TÌNH THƯ TRÊN CÁT



Em thân mến,
Thành phố và các tỉnh trong nước như đang trong “mùa hè đỏ lửa” bởi những cơn nắng nóng và hạn hán. Người ta đổ về miền biển hay lên cao nguyên tìm chút gió mát nước lành cho dịu cơn nắng hạn. Em có tính đi du lịch ở đâu trong mùa hè này không? Từ cơn khát nước tự nhiên này em có bao giờ thấy mình cũng khao khát Chúa như vậy không? Em có thấy trái tim mình khô ran nứt nẻ vì không đến dìm mình vào đại dương của Lòng Thương Xót Chúa không?
Trong lá thư trước, em hỏi anh có dự tính đi tham dự “Đại hội các linh mục thế giới” tại Quảng trường Thánh Phêrô trong ngày bế mạc Năm Linh Mục không. Thú thật với em, anh rất ao ước được có mặt trong ngày hội lớn này, nhưng với một linh mục như anh, làm sao có điều kiện và phương tiện cho chuyến hành trình dài như vậy. Hơn nữa anh đang như người “nuôi con mọn”, anh bị trái tim giầu lòng thương xót của Chúa cuốn hút với đàn chiên cả chục ngàn người quy tụ mỗi tuần để cầu nguyện và dâng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa, anh không thể dứt ra đi đâu được. Anh say mê với công việc này vì chính anh là người cần được Chúa và đoàn chiên Chúa xót thương hơn ai hết. Anh là người cần được cầu nguyện hơn hết để có được trái tim của người mục tử như lòng Chúa mong ước.
Nghe em hỏi, anh mới giật mình nhìn lại. Thấm thoát rồi cũng sắp khép lại “Năm Linh Mục”. Còn nhớ năm ngoái, trong buổi tiếp kiến Bộ Giáo Sĩ ngày 16-3, Đức Thánh Cha Benedictô XVI đã tuyên bố mở “Năm Linh Mục” từ ngày 19-6 năm 2009 đến 19-6 năm 2010 để giúp các linh mục hướng về sự trọn lành thiêng liêng.
Anh vẫn còn nhớ lời Đức Thánh Cha nói trong buổi tiếp kiến có 30 Hồng Y và Giám Mục thành viên Bộ Giáo Sĩ : “Để tạo điều kiện thuận lợi cho các linh mục hướng về sự trọn lành thiêng liêng là điều mà hiệu năng sứ vụ của các vị lệ thuộc, tôi quyết định mở năm đặc biệt “Năm Linh Mục”. Đây cũng là dịp kỷ niệm 150 năm thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, qua đời, Người là mẫu gương đích thực của vị mục tử phục vụ đoàn chiên Chúa Kitô. Bộ giáo sĩ sẽ thỏa thuận với các vị bản quyền giáo phận và các bề trên dòng tu để cổ võ và phối hợp những sáng kiến linh đạo và mục vụ hữu ích để ngày càng giúp cảm nghiệm về tầm quan trọng của vai trò và sứ mạng của linh mục trong Giáo Hội và trong xã hội ngày nay”.
Ngày 19-6-2009, lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu và cũng là Ngày Thánh Hóa Linh Mục, trước hài cốt cha thánh Vianney được Đức Giám Mục giáo phận Belley-Ars đưa về Roma, Đức Thánh Cha đã chủ sự kinh chiều để khai mạc Năm Linh Mục. Ngày 19-6-2010, Đức Thánh Cha bế mạc Năm Linh Mục trong dịp “Đại hội các linh mục thế giới” tại Quảng trường Thánh Phêrô. Đức Thánh Cha đã tuyên bố thánh Gioan Maria Vianney là bổn mạng của tất cả các linh mục trên thế giới. Ngoài ra, ngài cũng công bố cuốn “Chỉ nam cho các cha giải tội và linh hướng”, cùng với một tuyển tập những đề tài thiết yếu liên quan tới đời sống và sứ mạng của linh mục trong thời đại ngày nay.Thật là vui em ạ, vì tất cả những việc làm trên thể hiện mối quan tâm đặc biệt của Đức Thánh Cha đối với các linh mục.

Anh và mọi người hồ hởi đón nhận tin vui này, và trong suốt năm vừa qua, ai cũng mong chờ “các vị bản quyền giáo phận và các bề trên dòng tu cổ võ và phối hợp những sáng kiến linh đạo và mục vụ hữu ích để ngày càng giúp cảm nghiệm về tầm quan trọng của vai trò và sứ mạng của linh mục trong Giáo Hội và trong xã hội ngày nay”. Thế nhưng một năm đã trôi qua. Đâu là “những sáng kiến linh đạo và mục vụ hữu ích” ngoài việc long trọng làm lễ khai mạc, bế mạc, và bản kinh cầu cho các linh mục dài lê thê! Có thêm nữa là những bức hình cha thánh Vianney được treo trong nhà thờ, rồi sắp sửa được gỡ xuống để treo biểu tượng Năm Thánh 2010 lên, cùng với Kinh Năm Thánh còn dài hơn nữa, cho hợp với “mùa nào thức nấy”! Anh nghĩ chắc chắn không phải chỉ là như thế. Vì nếu chỉ có như thế thôi thì có khác gì những lễ hội ngoài đời? Theo thống kê mới đây, tại Việt Nam mỗi năm có tới tám ngàn lễ hội, nhưng đời sống người dân cải thiện được bao nhiêu sau những lễ hội ồn ào và tốn kém ấy? Sau những ngày lễ hội tưng bừng, có chút gì còn đọng lại trong lòng người tham dự không ? Sau “Năm Linh Mục”, em thấy có sự chuyển đổi trong cái nhìn của người giáo dân về linh mục, trong tương quan giữa giáo dân với linh mục, và nhất là có sự biến chuyển tích cực nào nơi chính bản thân các linh mục không?

Trong Năm Linh Mục, Bộ Giáo Sĩ nhấn mạnh đến “sự cần thiết phải tăng cường việc thường huấn cho các linh mục, gắn liền với việc huấn luyện cho các chủng sinh.” Sau thời gian huấn luyện, khi được tung ra trên các cách đồng truyền giáo, “thường huấn” phải là việc làm không thể thiếu trong suốt đời người linh mục, chứ không phải chỉ trong năm linh mục. Thường huấn về mọi mặt, để theo kịp đà tiến của nhân loại, để nắm bắt kịp những phương tiện truyền thông, để đổi mới tư duy, đi sâu vào đời sống nội tâm, thay đổi lối sống và cách làm việc cho có hiệu quả.
Em hãy chịu khó dành thì giờ đọc lại tâm thư của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gởi các linh mục khi lập năm linh mục nhân dịp kỷ niệm lần thứ 150 ngày sinh của cha sở họ đạo Ars. Mối bận tâm của vị chủ chăn giáo hội là “xúc tiến sự dấn thân canh tân nội tâm tất cả các linh mục để làm cho chứng tá Tin Mừng của họ trên thế giới hôm nay sâu sắc và mãnh liệt hơn”.
Cha Sở Thánh họ đạo Ars từng nói : "Thiên chức linh mục, đó là tình yêu của Thánh Tâm Chúa Giêsu". Nếu không có sự biến chuyển nào từ đời sống nội tâm đến cung cách ứng xử và lối sống thì làm sao “các linh mục có thể giới thiệu cho các tín hữu Kitô và cho toàn thế giới lễ vật khiêm tốn và thường ngày những lời nói và cử chỉ của Chúa Kitô” được? Canh tân đời sống nội tâm chính là nỗ lực gắn bó với Chúa Kitô bằng tư tưởng, ý chí, tình cảm và phong cách sống của mình để được như Phaolô “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi.”
Đọc bức thư đó em thấy rõ ràng Đức Thánh Cha là người chủ chăn thật dễ mến, “biết từng con chiên” khi ngài nêu bật gương sáng của những anh em linh mục vất vả trong việc tông đồ, âm thầm phục vụ với tình yêu thương mãnh liệt. Ngài cũng kể đến “sự trung tín can đảm của biết bao linh mục, cho dầu phải đối diện với những khó khăn, thiếu cảm thông, vẫn trung thành với ơn gọi của mình : ơn gọi làm bạn của Chúa Kitô.” Rồi trong những chuyến tông du mục vụ nơi nhiều nước khác nhau, ngài đã gặp gỡ tiếp xúc rất nhiều anh em đồng nghiệp quảng đại dấn thân trong việc thực thi hằng ngày thừa tác vụ linh mục của mình.
Thật an ủi và hạnh phúc cho các linh mục vì chính nhờ vị chủ chăn của Giáo Hội có được trái tim như mục tử Giêsu cho nên mới biết cảm thương và luôn nhớ đến những anh em linh mục đang sống trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, đau khổ, thử thách. Có những linh mục tự nguyện dấn thân để chính họ được chia sẻ và trải nghiệm những đau khổ của con người. Có những anh em đau khổ vì bị hiểu lầm, thành kiến, nghi kỵ, ganh ghét, trù dập… bởi nhiều thế lực, mà buồn nhất lại là bởi chính những người giáo dân hay anh em linh mục đồng nghiệp của mình! Có trái tim của mục tử Giêsu thì làm sao không nhớ đến những linh mục bị nhạo báng, bị ngăn cản, cấm đoán thực hiện tác vụ, thậm chí bị kết án cách bất công, lao tù vì dám đấu tranh cho sự thật, cho những người thấp cổ bé miệng, cho lẽ công bằng và quyền sống của con người.

Chiều thứ năm đầu tháng hoa, khi vừa dâng lễ xong cho cộng đoàn Lòng Thương Xót Chúa với con số hơn 10 ngàn người tham dự, em chặn anh lại ở cuối nhà thờ trình bày nỗi bức xúc của mình. Em bức xúc vì trong thời gian gần đây, các phương tiện truyền thông “đưa ra ánh sáng” những “mảng tối” trong đời sống một số giáo sĩ ở một vài nơi, rồi họ thổi phồng lên như thử là các linh mục đều là “những mục tử trong sương mù”. Em bối rối. Giáo dân xôn xao. Những người có lòng đạo đức lo lắng. Đời sống phản chứng Tin Mừng của một số giáo sĩ là cái cớ cho người ta chống đối Giáo Hội, là gương mù cho giáo dân, là cớ vấp phạm cho những người vốn luôn “thần tượng” các đấng bậc! Chính Đức Thánh Cha cũng rất quan tâm đến điểm này. Có lẽ đó cũng là một trong những lý do ngài mở năm linh mục để “tạo điều kiện thuận lợi cho các linh mục hướng về sự trọn lành thiêng liêng là điều mà hiệu năng sứ vụ của các vị lệ thuộc…”
Lo cho các linh mục “hướng về sự trọn lành thiêng liêng” là nỗi niềm chung của các vị chủ chăn giáo hội. Anh còn nhớ, trong khi đi hành hương Đất Thánh năm 2000, nhân ngày Thứ Năm Tuần Thánh, từ chính can phòng tiệc ly ngày xưa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết một lá thư gửi cho các linh mục trên toàn thế giới, trong đó có đoạn : “Nhiều lần, sự yếu hèn của con người linh mục đã che khuất khuôn mặt Đức Kitô trong con người họ. Tại phòng tiệc ly đây, không phải chỉ sự phản bội của Giuđa đạt đến cao điểm, nhưng chính Phêrô cũng phải đối diện với yếu đuối của mình khi nghe lời tiên báo chua xót về sự khước từ của ông. Khi chọn những con người giống như nhóm mười hai, quả thực Đức Kitô không ảo tưởng. Bởi chính trên sự yếu đuối của con người mà Chúa Giêsu đóng ấn bí tích sự hiện diện của Người. Thánh Phaolô tỏ cho chúng ta biết lý do: “Những kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2Cr 4, 7).

Trong suốt 3 năm dấn thân loan truyền việc cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa từ Nam ra Bắc, anh càng xác tín điều thánh Phaolô nói ở trên. Anh cảm nhận rõ ràng sự yếu đuối mỏng dòn của thân phận mình, nhưng đồng thời nhận thức rõ hơn quyền năng phi thường của lòng thương xót Chúa chứa đựng nơi bình sành mong manh đó. Gần ba năm qua, mỗi tuần lễ hàng chục ngàn người từ muôn nẻo đổ về đứng chen chúc dưới cái nắng chói chan, hay mưa tầm tã, giang tay thành tâm lần hạt, cầu nguyện và tham dự thánh lễ kính lòng thương xót Chúa trong suốt 3 tiếng đồng hồ, có sức mạnh trần gian nào làm được chuyện đó? Có sức hút nào lôi cuốn hàng ngàn ngàn người đến như vậy mỗi tuần? Có quyền năng nào hoán cải bao người khô khan tội lỗi quay về nẻo chính đường ngay mà mọi phương thế trần gian đều bó tay rồi? Chỉ có quyền năng và lòng thương xót của Chúa mới làm được bao điều diệu kỳ đó thôi em ạ! Chúa thi thố sức mạnh tình thương của Ngài nơi những con người hèn yếu tội lỗi như anh. Chính trong con người hèn yếu đó mà Chúa tỏ lòng thương xót dân Ngài. Cha Thánh Vianney, dù rất khiêm tốn nhận mình là một linh mục hèn kém, nhưng vẫn ý thức tác vụ linh mục của ngài là một ân huệ Chúa ban cho dân, ngài xác tín : "Một mục tử nhân lành, một mục tử theo lòng Chúa mong ước, đó là kho tàng lớn lao nhất mà Thiên Chúa nhân từ có thể ban cho một giáo xứ, và là một trong những ân huệ cao quý nhất của lòng thương xót của Thiên Chúa", và các linh mục phải là thừa tác viên của lòng Chúa xót thương nơi những con chiên hoang đàng : "Ta sẽ ủy thác cho các thừa tác viên của Ta loan báo cho họ rằng Ta luôn sẵn sàng đón nhận họ, rằng lòng thương xót của Ta là vô tận".

Em thân mến,
Thay lời kết, anh xin phép mượn lời một linh mục viết trong bài “tâm tình linh mục”, những lời chân thành nhận lỗi, xin lỗi của một mục tử trong năm linh mục : “Các linh mục chúng con chân thành xin lỗi quý cụ ông, cụ bà và toàn thể giáo dân vì những lỗi lầm chúng con đã sai phạm trong khi thi hành chức vụ thánh. Xin lỗi về tất cả những việc làm vì vô tình hay hữu ý đã gây sự bất hòa và mất đoàn kết giữa cộng đoàn hay giáo xứ. Xin lỗi về những sự hướng dẫn không theo qui cách của Giáo Hội. Xin lỗi vì những thiếu sót trong việc bổn phận hằng ngày của một mục tử. Xin lỗi về những lạm dụng chức thánh vào những phần việc trần thế để gây ảnh hưởng hay lợi lộc riêng tư. Xin lỗi vì những gương mù, gương xấu đã gây nên trong cộng đồng dân Chúa. Trong Năm Linh Mục, xin quý ông bà anh chị em tha thứ và bỏ qua cho những thiếu sót, của chúng con. Xin thương tha thứ.”
Đó cũng chính là lời anh muốn nói với em, với những con người Chúa trao cho anh chăm sóc, những người anh có bổn phận phải yêu thương phục vụ mà anh đã chưa chu toàn. Xin tha thứ và cầu nguyện cho anh…
Xin Chúa chúc lành cho em.
Người anh em trong Chúa Giêsu


Lm. Giuse Trần Đình Long,sss