CỖ NHẤT


Hồi còn nhỏ, mỗi lần được đi theo bà nội dự tiệc trong làng, tôi thường được các gia nhân của gia chủ (nếu bữa tiệc ấy tổ chức tại tư gia như : cưới hỏi, khao vọng…), hoặc những người phục dịch (nếu là tiệc chung của làng như : mừng lễ quan thầy, đình đám…) kính cẩn mời : “Mời bác xã … ngồi bàn dành riêng ở đây”. Mới chưa đầy mười tuổi đã được gọi là “bác”, và trịnh trọng dành cỗ riêng cho đám trẻ cũng được gọi bằng “bác” như mình, tôi hãnh diện lắm, nhưng cứ thắc mắc chẳng hiểu tại sao. Lớn lên, hỏi ra mới biết tôi đã được thân phụ mua “nhiêu”, mua “xã” cho từ tấm bé. Trai làng ai cũng phải vậy, và nếu người nào không có tiền mua nhiêu, mua xã, thì phải ngồi bàn dưới và phải tự mình dọn cỗ, thậm chí còn phải đi dọn cỗ phục vụ cho những người đã có nhiêu xã như chúng tôi. Đó là một hủ tục hương ẩm trong làng xã Việt Nam thủa xưa.

Chưa hết đâu, nhỏ thì mua nhiêu mua xã, lớn lên thì mua chức mua tước (từ trương tuần đến phó lý, rồi lý trưởng, phó tổng, chánh tổng v.v…). Tất cả đều phải mua bằng tiền (hoặc gán đất, gán ruộng). Rồi khi mua được những thứ đó, còn phải tổ chức khao vọng đãi tổ, đãi làng. Ngoài ra, nếu học hành đỗ đạt (từ Khoá sinh đến thi Hương, thi Hội, thi Đình) cũng đều phải tổ chức khao vọng (vinh quy bái tổ). Và nếu cứ đà ấy mà phất lên, đến tuổi lão niên sẽ được xếp vào “cỗ nhất” trong hương đẳng, đó là “tứ trụ” – 4 vị cao trọng nhất của làng (Ngồi thì ngồi chỗ cao trọng nhất, ăn thì được ăn những thứ được cho là ngon bổ nhất, như thủ lợn – đầu heo – chẳng hạn; bất cứ thứ gì dành cho “tứ trụ” cũng “nhất” hết trơn !). Đã có không ít những cảnh cười ra nước mắt vì cái hủ tục này : Chồng lo chạy chọt mua được chức lý trưởng, bao nhiêu ruộng nương cầm cố cho bằng hết, cuối cùng phải cho vợ đi ở đợ, cho con đi làm tôi mọi cho người khác (ở những nơi thật xa làng để tránh đàm tiếu, tất nhiên) hầu có tiền trang trải nợ nần chồng chất vì cái chỗ ngồi của mình (câu tục ngữ “cầm vợ đợ con vì miếng đỉnh chung” đã nói lên cảnh này). Đi đâu cũng khăn đóng áo dài và gặp ai cũng được chào là “cụ lý”, “cụ chánh”, hách lắm, nhưng về đến nhà, chẳng có ai phục dịch miếng cơm chén nước, đêm nằm vắt tay lên trán mới thấm thía sự đời dâu bể !

Ngày nay, hủ tục khao vọng đình đám tuy không còn, nhưng lại nảy sinh những mưu ma chước quỷ để tranh bá đồ vương, tiếm quyền tiếm chức, tranh danh đoạt lợi, để được nổi danh nổi tiếng, tiền hô hậu ủng, xe hơi nhà lầu, võng lọng xênh xang. Và câu “một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” vẫn luôn luôn và mãi mãi đúng. Tâm lý chung con người ai chẳng muốn chọn cho mình phần tốt nhất, ai chẳng muốn đi ăn tiệc được ngồi vào cỗ nhất. Ngay đến các Tông đồ ở cận kề với Người Thầy luôn dạy dỗ môn đệ phải khiêm nhường, vậy mà cũng có hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an muốn ngồi cỗ nhất (bên tả và bên hữu Chúa : Tả hữu Thừa tướng của vua Giê-su !). Không phải chỉ có 2 môn đệ này đâu, mà các môn đệ khác cũng tỏ ra tức tối ("Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. " – Mc 10, 41). Tức tối tức là ghen tị, là mong muốn mình phải được coi trọng hơn.

Thấu hiểu được tâm địa con người như vậy, nên Đức Ki-tô mới dạy : "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." (Mc 9, 35). Rõ ràng "Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi…" (Lc 14, 7). Vì thế, nên Người mới dạy : "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối" (Lc 14, 8-9). Người còn chỉ rõ những người ham ngồi “cỗ nhất”, đó là : "Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc." (Lc 20, 46). Ngay đến cả việc đãi khách, mời khách dự tiệc, Người cũng dạy trái ngược với thông lệ của người đời: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có… Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù…" (Lc 14, 12-13).

Lời dạy của Đức Ki-tô mới thoạt nghe sẽ thấy là mâu thuẫn, khó chấp nhận được, chẳng hạn như Người muốn ai đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả, từ của cải vật chất đến cha mẹ anh em họ hàng, kể cả từ bỏ chính mình. Trong khi đó, Người lại dạy phải yêu thương mọi người như yêu thương chính bản thân mình, thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù của mình nữa. Tuy nhiên, suy nghĩ cho thấu đáo, thì thấy Đức Ki-tô chuyên dùng dụ ngôn với những cách nói tương phản, phản đề, cốt ý nhấn mạnh để nêu bật ý chính (chủ đề). Như Lời dạy trên, nếu trích đầy đủ, sẽ là : "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại." (Lc 14, 12-14). Và như vậy, mục đích nhắm tới của Lời dạy là "… ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại." Rõ ràng Đức Giê-su chỉ luôn mong muốn Lời dạy của Người có tác động mạnh mẽ, làm cho người nghe hiểu được ý nghĩa sâu xa và cái mục đích tối hậu cần đạt tới.

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, Đức Ki-tô chỉ muốn dạy môn đệ đức tính khiêm nhu tự hạ. Và nếu anh biết khiêm nhường chịu luỵ, anh sẽ được mời lên ngồi “cỗ nhất”. Anh đừng nghĩ khi được ngồi cỗ nhất là anh sẽ được kẻ hầu người hạ, anh sẽ vênh vang nhìn đời bằng nửa con mắt. Trái lại, "Càng làm lớn, con càng phải tự hạ,/ như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa" (Hc 3, 18), "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người" (Mt 20, 43-44). Khiêm nhường cũng có nhiều cách thể hiện, có thể thực lòng và cũng có thể màu mè bên ngoài, thậm chí còn có trường hợp giả bộ khiêm nhường để nói móc, nói cạnh nói khoé. Tôi cũng đã gặp một trường hợp dở cười dở mếu : Có một anh bạn nhận dạy lớp học tiến cấp cho một huynh đoàn. Đang dạy dở dang thì mắc công việc khác không thể tiếp tục, ảnh nhờ tôi dạy tiếp cho hết chương trình. Tôi hỏi xem anh đã dạy tới bài nào, để tôi tiếp tục cho khớp. Ảnh trả lời thế này : “Em còn kém lắm, dạy rất dở. Trong giờ dạy, cha xứ (linh hướng của huynh đoàn) có đến tham quan lớp học và dự giờ. Đến cuối giờ, ngài khen rối rít”. Tôi quá bực, gắt lên : “Tôi chỉ hỏi xem anh dạy tới đâu để tôi tiếp tục cho khớp với nhau, không ngờ… Và nếu anh dạy rất dở mà cha xứ lại khen, thì chắc tôi không dám dạy đâu. Xin được từ chối. Cảm ơn anh rất nhiều”.

Thế đấy ! Và cũng vì thế nên cách đây 2.000 năm, Đức Giê-su Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người khó nghèo và dùng chính cuộc sống của Người cùng những Lời dạy dỗ loài người về đức khiêm nhường. Người đã khiêm nhường vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu để cái tính kiêu ngạo của loài người hành hạ, đánh đòn, sỉ nhục, đóng đinh Người trên thập tự. Người đã thức tỉnh nhân loại bằng cách hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, phỏng đã được bao nhiêu người ý thức được tội kiêu ngạo đứng hàng đầu trong 7 mối tội đầu, hiểu được chính tội kiêu ngạo đã đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá ? Và chẳng hiểu có được bao nhiêu con người dám hy sinh chỗ ngồi “cỗ nhất” (chưa dám nói hy sinh mạng sống mình) cho anh em, cho đồng loại, để sẵn sàng xuống ngồi “chỗ cuối” mà phục vụ mọi người ? Quả thực “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa,/ vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó” (Hc 3, 28). Ôi chao ! Lạy Chúa con ! Lạy Thiên Chúa của con ! Amen.


JM. Lam Thy ĐVD.