mắt bà hướng ra phía cửa sổ buồng bệnh. Hinh hơi lưỡng lự, rồi cũng dìu bà bước ra đó. Bà San đứng bên cửa sổ, thấp thoáng nét cười trên khuôn mặt, đôi môi khe khẽ mấp máy nhưng không thành tiếng. Hinh quan sát hình dáng miệng kết hợp với uy đoán, nhận ra rằng bà San đang hát bài Khúc ca trăng.
    Lòng Hinh nặng trĩu, cô càng ngày càng cảm thấy bà lão bí hiểm kỳ quái này đáng thương. Hầu như trong cả cuộc đời bà phái sống trong thế giới của người khác, cho đến khi bệnh trọng khó qua mà vẫn còn đang mô phỏng thần tượng của mình thời thanh xuân, giống như bi kịch một hoàng hậu màn bạc thưở xưa.
    Nghĩ đến đây, Diệp Hinh chợt nhận ra rằng chuyện này dường như càng minh chứng cho tác dụng của việc ám thị tâm lý - bà San đã tưởng tượng mình là các loại nhân vật đầy bi kịch nằm trong bệnh viện tâm thần thì kết cục của bà sẽ càng bi đát hơn, nếu mình cũng thế, giả tưởng mình là một nạn nhân của “vụ mưu sát 405” thì có lẽ cũng đi lạc vào nẻo đường tăm tối chăng? Đúng vậy, cho đến bây giờ mình vẫn nghĩ chắc chắn mình khó mà thoát nạn, còn bà San thì lần nào gặp mình cũng nói thế. Tại sao mình không thể thản nhiên gạt điều ấy sang một bên nhỉ.
    “Bởi vì cô thực sự không thể thoát được, dù có gạt đi như thế nào đi nữa thì chẳng qua cũng dối mình, dối người mà thôi”.
    Hinh cảm thấy hình như Trang Ái Vân đứng cạnh đang nói
    Bà San nhìn Hinh, ánh mặt ngạo nghễ và lạnh lùng
    “Trang Ái Vân, ngày trước bà tiên đoán kết cục của con trai bà là một khuôn mặt giập nát, khiến người ta nhìn thấy sợ hãi, có phải âm hồn dai dẳng cùa bà đã hãm hại các nữ sinh kia không?”
    Bà San lắc đầu.
    “Bà biết không lời tiên đoán đã in sâu trong tiềm thức của Tiêu Nhiên, dù ít hay nhiều thì cũng đã tác động đến Tiêu Nhiên lựa chọn rẻ rúng cuộc đời mình. Có phải vì cái linh cảm ấy mà bà đã mặc bệnh tâm thần phân liệt? Vì quá yêu thương Tiêu Nhiên con trai mình nên bà không thể thoát ra khỏi cái linh cảm ấy, rốt cuộc đến tâm thần phân liệt?”
    Hinh càng nói càng hăng nhưng lại cảm thấy quá ư hão huyền, bà lão đứng bên cô chỉ là một kẻ sùng bái Trang Điệp, mình nói thế này thì có ích gì?
    Nói ra những điều này liệu có thay đổi được định mệnh của cô không? Cô vẫn không thể thoát được kia mà
    Dường như đó là lời cảnh cáo của Trang Ái Vân
    Hinh nhìn kỹ đôi môi bà San. Đúng là nó hơi mấp máy
    “Bà nói gì ạ” Hinh nghĩ, dù người này là bà San hay là Trang Ái Vân cũng được, bà ta đang định nói với cô một điều gì đó
    Bà San đang nhắc lại ba chữ. Hinh ghé tai sát vào miệng bà ta, cuối cùng nghe ra, đó là ba chữ: “Trả lại tôi”.
    “Trả lại bà cái gì ạ? Những thứ trong hòm giấy ạ? Cháu không lấy đâu, thế là được rồi chứ ạ?”
    Bà San lắc đầu, toàn thân run rẩy như sắp ngã sụp xuống. Hinh vội đỡ bà và nói “Cháu đưa bà vào giường nằm nghỉ nhé,nà đứng lâu quá rồi”.
    Bà San há miệng hớp hớp và thở dốc, toàn thân chao đi càng dữ hơn. Bỗng nhiên, hình như bà dốc hết sức lực toàn thân, hai tay bám chặt đôi vai Hinh, giọng phều phào: “Khi nào cô đến thì cô đừng quên mang trả tôi chiếc lược”.
    Đấy là câu nói cuối cùng trong đời của bà Uông Lan San.
    Cái lược nào nhỉ?
    Hinh nén tâm trạng u uất, cố gắng suy nghĩ.
    Cấp cứu đã kết thúc, không thể cứu vãn sự sống của bà San. Hinh không xác định được mình có nên cầm cái hòm giấy của bà San đã cho cô hay không, nhưng cô vẫn mở ra để xem có “cái lược” nào không?
    Chỉ toàn là sách.
    Ngoài vài cuốn viết về nghệ thuật biểu diễn mà Hinh đã nhìn thấy, cô bất ngờ phát hiện một số sách y học viết về bệnh thần kinh và não khoa, và còn cả tài liệu ngoại văn nữa. Xem ra, bà San nằm viện tâm thần lâu năm nhưng không phải là không nghĩ gì, bà đã bắt đầu tìm hiểu về căn nguyên bệnh lý của mình
    Hinh giở cuối Tân Kinh Lăng Thập nhị hoa - Nữ minh tinh màn bạc Trung Quốc thập kỉ 40, lấy ra mấy trang giấy cắt từ các tạp chí cũ, ngắm nhìn bức ảnh Trang Điệp đang đứng hát bên cửa sổ, Hinh lại thấy lòng mình nao nao. Nhìn mái tóc dài của Trang Điệp, cô lại thấy xúc động, rồi nhìn kỹ hơn... Ôi, Hinh bỗng kêu lên.
    Cô thấy bên phải Trang Điệp kê một chiếc bàn trang điểm, trên bàn có một số hộp son phấn, một thứ khiến cô phải dán mắt nhìn vào là một cái lược kỳ lạ. Bìa bức ảnh lớn choán gần hết trang báo, nên Hinh có thể nhìn rõ cái lược này có phần lưng khá rộng, nhiều răng, nó có hình chữ U, có lẽ là một chiếc lược có thể vừa chải đầu vừa làm có thể cài lên tóc.
    Hinh lại nhìn bức ảnh chân dung Trang Điệp in ở phía dưới bài viết. Đúng thế, trên đầu hoàng hậu màn bạc tài sắc tuyệt trền có cài chiếc cặp tóc nạm kín đá quý.
    Có phải cái lược mà bà San nói trước lúc nhắm mắt là cái lược này chăng?
    Bà San nói “Khi nào cô đến thì cô đừng quên mang trả tôi chiếc lược” Lúc đó bà ấy đã cảm nhận được cái chết. “Khi nào cô đến” tức là “khi nào cô chết”. Bà San nhận định mình sẽ là nạn nhân tiếp theo, mà đến giờ mình vẫn chưa bao giờ nhìn thấy cái lược này. Chỉ còn vài giờ nữa là bước sang ngày 16 tháng 6, chẳng lẽ cái lược này bỗng nhiên xuất hiện?
    Cứ suy luận như thế thì chẳng lẽ các nhân vật của “vụ mưu sát 405” đều phải nhìn thấy cái lược này hay sao?
    Có lẽ có một người có thể trả lời câu hỏi này!
    Vào gian phòng chuẩn bị trong khi nhà giải phẫu, Hinh gặp được ông Phùng: “Hôm nay bác Phùng ở đây cả ngày à?”
    “Đúng thế, hôm nay tôi thay đổi thói quen làm việc và nghỉ ngơi, tôi định ngồi đây đến sớm mai. Tôi tuy chả tin chuyện tà ma nhưng cũng không muốn bất cứ chuyện tầm bậy nào xảy ra. Tôi chỉ mong sớm biết kết quả là gì. Tôi bị các cô hành mãi như thế, đến nay tôi cũng hơi hơi mất tự chủ. Cũng muộn rồi đấy, sao cô vẫn còn chạy loăng quăng mãi thế này?”
    Hinh nói “Cháu muốn hỏi bác một việc. Bác có nhớ năm xưa khi chú Tiêu Nhiên nhảy lầu, thi thể được đưa đến đây, bên cạnh chú ấy có vật dụng gì đáng chú ý không ạ? Bác đã thu gom tất cả các di vật của chú ấy đúng không ạ?”
    Ông Phùng ngây người, tay bóp bóp thái dương nghĩ ngợi, rồi lẩm bẩm: “Liệu có phải cô nói về một thứ này không?” Ông ra hiệu cho Hinh đi theo mình đến gian nhà kho nhỏ chứa thi thể, cầm ra một chiếc túi đựng giấy tờ liên quan đến thi thể Tiêu Nhiên. Ông lấy ra một tờ biểu liệt kê, nhìn kỹ rồi giơ ra trước mặt Hinh, chỉ vào một ô: “Đây là vật duy nhất tôi thấy là kỳ lạ, nó là một cái lược, rõ ràng chỉ dành cho phụ nữ. Tôi còn nhớ nó có cái lưng rộng, răng dài và có lẽ dùng để cặp tóc nữa! Phần lưng có gắn vài chục hạt đá quý, có màu đỏ màu đen... chắc là rất có giá trị. Khi nhảy lầu tay Tiêu Nhiên nắm chặt cái lược này. Sau khi đưa xác đến đây tôi đâu dám giữ lại một vật quý giá như thế, đã nộp lên cấp trên rồi”.
    “Cháu đang định hỏi về cái này đây. Bác có biết sau này nó đi đằng nào không? Bác có thấy nó nữa không ạ”.
    Ông Phùng lắc đầu, khi quay lại nhìn thì Diệp Hinh đã chạy mất hút không thấy bóng dáng đâu nữa rồi.
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  11. #31
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 29 Đỏ và đen


    20h30 ngày 15 tháng 6.

    Khi Hinh về đến nhà Sảnh, thấy bà Kiều Doanh mẹ cô và cha mẹ Sảnh đang sốt ruột chờ cô trở về. Bà Kiều Doanh ôm chặt lấy Hinh, xót xa nói: “Ôi, con làm cho mẹ sợ quá! Sao muộn thế này mới về? Hai bác và mẹ suýt nữa thì đi báo công an!”
    Hinh cười: “Có sao đâu mà! Kể từ bây giờ con sẽ ở cùng gia đình Sảnh. Mẹ cứ yên tâm!”
    Mẹ của Sảnh, bà Lương Chí Quân, cười nói: “Phải đấy! Tôi đã nói rồi, đêm nay tôi sẽ lấy xích sắt xích hai đứa lại, không thể đi đâu được hết!”
    Hinh không thấy Sảnh có mặt ở phòng khách bèn hỏi: “Sảnh đâu ạ?”
    Bà Chí Quân nói: “Nó đóng cửa phòng, đang ở trong đó nghe nhạc rock. Hai bác đã cùng mẹ cháu ăn cơm tối rồi, cách đây mấy phút nó còn pha hộ cà phê với pha trà. Cũng chẳng hiểu tại sao hôm nay nó bị bỏ bùa hay sao ấy, bỗng dưng ngoan ngoãn như một cô gái chững chạc, lại biết xuống bếp nấu canh, rồi còn pha trà nữa!” Bà vừa nói vừa ngáp dài, rồi cười ngượng ngịu: “Tôi xin lỗi, hôm nay ở khoa bận nhiều việc quá, bất chợt có vài bệnh nhân mới nhập viện cùng một lúc!”
    Hinh cười: “Bác vất vả như thế, Sảnh cũng rất hiểu đấy ạ! Cháu vào để khen Sảnh một câu đây!”
    Đi gần đến cửa phòng của Sảnh, đúng là có tiếng nhạc rock âm thanh loảng xoảng dữ dội đang vọng ra. Sảnh rất kỳ quái, đặc biệt mê loại nhạc này. Hinh gõ cửa, nhưng không thấy trả lời, cô thầm nghĩ: tiếng gõ cửa lịch sự so với những âm thanh huyên náo trong kia khác nào hòn sỏi ném xuống đại dương! Mình đừng nên quấy nhiễu bạn thì hơn.
    Hinh ăn qua loa một chút. Cô thấy mẹ mình vừa nói chuyện với cha mẹ Sảnh, rồi lại ngồi xem ti-vi, có vẻ chưa hề thấy buồn ngủ. Hinh trở về căn phòng ngủ xinh xinh mà gia đình Sảnh dành cho cô. Bên ngoài ô cửa sổ là màn đêm đen kịt, không hiểu sao Hinh thấy hơi sờ sợ thấp thỏm không yên.
    Tiếng nhạc vẫn vẳng ra từ cửa buồng ngủ của Sảnh ở ngay đối diện. Hinh thấy hơi ngạc nhiên. Sảnh là người không bao giờ chịu ngồi yên một chỗ, tại sao tối nay lại không thấy ra khỏi phòng? Đặc biệt là, hôm nay mình về muộn, hình như Sảnh cũng không để tâm?
    Hinh đứng lên bước đến trước cửa phòng của Sảnh, khẽ gõ cửa. Không có một phản ứng nào. Hinh gõ to hơn, rồi dùng hết sức mạnh đấm cả hai tay, cửa kêu rầm rầm.
    Nhưng cửa vẫn không mở.
    Kỳ lạ hơn nữa là, chủ nhà và mẹ Hinh dường như không buồn để ý đến tiếng đập cửa dữ dội. Linh cảm về một sự chẳng lành dâng lên trong Hinh.
    Chạy ra phòng khách, Hinh đứng sững lại trước cảnh tượng trước mắt: cha mẹ Sảnh cùng bà Kiều Doanh ngồi ngả ngớn trên đi-văng, nằm trên ghế bành, hình như đều ngủ say. Hinh vội lay bà Chí Quân đang ngáy như sấm rền, nhưng bà chỉ giở mình rồi tiếp tục ngủ mê mệt. Lúc này chưa đến 10 giờ sao họ đã mệt mỏi đến như thế này? Hay là có chuyện kỳ quái gì đây?
    Hinh lại chạy về trước cửa buồng Sảnh, đập cửa thật mạnh. Cô càng cảm giác thấy rõ có chuyện chẳng lành, và hiểu rằng càng chờ đợi thêm phút nào thì mối nguy hiểm càng đến gần phút ấy. Hinh dùng hết sức mạnh toàn thân, xô người vào cánh cửa.
    Cửa bật mở, tiếng nhạc inh ỏi hỗn loạn phát ngán òa thốc vào mặt.
    Nhưng căn phòng thì không một bóng người.
    Cửa sổ mở nửa vời, một làn gió ùa vào, màn đêm đen kịt ở ngay trước mặt.
    Căn hộ nhà Sảnh ở ngay tầng một, rõ ràng là Sảnh đã trèo qua cửa sổ từ lâu.
    Tại sao Sảnh lại ra khỏi nhà vào lúc này? Và lại giấu cả cha mẹ? Hay vẫn là vì quá tò mò nên đã đi đến trường để xem xem “vụ án mưu sát 405” sẽ xảy ra như thế nào?
    Có lẽ đây là cách giải thích hợp lý duy nhất. Như vậy thì, chắc là Sảnh đã cho thuốc ngủ vào canh trong bữa ăn tối và nước trà sau đó, điều này giải thích tại sao Sảnh vốn rất vụng bếp núc mà tối nay lại bất chợt “chăm chỉ” như thế? Để có thể được thỏa trí tò mò, đã dám cho người nhà và khách uống thuốc ngủ? Với Sảnh - một cô gái hay thích làm bừa, thì đây vẫn là một hành động có phần cực đoan.
    Mình nên làm gì bây giờ nhỉ?
    Hinh hoang mang rất khó quyết định. Ý nghĩ bồng bột đầu tiên của Hinh là phải đến trường để tìm Sảnh, nhưng làm thế khác nào mình “tự chui đầu vào thòng lọng” - tự lò dò đến hiện trường “vụ án mưu sát 405” thì thật đúng với sự “sắp đặt” của lực lượng bí hiểm đang nằm trong bộ não của mình, và tiếp đó thì chuyện gì sẽ xảy ra? Mình có khống chế nổi không?
    Hinh cố tự thuyết phục mình hãy bình tĩnh, chớ nên xốc nổi. Giả sử, xét từ một góc độ khác, nếu ta nghĩ theo hướng lạc quan, biết đâu Sảnh đã có một chương trình gì đó có thể thật sự vén tấm màn bí mật về “vụ án mưu sát 405” cũng nên?
    Hinh nhìn khắp lượt căn phòng ngủ của Sảnh, mong có thể tìm thấy một vài dấu hiệu manh mối... Nhưng, Hinh quá thuộc căn phòng này, chỉ thoáng nhìn đã biết không có gì khác lạ rõ rệt.
    Nhưng Hinh vẫn cảm thấy có chút gì đó là lạ... Đúng thế! Hinh thấy căn phòng này hình như “đẹp” hơn!
    Trên tường, tấm áp-phích quảng cáo “U hồn Sảnh nữ” Vương Tố Hiền sặc mùi “ma quỷ” đã được thay bằng tấm ảnh đẹp của Ô-đê-ly Hêp-bơn trong phim “Bữa ăn sáng tại nhà Ti-phan-ni”, mấy chiếc mặt nạ kỳ quái của châu Phi và Nam Mỹ đã được thay bằng bức tranh thêu Tứ Xuyên “Hồng Lâu Thập Nhị Thoa”. Trên bàn trang điểm vốn đặt chiếc đồng hồ báo thức nhỏ ghi chữ “niềm vui của bước đi ma quỷ”, chẳng rõ đã được thay bằng chiếc đồng hồ để bàn phương tây từ lúc nào. Hinh càng chú ý đến mấy bức ảnh của Sảnh đặt trong khung kính bày trên bàn: trước kia là những ảnh tinh nghịch lè lưỡi trợn mắt hoặc hóa trang kỳ dị, nay đã được thay bằng những tấm “ảnh nghệ thuật” được trang điểm rất công phu.
    Hinh nhớ lại những ánh mắt thể hiện tình cảm của Vân Côn và Sảnh mỗi lần gặp nhau, cô đoán rằng Sảnh đã bước vào chuyện yêu đương, nhưng ý nghĩ này chỉ vụt qua vì Hinh bỗng thấy kinh hoàng vô tận.
    Một chiếc cặp tóc rất đẹp xuất hiện bên cạnh bức ảnh chụp nghiêng của Sảnh.
    Hình như nó vừa có thể làm lược chải đầu vừa có thể làm đồ trang sức.
    Hinh lại thấy trên bàn đọc sách có một tập album đang mở, rõ ràng là Sảnh vừa mới giở xem. Hinh lật nhanh các trang, thấy có vài tấm ảnh mới cài vào, trong đó có một tấm khiến Hinh phải kinh ngạc kêu lên.
    Trong tấm ảnh này, Sảnh mặc váy dài trắng, đứng tựa cửa sổ, ngoài cửa sổ là màn đêm tối đen, ánh trăng suông yếu ớt - đó chính là phiên bản của bức ảnh chụp Trang Điệp từ phía sau mà cô đã nhìn thấy ở chỗ bà Uông Lan San. Hinh suýt kêu lên, khi nhìn thấy ở bàn trang điểm ở bên phải Sảnh có một cái lược lưng rộng, đặt bên cạnh chiếc đồng hồ để bàn phương tây. Cô còn có thể nhìn rõ các đốm lấp lánh ở phần lưng cái lược.
    Đây là một giả thiết mà Hinh chưa từng nghĩ đến: Sảnh đã có cái lược này!
    Lúc nãy cô đã cùng Vân Côn xác định rõ: Nghê Na năm xưa cũng từng dùng cái lược này. Rõ ràng là Sảnh không “công khai hóa” cái lược, cho nên cả cô và Vân Côn đều không hề hay biết.
    Nghĩ đến đây Sảnh càng thấy lo: thì ra cô bạn thân như chị em với mình vẫn đang cố tình giấu mình nhiều điều bí mật. Liệu có còn nhiều bí mật gì khác nữa chăng?
    Nỗi tuyệt vọng đã mất đi từ lâu, nay lại ập đến với Hinh: xem ra, vai trò “nạn nhân” của mình suốt bao ngày qua chỉ là một cái “chiêu bài”, nạn nhân thật sự bị “lựa chọn” lại là Âu Dương Sảnh!
    Cũng như mình, Sảnh đã từng ra ra vào vào khu nhà giải phẫu, cũng ở phòng 405 ký túc xá, hai cái bóng Tiêu Nhiên - Kình Tùng cũng sẽ chui vào bộ não của Sảnh, khiến Sảnh có những hành vi bất thường. Và, khi mọi ánh mắt đều đổ dồn vào phía mình thì Sảnh có thể tỉ mỉ vạch chương trình để trở thành một “nạn nhân” mới.
    Hinh lại nhớ ra rằng hình như Sảnh từng nói với cô: bà Lương Chí Quân là người Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang, Sảnh chào đời ở Thiệu Hưng. Khi Sảnh lên 8 tuổi, người cha là ông Âu Dương Đản Khánh tốt nghiệp nghiên cứu sinh rồi ở lại bệnh viện số 2 trực thuộc đại học y Giang Kinh, thì hai mẹ con Sảnh mới chuyển về Giang Kinh này.
    Có thể nói Sảnh vẫn là người vùng Giang Nam.
    Chắc chắn lúc này Sảnh đã chạy đến khu ký túc xá của trường, và cũng đã sắp xếp xong tất cả để vô hiệu hóa các biện pháp phòng ngừa của nhà trường.
    Tuy không thể đoán ra nổi Sảnh sẽ có biện pháp gì hay, nhưng Hinh biết mình không thể chậm trễ, phải đến trường ngay để kịp thời ngăn chặn hành vi mất lý trí này của Sảnh.
    Lúc cô vừa đến trường thì tiếng chuông báo tắt đèn lúc 11 giờ vang lên. Hinh thầm “cảm ơn trời đất”, rồi hòa mình vào dòng người hết giờ tự học buổi tối bước vào khu ký túc xá. Hinh nhận ra quanh khu nhà đã có một số nhân viên bảo vệ tay cầm bộ đàm, trong nhà cũng có vài người đang đi lên đi xuống. Hinh cúi đầu, sợ sẽ bị những nhân viên biết mặt cô và các bạn cùng lớp nhận ra, cô bước một mạch đi lên cầu thang.
    Đứng ở đầu cầu thang tầng 4, Hinh thoáng nhìn đã nhận ra ngay là không thể tiếp cận căn phòng 405, có hai nữ nhân viên đang đứng ở cửa, rất cảnh giác quan sát mọi sinh viên qua lại. Trên tầng 4 này cũng có quá nhiều bạn học biết mặt cô, cô đành bước thẳng lên tầng 6.
    Sảnh đang ở đâu? Hay là cũng như mình, đang trà trộn trong đám đông? Và sau khi đèn tắt mình sẽ đi đâu?
    Hinh quanh quẩn trên tầng 6, cho đến khi có một số chị sinh viên lớp trên nhìn cô bằng ánh mắt nghi hoặc. May mà cô không quen ai sống trên tầng này, nếu không, chắc đã có người đi báo cho bảo vệ biết. Chẳng thể nán lại lâu ở nơi này, Hinh đành đi xuống vậy. Vào lúc này, ở cầu thang và các hành lang đã dần vắng bóng người, đèn của cả khu nhà đã bị tắt điện, trừ đèn ở hành lang và các gian buồng tắm giặt.
    Hinh hoang mang bước xuống tầng 2, nghe thấy tầng trệt có tiếng nói, họ là các nhân viên bảo vệ. Hinh nghĩ: Gay rồi, nếu chạm trán họ vào lúc này thì tất nhiên bị nghi ngờ và nếu làm phân tán sự chú ý của họ thì lại bất lợi cho Sảnh. Vừa khéo, ở chỗ ngoặt cầu thang tầng 2 có một gian xép thường chất các thứ lặt vặt và dụng cụ làm vệ sinh, Hinh nhanh chóng lách qua cửa rồi nấp vào đó.
    “Liệu có phải nhà trường cẩn thận quá mức không nhỉ?” Một giọng nói vang đến.
    Một giọng phụ nữ: “Năm nào cũng có người hỏi cái câu này! Em cho rằng không quá mức tí nào! Cái năm ấy em trực ở phòng 405, vì quên không mở cửa thông gió nên bị ngất xỉu, và thế là một cô sinh viên đã nhảy lầu! Nhớ lại, vẫn thấy vô cùng ân hận. Cứ đến cái đêm này thì chuyện quái dị gì cũng có thể xảy ra, đôi lúc em nghĩ rằng liệu có phải các cô sinh viên đáng thương nhảy lầu vào cái đêm này bỗng có được khả năng của siêu nhân? Hành vi của họ thực sự không sao tưởng tượng nổi!”
    “Nhưng đêm nay thì chắc là không thể! Sáu người canh gác một gian phòng, 15 phút lại thay ca, lại còn có vài người thường xuyên tuần tra! Muốn đánh bật chúng ta ra, thì phải là một tốp bộ đội đặc biệt!”
    Hinh thấy có phần yên tâm: họ đã sắp đặt như thế, thì dù Sảnh có bị xui dại để làm chuyện tai hại thì cũng không dễ gì làm nổi!
    Nhưng mình nấp ở đây thì có thể làm gì? Sảnh là cô bạn chí cốt của mình vậy mà lúc này mình lại bó tay bất lực! Bao nhiêu ngày qua mình toàn tự oán trách dày vò, nghĩ rằng mình là “nạn nhân bị lựa chọn”, mình từng tuyệt vọng, suy sụp... nhưng lại chưa từng nghĩ đến một khả năng khác, mình chưa quan tâm đầy đủ đến Sảnh, nên mới dẫn tới chỗ bị động thế này!
    Nhưng chỉ ân hận cũng vô ích, phải quan sát kỹ tình hình xem sao, lúc này mình tạm tấp ở đây, ít ra là đến nửa đêm vẫn không có chuyện gì, sau đó mình sẽ ra “đầu thú”, hoặc lẳng lặng trở về nhà Sảnh.
    Nhưng Hinh cảm thấy có lẽ sự việc sẽ không đơn giản như thế. Năm nào cũng xảy ra chuyện, thì tại sao năm nay lại có thể yên ổn? Tại vì mình đã tìm hiểu không biết mệt mỏi hay sao? Tất cả vẫn cứ đang mơ hồ, còn hình bóng hai người kia trong đầu mình - Tiêu Nhiên và Trịnh Kình Tùng - đến lúc này vẫn không ló mặt.
    Họ không cần thiết phải ló mặt, tất cả hầu như vẫn tuần tự tiến hành như đã sắp đặt trước.
    Tiếng bước chân của những người tuần tra vẫn vang lên đều đều. Rõ ràng là mọi người đều không chút lơi lỏng.
    Sảnh ơi, cậu đang ở đâu? Cậu chớ có làm điều gì dại dột đấy nhé!
    Hinh bấm nút đèn trên chiếc đồng hồ điện tử, cúi xuống nhìn: chỉ còn 10 phút nữa là đúng 12 giờ đêm. Tim cô bắt đầu đập nhanh dần, nhưng cũng thây yên tâm hơn, vì cho đến giờ Sảnh vẫn chưa xuất hiện ở khu nhà này, các nhân viên cũng đang chú tâm làm việc. Điều đó chứng tỏ khả năng xảy ra bất trắc mỗi lúc một ít dần.
    Có lẽ năng lượng còn lại ở cõi trần của Tiêu Nhiên và Kình Tùng đã được yên nghỉ.
    Nhưng nào ngờ ý nghĩ này vừa đến thì Hinh đã thấy thoang thoảng nhức đầu. Đây là tín hiệu tồi tệ mà Hinh rất sợ nó đến với cô.
    Cô vẫn nhớ rất rõ, sau mỗi lần nhức đầu thì cô ngất xỉu, và có một lần vừa nhức đầu xong thì cô chứng kiến cái chết của bác sĩ Đằng Lương Tuấn. Tại sao mình cứ hay bị nhức đầu? Hay là tại cái năng lượng kia vận động trong não mình? Họ định làm gì?
    Hình như không khí ngột ngạt trong cái buồng xép này là chất xúc tác khiến Hinh càng thêm nhức đầu, rất nhanh chóng, cô thấy đầu đau không sao chịu nổi. Lần này cơn đau kéo đến quá nhanh, quá dữ dội. Điều khiến đầu óc Hinh càng thêm rối loạn là, cô lại có cảm giác giống như khi còn nằm ở viện tâm thần, có một tiếng gọi đang kêu gọi cô, có một sức mạnh đang dẫn dắt tư duy của cô. Hinh càng cố nhắc mình hãy tỉnh táo thì sức mạnh ấy lại càng lớn thêm.
    Hình như cái sức mạnh ấy đến từ tầng gác bên trên.
    “Á...” một tiếng kêu thảm thiết vang khắp bầu trời đêm, đánh thức toàn bộ khu ký túc xá.
    Một tiếng “huỵch” nặng nề, rõ ràng là tiếng người rơi từ trên cao xuống đất.
    “Nguy rồi!” Hinh ngao ngán ngồi sụp xuống sàn.
    Muộn mất rồi! Đã xảy ra chuyện với Sảnh! Tuy chỉ một tiếng kêu nhưng Hinh đã nhận ra ngay tiếng rất quen thuộc của Sảnh!
    Chỉ trong giây phút, mặt Hinh đẫm lệ, cô lập tức mạt sát mình: sao ngươi lại trốn ở đây? Sao không chạy ra tìm Sảnh? Ngươi còn cái gì để mà sợ nữa?
    Đám bảo vệ là đồ bỏ đi! Tại sao lại để xảy ra như thế?
    Hinh xem lại đồng hồ: 12 giờ kém 3 phút.
    Thì ra, bi kịch không cần chuẩn giờ giấc, điều cốt lõi là nhất định phải xảy ra.
    Bỗng Hinh lại cảm thấy rất lạ: đầu nhức rất dữ dội, cái sức mạnh dẫn dắt cô lại càng mạnh hơn, và rõ ràng là nó ở ngay trên tầng trên. Cô phải ra ngay, nhưng lại thấy sợ, vì cô không muốn chấp nhận cái hiện thực mà cô không thể đối mặt.
    Cầu thang rầm rập tiếng bước chân chạy xuống dưới nhà. Có người gọi: “Các bạn sinh viên đừng ra! Đã có ban bảo vệ giải quyết việc này!” Tuy nhiên, các nữ sinh vẫn đang bàn tán xôn xao ở ngoài hành lang.
    Hinh không sao chịu đựng nổi cơn nhức đầu ghê gớm, cô chạy ra khỏi căn buồng xép.
    Lại một tiếng “á...” thê thảm, liền sau đó lại là một tiếng rơi mạnh xuống đất.
    Hinh không thể tin ở tai mình nữa: tiếng kêu này lại là tiếng của Sảnh!
    Phía dưới, có người đang mở khóa cửa khu nhà.
    Hinh chạy như điên, vọt lên tầng 4.
    Cửa phòng 405 đang khép, cô đẩy mạnh cánh cửa, kinh hãi đứng ngây người: Âu Dương Sảnh mặc bộ váy trắng đã trèo lên bậu cửa sổ!
    Trong phòng không có nhân viên bảo vệ, chắc là họ đã chạy xuống sân để xử lý vụ nhảy lầu vừa nãy. Tất cả cứ như trời đã sắp đặt. Chắc chắn là Sảnh đã dùng kế tạo ra vụ nhảy lầu “giả” để xua các nhân viên bảo vệ chạy ra khỏi đây. Tại sao Sảnh có thể làm điều này giống như thật, tài tình đến thế, Hinh không kịp nghĩ nữa.
    “Sảnh ơi!” Hinh lao đến bên cửa sổ ôm chặt lấy hai chân Sảnh.
    Sảnh sững người, đờ đẫn quay đầu lại cúi nhìn Hinh. Hinh trông thấy chiếc cặp tóc hai tác dụng kia đang cài trên mái tóc dài của Sảnh, trong bóng tối vẫn thấy tỏa ra những tia sáng óng ánh của các hạt đá quý, Hinh thấy cay đắng làm sao, nhưng lúc khẩn cấp này chẳng thể nói gì, cô chỉ lặng lẽ lắc đầu.
    Bỗng nhiên Hinh lại cảm thấy tất cả đều rõ ràng trong trẻo như làn nước khe suối trên đỉnh núi. Cảnh tượng này đã xuất hiện trong những giấc mơ của Hinh, có điều, Sảnh đã thay thế vai trò của cô gái kia! Thì ra từ lâu Sảnh đã bị “chấm” đểs làm nạn nhân, còn Hinh chỉ là một cái chiêu bài!
    Một hồi chuông đồng hồ báo thức vang lên. Khỏi phải bàn: đã là đúng 12 giờ đêm.
    Sảnh khẽ nói: “Đã đến lúc rồi!” Không nhìn lại Hinh nữa, Sảnh cứ quyết nhảy xuống thì trọng tâm của Hinh sẽ nằm ở ngoài bậu cửa sổ. Hinh sẽ không thể ngăn cản nổi.
    Nhưng Hinh không hề hay biết, lúc này, một bóng người cao lớn đã lặng lẽ tiến sát lưng cô, người ấy cúi xuống, giơ hai tay đang đeo găng... chỉ cần ôm lấy hai chân Hinh rồi “hất” lên, thì cả hai cô sinh viên sẽ cùng rơi từ phòng 405 xuống sân.
    Y chính là Lục Bỉnh Thành.
    Hai mươi nhăm năm qua, Lục Bỉnh Thành đã tự giác sống một cuộc sống phi nhân tính. Nhìn bề ngoài thì thấy rằng, Thành đã yên ổn trải qua cuộc cách mạng văn hoá, sau khi về phụ trách công tác sinh viên của đại học y Giang Kinh, hầu như Thành đã vững bước trên đường công danh, tới đây sắp lên làm hiệu phó một trường đại học quan trọng của Bộ Y tế, cuộc đời cũng có thể thỏa mãn được rồi! Nhưng năm xưa, ham muốn ái tình mãnh liệt với Khổng Phồn Di đã khiến Thành lầm lạc.
    Hai tay hất lên như thế, đã khiến hai nam sinh viên tài hoa đang nở rộ phải rơi từ căn phòng 405 khu nhà 13 xuống sân. Một trong hai sinh viên ấy, sau một thời gian dài điều tra đã bị chứng minh là thành viên cuối cùng của một tổ chức đặc vụ “Nguyệt Quang xã”, vì thế đã nảy ra ý nghĩ tự tử đoạn tuyệt với nhân dân, còn người kia - vì không kịp ngăn cản bạn, nên đã bị kẻ tự sát kéo theo rơi xuống đất.
    Vì đều là đầu chạm đất trước, nên cả hai đã chết ngay tại chỗ.
    Đó là miêu tả của cơ quan điều tra. Nhưng đến nay Thành vẫn còn nhớ hình ảnh: khi đang bị rơi xuống, Trịnh Kình Tùng vẫn cố ngoái lại, mong nhìn rõ mặt kẻ nào đã lén đến phía sau hất mình và Tiêu Nhiên ra khỏi cửa sổ.
    Kể từ đó, ban ngày Thành là một bác sỹ hoặc thầy giáo mẫu mực, nhưng đêm đến, Thành sống giữa ranh giới cõi âm cõi dương. Hôm nào cũng có những cơn ác mộng đến viếng thăm y như những người bạn cũ. Thậm chí y đã mắc chứng mộng du, lúc mộng du y có thể gạt bỏ cảm giác nặng trĩu về tội ác mình đã gây ra.
    Hàng ngày đều phải chịu sự tra khảo của lương tâm, Thành đã trở nên hết sức nhạy cảm với chuyện xưa cũ. Cho nên sau khi sự kiện thứ nhất trong “vụ án mưu sát 405” xáy ra, cuộc sống của y càng giống như sống trong địa ngục.
    Tại sao lại đúng vào căn phòng ấy ở ký túc xá? Tại sao các nữ sinh viên cứ truy hỏi “ánh trăng”?
    Đây là một tín hiệu quá rõ ràng khiến y dường như có thể khẳng định mình không thể thoát được.
    Lần lượt có các nữ sinh nhảy lầu bỏ mạng, Thành hình như nghe thấy tiếng bước chân của “ngày phán xét” đang tới gần.
    Nhưng đồng thời y lại có một ý chí mạnh mẽ hơn người, y không phải hạng người nhu nhược dễ lùi bước. Và y cũng hiểu rằng chỉ mình mới có thể bảo vệ mình khỏi bị sự thật ấy làm hại. Vì thế y càng nhạy cảm hơn.
    Cho nên, khi Diệp Hinh đi về Vô Tích, Thành lập tức nghĩ đến Thẩm Vệ Thanh sống sót sau lần nhảy lầu năm xưa. Vệ Thanh biết được bao nhiêu phần sự thật, y không rõ, nhưng phòng bị thì vẫn chắc ăn hơn - y quyết định sẽ loại trừ hẳng cái khả năng dẫn đến bại lộ chân tướng. Thế là Thành từ Nam Kinh rẽ sang Nghi Hưng, bí mật quan sát. Khi thấy Hinh vào nhà Vệ Thanh, máu trong người Thành như đông cứng lại. Khi nghe trộm hai cô nói chuyện, y nhận thấy Vệ Thanh do dự, rồi Hinh ra về. Y cảm thấy Vệ Thanh đã tiến sát đến giới hạn để nói ra sự thật. Liệu cô ta đã biết được đến đâu?
    Lưỡng lự hồi lâu, y quyết định xử lý Vệ Thanh. Không được phép để lại kẽ hở, khiến bóng đen quá khứ lại chụp lên đầu mình. Lúc Hinh ra khỏi nhà Vệ Thanh, cô chỉ khép cửa theo lời Thanh dặn, nhân lúc Thanh ngồi đờ đẫn, Thành đã lẻn vào và khi Thanh liên lạc lại với Hinh, thì y bất ngờ từ phía sau đẩy xe lăn ra ban công, hất Thanh rơi xuống đất.
    Rồi nhanh chóng chạy xuống dưới nhà, đám đông đang hỗn loạn, không ai chú ý đến Thành. Xuống đến tầng trệt, y thong thả bước, rồi hoà lẫn trong đám người đang tràn đến để cùng quan sát hiện trường.
    Thành tạm thời cảm thấy an toàn, nhưng ác mộng thì lại kéo đến ngày càng nhiều hơn.
    Liệu đây có phải chính là cái người ta vẫn thường nói “Sai một ly đi một dặm” không?
    Mấy hôm trước, khi người vợ thân yêu Phồn Di chợt hỏi về “vụ án mưu sát 405”, thì Thành lại có cảm giác gì đó nguy hiểm. Tất cả đều bắt nguồn từ người đàn bà này, kể từ khi say mê Phồn Di, Thành đã hiểu được thế nào là “hồn bay phách lạc”
    Tại mình đã quá ham muốn chiếm hữu cô ta nên mình mới đi chệch quỹ đạo.
    Thành bắt đầu theo dõi Phồn Di, rồi phát hiện ra cô và Âu Dương Sảnh hẹn gặp nhau ở công viên nghiã trang quốc tế. Một điều khiến Thành căng thẳng nhất là Phồn Di đã đưa cho Sảnh một chiếc phong bì. Trong đó có thể là cái gì? Nhưng dù là cái gì thì cũng vẫn là rất bất lợi cho Thành. Lý do thật đơn giản: xưa nay Phồn Di chưa từng giấu Thành một điều gì, thì nay lại đang gắng sức để giấu!
    Sau khi Phồn Di và Sảnh chia tay, Thành liền bám theo sảnh với ý định rình cơ hội trừ Sảnh để đoạt lấy chiếc phong bì kia. Y cũng biết Sảnh và Hinh hình như quyết không buông “vụ án mưu sát 405”. Lẽ nào chúng không hiểu rằng, đôi khi, có những việc không nên biết quá nhiều?
    Sảnh về trường, vào ký túc xá 13, một lúc sau quay ra rồi về nhà. Dọc đường người đi lại khá đông, Thành không có cơ hội nào để ra tay với Sảnh. Thành đến gần nhà Sảnh để quan sát, y lấy làm đắc ý: nhà Sảnh ở tầng một, cửa sổ phòng ngủ của Sảnh có chấn song sắt, nhưng phần trên thì lại thiết kế có thể đóng-mở. Cũng dễ hiểu thôi: có cô gái nào muốn cửa sổ khuê phòng của mình kín bưng như cửa nhà tù. Cho nên, khi hai cánh cửa sổ kia mở, thì Thành vẫn có cơ hội đột nhập phòng ngủ của Sảnh để ra tay.
    Y đợi ngoài cửa sổ hai tiếng đồng hồ. Một điều kỳ lạ xuất hiện: tiếng nhạc rock inh ỏi bỗng vang ra từ phòng ngủ của Sảnh. Sảnh trèo qua cửa sổ ra ngoài trong tiếng nhạc!
    Thành hết sức kinh ngạc, quyết định bám theo Sảnh.
    Nhưng y cũng không ngờ Sảnh lại đến trường rồi vào khu nhà 13 ký túc xá.
    Y cũng biết Sảnh là một thành viên của phòng 405, lẽ ra đêm nay phải sơ tán mới đúng, tại sao cô lại quay trở lại khu nhà 13? Lúc này các nhân viên bảo vệ đã đi tuần tra quanh khu nhà, Thành nói với họ rằng, mình là phó bí thư Đảng uý Viện y học lâm sàng, phụ trách công tác sinh viên, đêm nay sẽ cùng công tác với các anh em, gọi là có thêm một trợ thủ. Tuy cảm thấy hơi lạ, nhưng các nhân viên bảo vệ không có lý do gì để từ chối, song cũng không phân công Thành làm việc gì cụ thể.
    Thành vào khu nhà, đi khắp nơi để tìm Sảnh. trời chẳng phụ người có tâm: khi chuông báo tắt đèn vang lên thì y phát hiện thấy Sảnh đang đi ra từ một phòng ở tầng 4.
    Sảnh không đi về phía phòng 405, các nhân viên túc trực sẽ không cho bất cứ sinh viên nào đến gần gian phòng này.
    Sảnh lên tầng 5, nhìn quanh bốn phía thấy không có ai chú ý đến mình, bèn lách vào một gian buồng xép chứa các thứ lặt vặt và dụng cụ vệ sinh.
    Thành biết cả khu nhà này chỉ có 2 gian buồng xép, một gian ở tầng 2, một gian ở tầng 5. Gian xép tầng 2 chính là nơi Tiêu Nhiên năm xưa đã cất giấu cuốn nhật ký, Trịnh Kình Tùng đã cho tổ điều tra biết về cúôn nhật ký đó, nên tổ điều tra mới có thể chính thức kết tội Tiêu Nhiên.
    Tại sao cô ta lại trốn vào đó?
    Thành thấy vô cùng tò mò.
    Sau khi đèn tắt, Thành lấy danh nghĩa tuần tra, đi đi lại lại trên tầng 5 để quan sát động tĩnh của Sảnh.
    Chỉ còn chừng 5 phút nữa thì đến 12 giờ đêm, thấy cánh cửa nhỏ mở ra, Thành vội nấp vào sau cánh cửa nhà tắm để quan sát, thấy Sảnh kéo một vật cao bằng đầu người đi đến ô cửa sổ cuối cùng hành lanh, mở cửa sổ ra.
    Sảnh giơ tay xem đồng hồ. Nhờ có ánh đèn đường hắt vào, Thành nhìn thấy Sảnh còn xách một chiếc máy cát-sét.
    Con bé định làm trò gì vậy nhỉ?
    Sảnh bỗng ấn nút máy cát-sét, sau đó hất cả máy cát-sét lẫn vật cao cao gì đó rơi xuống dưới sân.
    “Á...” một giọng nữ kêu thảm thiết xé tan màn đêm yên tĩnh.
    Lại thấy Sảnh vội vã lôi ra từ gian buồng xép kia một vật cao cao như vừa rồi, và một máy cát-sét kiểu cổ, nhanh chóng chạy đến đầu bên kia của hành lang rồi ném cả hai thứ xuống
    Lại một tiếng kêu thảm thiết vang lên.
    Tiếng bước chân chạy rầm rập ở phía tầng dưới, rõ ràn là các nhân viên bảo vệ đều chạy xuống để kiểm tra xem đã xảy ra chuyện gì.
    Lúc này, Sảnh chạy xuống tầng dười. Bỉnh Thành bám theo luôn, từ xa y nhìn thấy Sảnh bước vào phòng 405. Thành biết rằng lúc này trong phòng 405 không có người trực ban, Sảnh có thể muốn làm gì cũng được.
    Nó định làm gì nhỉ?
    Thành thở phào nhẹ nhõm. Năm nào cũng diễn lại thảm kịch “vụ án mưu sát 405”, thì năm nay cũng không ngoại lệ. Tương tự như các năm trước, năm nay Âu Dương Sảnh đã có ý tính toán sắp đặt, nó sắp nhảy lầu “thành công”, thế thì Bỉnh Thành cũng vơi nỗi lo.
    Lúc này Thành thấy ở đầu hành lang có một cô gái khác xộc thẳng vào phòng 405, hình như chính là Diệp Hinh.
    Lịch sử “vụ án mưu sát 405” là mỗi năm chỉ có một người nhảy lầu từ phòng 405, tất nhiên Hinh sẽ không cùng Sảnh đi tìm cái chết, mà là đến để ngăn chặn Sảnh nhảy lầu.
    Con bé này đã biết quá nhiều chuyện, còn biết nhiều hơn cả con bé Thẩm Vệ Thanh, nó cũg không thích hợp để sống trên đời này nữa
    Một cơ hội tuyệt vời đang ở ngay trước mắt, thật là một công đôi việc.
    Tim Bỉnh Thành bỗng đập nhanh, y còn nhớ cái ngày mà nỗi sợ hãi xen lẫn khoái cảm này: cách đây 26 năm, y đã lấy cắp kỷ vật hứa hôn của Tiêu Nhiên tặng Phồn Di, đó là một cái lược gia bảo có khảm những viên đá quý màu đỏ và đen cho vào phong bì, rồi đặt vào phòng 405. Tiêu Nhiên nhìn thấy cái lược, hiểu rằng Phồn Di đã dứt khoát tuyệt giao với mình nên anh đã quyết định tìm đến cái chết. Bỉnh Thành bí mật theo dõi, tấhy Kình Tùng bước vào phòng 405 để ngăn cản Tiêu Nhiên tự sát, Thành cũng vào theo.
    Tất cả giống hệt như nhau, cứ như là được trời giúp vậy!
    Hôm nay, cũng như 26 năm trước, Thành không còn sự lựa chọn nào khác.
    Và thế là Thành lại vào phòng 405.
    Y đã chuẩn bị sẵn găng tay và bao chân, chỉ với một chút sức lực thôi cũng đủ để khiến hai thiếu nữ đẹp như hoa phải gương tan ngọc nát.
    Ngay trong cái khoảnh khắc y định ra tay thì một giọng nói sắc gọn vang lên phía sau y: “Lục Bỉnh Thành, anh gây ra tội ác còn chưa đủ sao?” Chính là giọng nói của vợ y - Khổng Phồn Di.
    Thành kinh hãi. Tất cả đều chững lại. Sảnh và Hinh nghe thấy tiếng nói, bèn quay đầu nhìn, thấy Thành đang áp sát họ. Bản năng xui khiến hai cô nhảy ào về phía sau. Hinh ôm chặt lấy Sảnh, ngã nhào xuống sàn nhà. Thành định tiếp tục ra tay thì thời cơ tốt nhất kia đã trôi đi mất rồi. Phồn Di từ phía sau chạy đến tóm chặt cánh tay của y.
    Sinh viên các phòng bên cạnh nghe có tiếng ồn, đều mở cửa chạy ra đứng vây kín cửa. Tiếng bước chân rầm rập chạy, từ trên tràn xuống, từ xa tiến lại. Rõ ràng là các nhân viên bảo vệ đã biết họ bị trúng kế “điệu hổ ly sơn”, nên lại chạy về phòng 405.
    Bỉnh Thành vận hết sức lực vùng thoát khỏi Phồn Di, rồi đứng tựa bên cửa sổ thở hồng hộc.
    Y vốn tưởng tất cả sẽ tái diễn hệt như 26 năm tước đây, sau đó cũng chỉ là ngủ mê gặp ác mộng vài lần là cùng. Không ngờ Phồn Di đã đoán được ý đồ của y, rồi tìm đến tận đây. Năm xưa, cũng chỉ vì quá yêu người con gái này, y đã biến thành kẻ tội phạm, thì đêm nay lại là chính cô ta đã khiến y phải hiện nguyên hình kẻ tội nhân.
    Đôi mắt Phồn Di đầy phẫn nộ, Thành hiểu rằng y đã trao cho Phồn Di một tình yêu vô bờ bến nhưng chính y cũng đã tàn phá tình yêu chân chính và tuổi xanh của Phồn Di, không đời nào Phồn Di lại tha thứ cho y.
    “Tôi biết anh đã đi Nghi Hưng, tôi có chứng cứ, vừa rồi anh định sát hại họ, tôi cũng đã nhìn thấy”.
    Cô ấy đã chứng kiến hành vi này của mình, cô ấy sẽ không giữ im lặng.
    “Phồn Di, em có biết anh làm thế đều là vì em không?” Giọng Thành run run.
    “Không đúng, Anh làm thế, đều là vì chính anh” Phồn Di thoáng mủi lòng nhưng chị không thể nào tha thứ cho kẻ tội phạm đang đứng trước mặt.
    Lúc này vài nhân viên bảo vệ đã chạy đến. Vừa rồi họ đã chạy xuống sân, chia làm 2 nhóm chạy sang 2 phía đông tây quan sát 2 xác người nằm ở đó. Tại hiện trường, máu tươi lênh láng. Họ thận trọng tiến lại gần xác người, càng nhìn càng thấy kỳ lạ. Cuối cùng họ nhận ra rằng “thi thể cô gái” này thực ra chỉ là ma-nơ-canh bằng nhựa thường bày trong các cửa hiệu, bên cạnh nó còn có một máy cát-sét đã vỡ tan, chắc chắn tiếng kêu thê thảm kia đã được ghi âm từ trước! Lúc này họ mới ngã ngửa người ra là mình đã trúng kế điệu hổ ly sơn, bèn vội chạy trở lên phòng 405. Đứng trước một đám đông chặt kín phòng, họ không hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra.
    “Phó bí thư Thành...”
    Vậy là tất cả đã sụp đổ, Thành nói: “Phồn Di em đừng trách anh, anh không phải là kẻ ác, nhưng có những sự việc, một khi đã dấn bước vào rồi thì khó lòng quay trở lại”.
    Hinh bỗng thấy rùng mình, câu nói này sao nghe quen quen.
    “Không đúng! Con người có thể sám hối và tự thoát ra vươn lên. Chỉ tại anh đã tham lam quá, lại che giấu những thứ bẩn thỉu trong lòng anh quá kín, nên anh mới tiếp tục sai lầm như thế này!” Phồn Di cảm thấy đến lúc này chị mới thật sự hiểu về con người Bỉnh Thành.
    Thành biết mình đã mất tất cả! Tất cả những thứ thuộc về y và không thuộc về y đều tan thành mây khói.
    Y quay đầu lao ra ngoài cửa sổ.
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  12. #32
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Chương 30 Vĩ thanh 1


    “Tôi biết đây là một tin không hay, nhưng tôi buộc phải nói thật với chị, các kết quả kiểm tra đều cho thấy... con gái chị - Diệp Hinh đã bị ung thư não, có khối u ác tính - là khối u tế bào dính kết. Ở một chừng mực nhất định, điều này có thể giải thích tại sao cô Hinh thường xuyên có ảo giác - não bộ là cơ quan hàng đầu của hệ thống thần kinh trung ương, sự bất thường của tế bào sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng thần kinh. Tiếc rằng, trọng tâm điều trị giai đoạn trước đã lệch sang hướng bệnh học thần kinh. Kiểm tra bằng máy cộng hưởng từ và chọc thăm dò vùng lưng cho thấy tế bào ung thư đã chạy lên màng não, tính chất phá hủy và mức độ khuyếch tán của tế bào ung thư cho thấy việc giải phẫu e khó có thể điều trị tận gốc. Cho nên, sau khi phẫu thuật còn phải truyền hóa chất để tiếp tục khống chế”.
    Bà Kiều Doanh ngồi trên ghế phía trước bàn làm việc của bác sĩ Triệu, bà im lặng hồi lâu, rồi nghẹn ngào cố kìm nén tiếng khóc - buồn Diệp Hinh đang nằm cách đây không xa, bà không muốn cô con gái nghe thấy tiếng khóc của mình.
    Hai mẹ con nghe theo đề nghị của Vân Côn, đến bệnh viện kiểm tra về bệnh nhức đầu như mọi lần cô vẫn hay đến khám. Phim CT cho thấy dấu hiệu có thể là khối u, sau khi vào nằm viện, nhiều xét nghiệm tiếp theo đã dẫn đến kết luận vừa rồi của bác sĩ Triệu.
    “Chúng tôi chú ý đến tiền sử phụ thân Diệp Hinh đã bị u não, cho nên thông tin này khiến bà rất đau buồn, chúng tôi sẽ cố gắng hết mọi khả năng của mình, coi đó là tiền đề để điều trị cho Diệp Hinh được bình phục”. Bác sĩ Triệu cảm thấy những lời an ủi này vẫn rất mờ nhạt.
    “Xin anh cho tôi biết, liệu cháu Diệp Hinh thật sự có thể bình phục hay không?” Bà Kiều Doanh nhìn bác sĩ Triệu bằng ánh mắt vừa tha thiết, vừa tuyệt vọng.
    “Khối u ác tính như thế loại này... khối u ác tính đã di căn, thì tỷ lệ được cứu sống...”

    Nhìn Diệp Hinh sắc mặt nhợt nhạt nằm trên chiếc giường bệnh trắng nhợt, bà Kiều Doanh vẫn không thể cầm nổi nước mắt. Nước mắt cứ thế tuôn rơi lã chã. Cái ngày 16 tháng 6 đã trôi qua trong sự hãi hùng, bà vốn tưởng cô con gái đã thoát nạn, nào ngờ lại gặp phải một tai họa mới càng khó tránh hơn. Đang ở độ tuổi thanh xuân đẹp nhất của cuộc đời, vậy mà Diệp Hinh phải vật lộn với bóng ma bệnh tật tàn khốc! Sao cuộc đời lại bất công đến thế?
    “Mẹ ơi, mẹ đừng buồn. Giải phẫu xong con sẽ khỏe lại mà. Mẹ nên nhớ con là Diệp Hinh, cho nên con có nhiều hy vọng, con có thể bình yên vượt qua được tất cả!”. Hinh rất muốn an ủi mẹ.
    Bà Kiều Doanh rất xúc động trước sự cứng cỏi của con gái, bà vuốt ve khuôn mặt tiều tụy của Diệp Hinh, bà biết cô đang bị sốc mạnh.
    Đúng lúc này, Sảnh và Vân Côn cùng bước vào, đem đến cho Hinh những nụ cười rạng rỡ, khiến căn phòng ấm cúng hẳn lên. Nhưng rồi cuộc gặp gỡ dù vui đến mấy rồi cũng lắng xuống, bạn bè thân thiết đã ra về. Hinh nhắm mắt, cả thể xác lẫn tinh thần đều mệt mỏi rã rời.
    Cuối cùng, Hinh đã hiểu rằng tại sao bà Uông Lan San đã để lại cho mình những cuộn sách khoa học kia. Chính là ngụ ý rằng con đường của mình đã tận. Bà ấy đã biết trước mình sẽ mắc bệnh ung thư tế bào dính kết, đã lan rộng, hy vọng ở phẫu thuật gần như chỉ bằng không, điều trị hóa chất cường độ cao để tiêu diệt các tế bào ấy thì cũng tổn hại đến những tế bào khỏe mạnh, sẽ rụng tóc, sẽ mất hồng cầu, sức lực sẽ lụi tàn, mình sẽ trở thành một loại ký sinh trùng. Hinh còn có nhiều lý tưởng khát khao, còn biết bao ước mơ về sự nghiệp, về cuộc sống, về tình yêu. Đúng thế, tình yêu. Nhìn Sảnh và Vân Côn luôn bên nhau tràn trề tình cảm nồng nàn ấm áp, Hinh khát khao được như họ. Hinh mới chỉ có một chút tình cảm hư ảo không đáng hồi tưởng làm gì. Mặc dù coi đó là một thứ tình yêu đơn phương thì cũng chưa phải, nhưng dường như nó lại khắc rất sâu trong trái tim Hinh.
    Vừa nhớ đến, Hinh lại trào nước mắt. Hai hàng lệ dần lan tỏa khắp đôi má Hinh. Nếu anh ấy ở bên, anh ấy sẽ lau nước mắt cho mình.
    Bỗng có một bàn tay đang đưa ra lau nước mắt cho Hinh thật. Hinh thấy rơi rùng mình, cô thận trọng mở mắt ra nhìn.
    Đúng là anh, mái tóc đen dày, không chải chuốt, khuôn mặt rạng rỡ và đôi mắt đầy nhiệt tình!
    “Tại sao anh lại đến đây? Tại sao đã để cho em yêu anh nhưng chỉ cho em có được một sự thật hư ảo?”. Hinh vẫn nhớ đến anh, Hinh biết rằng đây là một thứ cảm giác mang tính bệnh lý nhưng cô không thể nào chống đỡ nổi.
    “Em nhầm rồi! Chính em đã để cho anh phải yêu em. Tình yêu, bao giờ cũng là chân thực!”. Tiếng anh ấy nói dường như từ chân trời xa tắp vọng lại.
    Hinh nắm chặt tay anh, rồi lại nhắm mắt vào. Đúng thế, Hinh cảm thấy vô cùng chân thực, Hinh không muốn cái cảm giác này lại tan đi mất một cách dễ dàng, cho nên Hinh nắm tay anh rất chặt, rất lâu.
    Rất lâu, Hinh bỗng nhớ ra mình còn vô số điều thắc mắc.
    “Anh nói đi, anh rất tốt, đúng không? Anh đang “Chờ đợi, Đợi chờ”, chờ Y Y xuất hiện, không phải là anh đã làm hại những nữ sinh kia”
    “Anh đợi chờ, và đã thấy em. Cảm giác của em xưa nay đều là đúng, anh chưa từng làm hại bất cứ ai”.
    “Thế thì ai đã làm hại họ? Lẽ nào là các oan hồn của “Nguyệt Quang xã”? Em cảm nhận rằng họ cũng rất chân thật và tốt như anh”.
    “Đúng thế, họ đều là những người tốt, đều có tấm lòng rộng mở. Sau khi được xem xét phục hồi danh dự, họ đều đã đi khỏi khu nhà giải phẫu. Mấy năm nay anh rất cô đơn”.
    “Nhưng... bên anh vẫn còn Trịnh Kinh Tùng, tất cả là do chính anh ấy đã tính kế, dùng tính mạng của các nữ sinh viên vô tội ấy để tạo dựng thanh thế, nhằm khui ra tên hung thủ đã đẩy hai anh rơi xuống đất năm xưa. Đúng không?”. Hinh bỗng lại thấy đầu nhức như muốn vỡ tung. Cô hiểu rằng anh vẫn dạo quanh não cô, lưỡng lự chưa muốn đi.
    “Anh ấy là một con cừu non đi lạc đường... Anh muốn cứu vớt anh ấy nhưng anh bất lực. Tuy luôn luôn ở bên cạnh anh ấy, nhưng anh cũng không hiểu mọi ý nghĩ của anh ấy”.
    “Em biết, tình cảm của anh đối với anh ấy cũng thật phức tạp. Anh ấy đã bán đứng anh, đã phản bội lòng tin của anh và tình bạn của hai người, nhưng mặt khác, anh ấy đã từng là bạn chí thân của anh - khi anh quyết định từ giã cõi đời, anh ấy vẫn mong cứu vãn sinh mệnh của anh, cũng vì thế mà bị Bỉnh Thành hãm hại. Sau khi chết, anh ấy tìm cách trả thù, len lỏi vào não các nữ sinh, khiến họ muốn đi tìm hiểu câu chuyện “Ánh trăng”, làm cho họ rối loạn thần kinh. Anh và anh ấy cùng ở trong não mọi người, nhưng anh không thể can thiệp gì được”.
    “Ý chí trả thù của anh ấy ngày càng mãnh liệt!”
    “Anh đã có thể để cho em cảm nhận được sự tồn tại của anh, nhưng tại sao anh không cho em biết mọi nguồn cơn của sự việc?”
    “Anh không tồn tại trong thế giới khách quan nên không thể cho em biết bất kỳ sự việc cụ thể nào”
    “Thế thì tại sao em lại có thể cảm nhận...”
    “Đó đều là những cảm giác, những cảm nhận của em, vì em muốn cảm giác thấy, cảm nhận được, cho nên chúng ta mới có thể giao lưu như vậy. Nếu em không nghĩ gì hết, thì anh sẽ không còn nữa”.
    Diệp Hinh không tin là thế, cô lại nhắm mắt, không nghĩ ngợi gì nữa để cho đầu óc trống rỗng. Hinh mở to mắt, quả nhiên anh đã biến mất.
    “Anh trở lại đi!” Hinh lên tiếng gọi
    Nhưng anh đã không xuất hiện. Hinh lại trào nước mắt. Tại sao vào lúc em đau khổ nhất anh lại bỏ đi?
    “Thấy chưa, em vừa nghĩ đến anh, anh lại đến với em ngay!”
    “Ra vẻ ta đây nhỉ!” Hinh hết khóc, lại tươi cười “Ý anh là các cuộc gặp gỡ của chúng mình đều xảy ra trong bộ não của em, anh không thể trực tiếp nói với em điều gì, tất cả đều là kết quả của ý muốn cảm nhận và suy đoán của em. Vậy thì bà Uông Lan San nói không sai: các anh không phải ma quỷ, mà là một thứ năng lượng - thứ năng lượng kích thích bọn em hãy suy nghĩ, nói cách khác là, khuấy động tâm tư bọn em”.
    “Anh...”
    “Em hiểu, anh không cố tình làm thế. Anh đã luôn luôn giúp đỡ và nhắc nhở em, anh chỉ lo em trở thành vật hy sinh tiếp theo của Trịnh Kinh Tùng. Cho nên có lẽ cũng có thể giải thích một điều này: tại sao tối hôm đó ở trạm phát thanh em cảm nhận được tiếng bước chân kỳ quái rất đáng sợ, lúc mạnh lúc nhẹ... chắc là anh đang ngăn cản Kinh Tùng hành hạ em; và có thể giải thích cả việc này: tại sao khi Kinh Tùng thông qua bà San dùng thuật thôi miên để giết hại bác sĩ Đằng Lương Tuấn, thì em bị dẫn dụ đi đến? Chắc cũng là anh đang nhắc nhở em, vì em còn nhớ rằng anh không tán thành em ra viện kia mà! Đúng là anh đang bảo vệ em. Sau này, khi Sảnh bị Kinh Tùng xúi giục, đã tự thu xếp rất tỉ mỉ, chuẩn bị nhảy lầu, thì em cũng bị nhức đầu và được dẫn dắt đến phòng 405 để ngăn không cho bi kịch xảy ra - cũng là anh đã làm chứ gì? Có những lúc em cảm thấy tinh thần em đang dần dần suy sụp, thì anh đã giúp đỡ, an ủi để em giữ được sự tỉnh táo”.
    “Trước hết là vì chính em đã rất kiên định, còn anh thì không muốn mất em”.
    “Nhưng tại sao các cô gái khác lại không thể giao lưu với anh? Tại sao anh không thể cứu được họ?”
    “Các bạn ấy khác em”.
    Hinh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Ý anh là, tại vì em... bị ung thư não à?” Đây là cách giải thích duy nhất Hinh có thể nghĩ đến.
    Chàng trai im lặng không nói, nét mặt anh hiện rõ nét u buồn
    “Thì ra, nói là em đã thành công, bởi vì em có cái khối u chết người này ư?”
    “Nguyên nhân chủ yếu là vì em có trí thông minh và đã nỗ lực không ngừng để làm sáng tỏ một giai đoạn lịch sử nặng nề. Em nên tin ở bản thân. Những điều mà em tin tưởng, sẽ là những thứ chân thực thuộc về em”.
    “Nhưng tình yêu mà em tin tưởng, có thuộc về em không?”
    Lúc này, đến lượt chàng trai phải khóc. Anh hôn lên bàn tay nhỏ nhắn của Hinh. Hinh nhìn thấy trên mu bàn tay anh vẫn còn vết hằn mờ mờ của hai hàng răng.
    Hinh bỗng thấy đầu óc như chợt bừng sáng, tại sao mình cứ phải bận tâm đó là hư ảo hay là chân thực? Tình yêu vốn là một thứ cảm giác kia mà!
    Dù cảm giác đó là kỳ dị!
    “Nếu ngày nào em cũng muốn gặp anh, thì anh có đến với em không?”. Hinh thấy mình giống như một đứa trẻ ngây thơ.
    Chàng trai chỉ tay lên trán Hinh: “Em nên nhớ, tất cả là ở đây. Thực ra, sự tồn tại của anh - hoặc nói là sự tồn tại của chúng ta - đều do em quyết định. Em tin anh, em nhớ anh, thì anh sẽ có sức sống. Anh sẽ có thể ngày nào cũng ở bên em, vào lúc em cần đến anh, anh có thể xuất hiện!”
    “Có phải lại giống như hồi em nằm viện tâm thần không? Ngày nào anh cũng có thể đến thăm em, rất nhiều lần trong ngày... vậy là em đã hiểu được hàm ý của “khắc khoải nhớ nhung” là gì rồi!”
    “Bây giờ...”
    “Em muốn anh ở mãi bên em, không bao giờ xa em, em chấp nhận mãi mãi ở trạng thái “tâm thần phân liệt” cũng được!”
    “Chỉ cần em bằng lòng, thì...”
    “Em bằng lòng. Bắt đầu ngay từ lúc này. Chắc bây giờ anh có thể kể cho em biết câu chuyện về “Chờ đợi, Đợi chờ” rồi chứ? Anh phải kể cho em đi! Cấm không được “cùn” như thế nữa”.
    “Chính em “cùn” thì có! Em thừa biết đầu đuôi xuôi ngược của câu chuyện đó là gì rồi! Nó chẳng qua chỉ là lời thở than của một kẻ mềm yếu, còn con người thực sự dũng cảm thì đã đang đối diện với cuộc sống mới!”
    “Thế thì chúng ta sẽ cùng đối diện với cuộc sống mới!”
    “Nhưng... hiện nay em...” Anh ấy vốn không phải là con người ngập ngừng do dự, anh định nói gì nhỉ?
    “Em biết mình trước sau sẽ bị bệnh ung thư tàn phá, mổ xẻ hay truyền hóa chất cũng chỉ là để sống lay lắt ít lâu. Cho nên em đã nói dứt khoát với bác sĩ rằng không chữa nữa, để cho mẹ em đỡ phải khổ lây, và em cũng được sớm gắn bó với anh!”
    “Em chớ nói vớ vẩn thế này!”
    “Đúng là rất kỳ cục, nhưng em đã nghĩ như thế. Dù sao bác sĩ cũng đã nói rồi: giả sử tất cả đều suôn sẻ, thì em vẫn chỉ nằm trong xác suất được cứu sống...”
    Chàng trai bỗng đứng dậy. Đôi tay vuốt ve khuôn mặt Diệp Hinh, ánh mắt anh vô cùng lưu luyến: “Dù chúng ta không thể gắn bó với nhau, thì em vẫn còn ngày mai tươi sáng. Em nên nhớ: niềm hy vọng vĩnh viễn luôn ở bên em!”
    Linh cảm về sự chẳng lành lại dâng lên trong Hinh. Hinh thấy câu nói của anh rất nặng nề, hình như là vĩnh biệt.
    “Anh hãy hứa, sẽ mãi mãi ở bên em đi anh?”
    Anh nhìn thẳng vào đôi mắt Hinh, khẽ cất tiếng hát. Tiếng ca giống như từ nơi chân trời xa xôi vọng đến.

    Anh mở to đôi mắt
    Chỉ nhìn thấy bầu trời xám âm u
    Mà không thấy cầu vồng đang ở phía bên kia
    Anh ngồi nơi đáy giếng nhỏ
    Chẳng thể đi về nơi xưa ấy

    Từ giây phút thấy bóng em bước tới
    Đời anh chẳng còn như bức ảnh đen trắng cũ kỹ ngày xưa
    Phủ đi lớp bụi mờ, anh tìm lại nét cười đã lâu ngày quên lãng
    Ước mong sao thời gian không gian hãy ngừng biến đổi
    Để cho anh được ở mãi bên em.

    Anh muốn ở lại đây
    Không bao giờ rời xa
    Ánh mắt em nồng ấm tràn đầy
    Đã chiếu sáng thế giới của anh hôm qua vẫn còn tăm tối.
    Anh muốn ở lại đây
    Không bao giờ rời xa
    Bàn tay em nhỏ xinh mềm mại
    Đã dắt anh ra khỏi màn đêm sâu thẳm âm u
    Sự đời trôi, cảnh sắc đã khác xưa
    Ôi hợp tan, vô thường, nỗi sầu sao tránh khỏi!
    Đôi lòng đã giao thoa, xa cách nhau sao nổi?
    Hãy để cho thời gian lạnh lùng trôi, làm nhạt nhòa bao nỗi tiếc thương những ngày đoàn tụ hiếm hoi
    Thử hỏi, giã biệt nghĩa là gì đây?
    Là đành gượng dệt nên nỗi nhớ muôn đời
    Trên nẻo đường ra đi, bao phen ngoái đầu nhìn lại
    Anh mới hiểu, điều khó làm nhất trên thế gian này
    Là nói câu “giã biệt” em ơi!

    Anh muốn ở lại đây
    Không bao giờ rời xa
    Nhưng không thể buôn tình yêu ấy của tôi
    Để bông hoa đẹp nhất thế gian phải héo khô tàn tạ

    Anh muốn ở lại đây
    Không bao giờ rời xa
    Vì ngày mai rực rỡ của em
    Anh nguyện hiến dâng tất cả đời anh...

    “Hãy tha thứ cho anh, anh không thể ở bên em được nữa, em hãy quên anh đi!”.
    Nói xong anh biến mất. Diệp Hinh không muốn anh đi nhanh như thế, cô chìa tay ra, nhưng một cơn nhức đầu khủng khiếp đã khiến Hinh hôn mê bất tỉnh.

    “Điều gì đã xảy ra, chúng tôi chưa thể kết luận. Nhưng rõ ràng đây là một tin tốt lành không gì sánh nổi: khối u của Diệp Hinh đã hoàn toàn biến mất, đây là hiện tượng lần đầu tiên xuất hiện trong bệnh viện của chúng tôi!” Bác sĩ Triệu lật giở hàng tập giấy tờ báo cáo xét nghiệm đủ loại, giọng nói của ông lộ rõ sự nghi hoặc không sao hiểu nổi. “Đương nhiên, cũng không phải sự việc như thế này chưa từng xảy ra bao giờ. Ở nước ngoài đã từng có thông tin về các ca có khối u được chuẩn đoán rõ mười mươi, nhưng rồi đột nhiên biến mất! Có người đã từng táo bạo nêu giả thiết rằng tác dụng miễn dịch của cơ thể đã thực sự phát huy tác dụng. Cũng tức là nói rằng, một số tế bào có sức mạnh công phá đặc biệt đã tiêu diệt sạch các tế bào “vô tổ chức” tạo ra khối u. Phương pháp “miễn dịch học trị liệu khối u” căn bản dựa trên khái niệm này!”
    Bà Kiều Doanh ôm chầm lấy Diệp Hinh đang trên giường bệnh, vui sướng đến phát khóc. Rồi bà quay sang nắm chặt tay bác sĩ Triệu, luôn miệng nói cảm ơn.
    “Bà không phải cảm ơn tôi, nên cảm ơn sự thần kỳ... ý tôi là, đôi khi vẫn có những sự thần kỳ!”. Bác sĩ Triệu không dám nhận cái công lao quá lớn này.
    Diệp Hinh ngồi bên, cô bỗng lẩm bẩm: “Có lẽ... không phải là thần kỳ gì đâu!”
    Bà Kiều Doanh hơi sửng sốt: “Kìa, con nói thế... lại có điều gì đó là lạ...”
    Vừa may lúc này Sảnh đến, bà Chỉ Quân đã cho Sảnh biết tin vui, cô vội chạy vào thăm bạn. Bà Kiều Doanh biết tính Sảnh xởi lởi, bà ra ngoài buồng bệnh dặn dò cô mấy câu.
    “Hinh ơi, thật khó mà hiểu được cậu, một tin tốt lành như vậy, mọi người đều vui hết chỗ nói, mà sao cậu lại rất bình thản, thậm chí còn buồn bã, tại sao thế?” Sảnh cảm thấy bà Kiều Doanh lo ngại không phải là vô cớ.
    “Là đệ tử của văn sĩ Agatha Christi, cậu phải đoán ra chứ!”. Gặp Sảnh, Hinh đã thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều.
    “Sao không cho tớ một chút gợi ý? Tớ đâu đã cao tay như vậy! Sao bằng được cậu. Bây giờ tớ đã rất bái phục cậu, tớ tự biết là mình thua cậu. Cậu đã có thể đoán ra tớ mới thực sự là nạn nhân bị “lựa chọn”, đã cứu tớ thoát chết, tớ còn chưa biết phải cám ơn cậu ra sao đây này!”
    “Kìa, lại thế rồi!” Hinh chép miệng: “Chỉ leo lẻo cảm ơn cảm tạ, nói mỏi mồm rồi đấy. Cậu nên nhớ cho: nếu không có cậu thì giờ này tớ vẫn phải nằm viện tâm thần! Đã trót nhắc đến cậu là “nạn nhân bị lựa chọn”, thì tớ vẫn còn quên hỏi cậu câu này: tại sao cậu lại có được cái lược ấy?”
    “Tớ thấy cái lược đó trong gian buồng chứa dụng cụ vệ sinh ở tầng 5. Cũng chẳng hiểu tại sao lúc đó tớ lại mê nó như phát rồ, thế là giữ rịt lấy nó! Nay nghĩ lại, tớ cảm thấy không sao hiểu nổi!”
    Hinh nói: “Nhất định là Trịnh Kinh Tùng đang ở trong não cậu, đã điều khiển cậu. Tớ đoán rằng cái lược này là một thứ biểu tượng, tượng trưng cho cái chết do tình yêu và sự phản bội dẫn đến. Cậu nghĩ mà xem, phần lưng cái lược có gắn đá quý màu đỏ và đen, màu đỏ tượng trưng cho tình yêu và sự tốt đẹp, màu đen tượng trưng cho cái chết và những điều xấu xa. Có điều, tình cảm giữa Tiêu Nhiên, Khổng Phồn Di và Trịnh Kinh Tùng thì đan xen rắc rối đủ bề, chỉ hai màu thôi thì chưa đủ nói lên tất cả. Điều đáng sợ là, dường như Trang Ái Vân đã sớm tiên đoán được kết cục sau này, nên mới để lại cái lược - có lẽ là muốn nghiệm chứng cho những linh cảm của mình”.
    Sảnh “à...” lên một tiếng: “Chương Vân Côn cũng đã nói như vậy! Anh ấy còn nói là, nếu tạm cho qua những lời giải thích kiểu “chính quy” của các nhà sử học và văn học sử, thì đỏ và đen trong tác phẩm “Đỏ và Đen” của Stendhal ít nhiều cũng có cái ngụ ý này. Tớ suy đoán tiếp rằng, Kinh Tùng để cho cái lược xuất hiện bên cạnh các nữ sinh viên nhảy lầu những năm trước đây, có lẽ là vì cái ý nghĩa tượng trưng này. Trước khi nhảy lầu, các chị ấy lại cất lược vào gian nhà chứa dụng cụ vệ sinh, để cho “nạn nhân” năm sau đến mà lấy. Tớ nghĩ rằng, chính sự xuất hiện của cái lược ấy đã khiến cho Lục Bình Thành ngày càng nhạy cảm với quá khứ của hắn, ngày càng thêm kinh hãi, mất ngủ, mộng du, và tiếp tục mắc sai lầm. Và cũng đừng quên rằng Tiêu Nhiên cũng đã cất giấu nhật ký ở căn phòng chứa dụng cụ ấy, về sau chắc là Kinh Tùng đã chỉ điểm cho tổ điều tra và Bình Thành lấy được cuốn nhật ký, cho nên có thể coi căn phòng nhỏ ấy là nơi khởi nguồn của sự phản bội và chết chóc. Cái lược được lấy ra từ đó cũng là phải thôi!”
    “Nhưng tớ vẫn không sao hiểu nổi một điều là tại sao Trang Ái Vân lại dự đoán được cái chết của Tiêu Nhiên?”
    Sảnh nói: “Mấy hôm nay, lần nào gặp Vân Côn, tớ và anh ấy hoặc là lo cho cậu, hoặc là tìm hiểu về vấn đề này - có hôm đang nghĩ sắp nát cả óc thì bỗng nhiên anh ấy nói: “Chớ quên Trang Ái Vân là một diễn viên”. Tớ hỏi: “Vậy thì sao nữa?”. Anh ấy bảo: “Nhiệm vụ của diễn viên là diễn kịch. Kịch bản và tình tiết đều đã vạch sẵn, dù sắm vai gì, thì người ấy ngay từ đầu đã biết kết cục và số phận của mình!”
    Hinh vội kêu lên: “Thuyết định mệnh!”
    “Trang Ái Vân là một diễn viên có biệt tài nhập vai, lại cũng là một bệnh nhân tâm thần phân liệt nặng, cho nên một khi đã có cái ý niệm đó thì bà ấy sẽ nhận định rằng bi kịch tất nhiên sẽ xảy ra. Kết cục của Tiêu Nhiên đã khiến cho thuyết định mệnh được hoàn tất, nhưng nếu nghĩ kỹ thì sẽ thấy rằng cái chết của Tiêu Nhiên không hề xuất phát từ lời dự báo ấy, mà là do môi trường sống và bối cảnh xã hội. Bà mẹ là một ngôi sao điện ảnh tài hoa ngày xưa, chủ yếu sắm vai trong các phim nghệ thuật, là tiền đề để cho Tiêu Nhiên có năng khiếu nghệ thuật trời cho, nhưng cũng không hiếm những người mềm yếu mà lại có năng khiếu nghệ thuật. Từ nhỏ Tiêu Nhiên đã không được hưởng tình thương yêu của cha mẹ, cũng dễ dẫn đến hình thành tính cách nhạy cảm và cô độc. Mặt khác, từ nhỏ sống trong môi trường gia đình giàu có, được hai bác cưng chiều, thì Tiêu Nhiên cũng thiếu sự chuẩn bị về tâm lý để kiên cường đối mặt với khó khăn và áp lực. Xét mọi thứ thì ta sẽ thấy được rằng, đó là sự trùng hợp giữa linh cảm và ngẫu nhiên thì đúng hơn là nói rằng điều dự đoán đã được thực hiện, hoặc nói đó là số mệnh sắp đặt. Nói cụ thể hơn, tức là nếu tối hôm đó Phồn Di đến gặp và giải tỏa sự hiểu lầm, hoặc nếu Kinh Tùng có thêm thời gian để khuyên can Tiêu Nhiên đừng tự sát, đồng thời không bị Bình Thành ám hại, thì Tiêu Nhiên sẽ không tìm đến cái chết. Đây là các nhân tố do con người tạo nên, bà Trang Ái Vân không thể dự đoán được”.
    Hinh gật đầu liên lục: “Bà ấy cũng càng không thể dự đoán rằng, sau khi Tiêu Nhiên chết, thì bi kịch “mặt nát” vẫn tiếp tục xảy ra, và một đứa trẻ vô tình nhìn thấy bà lên cơn ngày ấy, sau khi cậu ta chết đã để lại hậu quả “ánh trăng - âm nhạc tuyệt diệu - mặt nát”.”
    “Kinh Tùng vì muốn kiếm chút vốn liếng chính trị đã bán đứng người bạn thân nhất. Cha Tùng là ông Trịnh Tri Ân vì bị mất vị trí quản gia và tiền bạc đã công bố chuyện riêng tư của ông chủ - hành trình số phận của hai thế hệ gần như là song song. Tính cách của họ rất phức tạp song cũng rất chân thực. Trong một điều kiện nào đó, sẽ rất mạnh mẽ và trung thực nhưng khi ngồi tính toán thật kỹ cho mình thì họ lại biến chất đến mức cực đoan”.
    “Nhưng chớ quên rằng Kinh Tùng đã có thể khống chế hành vi của cậu! Ăn nói như thế, không lo anh ta sẽ trả thù cậu à?” Hinh trêu bạn.
    Sảnh nói: “Tớ và Vân Côn cũng đã soi xét mãi vấn đề này, kết luận cuối cùng vẫn là cái câu muôn thuở “tin thì thiêng, không tin thì hết thiêng”. Năng lượng còn sót lại của Kinh Tùng thực ra chỉ có thể rình để chui vào bộ não đang nửa tin nửa ngờ về những chuyện ma quỷ, nếu cậu suy nghĩ theo nếp nghĩ của anh ta, thì anh ta sẽ không nể nang gì hết để lợi dụng cậu làm những việc mà chính cậu không sao lý giải được - cũng như tớ tối hôm ấy đã chuyên tâm sắp đặt, điệu hổ ly sơn, để sau đó đi nhảy lầu. Nhưng nếu cậu kiên quyết không tin ở sự tồn tại của anh ta, thì anh ta không thể làm nên trò trống gì! Tớ còn nghĩ rằng, chưa biết chừng Chu Mẫn, Trần Hy... và rất rất nhiều bạn khác nữa đã bị năng lượng của Kinh Tùng xâm nhập, nhưng vì họ không tin, không để ý cho nên không hề có “triệu chứng” gì. Nhưng hai chúng ta thì đã bị lợi dụng rồi. Còn về các chị khóa trước, thì lại đều là người Giang Nam. Tớ cho rằng, một là Kinh Tùng vốn luôn bất mãn với Y Y, lại thêm hận vì khi Tiêu Nhiên bế tắc, Y Y đã bỏ rơi, cho nên Kinh Tùng cố ý lựa chọn các nữ sinh đến từ Giang Nam để dẫn dụ họ. Hai là, nói chung các thiếu nữ Giang Nam thường hay đa sầu đa cảm, rất dễ bị năng lượng của anh ta xâm nhập. Tuy nhiên, hình như cậu thì lại khác người!”
    Hinh “à...” một tiếng, ngẫm nghĩ rồi nói: “Cậu và anh ấy nói giống hệt nhau”
    “Anh ấy? Anh ấy là ai?”
    “Tớ có thể cho cậu biết, nhưng cậu không được tuyên truyền cho tớ: hôm qua tớ đã gặp anh ấy!”
    “Cậu nói là Tiêu Nhiên ư?”
    Hinh gật đầu.
    “Đây chính là điều mà tớ nói là khác người! Tại sao cậu lại có thể nhìn thấy họ, thậm chí trò chuyện với họ nữa? Và, bây giờ lại có một chuyện thần kỳ tuyệt diệu xảy ra trong người cậu - hiện tượng khối u ác tính chưa chữa đã tự biến mất, không phải chỉ nói là hiếm thấy mà thực tế là cực kỳ hiếm thấy”.
    Hinh thở dài, chậm rãi nói: “Hôm qua, lúc tớ đang rất nhớ anh ấy, thì anh ấy lại xuất hiện rồi nói chuyện với tớ rất lâu. Cậu đã phân tích rất đúng, sự tồn tại của họ phải dựa trên niềm tin của chúng ta, kể cả cảm giác yêu đương: anh ấy yêu - tớ tin, thế là tớ cũng yêu! Xem ra, hình như chỉ mình tớ là có thể giao lưu trò chuyện được với anh ấy nhưng không phải là vì tớ có khả năng đặc biệt gì cả mà chủ yếu là do có khối u. Có lẽ các tế bào khối u phát triển “vô lối” ấy đã làm cho tớ càng nhạy cảm với các tín hiệu thông tin cực yếu, cho nên tớ có thể nhìn thấy họ, thậm chí tự nhận rằng mình có thể giao lưu với họ... Sau đấy, tớ không muốn chữa bệnh, tớ muốn chết quách đi để hóa thành năng lượng bé nhỏ mãi mãi ở bên anh ấy. Nhưng anh ấy đã can ngăn tớ, và coi như nói lời vĩnh biệt với tớ. Về sau thì khối u của tớ biến mất. Sau khi khối u biến mất, dù tớ cố nhớ anh ấy như thế nào, thì anh ấy cũng không xuất hiện nữa.”
    Sảnh kinh ngạc, mắt trợn tròn: “Cậu nói là... việc anh ấy biến mất có liên quan đến khối u của cậu đã tan? Hoặc nói là, năng lượng của anh ấy hủy diệt những tế bào ung thư đó à? Liệu có phải, việc họ xuất hiện trong não cậu là nguyên nhân tạo thành khối u không?”
    “Cái gì là Nhân? Cái gì là Quả? Tớ thực sự không biết. Tớ chỉ biết rằng tớ không bao giờ còn có thể gặp lại anh ấy được nữa” Nước mắt Hinh tuôn rơi lã chã.
    Đúng lúc này bà Kiều Doanh bước vào, thấy con gái đang khóc, bà nóng lòng như lửa đốt. Hinh bỗng ngước nhìn: “Mẹ, và Sảnh đừng lo lắng gì! Con sẽ ổn cả! Con còn có ngày mai tươi đẹp kia mà. Niềm hy vọng sẽ vĩnh viễn ở bên con!”
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  13. #33
    Senior Member Nhok_Ac_Ma's Avatar
    Join Date
    Dec 2008
    Location
    Tuyệt Tình Cốc
    Posts
    154

    Default

    Hồi kết Vĩ thanh 2


    Mùa xuân năm 2004.
    Tiết mục thứ 3 của lễ cưới là biểu diễn pi-a-nô. Ngồi trước cây đàn là hai cậu bé sinh đôi, chừng 7-8 tuổi. Một trong hai cậu mặc bộ comple đỏ thẫm rất sặc sỡ vui tươi, chắc là nhằm để dễ phân biệt. Còn cậu kia thì mặc bộ lễ phục màu đen rất trang trọng.
    Tiếng nhạc tràn ngập cả sảnh đường buổi lễ, đầu tiên là bài “Hãy vén tấm khăn che mặt em” cải biên từ dân ca Tân Cương, sau đó là bài “Phượng Hoàng bay đi” có từ những năm 40.
    Diệp Hinh hơi nhíu mày. Vì đã lọc làu làu mấy cuốn sách mà bà Uông Lan San để lại cho, nên Hinh biết bài Phượng Hoàng bay đi có xuất xứ từ một bộ phim cùng tên, hồi đó Chu Tuyên đã hát bài này rất nổi tiếng. Đây là bài hát diễn tả lúc hụt hẫng, trong ca từ có câu “chỉ còn lại một chuỗi hồi ức”, vậy thì đầu đề bài hát là thoả đáng. Nhưng nội dung bài hát thì hoàn toàn không thích hợp với khung cảnh lúc này, chắc là vì người chủ trì đã không thật thuộc chi tiết sự kiện. Sảnh và Vân Côn yêu nhau cả chục năm, nay mới kết hôn, sao có thế “chỉ còn lại một chuỗi hồi ức”? Chính trạng thái tình cảm của Hinh mới thật là “chỉ còn lại một chuỗi hồi ức” thì có, mười năm trời Hinh vẫn chưa quên.
    Bài tiếp theo lại càng làm cho Hinh xốn xang.
    “Bản giao hưởng ánh trăng” của Bettoven. Nghe nói đây là tác phẩm thể hiện tình yêu trìu mến của Bethoven, rất thích hợp với không khí này, nhưng Hinh bất giác thở dài vì vấn vương câu chuyện của mười năm về trước. Anh ấy đã trừ bỏ cho cô khối u, nhưng rồi hoàn toàn biệt tăm. Lúc này anh đang ở đâu?
    Đã chơi xong bản nhạc, cả hai cậu bé cùng đứng lên cúi chào. Các vị khách vỗ tay nồng nhiệt, tấm tắc khen ngợi hai cậu bé có khả năng diễn tấu tuyệt vời.
    “Anh xin giới thiệu...” Chú rể Chương Vân Côn giới thiệu với Hinh một vị trung niên cũng đeo kính cận nặng như anh. “Đây là giáo sư Nghiêm Viêm - cha của hai nhạc công tí hon - công tác tại trung tâm vật lý đại học khoa học kỹ thuật Giang Kinh, là bạn thân của anh. Năm xưa anh Viêm đã dùng thiết bị âm học giúp chúng ta phân tích cuốn băng cat-xét, chứng minh rằng âm thanh mà Hinh nghe thấy không phải là hoang tưởng. Hôm nay mọi người hãy làm quen với nhau đi!”
    Sảnh đứng bên canh, trách anh “Kìa anh! Sao hôm nay lại nhắc đến chuyện cũ ấy!”
    Hinh cười: “Có sao đâu! Em xin chúc mừng giáo sư Viêm có hai cậu con trai rất xuất sắc!” Hinh lập tức nhớ đến cuốn băng ghi âm mà Sảnh vừa nhắc đến. Trước khi ra nước ngoài, Hinh đã xin lại rồi đem theo. Mấy năm trước Hinh đã nhờ một phòng thí nghiệm phân tích âm thanh trong băng. Điều kỳ lạ là, vài lần phân tích đều không thấy trong băng có thứ sóng âm nào khác thường. Nó cũng biến mất giống như bao năm qua cô không còn ảo giác, không gặp lại Tiêu Nhiên nữa.
    Nghiêm Viêm tươi cười: “Cô quá khen rồi! Những năm qua cô Hinh vẫn ở nướcngoài phát triển thành công phải không?”
    Du Thư Lượng từ nãy vẫn im lặng, bây giờ mới nói: “Diệp Hinh sang Mỹ, vừa làm một bác sĩ vừa nghiên cứu khoa học. Hinh đã trở thành một chuyên gia não khoa khá là xuất sắc. Tôi đang khuyên tiến sĩ Hinh hãy “hải quy” đi”. (Chú giải: Hải quy- chỉ kiều bào ở xa trở về nước). Hiện nay Lượng đang là bác sĩ điều trị chính của bệnh viện tâm thần.
    Sảnh cười: “Nên nói là “Diệp quy nhân” mới đúng chứ!” (Diệp quy nhân: nói dí dỏm. Họ Diệp = lá, lá rụng về cội = về quê hương. Ý nói Hinh hãy trở về với người thương).
    Hinh nói: “Mình đang suy nghĩ nghiêm túc vấn đề này, mình đang liên hệ chặt chẽ với Đại Học Y Giang Kinh”.
    Bà mẹ của hai cậu bé sinh đôi dắt hai cậu đến, im lặng đứng nhìn mọi người.
    Hinh cúi người nhìn và cười: “Hai cháu chơi đàn rất tuyệt!” Nhưng nụ cười của Hinh bỗng ngưng lại.
    Hai cậu bé mảnh khảnh và hơi xanh xao, tuy trông rất giống nhau nhưng ánh mắt thì khác hẳn, một cậu đầy nhiệt tình sôi nổi, một cậu thì lạnh lùng nghiêm nghị.
    “Cả hai ánh mắt này hình như mình đều đã từng gặp”.
    Hai cậu bé nhìn nhau, rồi cùng mỉm cười: “Cháu chào cô!”
    Hinh thấy mình ứng xử có phần bất ổn, cô cười lại và chào hai cậu bé. Thấy bà Lương Chỉ Quân bước đến trò chuyện, Hinh bèn lui ra chỗ khác.
    Bữa tiệc cưới đã kết thúc, Lượng chào tạm biệt đôi vợ chồng mới, rồi anh nằng nặc đòi tiễn Diệp Hinh về khách sạn. Hinh biết Lượng rất chân thành, không nỡ từ chối, nên bằng lòng để anh ra gọi taxi.
    Lúc Hinh đang chờ ở cửa nhà khách, thì phía sau cô có tiếng khẽ gọi: “Cô ơi!”
    Hinh chợt thấy lành lạnh, cô quay lại nhìn. Chính là cậu bé mặc bộ trang phục màu đỏ, một trong hai anh em sinh đôi, con của Nghiêm Viêm.
    “Chào cháu!” Hinh mỉm cười.
    “Cô để quên cái này ạ!” Cậu bé giơ bàn tay phải đang cầm một chiếc lược có phần lưng rộng, nó cũng có thể dùng làm cặp tóc. Lưng cái lược có đến vài chục hạt đá quý màu đỏ và màu đen, đang lấp lánh dưới ánh đèn nê-ông chốn thị thành.
    “Cháu...” Hinh bỗng không biết nên hỏi như thế nào.
    Hinh còn nhìn thấy trên mu bàn tay nhỏ nhắn đang giơ ra của cậu bé có dấu ấn mờ mờ của hai hàm răng.

    HẾT
    vÔ cẢm...vÔ tÂm...vÔ tÌnH...=TiỂu Tà=NhOk Ác Ma

  14. #34
    Junior Member
    Join Date
    Apr 2009
    Posts
    1

    Default Re: Kỳ Án Ánh Trăng-Quỷ Cổ Nữ

    Truyen nay hay, ly ky, hap dan lam do may ban !

Page 2 of 2 FirstFirst 12

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts