-
Nhím Lang Thang
Tiêu Cung Tuẫn Tiết Hành - Nguyễn Huy Túc
Tiêu Cung Tuẫn Tiết Hành
Tô phái hầu Nguyễn Huy Túc
"?ất Thuận An cạnh sông Thiên ?ức, (1)
Ngư?i đ?i xưa g?i ấp Tỳ Bà.
Khúc tỳ mượn ý đặt ra,
Tr?i sinh ngư?i đẹp sánh hoa ?ại-đ? (2)
Khí tươi tốt nhóm v? khuê tú,
Năm Cảnh Hưng Ất-dậu mừng sao,
Nhà sang sinh bậc nữ hào,
Công, dung, ngôn, hạnh vẻ nào kém đâu.
Tuổi mư?i bảy kén vào cung khuyết,
Bính ng? li?n sớm biết đi?m hùng (3)
Ơn trên cao cả muôn trùng,
?ượm nhuần mưa móc phúc hồng chứa chan
Năm đinh vị Tây Sơn khởi biến.
Cảnh phong trần chợt đến khôn lư?ng.
Ngoài thành giong ruổi xe hương,
Quân hầu tan tác, bàng hoàng bên sông.
Vó ngựa lạc Văn phong mấy độ,
Theo từ vi (4) đến Võ Nhai sơn.
Quần Hồng lận đận núi ngàn
Liễu bồ phải chịu muôn vàn long đong,
Xa trông đợi tin rồng vắng bặt,
Chốn nhàn đình nước mắt chứa chan.
Bỗng đâu tiếng trống nổi ran,
Tướng Cao Bằng rước xe loan lên đư?ng.
Tới Mục Mã vội vàng nghỉ lại,
Thuy?n vua giong lên ải Phất Mê.
?ịch nghe tin, kíp đuổi k?,
Tên bay đạn lạc bốn b? rối ren.
Bè một mảng qua phen kinh hãi,
Bao hiểm nghèo rồi lại bình yên.
Vin cây giẫm đá trèo lên,
Mưa mù lam chướng đầy trên một tr?i.
Dân sở tại chào m?i, đưa dắt,
Gập gh?nh theo lối tắt đư?ng ngang.
Hết đư?ng, tới núi, vào hang,
Giếng thơm trong suốt, nước đang dạt dào.
Biết động ấy thuở nào đào đục?
Mà hôm nay hưởng phúc thần tiên!
Nước ngàn rau núi cũng yên,
Chim kêu, hoa rụng, nỗi buồn tạm khuây.
Trong nội địa (5) tin đâu bay đến,
Quan trên li?n sai khiến ngư?i sang.
Trước sau căn vặn t? tư?ng,
Long Châu tạm đón d?c đư?ng nghỉ chân.
Cấp phẩm vật m?i phần tươm tất,
Lính đưa đư?ng cẩn mật, tận tình.
Rồi cho đến ở Nam Ninh,
Cửa nhà rộng rãi quán đình nghiêm trang.
Dù Nam, Bắc, đôi đư?ng chua xót,
Lễ nghi thư?ng chưa chút đơn sai,
Một ni?m từ huấn vâng l?i,
Tiêu phòng (6) giữ lễ trong ngoài phân minh.
Nh? thượng quốc đ? binh cứu viện,
Muôn dặm xa đưa đến tin vui,
V? Nam c? quạt rợp tr?i,
Vư?n xưa điện cũ sáng ng?i vẻ xuân.
Tiếng đàn, trống muôn phần rộn rã,
Cảnh c? hoa thoả dạ lâu nay.
Nào ng? vạ gió tai bay,
Buồn vui chốc lát đổi thay khôn lư?ng
Trên ngự giá vội vàng ra ải,
Từ vi và cháu dại cùng đi.
Não lòng thay lúc biệt ly,
Bỗng dưng kẻ ở ngư?i đi rã r?i.
Sang phía tây tìm nơi lẩn tránh,
Cảnh chơ vơ, cô quạnh, đau thương.
Mỵ, Ngu xưa cũng một phư?ng (7),
Ai làm nên nỗi dặm đư?ng gian truân.
Xưa nhà Hạ có lần suy bại,
Một lữ, thành dấy lại cơ đồ.
Giáo gươm thượng quốc giùm cho,
Nằm gai nếm mật vua lo đủ đi?u.
Ví xã tắc có nhi?u ngư?i gi?i,
Phận thuy?n quyên đâu phải gian nan.
Khoảng năm quí sửu đồn sang,
"Chầu tr?i" tin ấy bàng hoàng một phen (8).
Nghĩ vì lẽ dân đen mong m?i,
Nên Tây Sơn kia nói sai ngoa,
?ến khi vận mở nước nhà,
Sứ thần sang, mới biết là không sai.
Ví ng?c nát, v? nơi chín suối,
Hương hồn khôn bạn với tiên quân (9).
Mư?i sáu năm, biết mấy lần,
Rắp theo Tôn muội làm thân chết chìm (10).
Khiến gia thuộc dò tìm mấy độ,
Lên ải quan h?i rõ nguyên nhân.
Th? sang tới mộ cố quân,
Quyết li?u tính mệnh với khăn lụa là.
Sống là khó, xưa đà có biết,
Nào hay đâu muốn chết cũng gay.
Cơ tr?i sao khéo vần xoay,
Quan trên đã lấy việc này tâu lên.
Cho v? nước, vua li?n có chỉ,
Tiết Trung thu, Giáp Tý vừa qua.
Vội vàng lên đón linh xa,
Cháo cơm biếng nuốt, mặt hoa võ vàng.
Thuy?n đủng đỉnh Lô Giang qua bến,
Kiệu toàn che, rước đến từ đư?ng.
Thần liêu dâng chén quỳnh tương,
Trông lên, trăm h? đôi hàng lệ sa.
Tình khuê phụ thật là khó vẽ,
Rửa nước thơm làm lễ g?i là.
Mở quan, cúi mặt nhìn qua,
Chắp tay vái lạy lệ nhoà hai mi.
Cầm thuốc độc thầm thì từ tạ
Lui vào màn uống cả một hơi,
Trẻ già ai nấy rụng r?i,
Tri?u đình nghe tiếng bồi hồi tiếc thương.
Ban gấm vóc bạc vàng phúng viếng,
Bao vần thơ lên tiếng ngợi khen.
Khen thay! một chết phỉ nguy?n,
Thơm tho muôn thuở con thuy?n thanh danh,
Kìa khuê các ng?c lành hiếm có,
Sá chi luống mộ vũ triêu vân (11).
?ai vàng n? đứa nịnh thần,
Một đ?i ton hót làm thân gian tà.
Kịp đến lúc sơn hà biến đổi,
Trước quân thù quỳ gối, chắp tay.
Lạnh lòng khi đ?c thơ này,
Khác nào roi quất, mặt dày mày ê.
Thân khuê các giúp b? Tiết giáo,
Mặt phấn son phụ đạo Cao hình (12).
So thơ Cù, Cát đã đành (13),
Trúc Tương vằn đẹp lưu danh muôn đ?i (14).
Ngư?i xưa làm việc dễ rồi.
Nay làm việc khó không ngư?i đó sao? (15).
Chú ý: Đọc kỹ Nội Quy trước khi đặt câu hỏi. Xin đừng Spam, nếu spam account sẽ lập tức bị khóa. Cách cám ơn tốt nhất là giúp người khác những gì mình được giúp.
Tên: Ngô Nhân Kiệt
Tự là Đằng Giang
Bút hiệu Việt Lang
Pháp danh Trúc Vượng
Những bạn nào muốn liên lạc với Admin Việt Lang có thể liên lạc trực tiếp qua Facebook Việt Lang để trao đổi
-
Nhím Lang Thang
Tiêu Cung Tuẫn Tiết Hành - Chú Giải
(1) Tức sông ?uống.
(2) Tên một khúc ca trong Cổ nhạc phủ, ca ngợi ngư?i con gái đẹp như hoa. ở đây mượn tên đó để chỉ ngư?i con gái đẹp.
(3) ?i?m con gấu; thơ "Tư can" Kinh Thi nói nằm mộng thấy con bi con hùng (gấu) là đi?m sinh con trai.
(4) Chỉ mẹ vua.
(5) Chỉ Trung Quốc.
(6) Phòng ở của cung phi có trát hồ tiêu vào vách cho ấm; đây chỉ vợ vua.
(7) Mỵ Châu, vợ Tr?ng Thuỷ; Ngu Cơ, vợ Hạng Võ; cả hai ngư?i con gái đ?u chết trong cảnh loạn lạc, rồi Mỵ Châu hoá thành viên ng?c, Ngu Cơ hoá thành c? thơm.
(8) Chỉ vào tin Chiêu Thống chết.
(9) Hai câu này ý nói, nếu hoàng phi chết trước di thì hương hồn không được làm bạn với vua Lê, lúc đó thi hài còn ở Trung Quốc.
(10) Tôn muội tức em gái Tôn Quy?n và là vợ Lưu Bị đ?i Tam quốc. Tôn muội bị anh bắt v? ở bên Giang ?ông; lúc Lưu Bị đánh Giang ?ông bị hại, có tin đồn Lưu Bị đã chết, Tôn muội bèn nhảy xuống sông tự tử. Ở đây ý nói hoàn cảnh chưa cho phép Lê Hoàng phi chết được như Tôn muội.
(11) Mộ Vũ Triêu Vân: Chi?u mưa sớm mây. Nguyên ở tích Sở Tương Vương đi chơi Vân-mộng, nằm mơ thấy một thần nữ chung chăn gối với mình, khi từ biệt có nói rằng: Nhà thiếp ở phía nam non Vu, sớm làm mây chi?u làm mưa... Sau ngư?i ta thư?ng dùng chữ "mây mưa" để chỉ việc trai gái giao hoan. Ở đây ý nói không thiết gì đến chuyện ái ân nữa.
(12) Tiết giáo, cao hình là việc giáo dục của ông Tiết và việc hình án của ông Cao Dao; hai ông này đ?u là những danh thần mẫu mực đ?i vua Thuấn.
(13) Thơ "Cù mộc" và thơ "Cát đàm" trong Kinh Thi, nội dung đ?u ca ngợi các bà hậu phi nhà Chu.
(14) Tương truy?n vua Thuấn chết ở núi Thương Ngô, hai vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đến viếng, khóc lóc thê thảm, nước mắt thấm vào các khóm trúc ở xung quanh, thành ra các cây trúc có vằn rất đẹp. Tục g?i là "trúc Tương phi" hoặc "trúc Tương". Sau hai bà nhảy xuống sông Tương để chết theo chồng.
(15) Hai câu này ý nói, chết ngay theo chồng như hai bà vợ vua Thuấn xưa đã làm, là một việc dễ; còn chịu đựng đau khổ trong một th?i gian dài rồi mới chết theo chồng như bà Lê hoàng phi, là việc khó.
Chú ý: Đọc kỹ Nội Quy trước khi đặt câu hỏi. Xin đừng Spam, nếu spam account sẽ lập tức bị khóa. Cách cám ơn tốt nhất là giúp người khác những gì mình được giúp.
Tên: Ngô Nhân Kiệt
Tự là Đằng Giang
Bút hiệu Việt Lang
Pháp danh Trúc Vượng
Những bạn nào muốn liên lạc với Admin Việt Lang có thể liên lạc trực tiếp qua Facebook Việt Lang để trao đổi
Posting Permissions
- You may not post new threads
- You may not post replies
- You may not post attachments
- You may not edit your posts
Forum Rules