Lòng anh em đừng xao xuyến,
Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
( Ga 14, 1 )


Viên Sỏi Trắng


Có người thanh niên yêu biển, chọn nghề hàng hải từ độ tuỗi thanh xuân để thỏa chí tang bồng. Chàng thủy thủ trẻ lấy biển khơi làm nhà, lấy trăng sao làm bậu bạn. Niềm vui của chàng là những chuyến hải hành vượt trùng khơi, không bến đỗ. Sóng gió, gian nan, phong ba hay bão tố vẫn không làm chùn bước, chàng vẫn miệt mài ra đi cùng năm tháng.

Thú tiêu khiển của người thủy thủ là những buỗi trời yên, chàng ngưng làm việc để lên boong tàu ngắm nhìn biển lặng. Có một buỗi chiều, đang lúc một mình ngắm cảnh hoàng hôn trên biển cả, người thủy thủ chợt nhìn thấy từ lòng biển sâu xuất hiện con thủy quái dị hình. Con kình ngư khổng lồ với chiếc đầu đen xì to lớn, lắc lư bơi về phía mạn thuyền nơi người thủy thủ đang đứng. Nó ngoác chiếc mồm rộng đỏ lòm, lỡm chỡm hàm răng nhọn hoắc, vừa bơi vừa giương đôi mắt nhồi sòng sọc nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống chàng. Hoảng hốt, người thủy thủ vội vả rời boong tàu, trốn chạy xuống lòng thuyền với nỗi sợ hải, hoang mang. Hình ảnh cái mồm rộng đỏ lòm, và nhứt là đôi mắt nhồi to lớn sòng sọc nhìn chàng, người thủy thủ không còn dám lên boong tàu để ngắm nhìn trời mây lồng lộng trong những hoàng hôn hay bình minh trên mặt biển, là những thú vị mà chàng hằng yêu thích.

Bẳng đi một thời gian, nhớ cảnh trời xanh sóng biếc với mây chiều lãng đãng, chàng thủy thủ lại lên boong, trèo lên cột buồm cao nhứt để ngắm nhìn biển xa, thì kìa, từ ngoài khơi con quái vật của trùng dương lại xuất hiện bơi về phía tàu, vẫn với đôi mắt sòng sọc nhìn chàng. Điều kỳ lạ, cả tàu chỉ có người thủy thủ nầy nhìn thấy con thủy quái, trong khi những người khác trên tàu không nhìn thấy gì cả ngoài nước biếc, sóng xanh. Rồi từ đó, mỗi khi lên boong, người thủy thủ nầy lại nhìn thấy con thủy quái dị hình bơi theo chiếc tàu của chàng đi khắp nẻo trùng dương.

Ngày lại ngày, người thủy thủ trẻ năm xưa đã vào tuỗi trung niên; bây giờ, chàng không còn là một thủy thủ vô danh, nhưng đã thành vị thuyền trưởng lão luyện dày dặn kinh nghiệm hải hành. Viên thuyền trưởng vẫn làm việc hăng say trên tàu ngang dọc khắp vùng biển cả, và con thủy quái ngày nào vẫn lẻo đẻo bơi theo tàu đi đây đó như người bạn trung thành.

Đến ngày kia, khi năm tháng đã dài, tuỗi đã cao, viên thuyền trưởng can trường không muốn nhìn thấy con thủy quái dị hình làm nặng lòng nữa, ông quyết định phải một phen chiến đấu sanh tử, một mất một còn với nó. Sau khi giao trọng trách và quyền hành thuyền trưởng cho người khác, ông rời tàu nhất quyết ra đi tìm gặp con thủy quái để chiến đấu trực diện tiêu diệt nó, hoặc nó sẽ ăn tươi nuốt sống ông.

Ông chọn thanh đao thật sắc và chiếc lao thật nhọn, cứng rắn nhứt rồi xuống chiếc thuyền con, rời tàu để một mình đi vào biển cả. Ông cứ đi như vậy cả một ngày mà chẳng thấy thủy quái đâu. Chiều đến, một mình trên vùng biển bao la, viên thuyền trưởng nản chí. Ông nóng lòng bước tới mủi thuyền rồi cất tiếng gọi to, mong con thủy quái nghe được mà xuất hiện. Quả thật, ông chờ đợi không lâu, thì từ xa chiếc đầu to lớn, đen xì của con quái vật trùng dương vừa nhô lên mặt biển, bơi vội vả về phía ông. Viên thuyền trưởng đứng yên thủ thế, lòng không hề nao núng.

Con quái vật bơi đến trước mủi thuyền, từ chiếc mồm to lớn lỡm chỡm răng nhọn, nó nói với thuyền trưởng :

- Chào ông thuyền trưởng, bấy lâu nay tôi theo đuỗi ông để tặng cho ông một món quà vì nghe tiếng ông can trường, mến tài ông thao lượt. Nhưng ông cứ né tránh tôi, mãi đến hôm nay ông đã già, và tôi cũng đã ít nhiều mệt mỏi. Vậy giờ đây, ông hãy buông vũ khí xuống, xòe tay ra để tôi tặng ông viên ngọc quí, là bảo vật có một không hai trên đời. Cầm viên ngọc nầy trong tay, ông sẽ nghe được tiếng nói của chim trời, cá nước; cả tiếng thì thầm của vũ trụ mà nghiệm lẽ nhiệm mầu sinh tử, tồn vong.

Nói xong, con thủy quái bơi đến trước mặt viên thuyền trưởng và nhả vào tay ông một viên ngọc tuyệt đẹp, rồi quẫy đuôi lặng mất xuống biển sâu sau khi gục gặc chiếc đầu to như lời từ giã.

Ít lâu sau, người ta tìm thấy trên vùng biển đó một chiếc thuyền con, trên thuyền có bộ xương khô lưng ngồi tựa mạn, mặt quay về hướng mặt trời, trong tay còn nắm chặt một viên sỏi tròn, trắng mịn, óng ánh xa cừ.

Tôi bước vào nhà nguyện, một không gian thật nhỏ, thật tỉnh lặng trầm lắng với ngọn đèn chầu lung linh trong góc nhà, báo cho biết có Chúa đang hiện diện nơi đây. Bồi hồi trong lần hạnh ngộ bất ngờ, tôi xúc động quay mặt đi không để vị linh mục nhìn thấy ngấn lệ rưng rưng. Còn lại một mình, tôi đến quì trước Nhà Tạm rồi phủ phục cúi chào Chúa Giêsu Thánh Thể như bao lần gặp gở thân quen.

Cuối tuần qua, tình cờ tôi nghe được bài thuyết giảng của mục sư Osteen, lời nhắc nhở cứ lặp đi lặp lại: Chúa luôn luôn đi trước chúng ta, Ngài biết chúng ta cần gì để giúp chúng ta vượt thắng nhanh hơn chúng ta tưởng. Vâng, Chúa đã đi trước tôi từ bao năm nay mà tôi nào biết. Ngài đã đến đây, âm thầm hiện diện trong Nhà Tạm đơn sơ kia, lặng lẽ chờ đợi tôi đến với Ngài vì Ngài biết trước, rất rõ, sẽ có ngày tôi khắc khoải tìm kiếm Ngài trong khắc nghiệt của giá buốt của mùa đông bên ngoài, và chao đão trong linh hồn tôi.

Giữa thế giới đảo điên, sự dữ trùng trùng vây bủa hầu nhận chìm để tiêu diệt con người, thì một Thiên Chúa Tình Thương vẫn âm thầm sống giữa chúng ta, trong hình bánh đơn sơ, đơn sơ đến độ bất cứ hào nhoáng nào của con người đều che mờ Thiên Chúa. Giữa những tiếng thét gào thách thức của sự dữ : Chúa của ngươi đâu, sao không cứu ngươi? Thì sự hiện diện âm thầm trong Thánh Thể, được nhìn thấy bằng tỉnh lặng của tâm hồn, là lời đáp trả hùng hồn : I will be with you ! Trở thành quả quyết cho niềm xác tín mạnh mẻ nơi những kẻ tin vào lời hứa không phai của Ngài.

Quì một mình lặng lẽ trước Nhà Tạm, tôi nhận rõ hơn sự hiện diện của Đấng Hằng Hữu tại nơi nầy, hôm nay, rất riêng cho tâm hồn tôi. Tôi tìm đến Ngài, trú ẩn bên Ngài, xin Ngài chiếm hữu tâm hồn tôi là một bình an tuyệt đối, khi sự dữ vẫn như con quái vật trùng dương, Con Thú của vực thẳm vô hình vẫn hoành hành trên khắp cùng thế giới. Chưa bao giờ thế giới cần đến một Thiên Chúa Tình Thương bằng thế giới hôm nay.Tiếc thay, gương mặt nhân lành của Đấng là Tình Thương đó đã bị che mờ, hoặc bị làm cho méo mó bằng nhiều lý do, đến độ người ta không nhận ra Ngài, hay không muốn nhận biết Ngài là Thiên Chúa vô cùng yêu thương loài người. Ngài, Đức Giêsu Kitô, Chúa của tôi, Đấng đã đến với loài người để giải thoát họ khỏi quyền lực sự dữ đang khống chế, lên án, chà đạp để tiêu diệt con người.

Sự dữ, quỉ quyệt và dối trá, không đến từ Thiên Chúa; vì Đấng trung tín và chân thành thì không thể nào là kẻ bịp bợm đánh người tay mặt, đở người tay trái. Nhưng Đấng Thành Tín đó đã bước đi trọn kiếp người gian nan, cùng sẻ chia những thống khổ với con người bằng mối cảm thông trong Tình Thương tuyệt đối đến chết cho họ. Ngài cũng đã không dừng lại ở cái chết, nhưng đã Phục Sinh để những người phải chết được tái sinh trong Sự Sống vô cùng của Thiên Chúa. Giáo lý của Đức Kitô đẹp quá, vô song vì không có một giáo lý nào tái sinh con người như ở nơi Ngài.

Sự Sống là ơn ban quí giá, trong Đức Kitô Sự Sống đó còn lớn lao hơn nữa vì được bắt đầu bằng Sự Sống Lại dẫn đến Sự Sống thật vô biên từ Ơn Cứu Độ vô cùng. Trong tay Chúa sự dữ trở nên lành, thì Sự Dữ dù hung hãn đến đâu cũng chỉ là những viên sỏi lót đường cho lối đi tiến vào Sự Sống vĩnh cửu, được dưỡng nuôi bằng Manna Hằng Hữu cho con người được sống lại và được sống dồi dào trong thế giới hỗn loạn hôm nay.


Nam Hoa