Results 1 to 6 of 6

Thread: KÝ-ỨC VỀ NHẠC-SĨ CHÂU KỲ

  1. #1
    Member jrajiv's Avatar
    Join Date
    Jul 2007
    Posts
    92

    Default KÝ-ỨC VỀ NHẠC-SĨ CHÂU KỲ

    Bài của Lê Xuân Nhuận

    Thuở nhỏ, tôi thường được bà dẫn đi qua rạp hát bội An Cựu, sau chợ An Cựu (thuộc Phường Phú-Nhuận, Thành-Phố Huế) để xem "hát bội".
    Trình-diễn hầu như thường-trực tại đây là Đoàn "Kim Sanh", một đoàn cải-lương "cải-lương", nghĩa là "cải-lương Nam-Kỳ" nhưng theo lối Huế (đối-thoại cũng như hát theo các điệu cải-lương Miền Nam mà dùng thổ-ngữ Huế và giọng Huế).
    Sau này tôi có được xem một số vở tuồng cải-lương hát theo giọng Bắc; nhờ được trình-diễn trong Nam cũng như thực-hiện trên Đài truyền-thanh & truyền-hình phổ-biến toàn-quốc, nên "cải-lương Bắc-Kỳ" được nhiều người biết đến; còn về "cải-lương Huế" thì hầu như ít người nhớ đến. Tôi gọi nó là "cải-lương Huế" vì nó chỉ được trình-diễn bằng giọng Huế và nhiều nhất ở Huế, chứ không phải khắp Miền Trung, nên không phải là "cải-lương Trung-Kỳ".
    Nói là "cải-lương Huế" nhưng thật ra thì không ai gọi nó là "cải-lương Huế" cả. Người Huế gọi nó là "Kim Sanh", tên của đoàn hát. Vì những lời nói cũng như lời hát đều rất là "tuồng", nghĩa là văn-hoa, du-dương, khác với ngôn-ngữ thông-thường ngoài đời, cho nên khi nào nghe một người nào nói-năng có vẻ bay-bướm mà người ta, hoặc thấy hay, hoặc không ưa, thì người ta kêu lên, thí-dụ: "Thôi đừng kim-sanh nữa, mi!" Danh-từ Kim Sanh, tên của đoàn hát, đã được dùng như tính-từ để chỉ tính-cách "văn-chương" trong các tiểu-thuyết diễm-tình.
    Tôi nhớ có tuồng diễn chuyện một anh con nhà phú-nông được đi du-học bên Pháp, khi đã thành-tài trở về mang theo một cô vợ đầm. Cả nhà họp mặt chờ đón, đến khi nàng dâu dân Pháp chìa tay bắt tay và định ôm hôn "ông gia" thì mọi người đều thất-kinh; "bà gia" chỉ tay vào mặt con mình mà hát: " Mả cha mày, đồ quân bất-hiếu!..."
    Kim-Sanh tồn-tại vào khoảng cuối thập-niên 1930 đến đầu thập-niên 1940, đã diễn nhiều vở giá-trị, với các diễn-viên xuất-sắc, đắt khách đến nỗi đã có thêm một đoàn hát thứ hai, tên là Kim-Thịnh. Nhưng Kim-Sanh thì nổi bật hơn...

    *

    Sau khi quân Pháp đổ bộ vào Huế, từ đầu năm 1947, đồng-bào các giới, trong đó có một số văn-nghệ-sĩ, lần-lượt hồi-cư, để tránh tai-hoạ chiến-tranh tiếp-diễn ở vùng núi và vùng quê. Hội-Đồng Chấp-Chánh Lâm-Thời Trung-Phần ra đời, với các cơ-quan cấp Phần và cấp Tỉnh. Nha Thông-Tin Trung-Phần đặt trụ-sở tại một toà lầu bề-thế trên đường Trần Hưng Đạo, ngó thẳng ra cầu Trường-Tiền.
    Tôi vào làm việc tại cơ-quan Cảnh-Sát Quốc-Gia (khác với cơ-quan "Police Française"), và ở đây tôi quen thân với ông Lê Văn Tấn, lớn hơn tôi chừng bảy-tám tuổi. Tấn cùng tôi và một số bạn khác họp thành một đoàn kịch, do nghệ-sĩ Đặng Ngọc Lựu đạo-diễn, trình-diễn kịch thơ và kịch văn tại Huế và các Tỉnh lân-cận. Tôi thấy Tấn cặm-cụi sáng-tác, tuy không đem ra trình-bày nhưng vẫn tiếp-tục viết, sửa; tôi xem thì thấy toàn là tuồng cải-lương; hỏi anh, anh đáp là đã gắn-bó với đoàn Kim-Sanh, không thể nào quên. Hỏi thêm, Tấn cho biết là hiện nay Kim Sanh chỉ còn một người thứ hai, nhưng ông ấy đã chuyển qua tân-nhạc, và hiện làm việc ở Nha Thông-Tin. Đó là Châu Kỳ.
    Theo lời yêu-cầu của tôi, Tấn dẫn tôi đến làm quen với Châu Kỳ.
    Nha Thông-Tin Trung-Phần có dành riêng một số phòng trong trụ-sở Nha cho một số văn-nghệ-sĩ tạm-trú. Khi Tấn dẫn tôi vào phòng Châu-Kỳ thì thấy Châu-Kỳ đang cắt móng chân cho một thiếu-nữ đẹp. Họ giới-thiệu với tôi đó là nữ-ca-sĩ Mộc-Lan. Mộc-Lan là một ca-sĩ nổi tiếng, và Châu Kỳ đang sống chung với Mộc-Lan.
    *
    Châu Kỳ trạc tuổi của Tấn. Vì cùng đam-mê và hoạt-động văn-nghệ nên Châu-Kỳ và tôi trở nên bạn thân.
    Thuở ấy chúng tôi không có máy điện-thoại riêng, nên thường gặp nhau một cách bất-thường, chuyện-trò những khi chỉ có một mình anh thôi. Thường thì tôi đến tìm anh nơi tổ uyên-ương của anh ở Nha Thông-Tin, nơi tôi thường đến suốt cả thập-niên (Ngoài việc ghé thăm Châu Kỳ, tôi còn vào thăm nghệ-sĩ Tô Kiều Ngân, nhà thơ Nguyễn Anh, nhà nghiên-cứu Phan Khoang, kịch-sĩ Vũ Đức Duy, nhà văn Bửu Kế, nhà nghiên-cứu Bửu Cầm, rồi sau này là cặp vợ+chồng nhà văn Hoàng Pha, v.v...; có lần tôi dùng xe đạp chở nữ ca-sĩ Kim Tước từ Nha Thông-Tin qua cầu Trường Tiền đến Đài Phát-Thanh Huế để tập dượt nhạc, vì xe Jeep bị hư, thời-gian tôi làm Trưởng Đài "Tiếng Nói Quân-Đội tại Miền Trung").

    *

    Mối tình Châu-Kỳ - Mộc-Lan, quả đẹp như thơ, nhưng không bền lâu.
    Châu Kỳ rời Huế bao giờ tôi không được biết, dù rất thân nhau. Phải chăng vì tình tan vỡ nên anh buồn tủi lặng-lẽ ra đi?
    Ngang đây tôi xin chép trích một đoạn có đề-cập đến Châu Kỳ, trong cuốn hồi-ký "Về Vùng Chiến-Tuyến" của tôi (do nhà Văn Nghệ ở Nam Cali xuất-bản vào năm 1996 – ISBN 1-886566-15-1 – trang 186):
    [Một hôm, nhân vào Sài-Gòn lập thủ-tục du-học Hoa-Kỳ, tôi gặp trung-sĩ Tôn Thất Óc giữa phố. Óc là nhân-viên Đội Biệt-Động ở Huế; cùng đi với ảnh có vài ba người nữa, đang ngồi trong một chiếc xe-hơi đậu bên lề đường. Ảnh dừng lại chào hỏi tôi. Khi ảnh lên xe đi rồi, có mấy người mà tôi thấy quen mặt đang ngồi trong nhà hàng Thanh Thế vẫy tôi vào. Họ là công-nhân, quân-nhân hoặc thường-dân gốc ở Huế, nay vào tùng-sự, thụ-huấn hoặc sinh-sống trong này.
    Nhạc-sĩ Châu Kỳ ghé tai tôi nói nhỏ: "Đừng bắt mình, nghe, Thanh-Thanh!" Tôi tròn mắt hỏi lại: "Tôi làm gì mà bắt ai?" Nhạc-sĩ Lê Trọng Nguyễn liền vỗ vai Kỳ: "Thanh-Thanh không dính vào những việc đó đâu!"]
    (Ghi chú: mật-vụ nhà Ngô, phe Ngô Đình Cẩn, thủ-tiêu các nhân-vật "có máu mặt" ở Huế và vào hoạt-động tận trong Nam).
    *
    Nhà thơ Hồ Đình Phương, người tích-cực hoạt-động trong Văn-Đoàn và Nhà Xuất-Bản "Xây-Dựng" của tôi, sau khi tốt-nghiệp thủ-khoa Khoá I Cao-Học Quốc-Gia Hành-Chánh, làm Trưởng Ty Thuế-Vụ ở Tỉnh Long-An, đã dẫn tôi đi thăm một xưởng dệt vải của Công-Ty Tơ Lụa Việt-Nam (?) và chỉ cho tôi thấy một nữ viên-chức trẻ đẹp ở sở làm này, mà nói đó là bạn mới của Châu Kỳ.
    Tôi không tò-mò hỏi về đời tư của Châu Kỳ, nhưng về sau có nghe Hồ Đình Phương nói là "bà" sau này thật dễ thương, rất chiều-chuộng Châu Kỳ, và Kỳ đã đạt được hạnh-phúc gia-đình. Tôi mừng cho anh.

    *

    Sau quốc-biến Tháng Tư Đen năm 1975, các hoạt-động kháng-Cộng của nhiều giới đồng-bào, bằng nhiều phương-tiện và dưới nhiều hình-thức, đã được dấy lên công-khai, suốt nhiều năm trường, tại nhiều nơi ở Miền Nam.
    Em tôi, Trương Minh Dũng, một cựu sĩ-quan cao-cấp Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà, cũng có làm thơ (bài nào cũng được Châu Kỳ phổ nhạc) và cũng hát hay, đã cùng với Châu Kỳ đi thực-hiện những buổi ca-nhạc chống-Cộng tại các nhà-hàng và địa-điểm đông người ngay tại Sài-Gòn, trong một thời-gian khá lâu. Hiện-tượng này, cùng với hoạt-động của các nhân-vật khác ở các lĩnh-vực khác, tất cả đều cùng chống Cộng, đã được đưa vào phim ảnh của chế-độ mới, thí-dụ cuốn phim "Vụ Án Hồ Con Rùa", phổ-biến khắp nơi (hồi đầu cộng-sản còn lo "phục-vụ" đồng-bào nông-dân, đưa phim đi chiếu khắp các thôn ấp), tôi ở trong trại "cải tạo" cũng có được xem.
    Các nghệ-sĩ kiên-trì và quả-cảm này sau đó đã bị bắt đi "cải tạo" nhiều năm. Vì là bị tù, dù tù chính-trị, sau khi Việt-Nam Cộng-Hoà không còn, nên Mỹ không tính "thâm-niên" để nhận cho đi tị-nạn theo diện cựu-chính-trị-phạm như các anh+chị+em H.O.

    *

    Vào năm 1999, băng nhạc, và CD, nhan đề "Năm Mười Bảy Tuổi", là băng Vân Sơn 10, sản-xuất tại Mỹ, đã được đưa về Việt-Nam, trong đó có bản "Tuý Ca", do Trường Vũ hát, và ghi tác-giả bản nhạc là Tú Nhi.
    Thật ra, "Tuý Ca" là tên của một bài thơ của Trương Minh Dũng, do Châu Kỳ phổ nhạc, đã được xuất-bản trong bộ Thuỳ Dương Nhạc Tuyển của chương-trình ca-nhạc "Tiếng Thuỳ Dương" của Đài Phát-Thanh Quân-Đội tại Sài-Gòn, do Mỹ Hạnh phát-hành, vào năm 1974 (tôi còn giữ bản nhiếp-sao).
    Vào thời-gian đó, ở Mỹ vừa mới xảy ra vụ kiện, người giữ bản quyền bản dịch vở kịch "Lôi Vũ" đã được thắng kiện, vì người đem diễn kịch ấy đã không xin phép và trả tác-quyền. Giữa Hoa-Kỳ và Việt-Nam lại đã có ký hiệp-ước bảo-vệ tác-quyền "tài-sản tinh-thần". Có người đề-nghị Châu Kỳ và Trương Minh Dũng nên kiện để đòi bồi-thường, ít nhất cũng có chút tiền mà tiêu trong cảnh túng nghèo. Châu Kỳ, qua Trương Minh Dũng, nhờ tôi tìm hiểu rõ hơn. Tình-cờ tôi gặp nhạc-sĩ Trần Thiện Thanh (ca-sĩ Nhật-Trường), hỏi anh tại sao người ta ghi tên tác-giả "Tuý Ca" là Tú Nhi, Tú Nhi là ai, thì anh đáp là hình như việc đó là do Chế Linh.
    Rốt cuộc, cả Châu Kỳ lẫn Trương Minh Dũng đều không tiến-hành vụ kiện. Dũng nói với tôi: Châu Kỳ bảo rằng Chế Linh với Kỳ+Dũng cũng là anh+em với nhau từ xưa, nỡ nào?
    Một thời-gian sau, Dũng gửi qua tôi một số ấn-bản tập nhạc nhan-đề "Những Tình-Khúc Châu Kỳ & Trương Minh Dũng" do nhóm Song Nguyên, Lê Hiếu, Nhật Triết và Thạch Cầm ở Việt-Nam thực-hiện trong năm 2000, và trong "Lời Dẫn" có đoạn:
    "50 năm. Phải, Châu Kỳ và Trương Minh Dũng đã kết bạn với nhau được 50 năm. Lời ca, hồn thơ và sóng nhạc đã quyện hai người thành một... Năm mươi năm trước, Châu Kỳ & Trương Minh Dũng đã từ đất Huế xa xăm "hành phương Nam", họ đem theo muôn nghìn cái lấp lánh của mặt sông Hương trong một sáng rực rỡ mặt trời. Bây giờ họ kết thành một chuỗi minh châu mười một tình khúc. Mỗi hạt đều long lanh, tròn trịa... sương mai."
    Tập "Những Tình Khúc Châu Kỳ & Trương Minh Dũng" gồm có 11 bản nhạc, tất cả đều phổ từ thơ của Trương Minh Dũng:
    1. Sao Chưa Thấy Hồi Âm
    2. Bỏ Phố Lên Rừng
    3. Mưa Trên Quảng Đức
    4. Giọt Đàn Theo Giọt Lệ
    5. Về Sông Cũ
    6. Tuý Ca
    7. Tình Thơ Ý Nhạc
    8. Người Đi Chưa Về
    9. Em Đi Về Đâu
    10. Hồi Âm
    11. Người Nhớ Bài Ca, Ta Nhớ Người
    (Về bài "Bỏ Phố Lên Rửng", có người mới đây tưởng là Châu Kỳ qua nó ghi lại hoàn cảnh chật vật, phải bán nhà ra ngoại ô trú ngụ. Hoàn-cảnh sau này thì chật-vật thật, nhưng bài ấy là thơ của Trương Minh Dũng sáng-tác từ thập-niên 1960).
    Châu Kỳ và Trương Minh Dũng nhờ tôi chuyển tặng một số bản, có ghi tên người nhận và mang chữ ký của cả hai người, nhưng không thấy bản gửi tặng Chế Linh. Có lẽ Châu Kỳ gửi thẳng, qua đường dây khác, hoặc chờ...
    Cho đến năm 2005, Châu Kỳ được Trung-Tâm Thuý Nga bảo-trợ qua Canada để thu cuốn băng "Paris by Night 78", anh đã cùng vợ từ Canada qua miền Nam California gặp thăm một số bạn-bè. Tôi tin là anh đã gặp Chế Linh, "anh+em với nhau từ xưa".

    *

    Từ mấy tháng qua, một số anh+chị+em văn-nghệ-sĩ ở hải-ngoại (Mỹ, Pháp, Thuỵ Sĩ, Na-Uy, v.v...) đã quyên góp một số tiền để tổ-chức "Cây Mùa Xuân Mậu-Tý" cho anh+chị+em văn-nghệ-sĩ hiện còn ở tại quê nhà; thủ-quỹ việc này là nhà văn Vũ Uyên Giang.
    Tôi có góp vào để nhờ trao riêng nhạc-sĩ Châu Kỳ một món quà.
    Nhưng theo tin nhà cho biết thì Châu Kỳ đã bị bệnh nặng, phải vào bệnh-viện, tôi sợ không kịp liền gửi thẳng về chị Kỳ một món quà nữa.
    Ngày 28 tháng 12 năm 2007, tôi gọi điện-thoại hỏi thăm, gặp lúc Châu Kỳ đã về nhà rồi. Anh còn tỉnh-táo, nghe chị trao đổi với tôi, nhưng không nói được. Tôi nhờ chị đưa ống nghe vào sát tai anh để anh nghe tôi. Cuối cùng, tôi chúc anh sớm hồi-phục. Chị nói là anh mỉm cười và gật đầu. Thế là anh+em chúng tôi đã "gặp lại" nhau, qua máy điện-thoại, và hẳn là anh đã có nhớ lại bao nhiêu kỷ-niệm giữa hai chúng tôi từ những thuở nào, trước ngày anh vĩnh-viễn ra đi.
    Mấy tháng trước đó, anh còn khoẻ mạnh, vợ+chồng Châu-Kỳ đã cùng với các anh+chị Tô Kiều Ngân, Phạm Cung, Song Nguyên, họp với vợ+chồng Trương Minh Dũng em tôi, đại-diện cho tôi bên phía nhà gái, để tiếp nhà trai trong lễ cầu-hôn con gái của tôi. Bây giờ thì Trương Minh Dũng, vốn đã có mặt bên cạnh Châu Kỳ những ngày cuối đời của anh, cũng lại đại-diện cho tôi trong lễ nhập-quan, di-quan của anh.
    Xin thắp một nén nhang lòng cầu-nguyện cho hương-linh bạn tôi, nhạc-sĩ Châu Kỳ, sớm được thảnh-thơi trên cõi vĩnh-hằng.

    LÊ XUÂN NHUẬN
    (*) - Nhạc sĩ Châu Kỳ vừa qua đời ngày 6 tháng 1, 2008

  2. #2
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: KÝ-ỨC VỀ NHẠC-SĨ CHÂU KỲ

    Nhạc Sĩ Châu Kỳ

    Dùng tên thật
    Sinh ngày 05 tháng 11 năm 1923 tại Dưỡng Mong, Thừa Thiên, Huế
    Học nhạc lý và sáng tác từ sư huynh Pétrus Thiều
    từng lưu diễn tại Savannakhet, Thakhet
    Vientiane (Lào)
    Vào Sài gòn năm 1947.
    cọng tác với đài Phát thanh Pháp á
    trưởng ban ban nhạc Tiếng Thùy Dương
    hiện sống tại Sài gòn


    nhạc phẩm :


    Khúc Ly Ca

    Tiếng Hát Dân Chàm
    Từ Gĩa Kinh Thành
    Mưa Rơi (lời Ưng Lang)
    Khi ánh Trăng Vàng Lên Khơi
    Tôi Viết Nhạc Buồn
    Xin làm Người Tình Cô đơn
    Giữa Lòng đất Mẹ
    Tôi Chưa Có Mùa Xuân
    Sao Chưa Thấy Hồi âm
    Hồi âm
    Cánh Nhạn Hồi âm
    Con đường Xưa Em đi
    đừng Rời Xa Nhau
    Cuối đường Kỷ Niệm
    Nước Mắt Quê Hương
    đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa
    Vào Mộng Cùng Em
    Em Sắp Về Chưa
    Bóng Mát Tân Quy (lời Kiên Giang )
    Một Mình Với Guitar 1 và 2
    Giọt đàn Giọt Lệ
    Bỏ Phố Lên Rừng
    đôi Dép Ngược

  3. #3
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: KÝ-ỨC VỀ NHẠC-SĨ CHÂU KỲ

    Châu Kỳ

    Lời: Báo Thanh Niên

    Phỏng vấn N.S. Châu Kỳ


    Đã bước vào tuổi 80, nhưng nhạc sĩ Châu Kỳ vẫn còn nhanh nhẹn, hoạt bát và minh mẫn. Mọi người biết đến ông qua lối sống bình dị và hoà đồng với mọi người, mà ít người biết rằng ông đã có một quá trình gắn bó với lịch sử nền âm nhạc cải cách (tân nhạc). Dưới đây là những lời tâm sự của ông với báo chí.

    Chào ông, con đường nào đã đưa ông đến với âm nhạc?

    - Trước khi trở thành nhạc sĩ tôi đã là... ca sĩ. Lúc còn học ở trường Lycée Khải Định (năm 1941, 1942) tôi may mắn được học thầy Pière Thiều - vị giáo sư âm nhạc đầu tiên ở Huế. Thầy Thiều rất giỏi, sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ Tây phương như kèn, trống, đàn... Tôi thích ca hát cũng do truyền thống gia đình: Cha tôi là Châu Huy Hà, một nghệ nhân ca Huế, chị ruột là Châu Thị Minh được coi là nữ minh tinh duy nhất của miền Trung. Chị tôi cũng là người hát nhạc Pháp đầu tiên ở Huế.

    Ca khúc ''Trở về'' được ông sáng tác trong trường hợp nào?

    - Đó là sáng tác đầu tay của tôi. Số là khi tôi đang học ở Lycée Khải Định thì một người bạn làm ở khách sạn Morin nói rằng tôi có tên trong sổ đen của Sougny - chánh mật thám Trung Kỳ. Do vậy, tôi đã trốn ra Quảng Trị rồi vượt Trường Sơn qua Lào, từ Savanakhet đến Thakhet vừa đi vừa hát rong để kiếm tiền. ở Thakhet tôi tham gia diễn vở ca kịch Hồn lao động". Sau đó bị Pháp bắt (cùng với Trần Văn Lang, Châu Thành và nữ nghệ sĩ Mộng Điệp) và bị đưa lên Ba Vi giam giữ. ở đây, cũng nhờ biết hát nhạc Pháp mà tôi được vợ chồng trung uý Muraton biệt đãi. Nghe tôi kể còn có mẹ già ở làng Dưỡng Mông (Huế), Muraton đích thân về HN xin toàn quyền Decoux đặc xá cho tôi... Ông còn cho bà ANa đưa tôi từ Ba Vì về Ga Hàng Cỏ (HN) để lên tàu xuôi Nam. Đến HN muộn, bị trễ tàu, chúng tôi phải ở lại khách sạn.

    Có chuyện gì... ''đáng nhớ'' không, thưa ông?

    - Người ta là ân nhân của mình mà! Bà ấy là đầm lai (Pháp - Việt) gốc Hải Phòng, đẹp lắm. Lúc chia tay ANa có... hôn vào má tôi, bảo rằng: ''Tôi rất thích những người nghệ sĩ như anh''. Về đến Huế tôi biết mẹ tôi đã bị chết đuối trong cơn lũ. Những buổi chiều bên dòng sông Hương Giang ngổn ngang tâm trạng, tôi đã viết ca khúc "Trở về".

    Sau bài hát ''Trở về'' đến nay, ông đã có bao nhiêu nhạc phẩm?

    - Rất nhiều, tôi không nhớ hết. Những sáng tác của riêng tôi (nhạc và lời) chỉ có mấy chục bản nhưng phổ thơ của ngưòi khác thì rất nhiều như Lời kỹ nữ (thơ Xuân Diệu), Rồi một mai (thơ Thanh Tịnh)...

    Là người đồng hành với tân nhạc từ lúc sơ khai cho đến nay, nhạc sĩ nào gây cho ông sự nể trọng nhất?

    - Chính là anh Lê Thương. Một con người tài hoa nhưng lại thật khiêm tốn và đức độ. Chính anh đã tận tình giúp đỡ tôi khi tôi mới rời Huế chuyển vào Sài Gòn sinh sống cách đây hơn 40 năm. 3 bản Hòn Vọng Phu của anh ấy quả thật "trên cả tuyệt vời"!


    (Theo báo Thanh Niên)


    Châu Kỳ :::
    Lời: Lê Dinh


    Nhạc sĩ Châu Kỳ
    Một tâm hồn bình dị - Những mối tình thật đẹp nhưng đều dang dở

    Thập niên 1950, qua làn sóng điện của các Đài Phát thanh Pháp Á và Đài Quốc gia (tức Đài Phát thanh Saigon), nhạc phẩm "Trở Về" của Châu Kỳ gây một tiếng vang sâu rộng trong giới tân nhạc và để lại trong lòng người thưởng ngoạn thật nhiều cảm mến. Bài nhạc, tuy viết với cung Ré trưởng nhưng buồn man mác và càng nghe càng thắm thía, cảm thông với nỗi lòng của tác giả khi trở về chốn quê nhà, nhìn quang cảnh tiêâu điều, nhà cửa xác xơ, mẹ già không còn nữạ Đó là vào năm 1943, khi Châu Kỳ từ Huế trở về Thanh Hà, huyện Quảng Điền (Thừa Thiên), để chứng kiến cuộc ly tan vì mẹ chàng bị lũ lụt cuốn đi theo giòng nước:
    "Về đây nhìn mây nước bơ vơ
    Về đây nhìn cây lá xác xơ
    Về đây mong tìm bóng chiều mơ,
    Mong tìm mái tranh chờ, mong tìm thấy người xưa..."

    Châu Kỳ là tên thật của nhạc sĩ Châu Kỳ. Ông sinh ngày 5 tháng 11 năm 1923 tại Dưỡng Mong, Thừa Thiên (Huế). Xuất thân từ một gia đình mà anh chị em đều sống với nền cổ ca Huế, Châu Kỳ có một số vốán âm nhạc cổ thật phong phú của miền Trung. Ưu điểm thứ hai là Châu Kỳ có dịp may được gặp một sư huynh nhạc sĩ đại tài hướng dẫn về nhạc lý và sáng tác là sư huynh Pétrus Thiều nên Châu Kỳ tiến triển rất nhanh trong chiều hướng sáng tác và âm hưởng cổ nhạc miền Trung được thấy đây đó qua những ca khúc như "Khúc ly ca", "Từ giã kinh thành", "Mưa rơi" (Lời Ưng Lang), "Khi ánh trăng vàng lên khơi" v.v...

    Là một cậu học sinh bé nhỏ Châu Kỳ của trường Tiểu học Dưỡng Mong rồi sau đó lên Huế học tại trường Pháp Việt, Châu Kỳ vốn có sẵn giòng máu văn nghệ cho nên ông thường bắt chước ngân nga những bài hát Pháp ngữ thịnh hành thời đó như "J' ai deux amours", "Tant qú il y aura des étoiles", "Où vous étiez, mademoiselle"... mà danh ca Tino Rossi thường hay trình bàỵ Tuy là hát chơi để cho mình thỏa thích chính mình nhưng tiếng ca Châu Kỳ lại được bạn bè cũng ưa thích. Sẵn dịp, bà chị của Châu Kỳ là nữ nghệ sĩ tên tuổi Châu thị Minh sáng lập đoàn Ca kịch Huế với bảng hiệu Hồng Thu, và theo lời yêu cầu tha thiết của chị, Châu Kỳ bỏ dở nửa chừng con đường học vấn để theo hẳn nghiệp cầm cạ Lúc đó Châu Kỳ nghĩ rằng gia đình cũng không được khá giả gì cho lắm, nếu còn phải đến trường thì cha mẹ phải lo chu cấp cho việc ăn học, còn chị mình thì đang lúc cần mình cho đoàn ca kịch Hồng Thụ Thôi, một công mà đôi việc, vừa giúp chị mà cũng vừa giúp cha mẹ đỡ một gánh nặng, lại còn có thể đem tiền về giúp lại cha mẹ già nữạ Thế rồi cậu học sinh Châu Kỳ trở thành nghệ sĩ Châu Kỳ, chuyên trình bày ca nhạc, theo đoàn đi lưu diễn khắp nơi.

    Thoạt tiên, đoàn sang Lào, diễn tại các tỉnh Savannakhet, Thakhet và thủ đô Vientianẹ Những mối tình được dịp nẩy nở giữa chàng trai tuấn tú, đa tài của Việt Nam và những cô gái Lào duyên dáng ở 3 địa điểm mà đoàn đã đi qua.

    Nhưng mối tình đầu của người con trai xứ Huế là khi đoàn Ca kịch Huế trở về Việt Nam, đi lưu diễn một vòng ở Việt Bắc, ra Hà Nội, trở lại miền Trung rồi lần đến Nha Trang. Tại đây, người ca sĩ trẻ tuổi, hát hay Châu Kỳ lọt vào cặp mắt xanh của một nữ sinh thật đẹp, vốn dòng dõi trâm anh, con nhà quyền quý tên Đoàn thị Sum. Lạ gì phản ứng của bậc cha mẹ thời đó, môn phải đăng, hộ phải đối, nhà cửa đôi bên thông gia phải tương xứng nhau, trong khi nhạc sĩ Châu Kỳ, nhà là đoàn hát, cửa là cửa rạp hát cho nên ông bà thân của cô Sum bắt buộc cô phải chọn một trong hai, hiếu hoặc tình. Để cho đôi bên được vẹn toàn, cô nữ sinh, người yêu đầu tiên của Châu Kỳ đã uống thuốc độc tự tử. Hôm ấy là vào ngày 10 tháng 12 năm 1942. Ngày cô Sum tự tử vì Châu Kỳ và cho Châu Kỳ, người nhạc sĩ đa tài của chúng ta đang diễn tại Phan Rang. Nghe tin sét đánh này, Châu Kỳ cũng quyết nhảy xuống dòng nước để hủy mình theo người yêu nhưng nhờ bà chị cản ngăn, khuyên bảo, viện dẫn lý do Châu Kỳ là con trai trưởng, còn cha mẹ già phải lo phụng dưỡng cho nên Châu Kỳ bỏ ý định quyên sinh. Chúng ta ắt cũng hiểu vì sao những sáng tác của Châu Kỳ đa số là những bài nhạc không vui như "Tôi viết nhạc buồn", "Xin làm người tình cô đơn", "Khúc ly ca"v.v...

    Người yêu chết, Châu Kỳ không chết theo được, chàng buồn bã rời bỏ đoàn hát, trở về Huế để rồi - họa bất đơn hành - chàng lại được một tin buồn khác khi thân mẫu của chàng bị nước cuốn trôi trong cơn lũ lụt ở Thanh Hà.

    Bước chân phiêu lãng đưa Châu Kỳ vào Saigon năm 1947. Ông cộng tác với Đài Phát thanh Pháp Á trong ban "Thần Kinh Nhạc Đoàn" của ca nhạc sĩ Mạnh Phát và ban Tiếng Thùy Dương do chính anh làm trưởng ban. Trong hai ban này, có mặt các ca sĩ như Mạnh Phát, Linh Sơn, Minh Diệu, Minh Tần, và Mộc Lan. Chúng ta không ngạc nhiên chút nào khi tình cảm nẩy nở giữa đôi trai tài gái sắc, một Châu Kỳ đã nổi danh từ Huế vào Nam, một người đẹp Mộc Lan, tính tình đoan trang, thùy mị, dịu dàng, duyên dáng mà không chút kiêu căng, còn tiếng hát thì truyền cảm, dễ thương. Không lâu sau đó, đôi trai tài gái sắc thành chồng vơ.. Tháng 11 năm 1949, hai vợ chồng Châu Kỳ - Mộc Lan được ông Thái văn Kiểm, giám đốc Thông tin ở Huế mời hai người ra cộng tác với Đài Phát thanh Huế. Châu Kỳ nghĩ rằng bây giờ đã có gia đình, thôi thì cũng nên trở về Huế làm việc và sống gần gũi với mẹ chạ Nhưng chỉ được 3 năm, vào năm 1952, Mộc Lan âm thầm từ giã Châu Kỳ để chàng thêm một lần nữa, khóc cho tình duyên của mình thêm một lần ngang trái, bẽ bàng. Buồn vì cuộc tình không trọn vẹn, Châu Kỳ xin thôi cộng tác với Đài Phát thanh Huế để trở vào Saigon với những nhạc phẩm viết cho mối tình dang dở này như "Từ giã kinh thành", "Mưa rơi"...

    Trở lại Saigon hoa lệ năm 1953, cảnh cũ còn đó nhưng người xưa chẳng thấy đâu, Châu Kỳ chỉ làm bạn với chiếc tây ban cầm cũ kỹ trong nhà và ở ngoài đường phố là chiếc "vespa" xập xình, màu trắng mà anh dùng làm chân để xê dịch đó đây, lên đài phát thanh, lại nhà in, ra quán nhạc, tới quán nhậụ Thời gian này, nỗi đau buồn tích trữ, cô đọng lại thành những âm điệu bi ai, Châu Kỳ liên tục cho ra đời những sáng tác "Giữa lòng đất mẹ", "Tôi chưa có mùa Xuân", "Sao chưa thấy hồi âm", "Hồi âm", "Cánh nhạn hồi âm", "Con đường xưa em đi", "Đừng nói xa nhau", "Cuối đường kỷ niệm", "Nước mắt quê hương", "Đón Xuân này nhớ Xuân xưa", "Vào mộng cùng em", "Em sắp về chưa"... mà một vài bài trong số này phần lời do Hồ Đình Phương hoặc Tô Kiều Ngân viết. Đặc biệt trong loạt bài này có một bài Châu Kỳ viết theo thể điệu Tango, cung Ré thứ rất ai oán, não nùng, than trách cho thân phận của một người còn lại khi người yêu đi lấy chồng. Đó là bài "Được tin em lấy chồng":
    "Được tin em lấy chồng
    Ôi lòng buồn biết mấy
    Được tin em lấy chồng,
    Biết người từ dạo ấy,
    Còn thương tiếc hay không...”

    Nhưng thời gian là liều thuốc nhiệm mầu - như người ta thường nói - cuộc tình xưa rồi cũng đi vào dĩ vãng, dần dần chìm vào lãng quên, còn lại chăng chỉ là những dòng nhạc buồn, những dòng nhạc kỷ niệm, tích trữ thành những tác phẩm để lại cho hậu thế.

    Năm 1955, Châu Kỳ thành hôn với một ý trung nhân người miền Nam, cô Kha thị Đàng. Hôn lễ được cử hành tại tữu lầu Trương Ký ở Chợ Lớn có sự tham dự đông đủ của anh chị em ca nhạc sĩ trong giới tân nhạc như Phạm Duy, Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc, Trần văn Trạch, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Hoàng Trọng, Văn Phụng, Châu Hà, Thu Hồ... và một số đông anh chị em trong giới cổ nhạc Nam phần. Châu Kỳ và bà Kha thị Đàng có được 4 người con, 3 trai và một gái, những người con đều đã thành gia thất.

    Cũng như một số ca nhạc sĩ trước 1975 mà nay còn ở lại Việt Nam, gia đình Châu Kỳ không thoát khỏi cảnh nghèo túng. Từ một ngôi nhà khang trang trước 1975 phải bán đi để trả nợ cho sự sống còn để rồi còn một mái nhà dột nát ở xã Tân Quy, huyện Nhà Bè hiện nay, từ một chiếc "vespa" cũ kỹ trước 1975, nay lại còn một chiếc xe đạp và từ năm 1975 cho đến nay tính ra Châu Kỳ đã có đến chiếc xe đạp thứ 16, vì bị mất cắp, vì bị hư hỏng không còn xài được nữa và bạn bè - cũng rách nát như anh - thương tình giúp đỡ cùng với món tiền ít oi mà các trung tâm băng nhạc ở hải ngoại gửi về để cho anh mua chiếc xe đạp khác, mua rồi mất, mất rồi mua, nay đã là chiếc xe đạp thứ 16 của anh.

    Cũng trong thời gian sau 1975, trong bối cảnh của một xã hội đổi mới theo chiều hướng đi xuống, Châu Kỳ có những sáng tác mới thích hợp với cuộc sống hiện tại như "Bóng mát Tân Quy" (lời Kiên Giang), "Một mình với Guitare" (1 và 2), "Giọt đàn theo giọt lệ", "Bỏ phố lên rừng", "Đôi dép ngược" và một số bài phổ thơ của Hoàng Hương Trang, Trương Minh Dũng, Đặng Nguyệt Anh, Nguyễn Thanh Nhã, Vũ Thành Nhơn, Nguyễn Hải Phương...

    Người nhạc sĩ tuổi bát tuần, thân thể giờ đây tuy có ốm yếu, gầy mòn nhưng trong nét nhạc vẫn còn những tinh anh vì tuổi Quý Hợi tuy bề ngoài hiền hậu, thư sinh, ôn nhu nhưng bên trong chứa đầy nghị lực. Mới ngày nào đây, khi những ca khúc đầu tay như "Trở về", "Tiếng hát dân Chàm" ra đời thế mà nay đã ngót nửa thế kỷ, "bóng dâu đã xế ngang đầu".

    Từ xã Tân Quy, huyện Nhà Bè, Châu Kỳ nhìn lại khoảng đời đã đi qua mà lòng không khỏi bùi ngùi xúc động, xót thương cho một số đông bè bạn thân mến đã vĩnh viễn ra đi, một số thì diệu vợi xa cách, chỉ còn chăng một số ít oi còn ở lại nhưng cũng lâm vào hoàn cảnh khốn khó, bần bách, đôi mắt nhòa nhạt vì tuổi đời chồng chất.


    Lê Dinh

  4. #4
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: KÝ-ỨC VỀ NHẠC-SĨ CHÂU KỲ


    Nhạc sĩ kỳ cựu Châu Kỳ thăm Little Saigon, cảm thấy tràn trề hạnh phúc


    Vợ chồng nhạc sĩ Châu Kỳ tại Little Saigon
    .


    Lê Thụy


    Nhạc sĩ kỳ cựu của làng ca nhạc Việt Nam, Châu Kỳ, 82 tuổi, và phu nhân, hiện viếng thăm Little Saigon, Westminster, và nhân dịp này các nam, nữ ca sĩ từng là học trò của ông ngày nào, như Thanh Thúy, Chế Linh, Hoàng Oanh, Hương Lan... dự định sẽ tổ chức đêm hội ngộ cho nhạc sĩ lão thành này tại ngay Little Saigon này, nơi có cộng đồng Việt Nam đông đảo nhất ở hải ngoại, để ông có thể gặp gỡ lại được các nam, nữ ca nhạc sĩ, đồng nghiệp, đồng hương, từng mến mộ ông trước đây, khi còn ở trong nước.

    Nhạc sĩ Châu Kỳ, cùng thời với các nhạc sĩ lão thành nổi tiếng như Dương Thiệu Tước, Lê Thương, Phạm Duy, Nguyễn Hiền, Lữ Liên... tuy nhiên sau tháng Tư 1975, đã bị kẹt lại Việt Nam, nên đã phải chịu bao nhiêu điều kỳ thị, vất vả, đọa đầy từ chế độ mới, kể cả bị đưa đi “cải tạo” (tù Cộng sản) trong 5 năm liền, chỉ vì mỗi tội là “sáng tác nhạc vàng”, mà nhạc sĩ hiên ngang này, đã dám quả quyết ngược lại là “nhạc không hề có mầu sắc.”

    Lẽ dĩ nhiên các sáng tác của nhạc sĩ Châu Kỳ đã bị cấm phổ biến sau tháng Tư 1975, mặc dù ông chỉ có một số ít nhạc về lính Việt Nam Cộng Hòa, như “Con đường xưa em đi”, “Ðừng nói xa nhau”... còn thì đại đa số, đều là các bài hát về quê hương, như Tiếng hát dân Chàm, Từ giã Kinh thành, Hương Giang tôi còn chờ... hay tình yêu đôi lứa, trọn vẹn cũng có, tan vỡ cũng nhiều, như: Sao chưa thấy hồi âm, Ðược tin em lấy chồng, Ðón Xuân này nhớ Xuân xưa, Nén hương yêu, Huế xưa, Mưa rơi, Trở về, Khúc ly ca, Xin làm người tình cô đơn, Vào mộng cùng em, Giọt lệ đài trang, Em không buồn nữa chị ơi, Tiếng ca đó về đâu, Phượng tìm Hoàng (lời Ðinh Hùng)... trong tổng số khoảng 200 bài hát do ông sáng tác.

    Nhạc sĩ Châu Kỳ nhìn nhận rằng, trong thời gian gần đây, nhà nước Cộng Sản Việt Nam, trong chính sách cởi mở của họ, có cho phép hát lại một vài bài hát của ông, tuy nhiên hầu như tất cả các bài hát của ông, vốn đã đi sâu vào lòng người miền Nam Việt Nam nhờ tính cách bình dị ngọt ngào, trữ tình, đã được dân chúng tự động lấy ra hát hết, và người dân miền Bắc cũng đua nhau hát theo.

    Giờ đây nhạc sĩ Châu Kỳ được phép xuất ngoại sang Toronto, Canada lần đầu tiên vào hôm 6-6-2005, để thu hình cho Trung Tâm Thúy Nga, chương trình Paris by night 78, với chủ đề tác giả, tác phẩm, để gợi nhớ lại cho các khán thính giả quen thuộc, và nhất là để lưu lại cho hậu thế các tác phẩm âm nhạc của Việt Nam, sau các chương trình về các nhạc sĩ như Lam Phương, Hoàng Thi Thơ, Phạm Duy, Văn Phụng, Nguyễn Hiền, Song Ngọc, Huỳnh Anh, Nhật Ngân, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An...

    Châu Kỳ sinh năm 1923 tại Thừa Thiên, Huế, trong một gia đình có truyền thống văn nghệ (thân phụ là một nghệ nhân có tên tuổi trong giới văn nghệ ở Huế). Ông khởi nghiệp bằng nghề trình diễn, ca sĩ, kịch sĩ lưu diễn quanh các nước thuộc vùng Ðông Dương, rồi viết kịch, sáng tác ca khúc (sau khi học nhạc lý và sáng tác với sư huynh Pétrus Thiều).

    Rời bỏ sân khấu, ông lập nghiệp tại Saigon từ năm 1947. Thời gian đầu cộng tác với Ðài phát thanh Pháp Á, khi đài này ngưng hoạt động, ông chuyển sang cộng tác với Ðài Phát thanh Saigon, Ðài Phát thanh Quân đội và Ðài Truyền hình Saigon, tức Ðài số 9.

    Nhạc sĩ Châu Kỳ cũng còn chủ trương nhà xuất bản Tiếng Thùy Dương, chuyên phát hành những ca khúc của ông và bạn hữu, đã có số phát hành rất cao ở miền Nam thời điểm trước năm 1975.

    Sau khi không còn đất sống sau năm 1975, nhạc sĩ Châu Kỳ đã phải bán căn nhà ở Quận 3, Saigon, để ra sống ở vùng ngoại ô hẻo lánh, với một vợ và 4 con (một gái, 3 trai).

    Nhạc sĩ Châu Kỳ lúc đó thường đùa vui khi có người hỏi địa chỉ cư trú hiện tại của ông, như sau:

    “Tôi hiện ở đường không tên, nhà không số, phố không đèn...”

    Giờ đây, tuy đã lớn tuổi, nhưng khi đến Little Saigon, trông nhạc sĩ Châu Kỳ vẫn còn nhanh nhẹn linh hoạt và vui vẻ, gặp lại các ca nhạc sĩ quen biết, đã định cư tại đây, như các nhạc sĩ Nguyễn Hiền, Nhật Ngân, các ca sĩ Hoàng Oanh, Phương Hồng Quế, Thái Châu... và ông đã tiếp xúc với mọi người một cách thật thoải mái.

    Ông cũng hết lời ca ngợi vẻ sạch đẹp, sự thịnh vượng, đầy tình người, chân thật của Little Saigon, khiến gợi nhớ lại cho ông, Saigon của trước tháng Tư 1975, mặc dù chỉ mới có mặt tại đây được vài ngày.

    Nhạc sĩ Châu Kỳ hy vọng có cuộc hội ngộ với các khán thính giả Việt Nam tại Little Saigon, cũng như tại San Jose, California, hay Houston, Texas... các nơi đều có cộng đồng Việt Nam đông đảo... trước khi ông và phu nhân, trở lại Việt Nam.

    Ông nói:

    “Từ sau năm 1975, tôi coi như mình đã bỏ nghề, đã mất tất cả, ai ngờ lại có được ngày hôm nay, được đứng trước các khán giả khắp thế giới với những sáng tác của chính mình, qua các giọng ca mà mình yêu mến nhất. Một lần nữa tôi xin cám ơn TT Thúy Nga và một số bạn thân, đã tạo cho tôi hạnh phúc to lớn này...”

    LÊ THỤY

  5. #5
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: KÝ-ỨC VỀ NHẠC-SĨ CHÂU KỲ

    Cuộc trò chuyện với nhạc sĩ Châu Kỳ nhân đầu năm Đinh Hợi


    Bà Kha Thị Đàng, phu nhân nhạc sĩ Châu Kỳ, cười thật tươi khi được hỏi chuyện chồng con. Bà bảo, lấy chồng nghệ sĩ, lại sinh đúng tuổi ...........Hợi (1923) nên ông ấy phởn phơ lắm, còn mình thì ......mệt đứt hơi. Tuy nhiên, sự mệt đứt hơi của bà đã được đền đáp xứng đáng: năm 2005 ông bà đã được bạn bè, con cái tổ chức kỷ niệm đám cưới vàng - nửa thế kỷ ở bên kia nửa vòng trái đất.

    Năm 1955, cô nữ sinh áo tím trường Gia Long - Kha Thị Đàng - lên xe hoa với chàng nghệ sĩ lớn hơn mình 15 tuổi, đã gãy đổ chuyện tình duyên một lần. Trước quyết định ấy, "vọng tộc họ Kha" nổi tiếng ba thế hệ của xứ Sàigòn - Chợ Lớn cảnh báo: Lấy chồng nghệ sĩ...chỉ ở nhà thuê, ăn cơm quán, mau chán "cơm" nhà....Nhưng rồi thưong con gái út, ba mẹ cô cũng tổ chức một đám cưới đàng hoàng và là đám cưới đầu tiên trong giới nghệ sĩ lúc bấy giờ.

    Bà Đàng kể: "18 tuổi lấy chồng, hành trang làm vợ, làm mẹ của tôi là chiếc áo dài của cô nữ sinh đã từng vượt qua 3000 thí sinh khác để được đứng vào 300 thí sinh đầu bảng đậu vào trường nữ Gia Long, mà vạt trước là bốn chữ công - ngôn - dung - hạnh được học ở trường, còn vạt sau là năm điều nhắc nhở của gia đình: nhân - nghĩa - lễ - trí - tín....cùng với hai bàn tay không và bắt đầu cuộc đời "lang bạt kỳ hồ" với lịch sinh hoạt đều đặn: Sáng ngủ. Trưa ăn sáng. Chiều ăn trưa. Tối đi hát. Khuya ăn chiều rồi chui vào cái nhà kho tồi tàn bỏ trống của một ngôi biệt thự để chờ vòng quay mới".

    Tám mươi tư tuổi, nhạc sĩ Châu Kỳ đã dừng bước giang hồ nhưng ông vẫn giữ được nét hào hoa của một chàng lãng tử ôm đàn guitare nghêu ngao cùng trăng với gió ngày nào. Ông kể: "Tôi sinh ra từ làng quê nghèo của đất thần kinh. Muốn sang phố thị, phải qua một chuyến đò dọc. Cha tôi có bằng tú tài chữ nho, là thầy đồ nhưng cũng là bậc thầy ca cổ Huế. Tôi bỏ Quốc học Huế nửa chừng theo gánh hát của nguời chị ruột để bớt gánh nặng gia đình cho mẹ. Bão lụt năm Thìn, từ Hà Nội tôi quay về Huế, cũng là ngày mẹ tôi bị nước cuốn trôi..."

    Đến đây, đôi mắt của người nghệ sĩ đa cảm chợt long lanh một ngấn lệ khô dưới tròng kính lão. Đôi mắt buồn xa xăm của ông như gác lên ngọn ngọc lan trước cửa rồi bật thành lời nho nhỏ ca khúc đầu tay của mình về kỷ niệm buồn này.: Thôn xưa ôi giờ đây nát tan/ Đò vắng không người sang/ Thôn xóm thêm điêu tàn/ Xa xa nghe tiếng chim kêu đàn/ Nghe suối reo bên ngàn/ Dường như oán như than...(Trở về).
    Bà Đàng lặng lẽ đẩy ly nước trà về phía khách. Nụ cười bớt tươi nhưng đầy ắp tình yêu thương chồng. Dường như cảm xúc của bà cũng chùng lại theo tâm trạng của người bạn đời. Bất giác, bà lên tiếng: "Thực sự, tôi cũng quá khổ vì ổng. Nếu tôi không phải là tôi, có lẽ cũng chẳng có một "Thi đàn Kỳ Duyên" cho đến bây giờ. Những năm tháng đầu làm vợ, tôi cũng nghĩ mình sẽ thành một ca sĩ tài danh. Tôi đã học ký âm pháp, học thanh nhạc với thầy Marcel, người Pháp; cũng tham gia dự tuyển tài tử do đài phát thanh Pháp Á tổ chức...Nhưng càng sống trong nghiệp cầm ca, tôi càng ý thức được tâm hồn người nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ sáng tác, luôn phải biến đổi để có cảm hứng. Và, tôi đã buồn cho số phận, vì dầu sao tôi cũng là người đàn bà còn quá trẻ. Thậm chí, nhiều khi tôi cảm thấy hạnh phúc của mình quá ư mong manh. Có lúc, tôi từng tuyên bố: "Tôi không ràng buộc gì anh, chấp nhận dang dở, miễn dang dở ấy đừng xảy ra ở thành phố này - nơi mà cha mẹ, ông bà tôi đang sinh sống. Anh có thể ra đi, miễn là con để lại tôi nuôi".

    Ông nhìn tôi cười. Nụ cười của một ông già vừa biết lỗi với vợ, lại vừa tự hào về sự hào hoa không phải ai cũng có ở mình. Ông thừa nhận: Chồng già vợ trẻ là tiên. Một trong những điều làm ông giữ kịp thăng bằng trong tình cảm vợ chồng chính là sự chín chắn và thấu hiểu chồng của vợ. Ông kể: "Tôi tuổi Hợi, bà ấy tuổi Dần, đẻ con gái đầu lòng tuổi Tỵ...đúng chóc "tứ hành xung"....Người quen khuyên bà ấy đem con để ở góc đường, họ ra mang về rồi tôi tới xin lại làm con ........nuôi để hóa giải sự xung khắc. Nhưng bà ấy bảo, mẹ nào làm được vậy. Thà chấp nhận cực khổ, nghèo đói để giữ con ruột của mình". Chín năm trời cực nhọc như vậy, nhưng chưa bao giờ gia đình vợ biết tôi nghèo.

    Khi vợ tôi sinh đứa con thứ hai, không có tiền phải nằm phòng sinh hạng ba. Nghe bố sẽ vào thăm, để giấu nghèo, vợ tôi đã bảo tôi ra hãng đĩa Việt Nam, bán trước hai tựa bài nhạc lấy tiền chuyển sang phòng hạng nhất mà nằm. Bố đến, thấy xúc động, đưa cho hai vợ chồng 2000 đồng, đặt tên cho thằng cháu nội là Tài. Một điều may mắn chưa bao giờ có tiền lệ trong gia đình. Có lẽ trời thương, nên sau sự kiện đó vợ chồng tôi phất lên. Không chỉ mua được nhà mà hãng đĩa nhạc còn mang cả chiếc xe hơi đến tận nhà để được độc quyền phát hành các nhạc phẩm của tôi sau bài Sao chưa thấy hồi âm.

    Đó cũng là thời điểm tôi đứng bên bờ vực thẳm của nguy cơ đổ vỡ gia đình. Bản năng hưởng thụ ngày càng thể hiện rõ nơi con người ông ấy. Những canh rượu, bạn thơ, ban nhạc nối nhau suốt ngày đêm. Xài tiền như nước. Ông ấy càng huy hoàng, tôi càng thu mình lại để lo cho hai con. Tôi không thường xuyên xuất hiện bên ông ấy nơi đông người, cũng không làm cho ông ấy mất hứng sáng tác những bài hát lãng mạn như ông ấy muốn. Bề ngoài, tôi luôn thể hiện sự tự hào, thể hiện nghị lực của một người "có học", nên những bóng hồng lởn vởn quanh ông ấy không đáng để mình bận tâm, nhưng tận sâu thẳm của tâm hồn, tôi vẫn là người đàn bà với nỗi buồn ray rứt thâu đêm...Tôi quyết định tự thân vận động: xin vào làm ở nhà máy giấy Cogivina (nhà máy giấy Tân Mai bây giờ). Tiền ông ấy, mặc sức ông ấy xài, chỉ về nhà để ăn khuya và ngủ. Nhưng được một điều, dù về khuya thế nào bao giờ ông ấy cũng mang về một món ăn ngon cho vợ con".
    Bà lên lầu mang xuống cho chúng tôi xem bộ sưu tập 185 bài hát do ông sáng tác với những dòng giới thiệu hoàn cảnh ra đời của từng bài do chính tay bà viết. Tôi nhận ra một loạt các bài hát rất quen thuộc với rất nhiều người: Huế xưa, Hương Giang còn tôi chờ, Thương về miền Trung, Nén hương yêu...... Rồi bà chỉ cho tôi xem ca khúc Giọt lệ đài trang mà bà đã gợi ý cho chồng sáng tác, để kỷ niệm một chuyện tình khó quên của chồng vớí người con gái tên Sum - là lá ngọc cành vàng ở miền cát trắng thùy dương. Bà bảo, phận đàn bà với nhau, bà hiểu được tình yêu của Sum đối với chồng mình. Nhưng, cách bà nói cũng khiến nhiều người hiểu thêm rằng, đó cũng là một nghệ thuật giữ một người chồng nghệ sĩ hơn 50 năm qua của một người vợ có hiểu biết.

    Nguyễn Thiện (báo phụ nữ tân niên)

  6. #6
    Senior Member delta's Avatar
    Join Date
    Oct 2007
    Posts
    1,697

    Default Re: KÝ-ỨC VỀ NHẠC-SĨ CHÂU KỲ

    Nhạc Sỷ Châu Kì Qua Đời, Một khúc ly ca

    1923 - 2008

    Sáng 6-1-2008, giới âm nhạc bất ngờ nhận được tin nhắn: nhạc sĩ Châu Kỳ đã qua đời ở tuổi 85.

    Nhạc sĩ Châu Kỳ sinh ngày 5-11-1923 tại Dưỡng Mong, Thừa Thiên - Huế, mất lúc 1g10 sáng 6-1-2008 tại TP.HCM.
    Lễ động quan diễn ra sáng 10-1-2008 tại nhà riêng của ông, số 11/12 Phước Bình, quận 9, sau đó đưa về Huế an táng tại đồi Nam Giao.
    Trong số những sáng tác nổi tiếng của ông có: Huế xưa, Miền Trung yêu dấu, Tôi viết nhạc buồn, Nhớ (thơ Tố Như), Được tin em lấy chồng...

    Cây đại thụ của làng tân nhạc VN mà tên tuổi ngang hàng với những Lữ Liên, Lê Thương, Dương Thiệu Tước... đã rời bỏ chúng ta sau hơn hai tháng trời nằm liệt trên giường bệnh. Những người chuộng boléro càng có lý do tiếc thương bởi ông được xem là một trong những người tiên phong đẩy boléro tại VN đến điểm vinh quang. Cũng chính ông đã đào tạo ra một thế hệ ca sĩ được nhiều người yêu mến như Thanh Thúy, Hoàng Oanh, Băng Châu, Chế Linh...

    Trong gia tài hơn 200 ca khúc ông để lại, gần như tất cả đều là những bản "thất tình ca". Những Giọt lệ đài trang, Con đường xưa em đi, Đừng nói xa nhau, Xin làm người tình cô đơn... đều là lời chia biệt cho những cuộc tình đẹp nhưng nhiều ngang trái.

    Để viết ra được những khúc ca lay động lòng người ấy là cả một vốn liếng âm nhạc đồ sộ. Cha ông là nghệ nhân ca Huế Châu Huy Hà, chị ruột là Châu Thị Minh trong "ngũ nữ minh tinh" làng văn nghệ gồm Phùng Há, Năm Phỉ, Châu Thị Minh, Ái Liên, và Bích Hợp.

    Ở Trường Lycée Khải Định, vốn cổ nhạc của ông càng thêm phong phú khi học nhạc với sư huynh Pièrre Thiều - một người am tường nhạc lý, sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ phương Tây. Âm hưởng cổ nhạc miền Trung của Châu Kỳ tìm thấy rõ nhất qua những tác phẩm như Khúc ly ca, Từ giã kinh thành, Mưa rơi (lời Ưng Lang), Khi ánh trăng vàng lên khơi...

    Bỏ học theo nghiệp cầm ca chỉ với một mục đích kiếm tiền giúp cha mẹ già rồi trở thành thủ lĩnh ban nhạc Tiếng Thùy Dương, tên ông đã được ghi trang trọng trong hành trình phát triển của nền tân nhạc VN một thời rực rỡ. Vào cuối những năm 1930, ở VN hầu hết là nhạc Pháp nên những sáng tác của Châu Kỳ đã đặt nền móng cho dòng nhạc boléro kết hợp giữa nhạc Tây và cổ nhạc Việt. Nhiều nhạc sĩ theo thể loại trữ tình quê hương hiện nay đều không phủ nhận đã chịu ảnh hưởng từ ông.

    Dù có những tác phẩm được nhiều người biết tiếng, nhạc sĩ Châu Kỳ cùng vợ vẫn sống đời đạm bạc. Cho đến những giây phút cuối đời, ông vẫn không hề trách giận cuộc đời đã mang cho ông lắm trái ngang. Người nghệ sĩ ấy vẫn chỉ tâm niệm làm sao sống trọn vẹn với người, với mình...

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts