CHUYỆN BÀI HÁT "SILENT NIGHT"



Silent night, holy night
All is calm, all is bright
Round yon Virgin Mother and Child
Holy infant so tender and mild
Sleep in heavenly peace
Sleep in heavenly peace

Silent night, holy night
Shepherds quake at the sight
Glories stream from heaven afar
Heavenly hosts sing Alleluia!
Christ, the Saviour is born
Christ, the Saviour is born


Năm 1817 cha Joseph Mohr mới 25 tuổi được bổ nhiệm làm cha phó nhà thờ Thánh Nicholas ở miền Oberndorf nước Áo. Cậu Mohr ngay từ thuở thiếu thời đã say mê âm nhạc và phụ trách ca đoàn tại một nhà thờ nhỏ. Có lúc cậu đã sáng tác thơ và đặt lời cho các bài ca trong các nghi lễ đặc biệt tại giáo đường. Khi trở thành linh mục, cha Mohr làm việc không biết mệt mỏi trong các công tác từ thiện phục vụ thanh thiếu niên con các gia đình nghèo khó trong vùng.

Mùa đông năm 1818, cha Mohr đang tận lực sửa soạn cho xong thánh lễ giáng sinh, nghi lễ mà cha đã hoạch định trước cả tháng. Mọi thứ đều đã xong xuôi, từ bài giảng cho đến bài hát. Nhưng lúc cha dọn dẹp thánh đường mới khám ra một trở ngại tưởng chừng không thể khắc phục nổi: đó là chiếc phong cầm của nhà thờ đã bị hư. Nóng ruột, cha lui cui hàng giờ đánh vật với hàng phím, với bàn đạp của chiếc đàn, có lúc bò cả ra phía sau để mong tìm ra chỗ hư hỏng. Bất chấp mọi nỗ lực của cha, chiếc đàn vẫn ỳ ra không lên tiếng, im lặng chẳng khác cái im ắng của một đêm đông giá lạnh.

Thấy không thể làm gì hơn được, vị linh mục ngừng lại và cầu nguyện. Cha cầu xin Chúa cho cha có một giải pháp nào để đem được âm nhạc đến với giáo dân trong ngày lễ ý nghĩa nhất trong năm. Có lẽ cha đã tìm được đáp trả cho lời cầu nguyện, nó có gốc gác từ sự việc đã xảy ra trước đây gần hai năm.

Năm 1816, lúc phục vụ tại một thánh đường ở Mariapfarr, cha Mohr viết một bài thơ Giáng sinh. Bài thơ gồm 6 khổ, cha cảm hứng sáng tác trên đuờng đi bộ từ nhà ông nội đến nhà thờ. Tuy có cho vài người bạn xem bài thơ, nhưng cha chưa bao giờ nghĩ đến chuyện phổ biến hoặc có ý đem ra phổ nhạc. Khi đổi đến xứ đạo Oberndorf, cha mang theo bài thơ cùng với một số vật dụng ít ỏi của mình.

Tìm lại được bài thơ “Still Nacht! Heilige Nacht!”, cha đọc lại những gì mình đã viết hai năm trước. Lâu nay, những vần thơ đó không mấy quan trọng đối với cha, nhưng lúc này đọc lại, cha thấy dường như Chúa đã cho cha một tia hy vọng. Bỏ bài thơ vào túi áo cha vội vã ra khỏi nhà. Chỉ còn vài giờ nữa là thánh lễ nửa đêm bắt đầu, vị linh mục băng qua những đường phố đầy tuyết phủ.

Cũng vào buổi chiều hôm đó, Franz Gruber, nguời giáo viên làng 31 tuổi đang co ro trong căn phòng nhỏ bên cạnh trường học. Mặc dầu đã theo học phong cầm với giáo sư nổi tiếng Georg Hardobler, Gruber cũng chỉ chơi đàn cho nhà thờ St. Nicholas nhỏ bé. Đang miên man với mấy nốt nhạc trên chiếc đàn thì ông ngạc nhiên nghe tiềng gõ cửa và thấy cha Morh bước vào. Ông nghĩ thầm giờ này thì cha đáng lẽ phải ở nhà thờ sửa soạn làm lễ, giờ đâu rảnh mà dạo quanh thăm viếng bạn bè.

Sau câu chúc mừng giáng sinh vội vã, vị linh mục hối hả kéo ông giáo làng tới chiếc bàn nhỏ trong phòng và ra dấu bảo ngồi cạnh mình. Bằng giọng nói rõ ràng là nản chí, cha kể cho ông nghe nỗi khó khăn trước mặt. Sau khi bảo Gruber rằng chiếc đàn không thể sửa được, cha liền đem bài thơ ra và nói:

- Franz, anh xem có thể viết nhạc cho bài thơ này để ca đoàn hát đuợc không? Không có đàn thì ta chơi guitar vậy.

Rồi vị linh mục đưa mắt nhìn đồng hồ trên bàn, nói thêm: Không còn nhiều giờ nữa đâu.

Đọc kỹ bài thơ, Gruber gật dầu. Anh mắt và nụ cười của ông chứng tỏ ông chấp nhận thử thách đó. Tin tưởng là Chúa đã sắp đặt mọi sự, cha Mohr vội vã băng qua những đường phố ngập tuyết trở về nhà thờ, bỏ lại Gruber một mình ngồi đó với bao nhiêu ý tưởng, trước một chiếc đồng hồ đang tích tắc kêu và một lời cầu mong xin tìm ra hứng khởi.

Mấy tiếng đồng hồ sau hai người gặp nhau tại nhà thờ. Trong ngôi thánh đường có ánh đèn tỏa sáng, Gruber đưa cho vị linh mục coi bản nhạc của mình. Linh mục chấp thuận, dùng đàn guitar gảy lên những nốt nhạc rồi vội vã chuyển cho ca đoàn đang chờ đợi tập dượt. Công trình tưởng chừng phải mất cả tuần lễ thì nay chỉ cần mấy tiếng đồng hồ là xong. Không có nhiều thời giờ tập dượt, cha Mohr và Gruber chỉ dạy được cho ca đoàn phần hòa âm bốn giọng của mỗi hai câu thơ cuối.

Trong thánh lễ nửa đêm, cha Mohr và Gruber đứng trước bàn thờ giới thiệu bản nhạc nhỏ bé và giản dị của hai người. Họ đâu ngờ rằng “Still Nacht! Heilige Nacht!” không chỉ sẽ được nhớ tới vào ngày Giáng sinh năm sau trong ngôi làng bé nhỏ của họ mà còn sẽ được hát trên khắp thế giới vài trăm năm sau nữa.

Mấy tuần lễ sau ngày tết dương lịch, anh chàng Karl Mauracher chuyên chế tạo và sửa đàn phong cầm ngụ tại vùng thung lũng Ziller đến nhà thờ St. Nicholas để sửa đàn cho cha Mohr. Trong lúc anh chàng lui cui sửa chữa, cha Mohr đem câu chuyện cha đã dùng đàn guitar để chơi một bản nhạc phổ bài thơ cũ để cứu vãn đêm giáng sinh vừa qua. Cha hát cho anh chàng này nghe, tin tưởng là Chúa đã nghe lời cha nguyện cầu. Thích thú với bản nhạc, anh chàng Karl lấy giấy ghi lại lời ca và học thuộc lòng các nốt nhạc. Những năm sau, theo nghề nghiệp phải đi đây đi đó, anh giới thiệu bản nhạc này với nhiều đô thị và thánh đường.

Vào thế kỷ 19, nước Áo và nước Đức có nhiều nhạc sĩ du ca. Mỗi nhóm du ca thường gồm các thành viên trong gia đình. Họ không chỉ hành nghề ca hát mà còn làm những việc khác để có tiền chi dụng trong khi di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Năm 1832, nhóm du ca của gia đình Stasser xuất hiện tại một cộng đồng nhỏ nơi anh chàng Mauracher đang lắp đặt một chiếc phong cầm. Trong thời gian ở đó, nhóm du ca này học được bài “Still Nacht!”. Mấy tuần sau, tại một buổi trình diễn tại Leipzig, họ trình bày bản “Still Natch!” trước đám đông thính giả đến xem hội chợ. Nhận thấy bản nhạc này mang một sứ điệp tinh thần sâu xa, hoàng đế nước Áo William IV truyền cho ca đoàn nhà thờ chính toà của ông hát bản nhạc này trong lễ giáng sinh hàng năm. Một phần cũng vì lòng ưu ái đó của nhà vua mà nhạc bản này lan tràn ra khắp miền đông Âu rồi tràn qua Anh quốc.

Tháng 12 năm 1839 một nhóm du ca khác thuộc gia đình Rainer tới Nữu Ước. Bản “Still Natch!” bằng Anh ngữ có trong chương trình biểu diễn của họ (Silent Night!) trước một cử tọa rất đông tại thánh đường Chúa Ba Ngôi. Bản nhạc trở thành phổ thông và được rất nhiều ca đoàn hát trong các nhà thờ. Vào thời kỳ nội chiến ở Mỹ, bản nhạc “Silent Night” trở thành bài ca giáng sinh phổ biến nhất. Trong trận chiến giữa hai miền nam bắc, không hiếm thấy cảnh ngưng chiến 4 ngày trong dịp lễ giáng sinh, binh sĩ giữa hai miền thù nghịch cùng buông súng, tụ họp lại để dự lễ, đọc Thánh kinh, chia sẻ quà cáp, và cùng ca bài “Silent Night”.

Bài hát càng được phổ biến thì nguồn gốc xem ra càng bị phân tán. Nhiều nhà xuất bản gán cho tác giả bản nhạc này là một trong các nhạc sĩ đại tài như Bach, Beethoven hoặc Handel. Mãi tới khi Franz Gruber gửi tới các báo và các nhà xuất bản bản tờ phổ nhạc của mình thì nguồn gốc đích thực mới được công nhận. Mặc dầu vậy, nhiều giai thoại về lời ca của bản nhạc vẫn còn truyền tụng.

Cha Mohr qua đời trong cảnh nghèo khó vào năm 1848 trước khi được công nhận là tác giả bài thơ đuợc phổ nhạc. Cha mất nên không thể chứng minh câu chuyện, do đó mới có truyền thuyết kể rằng bài thơ đã đuợc viết ra vội vã sau khi khám phá thấy rằng chuột đã cắn hại chiếc phong cầm. Thực ra là chiếc đàn đã quá cũ và bị hư hại vì thời tiết quá lạnh. Truyền thuyết xem ra có vẻ tiểu thuyết hơn là sự thực ấy thế mà lại được nhiều người công nhận.

Vào cuối thập niên 1800, bản “Silent Night” đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau và là nhạc bản không thể thiếu trong các lễ hội giáng sinh trên khắp thế giới. Sang thế kỷ 20, bản nhạc này theo với tập tục mừng giáng sinh, đã đi ra khỏi các giáo đường, nhập hội với các tập tục giáng sinh khác.

Vào năm 1905 bản nhạc Silent Night được thu âm lần đầu tiên do ban nhạc Haydn Quartet. Đó mới chỉ là khởi đầu, sau đó bản nhạc đã đuợc thâu âm cả ngàn lần do các ban nhạc khác nhau trên khắp thế giới. Tới năm 1960, Silent Night đuợc công nhận là bản nhạc được ghi âm nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc.

Mặc dầu với tính cách phổ thông như vậy, trong tâm trí nhiều người, bản Silent Night được viết ra lúc khởi đầu chỉ là một nhạc bản giản dị, một khúc ngợi ca. Được sáng tác để làm cho nghi thức giáng sinh có ý nghĩa hơn, bản nhạc cũ này vẫn còn mạnh mẽ và dịu mát như lần đầu tiên được hát lên trong ngôi thánh đuờng nhỏ bé nơi nước Áo xa xôi. Như một lời cầu xin được đáp ứng, Silent Night chỉ với mấy câu thơ ngắn ngủi cũng đủ mô tả được câu chuyện giáng sinh của Đấng Cứu Thế trong máng cỏ nghèo nàn.


Phạm Hoàng Nghị
(Sưu tầm theo Ace Collins)