Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông H?c Hội, Úc Châu 23-06-2003
:rose: :rose: :rose:
Kính thưa chư vị đồng h?c,
Hôm qua chúng tôi từ ‘Tuyết Lê’ (New South Wales) v? đây và đã nghỉ ngơi hết suốt ngày hôm nay. Tối nay, chúng ta và các bạn đồng h?c hãy cùng nhau thảo luận một số vấn đ? trong sự tu h?c Phật pháp. Hơn một nửa những vấn đ? này đ?u thuộc v? vấn đ? của những ngư?i mới h?c Phật, nhưng ngay cả những ngư?i tu h?c lâu rồi cũng ít để ý tới, đây là đi?u mà ngư?i ta nói là ‘tập nhi bất sát’ ( “thực hành nhưng không suy xét?). ?ợi đến lúc có ngư?i h?i, có rất nhi?u ngư?i trong chúng ta không biết trả l?i như thế nào. H?c viện của chúng ta có tên là ‘Tịnh Tông H?c Viện’, từ cái tên có thể hiểu được ý nghĩa của nó; chúng ta [ở h?c viện này] chuyên tu Tịnh ?ộ, Tịnh ?ộ còn được kêu bằng Tịnh Nghiệp, chuyên tu Tịnh Nghiệp. Nếu có ngư?i h?i bạn rằng: “Chư Phật trong thập phương quá nhi?u quá nhi?u, tại sao quý vị lại niệm A Di ?à Phật? Tại sao lại chuyên niệm A Di ?à Phật mà không niệm đức Phật khác??
Tôi h?i các bạn, ngư?i nào trong quý vị có thể trả l?i câu h?i này: Chư Phật trong thập phương quá nhi?u quá nhi?u, tại sao quý vị lại chuyên niệm A Di ?à Phật? Tại sao quý vị lại không niệm thập phương chư Phật? Có ai trả l?i được không?
Câu trả l?i đơn giản nhất là y chiếu theo kinh điển, trong kinh Di ?à có nói rằng đức Phật Thích Ca đã bốn lần khuyên chúng ta nên niệm Phật A Di ?à, kinh Di ?à có thể chứng minh cho l?i nói này. ?ức Phật dạy chúng ta niệm A Di ?à Phật, chúng ta nghe theo l?i dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh ?ộ. ?ây là câu trả l?i dễ hiểu và đơn giản nhất. Nhưng nói như vậy không làm thoả mãn sự thắc mắc của ngư?i h?i; ‘Tại sao đức Phật Thích Ca lại khuyên chúng ta niệm A Di ?à Phật?’. Không những là đức Phật Thích Ca, mà như trong kinh Vô Lượng Th? và kinh A Di ?à có nói rằng tất cả chư Phật Như Lai đ?u khuyên ngư?i niệm A Di ?à Phật, như vậy nghĩa là thế nào?
Nếu bạn hiểu rõ chân tướng của vũ trụ (vũ trụ là danh từ mà xã hội đại chúng thư?ng dùng, trong Phật pháp dùng danh từ ‘pháp giới’) và nhân sanh, thì bạn sẽ hiểu tại sao tất cả chư Phật đ?u khuyên chúng ta niệm A Di ?à Phật. Cho nên câu h?i này là một câu h?i rất quan tr?ng, không phải là một vấn đ? nh?! Chư vị có đ?c qua trong kinh điển ?ại thừa, hình như là ở trong bài ‘Khóa tụng sáng tối’, trong 88 vị Phật có ‘Pháp Giới Tạng Thân A Di ?à Phật’. Như thế thì ý nghĩa này đã rõ ràng, A Di ?à Phật là bổn danh (tên chung, tên gốc) của tất cả pháp giới chư Phật! Danh hiệu của từng vị trong tất cả pháp giới chư Phật là biệt hiệu của h?, A Di ?à Phật là bổn danh của h?, cho nên g?i là ‘Pháp Giới Tạng Thân’. Tại sao lại nói ‘A Di ?à Phật là tên chung của tất cả chư Phật’?
Danh hiệu này là từ tiếng Phạn dịch âm mà ra, dịch nghĩa là ‘Vô Lượng’. Chữ ‘A’ dịch là ‘Vô’, chữ Di ?à dịch là ‘Lượng’, chữ Phật dịch là ‘Trí’ hay ‘Giác’. Quý vị thử nghĩ xem có đức Phật nào mà không là ‘Vô Lượng Trí’ và ‘Vô Lượng Giác’? ?ây là bổn danh (tên chung) của Phật, rất tương tợ với tên của đức Phật ‘Tỳ Lô Giá Na’ nhưng không giống nhau. Tỳ Lô Giá Na cũng là bổn danh (tên chung) của tất cả chư Phật; ý nghĩa của tên này là Biến Nhất Thiết Xứ (Biến Khắp M?i Nơi); A Di ?à là dùng vô lượng trí biến khắp m?i nơi, vô lượng giác biến khắp m?i nơi; quý vị đem hai ý nghĩa này hợp lại thì vô cùng rõ ràng. Chúng ta phải hiểu rõ hàm ý chân chánh của danh hiệu Phật; vì thế cho nên tất cả chư Phật đ?u khuyên chúng ta niệm A Di ?à Phật.
A Di ?à Phật cũng là tên chung của tự tánh chúng ta. Trong kinh điển ?ại thừa đức Phật thư?ng nói rằng tất cả hữu tình chúng sanh đ?u có Phật tánh, tất cả vô tình chúng sanh đ?u có Pháp tánh (chữ ‘vô tình’ là chỉ thực vật và khoáng vật). Phật tánh và Pháp tánh là chỉ chung một tánh chứ không phải hai thứ tánh, đây đ?u là tên chung của ‘tánh đức’. Trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm đức Thế Tôn nói với chúng ta “Tất cả chúng sanh đ?u có trí huệ và đức tướng của Như Lai’; tất cả chúng sanh bao gồm chúng ta. Chúng ta vốn là Phật, mỗi ngư?i vốn là Phật, vốn là A Di ?à, vốn là Tỳ Lô Giá Na. Nói cho quý vị biết bây gi? vẫn là (A Di ?à Phật)! Không phải trong kinh quý vị thư?ng thấy đến chữ ‘Tự tánh Di ?à’ hay sao, như vậy mỗi ngư?i trong chúng ta đ?u có ‘Tự tánh Di ?à’! Tại sao vậy? Chúng ta mỗi ngư?i vốn có vô lượng trí, vốn có vô lượng giác. Trí giác này vốn là ‘biến khắp m?i nơi'.
Cho nên trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác có nói ‘Tất cả chúng sanh vốn thành Phật’. Nhưng đức Phật không thư?ng nói đi?u này; tại sao vậy? Tại vì sợ ngư?i nghe không hiểu và còn có thể sanh ra sự hiểu lầm. ?ức Phật rất ít nói như vậy, nhưng đó là sự thật. Hiện gi? tại sao lại biến thành phàm phu? Tại vì đã bạn mê. Mê rồi thì thế nào? Mê rồi thì bạn biến thành ngu si, bạn không có trí huệ, không còn giác nữa. Tự tánh mê rồi, tự tánh A Di ?à mê rồi, tự tánh Tỳ Lô Giá Na mê rồi, sự việc là như thế đó. Mê rồi thì làm phàm phu. Cảnh giới giác ngộ là cảnh giới của Phật, cảnh giới của giác ngộ là Cực Lạc thế giới, là Hoa Tạng thế giới. Mê rồi đem Cực Lạc thế giới và Hoa Tạng thế giới biến thành thế gian ngũ trược ác khổ của chúng ta hiện nay; sự việc là như thế đó.
Bây gi? đức Thế tôn dạy chúng ta niệm A Di ?à Phật, tất cả chư Phật dạy chúng ta niệm A Di ?à Phật, đây là ý nghĩa gì? Là dạy cho chúng ta dùng phương pháp này để khôi phục lại tự tánh! Cũng như chúng ta đang ngủ, đang mê hoặc điên đảo, câu A Di ?à Phật này đánh thức chúng ta tỉnh dậy. Sau khi tỉnh dậy mới biết mình vốn là A Di ?à, mình vốn là Tỳ Lô Giá Na. Nhưng chúng ta đã mê quá lâu, mê quá sâu đậm rồi, mỗi ngày đ?u niệm nhưng kêu hoài không tỉnh. Phải làm sao đây? Chư Phật Như Lai đã giác ngộ và thức tỉnh rồi sẽ giúp đỡ chúng ta. Pháp Tạng tỳ kheo ở Tây phương Cực Lạc thế giới đã thành A Di ?à Phật, ngài phát tâm giúp đỡ chúng ta. Ngài nói chỉ cần chúng ta có đầy đủ chân tín và thiết nguyện (ni?m tin chân thật và l?i nguyện thiết tha). Chân tín và thiết nguyện tức là ‘Bồ ?? Tâm’, cộng thêm ‘nhất hướng chuyên niệm’ tức là một phương hướng nhất định, một mục tiêu duy nhất là chuyên niệm A Di ?à Phật, thì sự giúp đỡ này [của A Di ?à Phật] sẽ thành công ngay. Cho nên câu Phật hiệu này từ tâm chúng ta sanh ra rồi từ miệng niệm ra tiếng. Dùng danh từ của khoa h?c ngày nay thì g?i là ‘ba động’ (làn sóng).
Quý vị xem, viện nghiên cứu của tiến sĩ Giang Bổn Thắng ở Nhật Bản là viện nghiên cứu v? các làn sóng. Tâm chúng ta khởi lên một niệm, đây là làn sóng của tâm. Làn sóng của tâm này có vận tốc nhanh nhất so với tất cả m?i vật khác. Tâm vừa mới khởi lên một niệm thì làn sóng này tức khắc truy?n ra khắp hư không pháp giới, lập tức lan khắp, còn nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Vận tốc ánh sáng là 300.000 km trong một giây đồng hồ. ?nh sáng từ trái đất đi đến mặt tr?i phải mất hơn 8 phút; khoảng cách này [như vậy cũng] không xa lắm. Nhưng khi tâm niệm của chúng ta vừa khởi lên, làn sóng này li?n tức khắc lan rộng ra khắp hư không pháp giới, không gì có vận tốc này nhanh hơn vận tốc này. Chư Phật dạy rằng khi chúng ta khởi tâm để niệm A Di ?à Phật, đức Phật A Di ?à ở Tây phương Cực Lạc thế giới lập tức li?n nhận được làn sóng này; chúng ta có thể ‘liên lạc và nói chuyện’ với đức Phật nhanh như vậy!
Khi đức Phật A Di ?à nhận được làn sóng này, ngài cũng có hồi âm nhưng chúng ta không nhận biết được. Tại sao chúng ta không biết được? Bộ máy của chúng ta hiện nay quá cũ, quá tệ, không còn linh hoạt và mẫn tiệp như ngài nữa; làn sóng cực kỳ nh? ngài cũng có thể thâu nhận được. Bộ máy của chúng ta tại sao không còn linh hoạt được nữa? Phật nói tại vì chúng ta có v?ng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. V?ng tưởng, phân biệt, và chấp trước làm cho căn tánh của chúng ta bị chướng ngại mất, căn tánh của lục căn có ba thứ chướng ngại to lớn này, vì thế cho nên chúng ta không thể nhận được hồi âm của chư Phật.
?ến khi nào thì chúng ta mới có thể thâu nhận được? Phải tu định. Khi bạn có định công (khả năng định tâm) thâm sâu. ?ịnh công ở đây nghĩa là bạn có thể buông xả tất cả v?ng tưởng, phân biệt, và chấp trước. Khi v?ng tưởng, phân biệt, và chấp trước giảm đi thì tác dụng của sáu căn sẽ dần dần linh hoạt trở lại. Khi đó bạn sẽ nhận được hồi âm của A Di ?à Phật, bạn có thể thấy Phật, bạn có thể nghe thấy tiếng Phật thuyết pháp, bạn có thể ngửi được hương thơm của Cực Lạc thế giới, bạn có thể cảm được gió mát hoà nhã của Cực Lạc thế giới. Cực Lạc thế giới cách chúng ta rất xa.
Quý vị đã nghe qua báo cáo của cư sĩ Chung Mậu Sâm v? khám phá của khoa h?c cận đại. Ông Chung tư?ng thuật cho chúng ta 3 sự việc.
Sự việc thứ nhất: th?i gian và không gian là không thật có. ?i?u này Phật nói trong kinh rất rõ ràng, th?i gian và không gian là ‘bất tương ưng hành pháp’, nghĩa của chữ này là khái niệm trừu tượng, không phải thật. Nhà khoa h?c hiện nay chứng minh rằng trong một đi?u kiện nào đó không gian không còn tồn tại nữa; không gian không còn tồn tại nữa thì không có xa gần, không còn xa gần thì A Di ?à Phật ở tại nơi nào? Tức là A Di ?à Phật đang đối diện với chúng ta! Do không có khoảng cách xa gần cho nên chúng ta nhìn thấy rất rõ ràng; lúc ngài nói chuyện chúng ta có thể nghe được rất tư?ng tận. Chúng ta có thể ngửi được hương thơm ở Cực Lạc thế giới rất rõ ràng. Vì không có xa gần nên tất cả đ?u rất tư?ng tận.
Không những không có không gian xa gần, th?i gian cũng là giả. Trong một đi?u kiện nào đó th?i gian không còn tồn tại nữa, như vậy có nghĩa là không có quá khứ và tương lai. Con ngư?i chúng ta có thể đi v? quá khứ và cũng có đi đến tương lai. ?ây là đi?u thứ nhất mà khoa h?c ngày nay có thể chứng minh được, hoàn toàn phù hợp với những đi?u đức Phật nói trong kinh điển. Cho nên th?i gian và không gian đ?u là ảo tưởng sanh ra từ v?ng tưởng, phân biệt, và chấp trước. Ảo tưởng này tạo thành chướng ngại rất lớn.
Sự việc thứ nhì liên quan đến chữ ‘có’ (hữu); tất cả vạn vật từ đâu có? Từ ‘không’ sanh ra ‘có’. Khoa h?c gia ngày nay phát hiện rằng: ‘hữu’ là từ ‘không’ sanh ra. Từ ‘không’ sanh ra rồi lại trở v? ‘không’, ‘có’ lại trở v? ‘không’. Thực ra sự khám phá này còn chưa nói được rõ ràng. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói rất rõ: ‘?ương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận’ (Vừa mới ở đó sanh ra thì cũng ở đó diệt mất). Chữ xứ là ‘không’, không có vật gì hết, từ ‘không’ sanh ra ‘có’; tuy là sanh ra ‘có’ lập tức lại trở v? ‘không’; kinh Lăng Nghiêm nói rõ ràng như vậy. Khi h? đem bài tư?ng thuật v? sự nghiên cứu này đến đây thì chúng ta lập tức hiểu li?n, không có ngạc nhiên gì hết.
Sự việc thứ ba nói v? ‘nguyên khởi của vũ trụ, hư không, thế giới, tinh cầu, sanh mạng, vạn vật từ đâu đến?’ Nói thật ra thì là từ ‘không’ sanh ra ‘có’. Những bài báo cáo của khoa h?c hiện nay hoặc trước đây đ?u nói v? ‘một sự bùng nổ to lớn’, sự bùng nổ to lớn này từ cái gì nổ ra? Hiện nay h? tìm ra cái điểm khởi đầu của sự bùng nổ này. ?ây cũng vẫn còn từ lý luận mà suy diễn ra nhưng trên thực tế thì không có phương cách gì có thể tìm ra. H? nói cái ‘điểm khởi đầu’ của sự bùng nổ này bao lớn? Quý vị nghe báo cáo của tiến sĩ Chung đ?u biết, ông nói cái ‘điểm’ này rất là nh?, nh? đến chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi.
Ông đ? ra một thí dụ, thí dụ này là do một khoa h?c gia đ? ra. Cắt ngang sợi tóc của chúng ta ra rồi nhìn thẳng vào mặt cắt ngang của sợi tóc (thiết diện) thì chúng ta thấy một hình tròn. Có thể đem điểm bắt đầu của sự bùng nổ này (điểm khởi nguyên của vũ trụ) xếp d?c theo đư?ng kính của hình tròn này, có thể xếp được bao nhiêu điểm? Một triệu ức ức ức (106 x 108 x 108 x 108 = 1030 ), có ba chữ ức sau chữ triệu. Sắp một triệu ức ức ức cái điểm bắt đầu này d?c theo đư?ng kính của mặt cắt ngang (của sợi tóc). Cái điểm này nổ ra thì thành vũ trụ. Chuyện này chúng ta trong kinh Hoa Nghiêm nói qua không biết bao nhiêu lần rồi! Kinh Hoa Nghiêm cũng nói giống như vậy.
Kinh Hoa Nghiêm nói trong vi trần (hạt bụi) có chứa thế giới, thế giới không lớn, hạt bụi không nh?. Hạt bụi nói trong kinh Hoa Nghiêm có thể là ‘điểm bắt đầu’ mà khoa h?c gia diễn tả ở trên. D?c theo đư?ng kính của mặt cắt ngang (của sợi tóc) có thể xếp một triệu ức ức ức cái điểm bắt đầu này, trong nhà Phật được g?i là vi trần. Ai có thể đi vào thế giới của vi trần? ?ó là Phổ Hi?n Bồ Tát. Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Phổ Hi?n Bồ Tát có thể đi vào. Phổ Hi?n Bồ Tát là hạng Bồ Tát gì? Là ?ẳng Giác Bồ Tát. ?ó là nói cho bạn biết, khi bạn chứng được ?ẳng Giác Bồ Tát, bạn có thể đi vào điểm bắt đầu của vũ trụ. ‘?ương xứ xuất sanh, tuỳ xứ diệt tận’, cho nên nói vũ trụ hiện nay là từ điểm bắt đầu này bùng nổ tạo thành; hiện nay vũ trụ còn đang nở rộng ra. Tất cả sanh mạng cũng đ?u đến như vậy cả. Ngày hôm đó tôi h?i tiến sĩ Chung: ‘Khi nào bùng nổ?’ Khi nào vũ trụ chúng ta bùng nổ? Ông ta đáp không được. Tôi nói rằng tôi biết.
Thiệt ra chuyện này tôi đã nói qua rất nhi?u lần; nếu bạn nghe hiểu được thì khi ngư?i ta h?i những câu v? khoa h?c như vậy, bạn li?n lập tức có thể trả l?i ngay. Lúc nãy tôi có nói qua, trong kinh Lăng Nghiêm nói đến ‘?ương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận’. Kinh Nhân Vương có nói cho chúng ta biết một khảy móng tay có 60 sát na, một sát na có 900 lần sanh diệt, cái sanh này tức là ‘hiện’, diệt tức là ‘quay v?’. Hiện tượng chúng ta thấy ngày hôm nay là hiện tượng gì? Tướng tương tục? Cho nên kinh Kim Cang có nói: ‘Tất cả các pháp hữu vi, như mộng ảo và bóng của b?t nước, như sương cũng như điện, phải nên quán sát như vậy’. Tất cả hiện tượng trong vũ trụ này không phải chân thật, ‘phàm những gì có tướng đ?u là hư v?ng’. Nó bùng nổ, nổ quá nhanh, lập tức li?n tiêu diệt mất. Cái thứ nhì lại bùng nổ tiếp tục. ?iểm khởi đầu đó nhi?u vô số, không biết là nhi?u đến mức nào.
?iểm khởi đầu này là gì? Các nhà khoa h?c trả l?i không được, đức Phật cũng không nói đến. Tuy là đức Phật không có nói, không có nói đến điểm bắt đầu của vũ trụ nhưng chúng ta biết được. ?iểm đó là gì? ?ó chính là hạt giống trong A lại gia thức. ?ức Phật nói hạt giống trong A lại gia thức không có hình tướng; nếu nó có hình tướng thì tận hư không khắp pháp giới cũng chứa không hết. Hiện nay h? suy đoán v? điểm khởi đầu rất nh? này, vì quá nh? cho nên cũng có thể xem như là không. Bạn xem có thể xếp một triệu ức ức ức cái điểm bắt đầu này d?c theo đư?ng kính của mặt cắt ngang của sợi tóc, cho dù dụng cụ khoa h?c tối tân nhất hiện nay cũng không thể nào quan sát được. Tại sao vậy? Nếu bạn đem phóng đại cái điểm khởi đầu này gấp một triệu ức ức ức lần thì cũng vẫn chưa thấy được. Phải phóng đại thêm một lần nữa thì bạn mới có thể xem cái điểm khởi đầu này và [khi đó] thấy nó cũng chỉ giống như một chấm nh? bằng sợi tóc mà thôi. ?úng là không thể tưởng tượng nổi! ?ây là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
?ây là chân tướng của vũ trụ mà đức Phật nói trong kinh; hiện nay khoa h?c gia dùng toán h?c để suy luận ra, nhưng vẫn không có biện pháp để nhìn xem được. Tại vì không có cách nào để đem một sợi tóc phóng đại lên gấp đôi triệu ức ức ức lần. [Cho dù có thể làm được thì] bạn cũng chỉ có thể nhìn thấy được một chấm nh? xíu, chỉ giống như một chấm, lớn bằng chi?u ngang của một sợi tóc. Chúng ta biết tiến sĩ Giang Bổn Thắng dùng kính hiển vi chỉ phóng đại lên 250 lần để quan sát sự kết tinh của nước. Nếu bạn muốn quan sát vi trần (trong kinh điển g?i là vi trần, khoa h?c gia g?i là điểm khởi đầu của vũ trụ) thì phải dùng kính hiển vi có độ phóng đại bao lớn? Bình phương của một triệu ức ức ức lần thì bạn mới có thể thấy được. Hiện nay thế giới của chúng ta chưa có kỹ thuật cao đến mức này. Cho nên đây là thật tướng của chư pháp.
?ẳng Giác Bồ Tát rất là tự tại, có khả năng để đi vào điểm khởi đầu này. Nói cho chúng ta biết rằng không có lớn nh?, đ?u là do tự tánh biến hiện ra; không có lớn nh?, điểm khởi đầu này không nh?, vũ trụ không lớn; không có xa gần, không có trước sau. Không có xa gần nghĩa là không có khoảng cách; không có trước sau nghĩa là không có quá khứ, hiện tại, và vị lai. Ngày nay chúng ta nói đến không gian, th?i gian, khi đó [khi vào cảnh giới này] thì đ?u bằng không (những quan niệm này không tồn tại nữa). ?ây là thật tướng! [Mục đích] chúng ta h?c Phật không gì khác hơn là để hiểu rõ cái chân tướng này. Chúng ta phải sanh hoạt trong cái chân tướng này, đó là cảnh giới của Phật.
Cảnh giới này tức là Cực Lạc thế giới, là Hoa Tạng thế giới mà kinh điển ?ại thừa nói đến. Chúng ta nếu muốn tự mình tu hành để chứng được cảnh giới này thì quá khó! Quá khó! Tại sao vậy? Bạn phải đem tập khí phi?n não của bạn đoạn dứt sạch hết; đoạn sạch hết kiến tư phi?n não, trần sa phi?n não, vô minh phi?n não, không phải là một chuyện dễ! Vì thế cho nên đức Phật A Di ?à, vị Phật hiện nay đang ở tại thế giới Cực Lạc, ngài vô cùng từ bi, giúp đỡ cho chúng ta rất nhi?u. Chúng ta không phải đoạn phi?n não, chúng ta chỉ cần niệm danh hiệu của đức Phật, danh hiệu này cũng giống như làn sóng điện từ vậy, chúng ta có thể dùng phương pháp trì danh này để ‘liên lạc với Phật’. ?ến lúc chúng ta mạng chung có đầy đủ Tín Nguyện Trì danh; quý vị phải biết Tín Nguyện là ‘phát Bồ ?? tâm’ nói trong kinh Vô Lượng Th? (Cách nói rằng Tín Nguyện là Bồ ?? tâm không phải của tôi mà là cách nói của Ngẫu ?ch đại sư trong ‘Yếu Giải’). Nhất hướng chuyên niệm nghĩa là trì danh. Chúng ta thư?ng dùng cách này để liên lạc [với Phật], khi đến gi? ngài sẽ giúp đỡ chúng ta, tiếp dẫn chúng ta v? Cực Lạc thế giới.
?ến Cực Lạc thế giới để làm gì? ?ến đó là để tu hành. Cực Lạc thế giới rất tốt! Tốt ở chỗ nào? ?ây là đi?u các vị đại đức và tổ sư ngày xưa thư?ng nói đến, ?iểm lợi ích thứ nhất của việc vãng sanh v? Cực Lạc thế giới (ngày xưa các ngài không g?i là đi?u lợi ích mà g?i là đệ nhất ‘đức’, chữ đức trong chữ đạo đức. Ngày nay chúng ta g?i là ‘sự lợi ích’, còn nói đệ nhất đức thì không ai hiểu hết, phải g?i là sự lợi ích) là gì? ?ó là ‘vô lượng th?’! Bạn có vô lượng th? mạng. Nếu bạn có vô lượng th? mạng thì trong một đ?i này đương nhiên sẽ thành công, bạn sẽ chứng được cảnh giới của Phật, đây là sự lợi ích thứ nhất.
Th? mạng của chúng ta trong thế giới này quá ngắn, h?c cái gì cũng không thành. Thật tình mà nói, chỉ h?c một bộ kinh cũng h?c không xong. Quý vị thử nghĩ xem có thể h?c bộ kinh Hoa Nghiêm trong đ?i này không? Hiện nay chúng ta giảng từ đầu đến đuôi, không phải là giảng kỹ chỉ là giảng sơ lược thôi. Chúng tôi dự tính giảng một lần như vậy phải hết một vạn gi?! Chúng ta hiện nay giảng đến quyển 12, quyển 12 cũng chưa hết thì đã dùng trên hai ngàn gi?, bộ kinh này tổng cộng là 99 quyển. Cho nên cả đ?i chỉ h?c một bộ kinh thôi thì cũng là rất khó khăn, th? mạng không đủ, th?i gian không đủ. ?ức Phật A Di ?à giúp cho chúng ta một chuyện rất lớn, giúp cho chúng ta đến Cực Lạc thế giới, đổi một thân thể khác.
Trước hết chúng ta phải hiểu rõ cái ‘tánh’ này, Phật tánh, Pháp tánh là không sanh không diệt. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này. Tánh không sanh không diệt; nếu ‘tánh’ mê rồi thì biến thành ‘thức’. Chúng ta thư?ng kêu bằng linh hồn. Linh hồn là gì? ?ó là tự tánh mê rồi thì biến thành ra hình trạng này, biến ra linh hồn; linh hồn đi đầu thai trong lục đạo. Không kể là đầu thai bằng phương cách nào thì nó cũng không sanh không diệt. ?ến khi nào giác ngộ rồi thì thành Bồ Tát, thành Phật. Giác ngộ thì được đại tự tại, không giác ngộ thì bị nghiệp lực chuyển. Thí dụ như lúc còn sống [chúng sanh] tạo thiện nghiệp, tâm thiện, niệm thiện, hành động thiện, hoàn cảnh sanh sống của h? là cõi ngư?i hay là cõi tr?i (cõi tr?i có 28 tầng). Nếu như tâm của h? không thiện, tư tưởng không thiện, hành vi không thiện, tương lai h? sẽ sanh vào cõi ngạ quỷ, súc sanh, hoặc là địa ngục.
Cho nên thần thức, chúng ta g?i là linh hồn, đi đầu thai chứ không bị mất đi; nó sẽ chuyển biến chứ không tiêu diệt. Nếu nó giác ngộ thì sẽ chuyển thành Phật tánh, nếu mê thì chuyển thành thần thức; Nó sẽ chuyển biến tuỳ theo mê hay ngộ và vĩnh viễn không tiêu diệt. Cho nên nếu bạn hiểu thật rõ cái chân tướng sự thật này, bạn sẽ không sợ chết nữa. Tại sao vậy? Vốn là không có sanh tử. Sanh tử là cái gì? Chỉ là thay đổi thân thể, thay đổi hoàn cảnh sinh sống thôi. Cũng giống như chúng ta di dân, hiện nay nói ‘di dân’ m?i ngư?i đ?u dễ hiểu. Chúng ta từ Trung quốc di dân đến Mỹ quốc, đây là thay đổi thân thể và thay đổi thân phận; chúng ta không dùng quốc tịch Trung quốc nữa mà đổi thành quốc tịch Mỹ. Cũng như bạn thay đổi một cái thân thể và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt mà thôi. Gần đây chúng ta lại từ Mỹ di dân đến Úc châu, và lại biến thành công dân Úc, lại đổi thân phận nữa. Ngư?i thì không chết, chỉ thay đổi thân phận ba lần, thay đổi hoàn cảnh sinh sống ba lần. Sự việc là như thế đó, cho nên bạn phải hiểu như vậy.
Hiện nay chúng ta ở trong thế gian này vẫn thư?ng liên lạc với bà con và bạn đồng tu ở Trung quốc, Mỹ quốc. Nếu bạn sanh lên cõi tr?i hoặc là sanh lên cõi Cực Lạc, đạo lý cũng giống như vậy, bạn cũng sẽ giữ liên lạc với những bà con bạn bè ở trái đất này; bạn sẽ thư?ng thư?ng giúp đỡ và thăm viếng h?. Nhưng cảnh giới không giống nhau, không gian duy thứ không đồng (duy có nghĩa là chi?u, là phương vị). H? đến đây để thăm viếng chúng ta, h? thấy rất rõ ràng, nhưng chúng ta không thấy h?, đây là vì không gian duy thứ không giống nhau. Tuy là chúng ta không thấy h? nhưng chúng ta thư?ng thư?ng kỷ niệm h?. Thí dụ như lúc chúng ta tụng kinh lạy Phật đem công đức hồi hướng [cho h?], đó là kỷ niệm h?. H? cũng thư?ng lại thăm viếng chúng ta, âm thầm giúp đỡ và vẫn duy trì liên lạc với chúng ta.
Khi chúng ta tu hành có đầy đủ công phu và trình độ, đủ trình độ nghĩa là sao? Nghĩa là đủ định công (khả năng định tâm). Có đủ định công thì có thể giảm bớt v?ng tưởng, phân biệt, và chấp trước của chúng ta; giảm đến một mức nào đó thì cái cảm ứng này sẽ trở nên hiện thực (rất rõ ràng). H? đến thăm chúng ta hoặc là chúng ta đi thăm h?; cho nên đây là cảnh giới trong [trạng thái] định, không gian và th?i gian đ?u không còn tồn tại nữa, là trong khi nhập định không tồn tại. Cho nên trong định có thể qua lại, liên lạc, có thể đi v? quá khứ và có thể đi đến tương lai. Hiện nay nhà khoa h?c biết được rằng không gian thực sự có nhi?u duy thứ tồn tại, nhưng không biết dùng phương pháp gì để đột phá nó (vượt qua ranh giới giữa những duy thứ này).
Giống như những khoa h?c gia nói đến, trên lý luận h? dùng ‘gia tốc độ’. Nếu tốc độ này nhanh hơn vận tốc ánh sáng trên lý luận thì có thể đi ngược v? quá khứ, có thể đột phá không gian. Cho nên trong khi nhập định những ngư?i h?c Phật chúng ta biết được. Trong nhà Phật nói ‘pháp giới’ là danh từ mà khoa h?c gia g?i là ‘không gian duy thứ’. Tại sao có nhi?u pháp giới như vậy? Từ đâu đến? ??u là từ v?ng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Nếu v?ng tưởng, phân biệt, chấp trước của bạn đã dứt hết, thì không gian duy thứ sẽ không còn nữa, hoàn toàn phá tan. Cho nên không cần biết ngư?i thân bạn bè của chúng ta ở trong không gian duy thứ nào chúng ta đ?u có thể nhìn thấy được, chúng ta đ?u có thể trực tiếp liên lạc.
Ngư?i có thể tiếp xúc với những không gian duy thứ khác sớm nhất [trong lịch sử nhân loại] là những ngư?i theo Bà La Môn giáo. Bà la môn giáo có khoảng một vạn năm lịch sử, Phật giáo chúng ta chỉ có khoảng ba ngàn năm lịch sử. H? cũng là tu ‘định’, từ trong thi?n định có thể phá tan không gian duy thứ, cho nên hiện tượng lục đạo luân hồi h? nhìn thấy sớm nhất. Tuy là h? nhìn thấy, nhưng h? không hiểu từ đâu mà có lục đạo. Mãi cho đến lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế, ngài mới giải thích rõ ràng sự việc này. Cũng có thể nói trong quá khứ h? biết được sự việc nhưng không hiểu rõ nguyên do tạo thành hiện tượng này. Sau khi đức Phật ra đ?i mới đem nguyên do của lục đạo luân hồi giải thích rõ cho m?i ngư?i biết. ?ó là do v?ng tưởng, phân biệt, và chấp trước biến hiện làm thành; khi xa lìa v?ng tưởng, phân biệt, và chấp trước thì pháp giới này sẽ biến thành ‘nhất chân’ [pháp giới], thập pháp giới sẽ không còn nữa? Nói một cách khác, không gian duy thứ là không thật có và chỉ là một ảo tướng, không phải chân tướng sự thật.
Chúng ta vãng sanh đến Tây phương Cực Lạc thế giới đ?u toàn nh? vào một câu Phật hiệu này. Nhưng chúng ta nên biết, chỉ niệm câu Phật hiệu này mà không phát Bồ ?? tâm thì không thể vãng sanh. Ngẫu ?ch đại sư nói cho chúng ta biết một cách đơn giản nhất và rõ ràng nhất là: chân tín và thiết nguyện (tin chân thành và phát nguyện thiết tha). Bạn thật tin, một chút cũng không hoài nghi. Bạn thật là muốn đến Cực Lạc thế giới, thật là muốn thân cận đức Phật A Di ?à để tu h?c. Lòng tin và ý nguyện này là Bồ ?? tâm. Sau đó chỉ cần bạn ‘nhất hướng chuyên niệm’; bạn có đầy đủ ba đi?u kiện này thì bạn có thể vãng sanh. Vãng sanh là một sự việc tr?ng đại, là một sự việc rất hy hữu (hiếm hoi ít có). Tất cả m?i thứ trên thế gian này đ?u là giả hết, chuyện gì trên thế gian này nếu có đầy đủ nhân duyên thì làm, nếu không có duyên thì tuyệt đối đừng khởi tâm động niệm. Nếu bạn lãng phí tinh thần và th?i gian trên những sự việc thế gian này, để cho nhân duyên của việc tr?ng đại (vãng sanh) trong đ?i ngư?i trôi qua, đến đ?i nào kiếp nào bạn mới có thể gặp lại được! Phải nên cẩn thận, nhất định phải thận tr?ng!
Cho nên chúng ta là những ngư?i h?c Phật, tất cả m?i sự việc trên thế gian này đ?u phải tùy duyên. Những chuyện tốt đối với chúng sanh nếu có duyên thì mình làm; nếu không có duyên thì đừng phan duyên, đi?u này là quan tr?ng nhất. Chúng ta phải hiểu rõ và bắt chước làm theo những sự thị hiện của đức Phật Thích Ca, chư vị đại đức tổ sư, và chư vị Bồ Tát. Năm xưa đức Phật Thích Ca thị hiện làm gương cho chúng ta noi theo; ngài thị hiện 30 tuổi thành Phật, đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh thì g?i là thành Phật. Thành Phật là thành tựu viên mãn trí huệ, viên mãn giác ngộ. Trí huệ và giác ngộ viên mãn rồi thì giáo hoá chúng sanh, một đ?i làm công việc giáo dục; dạy h?c cũng là tùy duyên.
Cho nên có câu nói ‘Phật không độ ngư?i không có duyên’. Có cơ hội gặp được thì g?i là có duyên. Không có duyên thì không gặp được, đức Phật sẽ không đốt đèn đi khắp nơi để tìm, không có đạo lý này! Ai gặp được thì ngư?i đó có duyên. ?ức Phật diệt độ cho đến ngày nay, tuy là ngài không còn tại thế, kinh điển còn được lưu lại trong thế gian này, chúng ta có thể gặp được kinh điển thì là có duyên. Không gặp được kinh điển thì không có duyên. Nếu gặp được kinh điển mà bạn còn có thể đ?c tụng, có thể hiểu rõ, có thể tin tưởng, có thể noi theo đạo lý và phương pháp trong kinh điển mà tu hành, thì bạn sẽ thành công!
Quan tr?ng nhất là chúng ta phải buông xả thân tâm thế giới. Tức là buông xả v?ng tưởng, buông xả phân biệt, và buông xả chấp trước; nếu được như vậy là chúng ta có thể ‘liên lạc, nói chuyện’ với chư Phật Bồ Tát, có thể phá b? ranh giới [của chúng ta và chư Phật]. Hôm nay chúng ta h?c Phật nhưng không thể đột phá được là vì lý do gì? Tại vì bạn vẫn còn chưa buông xả. Cho nên lỗi lầm này là của chính mình, không phải của Phật, cũng không phải vì kinh điển, tại vì chính mình. Tự mình tin không thật tình, vẫn còn hoài nghi, hãy còn chấp trước, thế thì không còn cách nào khác nữa. Cho dù chư Phật Như Lai ở ngay trước mặt cũng không thể giúp bạn được, đi?u này là việc của bạn. Cho nên sự lợi ích của việc vãng sanh v? Cực Lạc thế giới là có vô lượng th? mạng, vô lượng phước báo.
[Nói ngư?i vãng sanh v? Cực Lạc có] Vô lượng trí và vô lượng giác là một cách nói chung. Trong kinh còn nói đến vô lượng quang và vô lượng th?, ý nghĩa này rất hay. Vô lượng quang, quang là quang minh chiếu khắp, tượng trưng cho không gian. Vô lượng th?, th? mạng là tượng trưng cho th?i gian. Tất cả sự vô lượng trong vô lượng th?i gian và không gian đ?u hoàn toàn đầy đủ, một thứ cũng không thiếu. Cho nên mới nói: ‘Phật thị môn trung hữu cầu tất ứng’. Tại sao có cầu thì li?n có [cảm] ứng? Tại vì tất cả đ?u là vốn sẵn có trong tự tánh của bạn. Trong tự tánh của bạn vốn sẵn có đầy đủ vô lượng trí huệ; khi trí huệ hiện ra thì vô lượng tài nghệ đức năng cũng sẽ hiện ra; sau đó thì vô lượng tướng hảo, tức là vô lượng phước báo cũng sẽ hiện ra.
Hiện nay những thứ mà ngư?i trong thế gian này mong cầu không ngoài ba thứ: ti?n tài, trí huệ, và sức kh?e sống lâu (hôm qua tôi ở ‘Tuyết Lê’ (New South Wales) cũng có đ? cập đến vấn đ? này). Ở Cực Lạc thế giới ba thứ này đ?u có đầy đủ. Tây phương Cực Lạc thế giới có vô lượng ti?n tài (tài phú). Bạn hãy xem, trong kinh đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu cho chúng ta hoàn cảnh tình huống ở Cực Lạc thế giới. Ở bên đó mặt đất không phải là bằng đất đá mà là lưu ly. Lưu ly là cái gì? Chúng ta ở thế giới này g?i là cẩm thạch, ng?c màu xanh, phần đông giá trị của cẩm thạch là rất cao. Mặt đất ở cõi Cực Lạc toàn làm bằng cẩm thạch, cho nên ở bên đó cẩm thạch không đáng giá chút nào. Tại sao vậy? Thì cũng như đá s?i của chúng ta vậy. Chúng ta ở đây đeo một chiếc vòng bằng cẩm thạch thì rất quý, nếu qua bên đó còn đem ‘đất đá’ đeo trên tay thì không phải làm trò cư?i cho ngư?i sao? Chúng ta ở đây xem vàng rất là quý báu, còn ở cõi Cực Lạc thì vàng được dùng để làm gì? Cũng giống như xi măng là để lót dưới đất để đắp đư?ng đi. Bạn hãy xem trên mặt đất lưu ly có đư?ng đi làm bằng vàng, đừng nói đến những thứ khác chỉ nói như vậy thì bạn biết ở bên đó ‘giàu sang’ đến bực nào! Khi ngư?i tỷ phú ở thế gian chúng ta đến cõi Cực Lạc thì biến thành một kẻ bần cùng nghèo mạt! Không ti?n!
Nhà cửa ở cõi Cực Lạc đ?u làm bằng bảy thứ báu: vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, không phải như gạch và xi măng của chúng ta ở đây. Bạn nghĩ coi h? ‘giàu sang’ như thế nào. Quần áo thức ăn uống đ?u là tự nhiên có; bạn muốn ăn thứ gì, vừa nghĩ tưởng muốn ăn thì trên mặt bàn đã hiện đầy ra. Ngày xưa ở Trung Quốc mỗi bữa ăn của những vị vua phải có đủ 100 món ăn trên bàn, không cần biết là ông vua ăn được mấy món, nhưng mỗi bữa ăn nhất định phải d?n đủ 100 món ăn. Cho nên vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì còn sang tr?ng hơn ông vua th?i xưa. Bữa ăn của ông vua chỉ có 100 món ăn, còn bên đó nếu muốn một ngàn món, một vạn món, khi niệm vừa khởi ý muốn thì tất cả đ?u hiện ra trước mặt. Ông vua làm sao có thể so sánh với bạn được! Sau khi ăn xong không muốn ăn nữa thì lập tức biến mất, không cần phải rửa chén, không cần phải d?n dẹp, tất cả đ?u biến mất.
Cho nên thế giới bên đó là nơi mà ngày nay khoa h?c gia thư?ng nói vật chất có thể biến thành năng lượng [và ngược lại]. Ngày nay khoa h?c gia biết được lý luận này nhưng làm không được, ở Cực Lạc thế giới đã làm được. Khi muốn thì đem năng lượng biến thành vật chất, tha hồ hưởng thụ. Khi không muốn những vật chất này lại được biến thành năng lượng trở lại, không còn gì hết, được đại tự tại. Nhà cửa nơi cư trú của bạn muốn ở trên mặt đất thì căn nhà này li?n ở trên mặt đất; muốn ở trên không trung thì nó sẽ bay lên lơ lửng ở trên không trung. Khi đi đến những thế giới khác ở tha phương, không cần phải ngồi máy bay, căn nhà của bạn có thể bay, có thể làm công cụ phi hành của bạn. Tùy tâm mình muốn gì được nấy!
Tướng hảo quang minh không chỉ có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp mà thôi. Tướng tốt của ngư?i ở thế gian chúng ta (quý vị nào xem tướng rồi, tướng nào là tướng tốt) tướng tốt là như thế nào, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. ?ức Phật trong kinh nói với chúng ta, ngư?i ở tây phương Cực Lạc thế giới có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Quý vị xem trong kinh đức Phật Thích Ca đặt ra thí dụ, không những là ngư?i ở thế giới chúng ta không thể sánh bằng được, cho đến ?ại Phạm Thiên Vương, tướng phú quý của ‘Ma Hê Thủ La Thiên Vương’ khi so sánh với ngư?i vãng sanh hạ hạ phẩm ở Cực Lạc thế giới thì cũng giống như một ngư?i ăn xin, không thể nào bì được! Không có một thứ nào không xứng tâm vừa ý. ?ó là lợi ích của sự niệm Phật, lợi ích của sự vãng sanh.
Nếu bạn muốn h?i vãng sanh có thật không? Thật đó, một tí gì cũng không phải giả. Trong đ?i tôi thấy tận mắt mư?i mấy ngư?i đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Còn những ngư?i nghe nói vãng sanh thì không biết là bao nhiêu mà kể. Gần đây nhất, khoảng hai năm nay, không đến hai năm, lão cư sĩ Trần Quang Biệt là vị Lâm trưởng nhiệm kỳ trước của Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba. Bạn hãy xem ông ta vãng sanh, đây là ngư?i chúng ta đã nhìn thấy tận mắt, các bạn đồng h?c trong chúng ta đ?u có đi hộ niệm cho ông. Lúc lão cư sĩ hơn tám mươi tuổi thì thân thể yếu dần rồi sanh bịnh. Nói thật ra, khi sanh bịnh thì ông mới hết lòng h?c Phật, khi ông chưa bịnh thì không có h?c Phật. Ông là một nhà kinh doanh ngân hàng, ngày ngày đ?u bận rộn công việc làm ăn, không có thì gi? đ?c kinh và cũng không có thì gi? nghe kinh.
Sau khi mang bịnh thì không có cách nào khác phải ở nhà dưỡng bịnh, mỗi ngày nằm trên giư?ng nhàn rỗi. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên gởi những băng video giảng kinh của chúng ta đến tận nhà cho ông. Mỗi ngày ông đ?u xem, càng xem càng thích thú. Ông mỗi ngày xem tám gi? đồng hồ, th?i gi? còn lại thì niệm A Di ?à Phật. Trải qua th?i gian 2 năm, không dài lắm, thì ông đã thành công. Một ngày n? ông nói với cư sĩ Lý Mộc Nguyên rằng ông sẽ vãng sanh v? Cực Lạc. Lý cư sĩ nói với ông rằng lúc bấy gi? ông không thể vãng sanh được. Lúc bấy gi? công việc ở Cư Sĩ Lâm còn chưa ổn định, chỉ cần ông còn sống thì sức ảnh hưởng của ông vẫn còn, cho nên hy v?ng là ông ở lại để tiếp tục giúp đỡ. Ông Trần đồng ý và nói vậy thì ông sẽ đợi thêm hai năm nữa.
Hai năm sau đó, trong kỳ h?p sau cùng, Cư Sĩ Lâm tổ chức bầu cử cho [ban chấp hành] nhiệm kỳ mới. Hôm đó ông ngồi xe lăn đến tham dự, tôi cũng có mặt trong buổi h?p. ?ây là lần cuối cùng ông đến Cư Sĩ Lâm. Sau khi ra v?, tôi nghe ngư?i nhà của ông kể lại, có một hôm ông viết ‘mồng bảy tháng tám’ trên khoảng trống vi?n quanh t? báo, ông viết hết mư?i mấy lần ‘mồng bảy tháng tám’. Ngư?i nhà ông không ai dám h?i, cũng không ai biết là việc gì; đúng ngay ngày mồng bảy tháng tám hôm đó ông vãng sanh. Cách ba tháng trước, ba tháng trước ngày ông vãng sanh thì ông đã biết ngày gi? ra đi rõ rõ ràng ràng. Mồng bảy tháng tám, ba tháng trước đã viết ra hết mư?i mấy lần; ?ây là ‘dự tri th?i chí’ (biết trước ngày gi? vãng sanh)!
Từ lúc ông sanh bịnh bắt đầu nghe kinh niệm Phật cho đến khi ông vãng sanh là khoảng bốn năm. Sau khi ông vãng sanh, Cư Sĩ Lâm ở Tân Gia Ba xuất hiện ra một việc rất kỳ lạ. Sau khi việc này xảy ra có một hôm, cư sĩ ?ỗ Mỹ Tuy?n lại Niệm Phật ?ư?ng kiếm tôi; trước đó tôi không quen biết bà. Việc gì đã xảy ra? Rất nhi?u oan gia chủ nợ của lão cư sĩ Trần Quang Biệt đến Cư Sĩ Lâm. Những ngư?i này không phải ngư?i còn sống, đ?u là quỷ, rất là nhi?u. Số oan gia chủ nợ này trước đó vốn là ở nhà ông Trần, nhưng ông Trần mỗi ngày nghe kinh niệm Phật nên h? không dám phá khuấy ông. Nghe kinh niệm Phật có thần hộ pháp cho nên tuy là số oan gia chủ nợ này vây quanh kế bên nhưng không dám làm hại ông. Sau khi nhìn thấy ông Trần vãng sanh h? đ?u cảm động.
Cho nên h? đi theo pháp sư, chúng tôi phái pháp sư mỗi ngày lại trợ niệm cho ông, một nhóm bốn vị pháp sư luân phiên nhau. Số oan gia chủ nợ này đi theo mấy vị pháp sư này v? đến Cư Sĩ Lâm. H? nói thần hộ pháp ở Cư Sĩ Lâm không ngăn cản và nói rằng h? đến không có ý phá rối mà đến để xin quy y. H? nói sau khi thấy ông Trần vãng sanh h? rất hoan hỷ nên đến để xin quy y. Lúc đó tôi đang ở Hương Cảng, hình như là thầy Toàn g?i điện thoại cho tôi và nói nhóm quỷ này xin quy y, tôi nói với thầy mau mau cho h? quy y.
Sau khi quy y h? muốn nghe kinh. Các pháp sư ở Cư Sĩ Lâm mới nói với h? rằng lầu bốn là Niệm Phật ?ư?ng, lầu năm là Giảng đư?ng, mỗi ngày đ?u có pháp sư ở đó giảng kinh. H? nói ‘ánh sáng’ ở lầu năm quá mạnh h? chịu không nổi. Sau khi thương lượng thì chúng tôi mở truy?n hình ở lầu một và lầu hai. H? yêu cầu nghe kinh ?ịa Tạng, cho nên chúng tôi vặn máy truy?n hình suốt ngày 24 gi? để băng video cho h? nghe. H? thích nghe kinh ?ịa Tạng và kinh Thập Thiện Nghiệp ?ạo. H? thích nghe hai bộ kinh này nhất, sau khi nghe xong thì h? ra v?. ?ây là chuyện kỳ lạ đã xảy ra.
Sau đó mấy ngày, hình như là một tuần, thì cư sĩ ?ỗ Mỹ Tuy?n đến kiếm tôi để thuật lại chuyện quỷ nhập vào thân bà. Bà nói lúc đó bà mê ngất đi, sau khi hôn mê thì cái gì cũng không biết. Lúc tỉnh dậy ngư?i khác nói lại cho bà biết rằng bà đã bị ‘nhập’ hết hơn một gi?, một câu bà cũng không biết bà đã nói cái gì. Nhưng ngư?i nhà của bà không tin, nhất là em trai của bà, hắn nói chuyện này không đáng tin tí nào. Sau đó nghe nói hắn bị tám con quỷ đánh hết một trận, đánh xong còn xô hắn ta vô ống thoát nước ở bên đư?ng. Hắn bị thương nặng phải nằm xe cứu thương vô bịnh viện cứu cấp. Hắn báo cảnh sát và nói là hắn bị bảy hoặc là tám ngư?i đánh bị thương. Kết cục khi cảnh sát đến để đi?u tra, h?i thăm những ngư?i chung quanh, những ngư?i chung quanh này nói không phải, tự mình hắn đi lảo đảo rồi té xuống ống thoát nước, không có ai đánh hắn hết. Bảy tám con quỷ đánh hắn, kể từ đó hắn mới tin, cả nhà đ?u tin hết. ?ỗ Mỹ Tuy?n bị quỷ nhập, nh? đó mà cả nhà được độ. Cho nên chuyện này là thiệt không phải giả.
Tôi cũng gặp và nghe qua nhi?u chuyện linh quỷ nhập vào ngư?i, trong đó phần đông là thiệt, nhưng cũng có giả nữa, nhưng giả thì rất ít. Những ngư?i giả mạo đ?u có âm mưu hoặc mục đích rõ ràng, khi nghe qua thì biết li?n. Cho nên phải có khả năng phân biệt [chánh tà] để kh?i bị những ngư?i này gạt. Khi chúng ta giao thiệp với quỷ thần nhất định phải cẩn thận, quyết đừng để bị hại. Bạn để ý lắng nghe h? nói, cái tướng mà h? hiện ra rất đáng để chúng ta tham khảo.
Khoá lễ ‘Ba Th?i Hệ Niệm’ là do Trung Phong Thi?n sư lập ra, ngài là ngư?i đ?i nhà Nguyên. Ngài y theo kinh Di ?à rồi thiết lập ra nghi thức này để siêu độ ngư?i mất. Chúng ta tu h?c Tịnh ?ộ dùng nghi thức này thì vô cùng thích hợp. Nếu bạn xem xét kỹ lưỡng, nghi thức của khoá lễ này có tán Phật, tụng kinh, niệm chú (chú Vãng sanh), sám hối, phát nguyện, hồi hướng, và quy y. Tất cả có tám phương pháp tu h?c, vô cùng đầy đủ. Quý nhất là các bài giảng khai thị, rất nhi?u khai thị vô cùng hấp dẫn, đối với sự tu h?c của chúng ta có rất nhi?u ích lợi. Cho nên nếu các bạn thư?ng xem và thư?ng đ?c những bài khai thị này, tôi tin là xem lâu thì bạn có thể ngộ nhập vô cảnh giới này, khế nhập vào cảnh giới thì có ích lợi lớn.
Hiện nay chúng ta lấy nghi thức này làm công khoá, chúng ta mỗi tuần làm một lần, làm công khóa nhất định thì hai cõi âm dương đ?u có lợi ích. Ngày nay trên thế giới này, ngư?i ta khổ, quỷ thần cũng khổ. Loài ngư?i chúng ta có tai h?a, thế gian này có tai h?a, ngư?i ta không biết, nhưng quỷ thần biết; những năm gần đây những dấu hiệu tin tức từ cõi âm truy?n đến đ?u nói đến những tai h?a trên thế gian này, rất là kinh khủng! Những gì h? nói tôi đ?u tin, tôi không phải tin những tin tức mà linh quỷ truy?n đến, tôi tin những đạo lý v? nhân quả báo ứng mà đức Phật nói trong kinh điển, tất cả tai h?a đ?u do ác nghiệp chiêu cảm! Bạn xem thử những ngư?i trong thế gian này suy nghĩ những gì? H? niệm cái gì? H? nói cái gì? H? làm cái gì? Bạn quan sát kỹ lưỡng thì bạn sẽ biết li?n.
Ngư?i xưa nói: ‘Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương’ (Nhà tích thiện nhất định phải có nhi?u ni?m vui, nhà tích chuyện không thiện thì nhất định phải có nhi?u ương h?a). Trong xã hội hiện nay, tất cả chúng sanh tích lũy những gì? Tâm niệm ác, tư tưởng ác, ngôn ngữ ác, hành vi ác, thì làm sao không có tai h?a! Ngày xưa n?n giáo dục cổ truy?n đã dạy ngư?i ta phương thức làm ngư?i từ lúc tuổi còn nh?. Sự giáo dục của Trung quốc từ đ?i Nghiêu Thuấn đ?u có ghi chép trong lịch sử. Từ th?i Nghiêu Thuấn đến nay có khoảng 4500 năm. Từ xưa đến khoảng cuối đ?i nhà Thanh, n?n giáo dục ở Trung quốc dạy những gì? ?ó là dạy luân lý đạo đức. N?n luân lý đạo đức này đã [có công] duy trì đất nước dân tộc Trung quốc được 5000 năm. Sau th?i Dân Quốc cho đến nay m?i ngư?i đ?u coi tr?ng khoa h?c Tây phương, đem luân lý đạo đức cổ truy?n vứt b?. Sanh hoạt vật chất hình như được nâng cao, mức sống nâng cao, nhưng luân lý đạo đức mất đi rồi. Xã hội động loạn, nhân tâm bàng hoàng, thử h?i có ai trong thế giới hiện nay có cảm giác an toàn? Kể cả bản thân chúng ta, bạn thử đi nghe ngóng và h?i ngư?i ta xem, h?i h? có cảm giác an toàn không? Không ai cảm thấy an toàn! Thật đáng thương!
Hiện nay những ngư?i h?c Phật thì có lẽ tốt hơn một chút. Ngư?i h?c Phật chân chánh, thật là có được những lợi ích từ Phật pháp, tâm h? tương đối thanh tịnh thì có thể có cảm giác an toàn. Tại sao vậy? Biết được thật tướng của các pháp cũng là biết được chân tướng của vũ trụ nhân sanh, biết được tất cả chúng sanh không sanh không diệt, chỉ là chuyển biến mà thôi, cho nên mới kêu là tâm an lý đắc. Hiểu rõ đạo lý này thì tâm sẽ an; không hiểu rõ đạo lý thì tâm làm sao an được! Trong xã hội ngày nay, nếu như cầu thân tâm an ổn, thì phải tìm hiểu cho rõ đại đạo lý của vũ trụ nhân sanh. Sau khi hiểu rõ chân tướng sự thật, tâm của bạn sẽ an và tâm sẽ định. Từ đó bạn sẽ biết sanh hoạt cách nào, làm việc cách nào, giao tiếp ngư?i và sự việc cách nào. Bài giảng khai thị trong nghi thức ‘Ba th?i hệ niệm’ quá hấp dẫn đi thôi!
Như vậy thì khi ngư?i ta qua đ?i tại sao lại phải cúng thất? Rất nhi?u ngư?i h?i vấn đ? này. Nếu ngư?i ta niệm Phật đã vãng sanh được thì thật ra không cần phải cúng thất nữa. Ngư?i vãng sanh và ngư?i sanh lên tr?i (những ngư?i khi còn sống làm nhi?u chuyện thiện thì sau khi qua đ?i có thể sanh lên tr?i), đ?u không có thân trung ấm, không cần phải cúng thất. Nhưng phần đông nghiệp chướng và tập khí của ngư?i ta quá nặng, nếu h? đ?a vào tam ác đạo hoặc là sanh làm ngư?i, những ngư?i này chỉ là ngư?i rất bình thư?ng, không phú quý, tất cả đ?u có thân trung ấm. Thân trung ấm phần đông kéo dài 49 ngày, tức là 7 tuần. Thân trung ấm cách 7 ngày lại có một lần biến dị sanh tử, cũng có nghĩa là mỗi 7 ngày có một lần rất đau khổ.
Ngay lúc này tụng kinh niệm Phật cho h?, hoặc sám hối rồi hồi hướng cho h? thì có thể giảm bớt sự đau đớn của h?, trong kinh ?ịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh có nói đến việc này. Cho nên việc cúng thất là từ Kinh ?ịa Tạng mà ra, bạn xem kinh này thì sẽ hiểu rõ. Vì thế tuyệt đối không nên tự tử, tự tử thì rất là đau khổ. Tại sao vậy? Phàm những ngư?i chết vì tự tử, thân trung ấm của h? cứ mỗi 7 ngày lại phải tự sát một lần. Không phải chỉ chết một lần mà mỗi 7 ngày lại tự sát thêm một lần, rất là đau khổ. Thí dụ như ngư?i treo cổ chết, mỗi 7 ngày hắn phải treo cổ thêm lần nữa; uống thuốc độc tự tử thì cứ cách 7 ngày lại phải uống thuốc độc để chết trở lại. Nếu ngư?i nhà tu phước dùm h? có thể giảm bớt sự đau đớn này. Nếu không có gia quyến tu phước cho h? như vậy thì không cách nào tránh kh?i. ?ây là việc mà đức Phật nói cho chúng ta biết. Nếu như bạn hiểu được thì bảy cái thất này đ?u phải cúng; không thể chỉ lựa ch?n vài cái, còn những cái còn lại thì không cần cúng, không thể như vậy được. Tại sao vậy? Cách 7 ngày h? có một lần biến dị sanh tử thì rất đau đớn. Chúng ta từ kinh điển hiểu được những đạo lý này. Cho nên lợi ích của sự [đ?c kinh] niệm Phật quá nhi?u đi thôi.
Trong kinh có nói v? việc cúng thất rất rõ, trong 7 phần công đức ngư?i cúng thất hưởng được 6 phần, ngư?i mất chỉ hưởng được một phần. Cho nên lúc cúng thất tốt nhất là nên m?i 7 vị pháp sư, trong 7 phần công đức của 7 vị pháp sư ngư?i mất chỉ hưởng được một phần. Nếu muốn đạt được lợi ích của sự cúng thất, những ngư?i cúng thất này không kể là tại gia hay xuất gia phải dùng tâm chân thành để cúng thì mới có lợi ích chân thật. Nếu mà chỉ làm theo nghi thức để tụng kinh bái sám, tâm địa không chân thành thì lợi ích rất nh?. Thế nào là tâm không chân thành? ?ó là vừa niệm kinh vừa khởi v?ng tưởng, tâm không tập trung thì không đạt được lợi ích. Nếu ngư?i qua đ?i này lúc còn sống rất nóng nảy, rất dễ giận mà ngư?i cúng thất lại không thành tâm cúng thất, vong linh ngư?i mất sẽ kiếm chuyện phá rối [ngư?i cúng thất]. Quỷ và ngư?i giống nhau, nếu bạn có lỗi với h?, h? sẽ kiếm chuyện gây rắc rối và sẽ trả thù. Nếu ngư?i nào tâm địa hòa nhã thì thôi, h? không gây rắc rối.
Cho nên tất cả m?i chuyện đ?u có nhân quả! Nghiệp nhân quả báo tơ hào chẳng sai, đó là chân lý. Trong Phật pháp có câu: ‘Vạn pháp giai không, nhân quả bất không’ (vạn pháp đ?u không, nhân quả không có không). Tại sao nhân quả không có không? Nhân quả có sự ‘chuyển biến bất không’. Nhân sẽ biến thành quả. Giống như chúng ta trồng một cây ăn trái, thí dụ này ai cũng biết hết; nếu bạn trồng một cây đào, hột trái đào là hột giống, hột giống là nhân! Hột trồng xuống đất thì lớn thành cây đào, cây đào sẽ có trái đào, nhân sẽ biến thành quả; quả đào lại chứa đựng hột đào, đây là ‘chuyển biến bất không’. Kế đó là ‘tuần hoàn bất không’, nhân quả tuần hoàn xoay chuyển không có không. Kế đó là ‘tương tục bất không’ (liên tục nối li?n không có không). Cho nên nói tóm lại là có ba hiện tượng: chuyển biến, tương tục, và tuần hoàn; đây là nói tất cả sự việc trong thế gian và xuất thế gian đ?u không vượt ra kh?i nhân quả.
Chúng ta đ?c kinh điển ?ại thừa, bạn xem những thứ [nhân quả] nói trong kinh. Kinh Hoa Nghiêm nói v? ‘ngũ châu nhân quả’, không lìa nhân quả. Kinh Pháp Hoa nói ‘nhất thừa nhân quả’. Phật pháp xuất thế gian cũng không lìa nhân quả, nhân quả là chân lý trong vũ trụ! Thiện có quả báo thiện, ác có quả báo ác, ngư?i xưa nói rất hay, không phải là không báo, mà là th?i gi? chưa đến. Khi nhân gặp duyên, thì đây là th?i gi? đã đến; nếu nhân chưa gặp duyên thì đây là th?i gi? chưa đến; khi gặp duyên thì quả báo nhất định sẽ hiện ra. Cho nên nếu chúng ta hiểu được đạo lý này, đặc biệt là trong sự giao thiệp và qua lại giữa ngư?i và ngư?i với nhau, ngư?i xưa nói rất hay: ‘Oan gia nên giải chớ đừng nên kết’. Hãy ghi nhớ, tuyệt đối đừng bao gi? kết oán thù với ngư?i khác, kết oán thù thì rắc rối rất lớn; oan oan tương báo, đ?i đ?i kiếp kiếp không bao gi? dứt được, cả hai bên đ?u đau khổ.
Mỗi ngư?i chúng ta trong thế giới này không phải chỉ có một đ?i này thôi, bạn còn có đ?i trước. Trong nhi?u đ?i kiếp trước, bạn đã kết oán thù với bao nhiêu ngư?i, cho nên trong đ?i này sự sanh hoạt thư?ng ngày không qua được một cách suông sẻ! Khi bạn gặp một ngư?i lạ ngoài đư?ng, từ trước đến gi? chưa gặp qua lần nào, nhưng vừa mới gặp thì ngư?i đó lại ‘kên’ bạn, (nhìn bạn bằng cặp mắt rất hằn h?c), đó là nghiệp mà bạn đã tạo trong đ?i quá khứ. Chúng ta là ngư?i h?c Phật nên chúng ta hiểu được. Ngư?i đó nhìn mình một cách hằn h?c, A Di ?à Phật, bạn cũng đừng nhìn h?, cúi đầu niệm một câu Phật hiệu trả l?i cho ngư?i đó, như vậy thì hóa giải rồi! Nếu khi ngư?i đó ‘kên’ bạn một cái mà bạn ‘kên’ lại h? thì sẽ có chuyện rắc rối. Cho nên nếu ngư?i đó nhìn bạn gật đầu mỉm cư?i thì đó là nh? thiện duyên đ?i quá khứ.
Cho nên nghiệp duyên phải hoá giải từ nội tâm, đây là đi?u mà chúng ta thư?ng nói đến, nhất định đừng chống đối gây mâu thuẫn với tất cả ngư?i và sự việc, đừng nên đối lập. Phải đem cái tâm niệm chống đối này hóa giải đi, đối xử bình đẳng và tương thân tương ái với nhau thì mới tốt. Hy v?ng m?i ngư?i lưu ý điểm này, nếu chúng ta gặp oan gia chủ nợ, chuyện này rất thư?ng xảy ra, nếu h? vô tình hay cố ý hủy báng hoặc sỉ nhục chúng ta, thậm chí mưu hại chúng ta, chúng ta phải hiểu rõ nhất định đừng sanh tâm sân hận, nhất định đừng khởi tâm muốn trả thù.
Phải h?c theo Phật! Quý vị có rất nhi?u ngư?i niệm kinh Kim Cang, trong kinh có nói đến chuyện Nhẫn Nhục Tiên Nhân bị vua Ca Lợi cắt thịt trên mình, đây là việc sỉ nhục và làm tổn thương vô cùng lớn lao. Nhưng Nhẫn Nhục Tiên Nhân có thái độ như thế nào? Không có một chút tâm niệm sân hận gì hết, nhẫn nhục ba la mật được thành tựu viên mãn. Không có một chút tâm niệm muốn trả thù nào hết, thì trì giới ba la mật được thành tựu viên mãn; vả lại ngài còn phát tâm trong tương lai khi thành Phật ngư?i đầu tiên phải độ là vua Ca Lợi thì bố thí ba la mật được thành tựu viên mãn. Chúng ta phải h?c những đức tánh này! Phần đông ngư?i ta không làm nổi những chuyện này; phần đông ai cũng sẽ sanh tâm sân hận và báo thù, như vậy thì sẽ có rắc rối lớn. Chuyện trả thù thì đ?i đ?i kiếp kiếp sẽ không bao gi? chấm dứt. Vì vậy không nên kết oán thù với ngư?i, nhất định phải hóa giải, không được kết oán thù với ngư?i.
Tuyệt đối đừng nên thiếu nợ ngư?i khác, phải nên thận tr?ng. Trong một đ?i này, nếu gặp ngư?i đến để đòi nợ thì nhất định phải trả! Khi kẻ ăn cướp đến giựt đồ, đến ăn cắp đồ của bạn, bạn bị tổn hại, tất cả phải nghĩ là mình trả nợ thì sẽ êm chuyện. H? ăn cắp đồ của mình thì có lẽ là đ?i quá khứ mình đã ăn cắp đồ của h? cho nên đ?i này h? lấy lại, lấy một trả một, chấm dứt nợ nần một cách vui vẻ. Cũng tuyệt đối đừng có tâm niệm muốn lợi dụng ngư?i khác. Tâm niệm lợi dụng là trộm cắp, tương lai cũng phải trả lại. Cho nên nếu bạn hiểu rõ sự lý của nhân quả báo ứng thì tâm bạn sẽ rất an lạc. Mỗi ngư?i trong đ?i này báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ đ?u có nhân lúc trước hết, [hiểu như vậy thì] bạn sẽ rất tự tại. Nếu như có nhi?u oan gia chủ nợ thì bạn cũng rất tự tại. Tại sao vậy? ??i này từng món nợ, từng món nợ bạn đ?u trả sạch trơn, đ?i sau khi gặp lại đ?u là bạn bè. Oán thù đã giải quyết xong, nợ nần cũng trả hết; ngư?i khác thiếu mình thì không cần đòi, đó là bố thí, càng thí thì phước báo càng lớn!
Hôm qua tôi ở ‘Tuyết Lê’ đã nói với các bạn đồng h?c rằng ngư?i đ?i nay tham ti?n và đ?u muốn phát tài. Tại vì mấy hôm trước tôi thấy một quảng cáo ở trên truy?n hình đài Phụng Hoàng nói rằng ‘Có trí thì sẽ có tài’. Câu nói này không đúng. Lúc tôi còn trẻ gặp nhi?u giáo sư rất nổi tiếng và rất thông minh tài gi?i nhưng lại rất nghèo! Nghèo đến mức ti?n mua sách cũng không có, h? là giáo sư nghèo. Cho nên l?i Phật dạy mới đúng: ‘Có [bố] thí thì mới có tài’; bố thí tài thì được giàu sang, càng bố thì thì càng giàu; bố thí pháp thì được thông minh trí huệ; bố thí vô úy (làm cho không lo sợ) thì được khoẻ mạnh sống lâu. Cho nên giàu sang, thông minh trí huệ, và khoẻ mạnh sống lâu đ?u có được nh? bố thí.
Bố thí là nhân! Bố thí tài vật là nhân, giàu sang là quả báo; bố thí pháp là nhân, thông minh trí huệ là quả báo; bố thí vô úy là nhân, kh?e mạnh sống lâu là quả báo. Cho nên một số đồng tu ở ‘Tuyết Lê’, có một số không phải là Phật tử, nhưng h? làm một việc tốt, đó là tổ chức một đoàn y tế [lưu động] đi Tây Tạng trị bịnh cư?m mắt cho dân chúng. H? nói bịnh cư?m mắt (bạch nội chướng, tức là chứng cataract) ở Tây Tạng rất nghiêm tr?ng, ngư?i bị bịnh rất nhi?u, tại vì ngư?i Tây Tạng cư trú ở trên núi cao, tia tử ngoại tuyến rất mạnh, cho nên ngư?i bịnh này rất nhi?u, rất phổ biến, nhi?u ngư?i bị bịnh đến nỗi bị mù luôn. H? tổ chức đoàn y tế này và đem theo máy móc tân tiến, nghe nói có hiệu quả rất cao mà lại tốn ít th?i gi?, chữa trị cho một ngư?i đại khái là mư?i mấy phút thì có thể giải phẫu xong, mà xác suất thành công cao khoảng 90%.
Th?i gian đoàn y tế này đến Tây Tạng chuẩn bị một tuần, chữa trị một tuần, tất cả gồm có 10 bác sĩ trong đó có 5 ngư?i là bác sĩ v? mắt và 5 ngư?i là bác sĩ tổng quát; ngoài ra còn có nhân viên y tá, tổng cộng 15 ngư?i, chúng tôi có dịp gặp mặt h?. ?ây thuộc v? bố thí vô úy, quả báo của bố thí vô úy là kh?e mạnh sống lâu. Hôm qua đại chúng m?i tôi nói chuyện, nói chuyện xong cũng nhận được không ít ti?n cúng dư?ng trong những phong bao đ?. Tôi đem hết số ti?n này cho đoàn y tế đi Tây Tạng. Thế thì m?i ngư?i đ?u tu bố thí vô úy, hy v?ng là m?i ngư?i đ?u kh?e mạnh sống lâu, như vậy thì rất viên mãn. ?ược rồi, chúng ta nói chuyện đến đây cũng đã viên mãn.
Trong quá trình chuyển ngữ chắc không tránh kh?i thiếu sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính cho.