Tình Yêu và Trách Nhiệm: Bài 1 - Nền Tảng của Tình Bạn


Làm sao một linh mục độc thân có thể dạy về tình yêu, phái tính, và sự liên hệ nam nữ?

Đó là câu hỏi mà một linh mục người Ba Lan, Cha Karol Wojtyla, đã đề ra trong lời mở đầu của cuốn sách “Tình Yêu và Trách Nhiệm” mà Cha xuất bản năm 1960. Đây là cuốn sách nói về luân lý phái tính và là kết quả của nhiều năm sinh hoạt với giới trẻ của Cha ở đại học Krakow, 18 năm trước khi Cha trở thành Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Trong thời gian làm linh hướng cho nhiều thanh niên thiếu nữ và các cặp vợ chồng trẻ đang phải vật lộn giữa tình yêu và tính dục, Cha Wojtyla đã có thể rút từ họ nhiều kinh nghiệm về cá tính, quan hệ, và hôn nhân mà một giáo hữu trung bình không thể có được. Tình Yêu và Trách Nhiệm là kết quả của các kinh nghiệm mục vụ cũng như những suy tư thần học về tình yêu, phái tính và hôn nhân của Cha.

Một Đại Tác Phẩm

Sách Tình Yêu và Trách Nhiệm cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về các liên hệ nam nữ thật sự có khả năng thay đổi cuộc đời, và rất cần thiết cho thời nay. Lớn lên trong thời Hậu Cách Mạng Tính Dục, giới trẻ ngày nay đói khát những tư tưởng khôn ngoan có thể hướng dẫn các em trong những quan hệ nam nữ. Dù là độc thân, đang hứa hôn hay đã lập gia đình, chúng ta không những sẽ tìm thấy trong sách Tình Yêu và Trách Nhiệm một cái nhìn hoàn toàn khác hẳn với cái nhìn của thế gian, nhưng cũng là một cái nhìn có ảnh hưởng tích cực đến cách chúng ta liên hệ với nhau.

Trong những bài ngắn này, chúng tôi có một mục đích khiêm tốn là làm cho những kiến thức trong tác phẩm triết học phức tạp này trở nên dễ hiểu đối với bạn đọc, và thêm vào đó những suy tư của riêng chúng tôi, với hy vọng giúp ích cho độc giả trong khi đọc về quan điểm của Đức Thánh Cha về tình yêu và phái tính, cùng áp dụng nó vào đời sống cá nhân của mình.

Nguyên Tắc Cá Nhân

Công tác chính của Đức Thánh Cha trong Tình Yêu và Trách Nhiệm là trình bày cái mà ngài gọi là “Nguyên Tắc Cá Nhân”. Nguyên tắc căn bản về các liên hệ giữa người với người là “một người không thể chỉ là phương tiện để người khác sử dụng để đạt được mục đích của họ” (trang 26). Nói cách khác, chúng ta đừng bao giờ đối xử với người khác như những dụng cụ để chúng ta đạt được mục đích của mình.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích rằng con người có khả năng tự định đoạt chứ không chỉ hành động theo bản năng và nhu cầu như súc vật. Nhờ lý trí, con người biết tự mình suy nghĩ và chọn lựa cách hành động của mình, và xác định cho thế giới bên ngoài biết “nội tâm của mình” qua những chọn lựa của mình. Đối xử với người khác như một dụng cụ để đạt được mục đích riêng là xúc phạm đến nhân phẩm của người ấy như một người có quyền tự quyết (Xem trang 26-27).

Yêu Thương hay Sử Dụng?

Điều làm cho chúng ta khó mà sống được theo nguyên tắc này là tinh thần của thuyết vị lợi đang làn tràn khắp nơi trong xã hội hiện đại. Theo quan điểm của thuyết này thì việc hay nhất của một người là làm điều gì có lợi nhất cho mình. Và điều lợi nhất là làm cho tôi được sung sướng cùng thoải mái càng nhiều càng tốt bằng một nào cách đỡ khổ cực nhất. Người ta thừa nhận và nhấn mạnh rằng con người được hạnh phúc là nhờ khoái cảm. Cho nên tôi phải luôn theo đuổi những gì đem lại cho tôi sự thoải mái, lợi ích, bổng lộc, và tránh những gì làm tôi đau khổ, bất lợi hay thua thiệt.

Cái nhìn vị lợi này ảnh hưởng đến cách chúng ta liên hệ với nhau. Nếu mục đích chính của đời tôi là theo đuổi thú vui, thì tôi sẽ cân nhắc những chọn lựa dựa theo tiêu chuẩn là chúng làm cho tôi vui nhiều hay ít. Cho nên nhiều người thời nay, kể cả nhiều Kitô hữu tốt, đánh giá một mối liên hệ dựa theo tiêu chuẩn là người kia ích lợi cho tôi thế nào trong việc đạt được mục đích của tôi, hoặc tôi được “vui thú” bao nhiêu khi gần người ấy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói rằng một khi chúng ta đồng ý với những thái độ vị lợi này, chúng ta bắt đầu coi người khác trong cuộc đời mình như những vật dụng được dùng để làm ta vui thích (trang 37).

Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao ngày nay nhiều liên hệ bạn bè, “bồ bịch”, và ngay cả hôn nhân, quá mỏng dòn và rất dễ đổ vỡ. Nếu tôi đánh giá một người phụ nữ chỉ dựa theo việc nàng có lợi cho tôi hay tôi có tìm được những khoái cảm khi gần nàng hay không, thì liên hệ này không có nền tảng. Khi nào tôi cảm thấy không còn vui thú hay không còn có lợi khi gần nàng, hoặc tôi thấy một người phụ nữ khác có lợi cho tôi hay làm cho tôi thích thú hơn, thì nàng không còn giá trị gì đối với tôi. Quan niệm này quá khác biệt với nguyên tắc cá nhân và còn khác hẳn với sự liên hệ của tình yêu chung thủy.

Tình Yêu và Tình Bạn

Trong khi bàn về tình yêu, Đức Thánh Cha đã nói đến ba loại tình bạn. Theo Aristotle thì có ba loại tình bạn dựa theo ba thứ tình cảm nối kết con người với nhau.

Trước hết là tình bạn vị lợi, là lọai tình cảm dựa vào ích lợi hay việc dùng bạn bè trong sự liên hệ này. Mỗi người đều được một vài ích lợi nào đó từ tình bạn này, và mối lợi mà cả hai bên có đuợc từ liên hệ này là mối dây nối kết hai người. Thí dụ ông Công có một hãng xây cất ở Houston. Ông làm bạn với ông Đinh ở San Francisco vì ông Đinh bán cho ông Công một loại đinh đặc biệt với giá rẻ để xây nhà. Vì chuyện làm ăn, hai người thăm viếng nhau một năm hai ba lần, nói chuyện trên điện thoại và gửi điện thư cho nhau thường xuyên. Sau nhiều năm làm ăn với nhau, họ biết rõ gia đình cùng hoàn cảnh của nhau, và trở nên bạn thân. Nhưng điều làm hai người gắn bó với nhau chính là mối lợi mà họ nhận được từ tình bạn này.

Thứ hai là tình bạn dựa trên những niềm vui mà hai bên nhận được từ nhau. Một người coi bạn mình như người làm cho mình vui thích. Có thể hai người cùng thích một môn thể thao, một loại món ăn, một thứ âm nhạc, đi chơi cùng một nơi, hay thích đến cùng một hộp đêm…. Hai người có thể thật sự lo lắng và quan tâm cho nhau, nhưng điều nối kết hai người lại với nhau chính là niềm vui mà hai người nhận được khi gần gũi nhau.

Nền Tảng Mong Manh

Aristotle ghi nhận rằng tình bạn dựa trên ích lợi hay niềm vui là những tình bằng hữu căn bản, nhưng chưa hoàn toàn. Những tình bằng hữu ấy chưa hẳn đã là xấu, nhưng chúng rất mong manh và khó bền lâu được. Với thời gian, một người có thể đổi nghề và tình bạn không còn mang lại lợi ích cho nhau nữa. Thí dụ ông khi Công bỏ nghề xây cất, không còn mua đinh của ông Đinh nữa thì hai người sẽ bớt liên lạc với nhau, và tình bạn sẽ từ từ phai nhạt. Cũng thế, trong tình bạn vui chơi, nếu một người đổi sở thích hoặc di chuyển đi một nơi khác, hai người sẽ không còn gặp nhau thường xuyên, họ phải tìm bạn khác, và dần dần tình bạn cũng lạt đi. Đó là lý do tại sao tình bạn của giới trẻ thay đổi thường xuyên vì hoàn cảnh và sở thích của họ thay đội.

Tình Bạn Đoan Chính

Theo Aristotle, loại tình bạn thứ ba là tình bạn hoàn toàn nhất. Có thể được gọi là tình bạn đoan chính vì hai người kết bạn với nhau không phải vì tư lợi hay thú vui mà vì cùng theo đuổi một mục đích: “Một đời sống tốt lành”, một đời sống đạo hạnh trong nhân đức. Trong hai loại tình bạn kia, người nào cũng tìm một lợi ích nào đó cho mình, còn trong tình bạn đoan chính, hai người theo đuổi một điều gì ngoài mình, và vượt trên những tư lợi. Chính lợi ích cao thượng này nối kết họ lại với nhau trong tình bạn của họ. Cùng nhau cố gắng sống một cuộc đời tốt đẹp và khuyến khích nhau trên đường nhân đức, người bạn thật không để tâm đến việc mình được ích lợi gì qua tình bạn, mà để tâm đến điều gì tốt nhất cho bạn mình và cho việc cùng bạn theo đuổi một đời sống nhân đức.

Điều Gì Củng Cố hay Làm Hỏng Tình Bằng Hữu

Từ những nền tảng trên, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ cho chúng ta một phương thức để giúp cho tình bạn của chúng ta khỏi rơi vào thuyết vị lợi. Ngài nói rằng chỉ có một cách duy nhất để con người không lợi dụng nhau là cùng nhau theo đuổi công ích, như trong tình bạn đoan chính. Khi một người thấy điều gì tốt cho tôi, và người ấy coi như điều ấy cũng tốt cho mình, “một mối liên hệ đặc biệt được thiết lập giữa tôi và người ấy: mối dây liên hệ về công ích và mục đích chung” (tr. 28). Mục đích chung này liên kết con người lại với nhau tận đáy lòng. Khi chúng ta không để ý đến công ích trong liên hệ với người khác, chúng ta không thể tránh khỏi việc dùng người khác như phương tiện phục vụ mục đích riêng của mình.

Đặc biệt là trong hôn nhân, thường chúng ta dễ theo ý riêng, bắt chồng (hay vợ) và con cái làm theo chương trình, ý muốn và dự tính của mình. Nhưng theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, thì tình bạn chân chính, đặc biệt là trong hôn nhân, phải đặt một mục đích chung lên trên, và mục đích chung bao gồm sự kết hợp giữa hai vợ chồng, việc vợ chồng phục vụ lẫn nhau và giúp nhau nên thánh, sinh sản và dạy dỗ con cái.

Sở thích và dự tính riêng của mỗi người phải lệ thuộc vào lợi ích chung này. Hai vợ chồng phải tùng phục và nhường nhịn nhau vì ích lợi của con cái. Phải cố gắng đừng để cho chủ nghĩa cá nhân ích kỷ xâm nhập vào hôn nhân. Hai vợ chồng phải cùng nhau hành động nhắm đến mục đích chung này, và phải tìm cách dùng thì giờ, nghị lực, và tài nguyên để đạt được các mục đích chung của hôn nhân.

Đức Thánh Cha giải thích rằng việc hai vợ chồng kết hợp với nhau trong công ích này bảo đảm rằng người này sẽ không bị người kia sử dụng hay bỏ rơi. “Khi hai người khác nhau cùng nhau chọn một mục đích chung cách ý thức, đìều này đặt họ ngang hàng với nhau, và tránh được việc một người phải phục tùng người kia. Cả hai… đều lệ thuộc vào điều tốt lành mà họ chọn làm mục tiêu chung” (tr. 28-29).

Không có một mục tiêu chung này, mối dây liên hệ của chúng ta sẽ rơi vào tình trạng một người sẽ lợi dụng người khác để thủ lợi hoặc tìm thú vui. Trong những bài kế tiếp, chúng tôi sẽ trình bày tầm quan trọng của những điểm nền tảng này trong việc phải xử sự ra sao với những sự thu hút về tình cảm và thể lý mà chúng ta thường gặp phải khi đương đầu với những người khác phái.

-----------------------------------------------

Viết theo bài Getting It Right: The Foundation of Friendship, Edward P.Sri từ báo Lay Witness Magazine, Jan/Feb 2005


Phaolô Phạm Xuân Khôi