ĐỀN THÁNH GIUSE NGUY NGA TẠI MONTREAL, CANADA
Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse
Theo truyền thống từ lâu đời, hàng năm, tháng Ba là tháng đặc biệt kính Thánh Giuse, với ngày 19 tháng Ba là Lễ kính Thánh Giuse bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria; còn ngày 01 tháng Năm (ngày Lao Động Quốc Tế) kính Thánh Giuse Lao Công. Ngày thứ Tư hàng tuần cũng là ngày đặc biệt kính Thánh Giuse.
Năm ngoái, chúng tôi đã viết bài “Thánh Giuse, Người Thợ Mộc Gương Mẫu”, và nói đến công cuộc xây dựng chiếc Cầu Thang Kỳ Diệu tại Nhà Nguyện Loretto, Santa Fe, New Mexico, Hoa Kỳ. Năm nay, chúng tôi xin cống hiến qúy vị công trình xây dựng kỳ diệu Đền Thánh Giuse vĩ đại tại Montreal, vùng Quebec, Canada.
Nói đến Đền Thánh Giuse Montreal, chúng ta không thể không nhắc đến một vị thánh đặc biệt là ‘Thày André Bessette’, thường được gọi cách thân mật là “Frère André’ – ‘Brother André’.
Nếu việc xây dựng Đền Thánh Giuse Montreal được coi như một ‘phép lạ’, thì chính cuộc đời của Thày André cũng được coi như một ‘phép lạ’ nhờ lời bầu cử của Thánh Giuse, vì Thày André có lòng sùng kính đặc biệt Thánh Giuse. Suốt đời chỉ là một Thày Dòng đơn sơ, khó nghèo và khiêm tốn, chỉ biết đọc, biết viết chút ít; nhưng ảnh hưởng của Thày đã lan rộng khắp Canada và nhiều nơi trên thế giới. Khi Thày còn sống, bao người đến xin những lời khuyên bảo và xin Thày chữa lành bệnh. Cũng chỉ là một Thày Dòng nghèo khó mà Thày đã có thể khởi công xây dựng một công trình rất vĩ đại.
Thày André sinh ngày 9 tháng 8 năm 1845 tại một thành phố nhỏ vùng Quebec, cách Montreal khoảng 40 cây số. Thày là người con thứ 8 trong gia đình 12 người con; hai người mất sớm, còn lại 10 người. Cha mẹ Thày là những người đạo đức, tốt lành. Cha Thày, ông Isaac Bessette, làm nghề đốn cây rừng và làm thợ mộc. Mẹ Thày, bà Clothilde Foisy Bessette, lo việc gia đình và giáo dục con cái. Cha Thày chết do một tai nạn khi đốn cây. Ít năm sau, mẹ Thày cũng chết vì bệnh lao phổi. Như vậy, Thày mồ côi cha mẹ từ lúc 12 tuổi, và phải đi làm nhiều nghề khác nhau để sinh sống cùng với anh chị em trong gia đình. Suốt đời, Thày đau ốm luôn và chỉ được học để biết đọc, biết viết chút ít. Tuy nhiên, từ nhỏ Thày đã có lòng đạo đức khác thường. Tuy vẫn phải làm ăn vất vả, nhưng Thày dành những giờ rảnh rỗi để cầu nguyện trước Thánh Giá Chúa (đây cũng là lý do sau này Thày xin vào Dòng Thánh Giá). Thày thích nói chuyện về Phúc Âm với các bạn bè.
Sau bao nhiêu gian truân, vất vả và thử thách trong cuộc sống, năm 1870, lúc đã 25 tuổi, Thày cảm nhận ơn gọi vào Dòng Thánh Giá, và cũng được sự khuyến khích của Cha Sở giáo xứ của Thày. Trong thư giới thiệu, Cha sở của Thày viết: “Tôi xin gửi đến Nhà Dòng một vị Thánh…!” Tuy nhiên, vì sức khỏe yếu kém và học lực quá thấp, mà các Thày Dòng Thánh Giá lại chuyên về việc dạy học; vì thế, Nhà Dòng quyết định cho Thày về. Dầu vậy, Thày vẫn cầu khẩn với Thánh Giuse. Sau đó, nhờ sự can thiệp đặc biệt của Đức Cha Ignace Bourget, Tổng Giám Mục Montreal thời đó, Thày được nhận lại và sau thời gian Nhà Thử, Nhà Tập, Thày được khấn dòng vào năm 1874, lúc Thày đã 28 tuổi, và từ đó được gọi là ‘Thày André’. Sau khi Thày khấn rồi , Bề Trên Nhà Dòng không biết phải cử Thày làm việc gì, nên cho Thày nhiệm vụ là người canh cổng trường Đức Bà (College of Notre Dame, Montreal), lo việc canh cổng và làm đủ thứ việc lặt vặt. Trong suốt 40 năm giữ nhiệm vụ khiêm nhường này, Thày luôn vui vẻ tiếp đãi và giúp đỡ mọi người đến với Thày, và vào đêm khuya, Thày vào Nhà Nguyện để cầu nguyện nhiều giờ.
Chân Phước Brother André Bessette
Sau 40 năm giữ việc canh cổng, Nhà Dòng chuyển Thày đến coi sóc ngôi nhà nguyện Thánh Giuse nhỏ bé tại ngọn đồi ‘Mount Royal’ cũng gần Notre Dame College . Tại đây, Thày lại tiếp tục sống đời sống âm thầm cầu nguyện, và đặc biệt khấn xin Thánh Giuse . Cũng tại nơi đây, qua lời bầu cử của Thánh Giuse, Chúa đã làm những việc ‘kỳ diệu’ nơi Thày. Có hàng nhiều ngàn người thuộc các tôn giáo khác nhau, kể cả anh em Tin Lành, từ khắp nơi ở Canada đến với Thày để xin những lời khuyên bảo, an ủi. Những bệnh nhân, những người đau khổ đến xin khấn và xin chữa bệnh. Nhiều người đã được lành bệnh hoặc vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Người ta gọi Thày là ‘Người Chữa Lành’, ‘Người làm phép lạ thành Montreal’. Trong lúc đó, Thày cũng phải chịu nhiều đau khổ vì gặp những người nghi ngờ, chống đối, dèm pha; nhưng danh tiếng của Thày vẫn lan rộng, và càng ngày càng có nhiều người đến với Thày. Thày phải dành từ 8 đến 10 giờ một ngày để tiếp những người đến với Thày. Hàng năm có tới 80,000 bức thư gởi đến Thày để xin khấn và những lời khuyên bảo; phải có rất nhiều người làm thư ký để giúp Thày trả lời. Tuy nhiên, Thày vẫn sống rất giản dị và rất khiêm tốn. Khi người ta ca tụng Thày, Thày chỉ nói “Tôi chỉ là kẻ ngu dốt. Nếu có ai ngu dốt hơn tôi, chắc Chúa đã chọn người đó thay tôi.” (Đúng là Chúa đã dùng những con người nhỏ bé, khiêm nhường để làm những việc vĩ đại). Khi những người đến xin Thày khấn và được khỏi bệnh cám ơn Thày, Thày chỉ nói: “Đó là Thánh Giuse chữa; chứ tôi chỉ là con chó nhỏ của Ngài mà thôi.” Những thời giờ ngắn ngủi còn lại, Thày cầu nguyện và xin khấn Thánh Giuse để làm một Nhà Thờ lớn hơn vì Nhà Nguyện đã trở nên quá nhỏ bé so với số người đến kính viếng.
Suốt nhiều năm cầu nguyện và xin khấn Thánh Giuse, và tìm hết cách để ‘gây qũy’, có khi cắt tóc cho học sinh để kiếm 5 cents mỗi em bỏ vào qũy, vào năm 1940, Thày đã làm được một nhà nguyện lớn hơn bên cạnh nhà nguyện cũ . Sau cùng, cũng là phép lạ đặc biệt của Chúa qua lời bầu cử của Thánh Giuse, bao vị hảo tâm đã đóng góp, và Thày đã xây được một Nhà Thờ lớn cũng ngay trên đồi Mount Royal, đủ chỗ ngồi cho 1 ngàn người. Năm 1917, Thày làm thêm
các tầng trên và công việc kiến thiết tiếp tục, sau khi Thày đã qua đời (năm 1937). Năm 1955, Đại Thánh Đường đã được thánh hiến với danh hiệu Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse; tuy vẫn thường được gọi là Đền Thánh Giuse Mount Royal (Saint Joseph’s Oratory of Mount Royal). Có lẽ đây là một Đền Thờ kính Thánh Giuse lớn nhất thế giới. Vào năm 2005, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày khởi công xây dựng, chính phủ Canada đã ghi Đền Thánh vào sổ các Danh Lam Thắng Cảnh Lịch Sử Quốc Gia. Hiện nay, hàng năm vẫn có hơn hai triệu người hành hương đến kính viếng và nhiều người xin khấn được nhiều ơn. Chính chúng tôi cũng đã được đi với phái đoàn hành hương đến đây hai lần.
Dù suốt đời đau yếu, nhưng Chúa đã để Thày André sống khá lâu để thực hiện những công việc Chúa muốn Thày làm để vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Thày mất vào ngày 6 tháng 01 năm 1937, hưởng thọ 91 tuổi. Trong đám tang của Thày đã có hơn 1 triệu người từ các nơi đến kính viếng và dự Lễ an táng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong Thày lên bậc Chân Phước vào ngày 23 tháng 5 năm 1982, và hàng năm, Giáo Hội mừng Lễ vào ngày Thày qua đời (mồng 6 tháng Giêng).
Công việc xây cất Đền Thánh Giuse kỳ diệu, hùng vĩ tại Montreal, Canada, được coi như một ‘phép lạ’ qua lời khấn xin với Thánh Giuse của Thày André được sánh ví như việc xây cất “Chiếc Cầu Thang Kỳ Diệu” trong Nhà Nguyện Loretto tại Santa Fe, New Mexico, Hoa Kỳ, sau khi Nhà Dòng làm tuần Cửu Nhật kính Thánh Giuse.
Nhiều vị Thánh có lòng sùng mộ Thánh Giuse cách đặc biệt như Thánh Margaret Cortona, Thánh Brigit Thụy Điển, Thánh Vinh Sơn Ferrer, Thánh Bernardine Siena, Thánh Gioan Gerson… Thánh Nữ Teresa Avila nói “không bao giờ tôi khấn xin Thánh Giuse mà không được nhận lời.” Thánh Giuse là Bổn mạng của Giáo Hội toàn cầu, cũng là Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam; nhiều người cũng nhận Thánh Giuse làm Bổn mạng. Chúng ta hãy hiệp lời cầu nguyện xin Thánh Giuse bầu cử cùng Chúa cho toàn thể Giáo Hội, cách riêng các nơi đang gặp những bách hại, thử thách; đặc biệt cho Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam. Cũng xin cầu nguyện cho các người cha trong các gia đình , biết noi gương Thánh Giuse: đạo đức, kiên nhẫn, khôn ngoan, khéo léo dìu dắt gia đình luôn đi theo đường lối của Chúa và Giáo Hội, vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong thế giới hôm nay.
____
(Qúy độc giả muốn hành hương thăm viếng, điạ chỉ như sau: 3800, Chemin Queen Mary, Montréal (Quebec), Canada H3V 1H6. Điện thoại miễn phí: 1-800-672-8647, Ext. 2795. Mạng internet: www.saint-joseph.org)
(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)