-
Moderator
Q- Quán trọ Cây Thầu Dầu
Truyện ngắn: Quán Trọ Cây Thầu Dầu
Quán trọ Cây Thầu Dầu, Nguyễn Trung Tây
Quán trọ Cây Thầu Dầu nói về một ngôi nhà trọ và những sinh hoạt bất thường của thôn làng Bethlehem vào đêm 24 tháng 12 năm đó. Hồi đó người ta đồn rằng, “Thầu dầu mọc giữa tháng Ba, Là điềm ấu chúa sinh ra thái bình”. Cây thầu dầu đã mọc rồi, hơn một năm rồi, nhưng thái bình vẫn chưa xuất hiện. Trong khi đó, những người hồi xưa đã bỏ đi, bây giờ từ bốn phương trời cứ tấp nập kéo về đe dọa tới đời sống vốn đã thanh bình ngàn năm của dân làng. Cách uống rượu như uống nước, đốt tiền như đốt giấy vụn của những người khách không mời mà tới khiến hương chức trong làng lo sợ cho số phận của những thiếu nữ ngây thơ mới lớn, những người đàn bà nhẹ dạ cả tin… Chung cuộc rồi sẽ ra sao?
...Hơn một tháng rồi, bao nhiêu quán trọ của thị trấn Bethlehem, đặc biệt quán trọ Cây Thầu Dầu bỗng trở nên tấp nập với những người khách từ khắp nơi trên thế giới giờ này phải quay về nguyên quán bởi lệnh kiểm tra dân số trong toàn đế quốc Rôma của hoàng đế Caesar Augustus mới ban hành.
Hơn bốn tuần rồi, cứ liên tục như thế, từ sáng tới chiều, từ chiều tới nửa đêm, những quán rượu và những quán đặc sản nổi tiếng của Bethlehem gồm có món bánh mì chấm nước sốt thịt chiên hầm với rượu vang không ngớt những bước chân rộn ràng của những khuôn mặt lạ. Những người khách này nguyên gốc đều là người Do Thái, nhưng có người nói tiếng Do Thái pha với giọng mũi nghèn nghẹt của tiếng Hy Lạp hoặc giọng cổ vướng nghẹt của tiếng Ba Tư, có người chỉ nói tiếng La Tinh âm giọng riu rít như chim hót, nhiều người không đọc được bảng tên chỉ đường ngoại trừ ngọng nghịu câu chào trong tiếng Do Thái: Shalom. Nhưng thật ra, tất cả những người khách lạ mặt không mời mà tới này đều có liên hệ mật thiết với thị trấn Bethlehem, bởi họ có tổ tiên đang an nghỉ tại những ngôi mộ đá đục sâu trong núi. Mặc dù những người đàn ông này xuất hiện với nhiều mầu da, khác tiếng nói, họ đều chia sẻ chung với nhau ba đặc điểm nổi bật; thứ nhất, mặt lúc nào cũng đỏ bởi rượu vang; thứ hai, mở miệng ra là chửi tục; thứ ba, họ không đi tới hội đường Do Thái vào ngày thường cũng như ngày Sabbath để hát thánh vịnh ngợi ca Giavê, Đấng Tự Hữu, nhưng nằm ngủ thẳng cẳng cho tới mười hai giờ trưa mới mò dậy.
Chui ra khỏi giường, những người khách không làm chi hết, nhưng bước thẳng tới quán rượu. Nhậu xong, uống xong, những người đàn ông không về quán trọ, nhưng lại dẫn nhau đi ra giếng nước đầu làng, vốc nước lạnh uống cho bớt những cơn say. Trên đường đi tới giếng nước, họ vừa đi vừa nhổ xoèn xoẹt nước miếng và những cục đờm xuống mặt đường. Có người gục ngay bên lề, miệng nôn thốc nôn tháo, mùi ói tanh lờm lợm. Có người cất giọng hát, những bài hát với lời lẽ không trai gái lẳng lơ thì cũng dâm dục tục tĩu, âm thanh phát ra từ cuống họng nghe bền bệt bởi hơi thở nặng nề sặc sụa mùi rượu vang.
Bởi những người khách lạ mặt này, thôn làng Bethlehem tự động tách ra làm hai phe, một phe chống đối, một phe cổ võ.
Phe chống đối gồm có thầy Rabbi Daniel và hội đồng hương chức trong làng cùng với những bà mẹ của thị trấn. Đặc biệt từ ngày có những người khách lạ mặt lai vãng, phụ nữ trong thôn trở nên dè dặt và ngần ngại khi phải đi ra giếng nước đầu làng. Và nếu họ phải đi ra giếng bởi trong nhà nước đã cạn khô, thay vì sáu giờ chiều như thường lệ, những người phụ nữ hẹn hò với nhau, đúng vào lúc mặt trời chiều tà nghiêng bóng chỉ xuống con số năm, tất cả cất bước tới cổng làng nơi có cây thầu dầu lẻ loi vươn cao làm điểm hẹn. Dưới sự hướng dẫn của vợ thầy Rabbi Daniel, tất cả rồng rắn dẫn nhau đi ra giếng. Xong xuôi đâu đó, họ lại dẫn nhau đi về. Sau khi nhận ra mọi người đã bước hẳn qua cổng về lại đất làng với bình sành đựng nước trĩu nặng trên đầu, vợ thầy Rabbi mới ra hiệu giải tán cho ai về nhà nấy.
Phe cổ võ bao gồm phần lớn những ông chủ quán của những quán rượu, quán ăn, và quán trọ của thôn Bethlehem. Mà cũng khó trách những người kinh doanh buôn bán ở trong thôn. Những quán trọ của thôn làng bình thường không rộn ràng bóng người, giờ này bỗng dưng hóa ra không còn một căn phòng nào trống. Quán trọ nào cũng treo bảng “Hết” hoặc “Không còn chỗ”. Đặc biệt nhất là tại những quán rượu vang và quán đặc sản, lúc nào hai địa điểm này cũng rộn ràng tiếng cười tiếng nói. Một tháng rồi, những ông chủ quán hớn hở vui tươi ra mặt bởi mối hoạnh tài bất ngờ do khách hàng mang tới. Những người khách phải quay về thôn làng Bethlehem theo lệnh kiểm tra dân số không hiểu tại sao ai cũng giàu có. Có nhiều người còn xách theo trong mình những đồng tiền bạc khắc hình hoàng đế Alexander và nhiều đồng tiền vàng khắc hình hoàng đế Caesar Augustus. Một ngôi nhà xập xệ tệ nhất trong thôn cũng trị giá ngót nghét một trăm đồng tiền bạc. Ngôi nhà mắc nhất nằm ở cuối thôn chính là hội đường Do Thái mang tên của vị đại ngôn sứ Isaiah với hơn năm trăm ghế ngồi trị giá xấp xỉ trên dưới mười ngàn đồng tiền vàng Caesar. Thế mà những người khách khi bước vào quán rượu, họ quẳng ra bàn cả một đống tiền vàng mang hình Caesar Augustus. Có tiền là một chuyện, họ đốt tiền bạc như đốt than củi để sưởi ấm vào tháng Mười Hai giá rét lại là một chuyện khác. Nếu ưng ý được lòng khách, bồi bàn của quán ăn, quán rượu, và quán trọ có thể nhận được một đồng tiền thưởng bằng bạc mang hình đại hoàng đế Alexander.
Cho nên không lạ chi, ngoại trừ thầy Rabbi Daniel, hội đồng hương chức, và phụ nữ của thôn làng, phần lớn những người đàn ông trong làng Bethlehem đều hoan hỉ vui tươi với lệnh kiểm tra dân số. Mà cũng khó trách tại sao thầy Rabbi Daniel và những cụ hương chức trong làng e ngại xóm làng sẽ bị vẩn đục bởi những người khách. Làng Bethlehem từ bao lâu nay không chỉ nổi tiếng về những món đặc sản bánh mì và rượu vang, di tích lịch sử, mà còn về những nét đẹp và tiết hạnh của những người phụ nữ. Thiếu nữ Bethlehem vẫn hằng năm được quan thái giám trong triều tuyển chọn để cống vua. Cứ mười hoàng phi trong hoàng cung, thông thường đã có hai người đến từ thôn Bethlehem của xứ Judea. Nổi tiếng đẹp là một chuyện, công dung ngôn hạnh của thiếu nữ Bethlehem cũng không chịu thua kém. Lời đồn bay xa trong miền Judea rằng phụ nữ Bethlehem không bao giờ tái giá bởi tin rằng gái chính chuyên chỉ có một chồng. Cho nên không ai lạ chi từ bao lâu nay, người trong làng chưa bao giờ phải nhặt bất cứ một cục đá sắc nhọn nào để ném chết những người con gái trong cuộc đời đã có một giây một phút lỡ lầm nhẹ dạ. Bởi thế những dòng máu đỏ của thị trấn cũng chưa một lần được dịp đổ xuống nhuộm đỏ đất đen trước cổng làng. Cổng làng, chỗ mọc cao một cây thầu dầu từ tháng Ba năm ngoái, đất vẫn đen thơm mùi đất lành, đá vẫn sạch không vương mùi tanh máu đỏ. Người trong thôn vẫn thường hãnh diện nói với nhau, “Đã gần chín thế kỷ rồi, tính từ ngày đại đế David rời thôn lên đường đánh đông dẹp bắc, tiêu diệt giặc Philistine, rời thủ đô về kinh thành Jerusalem lập ra đế quốc Do Thái, làng mình vẫn nhận được bảng vàng vua ban khắc bốn chữ ‘tiết hạnh khả phong’”.
Thế đó, mới chỉ có mắt trước mắt sau, ngay khi bóng dáng của những người khách không mời vừa đổ xuống nườm nượp ở cổng làng, những con kên kên phục vụ lính tuần La Mã ở làng bên ngay lập tức nhấp nhổm ngóng đầu quay về hướng thị trấn Bethlehem quan sát tình hình. Gần một tháng trước, mặc cho những lời cảnh cáo xa gần của hương chức trong thôn, một cô gái giang hồ khét tiếng trong vùng Judea thản nhiên gõ cửa căn nhà cho thuê trong phố. Thấy người chủ nhà tỏ vẻ ngần ngại, cô gái mỉm cười nói cô quen rất nhiều viên sĩ quan La Mã và nhân viên mật vụ đang đóng quân và làm việc ở làng bên. Nghe nói tới đây, ông chủ nhà trọ tái xanh mặt, tránh sang một bên nhường chỗ. Người phụ nữ của giới hương phấn vừa dọn vào, một tiếng sau khách khứa đã cửa trước ra vào cửa sau tấp nập.
Được đúng hai ngày, căn nhà bỗng nhiên phát hỏa!
Nửa đêm về sáng, lửa bốc cháy từ cánh cửa gỗ của căn phòng khách, ngọn lửa liếm lem lẻm vách gỗ mặt tiền rồi bốc cao. Nhờ sự can thiệp kịp thời của những thân chủ đang ngồi uống rượu chờ đợi tới phiên trong căn phòng khách, căn nhà trọ còn đứng vững, mặc dù đã bị cháy đen nham nhở ở mặt tiền. Mật thám kéo tới lập biên bản điều tra. Họ đặt nghi vấn là có người nhúng tay vào vụ đốt nhà. Sau vụ hỏa hoạn, người phụ nữ buôn hương không chịu thua. Cô nhờ người sơn phết qua loa ở mặt tiền rồi lại tiếp tục hành nghề như không hề có chuyện chi xảy ra. Thế là khách khứa lại tấp nập. Tiếng cười lại rộn ràng từ xế chiều cho tới nửa đêm về sáng. Người ra người vô căn nhà thổ lại rộn ràng.
Được khoảng một tuần.
Vào một buổi sáng sớm tinh mơ, ông bõ trông coi hội đường Isaiah, ngày nào cũng dậy thật sớm đi tới hội đường đốt nến chuẩn bị cho giờ kinh sáng, bỗng hét to như bị ma rượt khi đi ngang qua căn nhà thổ. Người trong thôn chạy tới chỉ để kịp nhìn thấy cánh cửa lớn của căn nhà mở tung để lộ ra hai xác người đang treo lủng lẳng ngay trên xà ngang, một của cô gái buôn hương, một của người khách. Bởi hai thây ma treo lủng lẳng, nhân viên Sở Mật Vụ La Mã lại tấp nập kéo tới. Thầy Rabbi Daniel, hương chức trong làng, và cả ông bõ trông giữ hội đường Isaiah lần lượt bị gọi lên thẩm vấn. Nhưng cũng như lần trước, nhân viên mật vụ vẫn không kiếm ra thủ phạm giết người rồi lạnh lùng treo hai xác người lên xà ngang của căn nhà. Kiếm không ra thủ phạm, Sở Mật Vụ đóng hồ sơ lại, lần lượt leo lên lưng ngựa bỏ đi.
Nhưng bắt đầu từ ngày hôm đó, khoảng nửa đêm về sáng tự nhiên căn nhà bỗng chập chờn những bóng ma. Tối tối có người thấy hai xác, một của đàn bà một của đàn ông hiện ra treo tòng teng lơ lửng. Có người nửa đêm về sáng nghe thấy tiếng hú nghe rõ mồn một lanh lảnh từ trong căn nhà còn loang lổ vết cháy. Vào đêm sáng trăng, có người còn thấy bẩy hạt máu đỏ từ trên xà ngang nhỏ xuống nền đất viết thành chữ Nhân thật rõ nét trong tiếng Hy Lạp.
Người trong làng xì xào hỏi nhau tại sao lại không là ba hay là bốn nhưng lại là bẩy? Mà tại sao bẩy hạt máu đỏ đó lại hòa với nhau viết nên một chữ Nhân? Chữ Nhân có nghĩa là chi trong trường hợp này? Tại sao lại không viết chữ Nhân trong tiếng Do Thái nhưng lại là chữ Hy Lạp? Nghe tới đây, có người quay lại nói, “Quên rồi sao? Ông bà mình có câu, ‘Giết bẩy bò mới đủ lễ tế’. Mà, nè, cũng đừng có quên cô này không phải là người Do Thái, nhưng người Syria sinh ra ở phố Damascus. Cô ta nói tiếng Hy Lạp, đâu có biết tiếng Do Thái”.
Thằng Judas mồ côi mười sáu tuổi chăn chiên trong làng phá phách ma chê quỷ hờn. Sểnh ra là ăn cắp. Lơ đãng một chút là mất đồ. Cuối tuần nó tếch sang thôn bên cạnh, đứng đường dẫn mối cho những con kên kên. Chủ bầy chiên có lần mắng nó tật hay ăn cắp vặt. Nó tức, ban đêm gọi bạn bè tới túp lều nằm giữa cánh đồng, cắt cổ một con chiên đực nướng thịt ăn. Thế mà nửa đêm, không biết để làm chi, dám mò tới căn nhà ma. Sáng hôm sau, lại một lần nữa, đi ngang qua, ông bõ thấy nó oặt ẹo nằm trên nền đất hoang của ngôi nhà ma, mặt bầm tím, tay chân như không còn xương. Mang nó về nhà, người ta đổ cháo nóng vào miệng, giật tóc mai hú gọi ba hồn chín vía. Ba ngày sau thằng Judas mới dần dần hồi tỉnh, nhưng tay chân quặt quẹo mềm oặt. Hỏi chi, nó cũng không nói, mặt tái xanh lét. Thế là những người đàn bà trong thôn ồn ào lên. Họ kháo với nhau, “Chết rồi! Vậy là đã ứng nghiệm lời nguyền của bẩy giọt máu viết ra một chữ Nhân. Thằng Judas là nạn nhân đầu tiên. Trong làng mình, ai sẽ là người thứ hai?”.
Đêm nay tối hai mươi bốn cuối tháng Mười Hai. Đã gần mười một giờ đêm, chỉ còn khoảng một tiếng đồng hồ nữa thôi bầu trời đêm đen của thị trấn Bethlehem sẽ chuyển mình bước vào nửa đêm....
www.nguyentrungtay.com
Nguyễn Trung Tây
Posting Permissions
- You may not post new threads
- You may not post replies
- You may not post attachments
- You may not edit your posts
Forum Rules