Hạnh Các Thánh



26/7 – Thánh Gioakim và Anna, Song thân Đức Mẹ


Trong Kinh thánh, thánh sử Matthêu và Luca cung cấp gia phả của Chúa Giêsu, cho thấy rằng Chúa Giêsu là đỉnh cao của những lời hứa. Chúng ta không biết gì nhiều, ngay cả ông bà Gioakim và Anna cũng chỉ được viết sau khi Chúa Giêsu chịu chết được hơn 100 năm.

Đức tính anh hùng và sự thánh thiện của các ngài được suy ra từ không khí cả gia đình xung quanh Đức Maria trong Kinh thánh. Chúng ta dựa vào các truyền thuyết về thời thơ ấu của Đức Maria hoặc suy đoán từ thông tin trong Kinh thánh, chúng ta thấy sự viên mãn của nhiều thế hệ những con người cầu nguyện ở nơi Đức Mẹ, chính Đức Mẹ đã say đắm trong truyền thống tôn giáo.

Tính cách mạnh mẽ của Đức Maria khi quyết định, liên lỉ cầu nguyện, tuân thủ luật đức tin, sự vững vàng của Đức Mẹ khi gặp khủng hoảng, và tận tụy với những người thân – tất cả cho thấy gia đình gắn bó yêu thương, trông mong thế hệ kế tiếp duy trì những điều tốt đẹp nhất của quá khứ.

Ông bà Gioakim và Anna (không biết có phải tên thật của các ngài hay không) biểu hiện các thế hệ khá lặng lẽ khi trung thành thực hiện trách nhiệm, giữ đức tin và thiết lập môi trường cho Đấng Thiên Sai tới, nhưng vẫn chưa rõ ràng.

27/7 – Chân phước Antôniô Lucci, Giám mục (1682-1752)


Chân phước Antôniô Lucci là bạn học với thánh Francesco Antonio Fasani. Sau khi CP Antonio Lucci qua đời, thánh Francesco Antonio Fasani đã làm chứng về cuộc sống thánh thiện của CP Lucci.

CP Antonio Lucci sinh tại Agnone, Nam Ý, một thành phố nổi tiếng về đúc chuông đồng và đồ thủ công bằng đồng, tên rửa tội của ngài là Angelo. Ngài học trường của các tu sĩ Dòng Phanxicô và vào tu dòng này lúc 16 tuổi. Ngài học xong và thụ phong linh mục tại Assisi năm 1705. Ngài học thêm và có bằng tiến sĩ thần học, được bổ nhiệm dạy học ở Agnone, Ravello và Naples.

Ngài được bầu làm giám tỉnh năm 1718, năm sau ngài được chọn làm giáo sư tại Đại học Thánh Bonaventure College ở Rôma. Rồi ngài được ĐGH Bênêđictô XIII bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bovino (gần Foggia) năm 1729. ĐGH Bênêđictô XIII giải thích: “Tôi chọn giám mục giáo phận Bovino là một thần học gia xuất sắc và là vị đại thánh”.
Trong 23 năm làm giám mục, ngài kinh lý các giáo xứ và canh tân Phúc âm sống động trong giáo dân của giáo phận. Ngài dành thời gian để giáo huấn và bác ái. Theo sự thúc giục của bề trên tổng quyền Dòng Phanxicô, ngài viết một cuốn sách về các thánh và các chân phước trong 200 năm đầu của Dòng Phanxicô. Ngài được phong chân phước năm 1989. Năm 1992, bạn ngài là Francesco Antonio Fasani được phong thánh.

28/7 – Thánh Leopold Mandic, Linh mục (1887-1942)


Các Kitô hữu Tây phương cố gắng đối thoại nhiều hơn với các Kitô hữu Chính thống giáo có thể thu hoạch hoa trái nhờ lời cầu nguyện của LM Leopold Mandic.

Ngài là người Croatia, vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục vài năm sau dù ngài có vài vấn đề về sức khỏe. Ngài không thể nói to để giảng. Suốt nhiều năm ngài chịu đựng chứng viêm khớp nặng, mắt kém và đau bao tử.

Ngài dạy về các Giáo phụ cho các giáo sĩ trong vài năm, nhưng ngài nổi tiếng về giải tội, có những ngày ngài giải tội 13–15 giờ. Vài vị giám mục tìm đến ngài để được tư vấn tâm linh.

Ước mong của ngài là đến với các Kitô hữu Chính thống giáo và vận động đoàn kết giữa Chính thống giáo và Công giáo La mã, nhưng sức khỏe không cho phép ngài làm được điều đó. Ngài thường xuyên nhắc lại lời khấn đến với các Kitô hữu Đông phương, và ngài luôn cầu nguyện cho sự hiệp nhất.

Khi ĐGH Piô XII nói rằng tội lỗi lớn nhất của thời đại chúng ta là “mất cảm giác về tội”, thánh Leopold đã cảm nhận sâu sắc về tội lỗi và và vững tin vào Ơn Chúa luôn chờ đợi sự hợp tác của con người. Ngài sống nhiều ở Padua, qua đời ngày 30-7-1942 và được phong thánh năm 1982.

29/7 – Thánh Matta


Matta, Maria và Ladarô là các bạn thân của Chúa Giêsu. Ngài tới nhà họ với tư cách là khách hơn là người hoán cải các tội nhân như Dakêu hoặc được một người Pharisêu khả nghi tiếp đón không câu nệ hay khách sáo gì. Hai chị em không ngại mời Chúa Giêsu đến khi em trai họ qua đời, mặc dù trở lại Giuđêa vào thời điểm đó hầu như là đã chết chắc.

Không nghi ngờ, Matta là người năng động. Một lần nọ (x. Lc 10:38-42), bà chuẩn bị bữa ăn cho Chúa Giêsu và bà không ngại khi trách em gái.

Nhưng các dịp khác, Chúa nhấn mạnh về tính ưu việt của tâm linh: "Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:25, 33); “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4:4); “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5:6).

Vinh dự lớn lao của Matta là câu tuyên xưng đức tin đơn giản mà mạnh mẽ sau cái chết của em trai. “Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Matta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:25-27).

30/7 – Thánh Phêrô Chrysologus, Giám mục Tiến sĩ (406-450?)


Ngài thường được gọi là Phêrô Kim ngôn hoặc Kim khẩu. Một người hăng hái theo đuổi một mục đích có thể sinh kết quả hơn cả mong đợi, đó là thánh Phêrô Kim ngôn. Ngài làm giám mục giáo phận Ravenna khi còn trẻ tuổi.

Thời đó có những sự lạm dụng và vết tích của chủ nghĩa ngoại giáo ở giáo phận của ngài, và ngài quyết định đấu tranh. Vũ khí chính của ngài là những bài giảng ngắn gọn, nhiều bài còn lưu truyền tới ngày nay. Các bài giảng đó không chứa đựng tư tưởng cao siêu, nhưng chứa đầy cách áp dụng luân lý, giáo lý và quan trọng về lịch sử. Các bài giảng của ngài có mức chính xác đến nỗi khoảng 13 thế kỷ sau, ngài được ĐGH Bênêđictô XXIII tôn vinh là Tiến sĩ Hội thánh.

Ngài nổi bật về lòng trung thành với Giáo hội, không chỉ trong những bài giáo huấn mà còn cả trong quyền hành. Một thời gian trước khi qua đời, ngài trở lại Imola, nơi ngài sinh, và cũng là nơi ngài qua đời.

31/7 – Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556)


Thánh Inhaxiô là vị sáng lập Dòng Tên. Ngài là một quân nhân và bị trái pháo làm bị thương ở chân. Khi nằm điều trị, không có sách nào hay để đọc, ngài “giết thời gian” bằng cách đọc sách về cuộc đời Chúa Kitô và hạnh các thánh. Ngài được đánh động sâu sắc. Thấy Đức Mẹ trong một thị kiến, ngài quyết định hành hương tới đền Đức Mẹ ở Montserrat (gần Barcelona). Ngài ở Manresa gần 1 năm, và thường vào hang động để cầu nguyện. Sau một thời gian lắng đọng tâm hồn, ngài cân nhắc cuộc đời. Làm thế nào cũng không thấy lòng bình an. Một thời gian dài sau ngài mới lấy lại được quân bình. Khi đó ngài bắt đầu viết kiệt tác “Luyện tập Tâm linh” (Spiritual Exercises).

Ngài sống 11 năm ở các trường đại học Âu châu, ngài học rất khó khăn, bắt đầu như một đứa trẻ. Hai lần ngài bị nghi ngờ và 2 lần bị tù một thời gian ngắn.

Năm 1534, khi ngài 43 tuổi, ngài và 6 anh em khác (trong đó có thánh Phanxicô Xaviê) khấn sống khó nghèo và khiết tịnh, và cùng tới Thánh Địa. Bốn năm sau, thánh Inhaxiô lập Dòng Tên và được ĐGH Phaolô III phê chuẩn, chính thánh Inhaxiô được bầu làm bề trên tổng quyền đầu tiên. Ngài còn thành lập trường ĐH Rôma, kiểu mẫu của các Đại học khác.

Ngài thực sự là nhà thần bí. Ngài tập trung đời sống tâm linh vào các nền tảng chính của Kitô giáo – Chúa Ba Ngôi, Đức Kitô, và Thánh Thể. Tinh thần của ngài được diễn tả bằng câu châm ngôn của Dòng Tên: “Ad majorem Dei gloriam” (vì vinh quang Thiên Chúa). Theo khái niệm của ngài, vâng lời là nhân đức nổi trội, bảo đảm hiệu quả và tính di động của các tu sĩ. Mọi hoạt động được hướng dẫn bằng lòng yêu thực sự dành cho Giáo hội và vâng lời Đức Giáo hoàng vô điều kiện, do đó mà các tu sĩ Dòng Tên có lời khấn thứ tư là đến bất cứ nơi nào ĐGH sai đi để cứu các linh hồn.


Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)